Luận văn Giải pháp phát triển hoạt động của công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển

Việc tuyên truyền và quảng bá rộng rãi kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng là điều hết sức quan trọng và không nên xem nhẹ vì người ta chỉ có thể tham gia “cuộc chơi” khi mà họ tin rằng mình đã hiểu “luật chơi” và biết cách tự mình giành chiến thắng trong “cuộc chơi” đó. Theo điều tra của ủy ban chứng khoán Nhà nước, công chúng cho rằng: tuy thị trường chứng khoán còn là một lĩnh vực mới mẻ, chứa đựng nhiều rủi ro nhưng cũng không phải là ít tiềm năng đáng trông đợi. Đa số các nhà đầu tư là tổ chức, cho dù có hay không có ý định huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán, đều mong muốn có được hiểu biết về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Đối với nhà đầu tư cá nhân, phần lớn đều chưa qua đào tạo kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán nên nhu cầu về đào tạo là rất lớn. Ngoài ra, các thông tin về chứng khoán và thị trường chứng khoán mà công chúng tiếp nhận được chủ yếu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các buổi nói chuyện chuyên đề nên hiểu biết của họ còn hạn chế: chỉ mới nghe nói về hoạt động chứ chưa hiểu biết được thậm chí cả những nguyên tắc cơ bản của chứng khoán và thị trường chứng khoán. Điều này phản ánh thực tế là công tác thông tin tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán chưa được triển khai mạnh mẽ và hiệu quả. Nhìn chung nhu cầu học hỏi kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán của các nhà đầu tư là rất lớn và để cho công chúng bắt kịp được sự phát triển của chứng khoán và thị trường chứng khoán thì ủy ban chứng khoán Nhà nước cần phối hợp với các cơ quan chức năng để tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán một cách có hiệu quả. Ở cấp địa phương, ủy ban chứng khoán Nhà nước nên phối hợp với các ban ngành địa phương tổ chức các lớp phổ biến kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán, trong đó cần thức tỉnh cho các doanh nghiệp những ưu điểm và hạn chế khi tham gia huy động vốn trên thị trường này. Nếu việc làm này đạt kết quả tốt sẽ khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp cổ phần tham gia niêm yết trên thị trường, góp phần làm tăng nguồn cung cho thị trường chứng khoán, tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành. Ở quy mô lớn hơn, chúng ta phải có biện pháp đẩy mạnh quá trình phổ biến kiến thức vào đông đảo các tầng lớp nhân dân trong nền kinh tế xã hội, đặc biệt phải khuyến khích các chương trình đào tạo về chứng khoán và thị trường chứng khoán, cũng như các khóa huấn luyện nâng cao cho lớp cán bộ khoa học đi đào tạo tại nước ngoài, cấp vốn cho các trung tâm nghiên cứu kinh tế về chứng khoán, qua đó tạo ra những hạt nhân giỏi, phục vụ quá trình nghiên cứu, tham mưu các vấn đề về ngành công nghiệp chứng khoán.

doc76 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1390 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển hoạt động của công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n được phổ biến rộng rãi hơn, số lượng các công ty niêm yết ngày càng nhiều sẽ kích thích được nhà đầu tư tham gia. Trong điều kiện thuận lợi về khách hàng như vậy, BSC lại chưa thực sự vào cuộc. Hình thức tư vấn mà công ty đưa ra chủ yếu vẫn với tư cách là một dịch vụ đi kèm và miễn phí. Để khắc phục tình trạng này, BSC cần sớm đưa ra kế hoạch cụ thể để thực hiện tư vấn cho khách hàng như đưa ra văn bản quy định rõ ràng về quyền lợi, nghĩa vụ của các bên cũng như giới hạn trách nhiệm của công ty đối với nội dung tư vấn, đưa ra một biểu phí tư vấn cụ thể đối với từng hình thức tư vấn cũng như với từng đối tượng khách hàng. Nên chú trọng vào hiệu quả mà các nhân viên tư vấn đem lại cho khách hàng (có thể đo được bằng lợi nhuận cụ thể của khách hàng khi nghe theo những lời tư vấn này) hơn là việc chỉ miễn giảm phí tư vấn để nâng cao sức cạnh tranh mà không đem lại hiệu quả. Song song với tư vấn đầu tư, hoạt động tư vấn cổ phần hoá và tư vấn phát hành cần được mở rộng bởi trong giai đoạn hiện nay, tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đang được xúc tiến mạnh mẽ, nhiều chế độ ưu đãi để khuyến khích các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán và có rất nhiều công ty giao dịch trên thị trường tự do. Do đó, nhu cầu được tư vấn phát hành, tư vấn niêm yết rất nhiều. BSC nên chủ động tìm kiếm khách hàng và giới thiệu về những lợi ích đem lại khi họ sử dụng dịch vụ tư vấn của mình như với phong cách làm việc chuyên nghiệp, nhân viên tư vấn cổ phần hóa sẽ giúp doanh nghiệp lập ra một quy trình thực hiện cổ phần hóa hiệu quả, hỗ trợ đắc lực trong việc quảng bá tên tuổi, thu hút công chúng quan tâm đến việc đầu tư vào doanh nghiệp, nhờ đó, việc thực hiện bán cổ phần sẽ được thực hiện dễ dàng hơn và nhiều khả năng doanh nghiệp sẽ bán được cổ phần với giá cao hơn mệnh giá. Từ hoạt động tư vấn cổ phần hóa, tư vấn niêm yết, công ty có thể phát triển các hoạt động kèm theo như đứng ra làm đại lý, bảo lãnh phát hành, triển khai dịch vụ lưu ký cho doanh nghiệp cổ phần hóa, làm dịch vụ chi trả cổ tức, quản lý danh sách cổ đông, làm đầu mối chuyển nhượng cổ phiếu hay truyền tải những thông tin cần thiết từ doanh nghiệp đến cổ đông góp phần tăng thu nhập cho công ty. Đối với hoạt động quản lý danh mục đầu tư, công ty cần tích cực trau dồi kinh nghiệm, nâng cao năng lực phân tích xu thế diễn biến thị trường để có thể đưa ra phương án đầu tư tốt nhất với nguồn vốn được khách hàng ủy thác. Để thực hiện hoạt động này, cần hoàn thiện hoạt động tự doanh bởi đó chính là một cách quảng cáo hữu hiệu cho trình độ, khả năng và kinh nghiệm của công ty trong việc quản lý danh mục đầu tư. Môi giới là hoạt động đem lại mức doanh thu đáng kể cho công ty (chỉ sau hoạt động tự doanh). Nó thể hiện bộ mặt của công ty, để lại ấn tượng về công ty đối với khách hàng bởi đây là bộ phận tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và là hoạt động thu hút phần lớn khách hàng cho công ty. Do vậy, BSC phải tiếp tục hoàn thiện và phát triển hoạt động này. Công ty nên xây dựng một biểu phí môi giới ưu đãi đối với các khách hàng quen biết, gắn bó với công ty ngay từ những ngày đầu hoạt động. Đối với hoạt động bảo lãnh phát hành- một hoạt động còn mới mẻ đối với cả người thực hiện lẫn khách hàng. Theo thống kê từ những thông tin điều tra do doanh nghiệp cung cấp cho thấy, đến năm 2005, nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cần khoảng 30000 tỷ. Tính bình quân mỗi doanh nghiệp cần khoảng 100 tỷ. Nhu cầu vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tập trung chủ yếu vào vốn trung và dài hạn. Vậy mà trên thực tế, phần lớn các doanh nghiệp hiện nay cảm thấy khó khăn khi huy động vốn qua kênh ngân hàng do sự bất cập về lãi suất, kỳ hạn và cả ở thủ tục xin vay. Một trong những cách để khắc phục tình trạng này là phát hành chứng khoán. Doanh nghiệp có thể phát hành với quy mô nhỏ (phát hành riêng lẻ) hoặc phát hành rộng rãi ra công chúng, khi đó sự bảo lãnh của các công ty chứng khoán sẽ giúp rất nhiều cho doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, bảo lãnh phát hành của các công ty chứng khoán sẽ giúp họ vững bước hơn trong tiến trình “nhập cuộc” vào thị trường chứng khoán. Trước mắt, rất nhiều doanh nghiệp ở nước ta gặp phải sự bất hợp lý trong cơ cấu vốn và khó khăn khi huy động vốn mới. Điều này có thể giải quyết thông qua phát hành. Việc phát hành ra công chúng IPO có thể đem lại nhiều lợi ích đến cho doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, đó là: Giảm chi phí huy động vốn Tăng hệ số tín nhiệm Tăng tính thanh khoản của chứng khoán Tạo hình ảnh tốt đẹp của doanh nghiệp. Phát triển nhiều phương pháp quản lý hữu hiệu. Nhưng, các doanh nghiệp sẽ khó khăn để đạt được những mục tiêu của IPO trên nếu không có sự bảo lãnh phát hành của công ty chứng khoán. Một đợt phát hành được bảo lãnh có độ an toàn và hệ số tín nhiệm của chứng khoán mới cao hơn hẳn tự phát hành bởi lẽ các nhà đầu tư tin tưởng vào những kết quả thẩm định. Sự kiểm soát và bình ổn giá mà công ty chứng khoán đem đến cho đợt phát hành do mình bảo lãnh. Nhờ đó các doanh nghiệp sẽ thấy chứng khoán của họ hấp dẫn hơn, “bán chạy” hơn và ngay cả khi điều này không xảy ra thì doanh nghiệp vẫn có thể thu được một lượng tiền cố định từ nhà bảo lãnh. Điều này đặc biệt đúng tại thị trường chứng khoán Việt Nam, nơi mà sự hiểu biết về chứng khoán còn quá nhỏ và dễ bị tác động bởi một số nhà đầu tư lớn. Hầu hết các doanh nghiệp vẫn còn bỡ ngỡ và e ngại khi phát hành trái phiếu chính phủ, sự bảo lãnh của công ty chứng khoán lúc này là rất cần thiết để tạo sự tự tin, đem lại sự an toàn cũng như lợi ích đến với họ. Vì vậy, công việc trước mắt phải làm của công ty là từng bước chuẩn bị điều kiện để sớm đưa hoạt động bảo lãnh vào thực tế hoạt động. Công tác chuẩn bị bao gồm các bước cơ bản sau: Xây dựng chiến lược cho hoạt động bảo lãnh phát hành gồm chiến lược về khách hàng, chiến lược về sản phẩm và chiến lược phân phối sản phẩm. Lựa chọn phương thức bảo lãnh thích hợp, xây dựng quy trình thực hiện bảo lãnh. Tăng cường công tác tìm kiếm và tư vấn tài chính doanh nghiệp. Bên cạnh việc hoàn thiện và phát triển những hoạt động chính, BSC cần đưa thêm các dịch vụ phụ trợ đa dạng nhằm thu hút khách hàng và hỗ trợ đắc lực cho hoạt động chính. Ví dụ thực hiện cho vay cầm cố chứng khoán. Đây là hình thức cấp tín dụng của công ty chứng khoán cho khách hàng của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do công ty chứng khoán ứng trước tiền thanh toán. Đến kỳ hạn đã thỏa thuận, khách hàng phải hoàn trả đủ số chênh lệch cùng với lãi cho công ty chứng khoán. Hoạt động này giúp công ty có thêm cơ hội tăng thu nhập nhờ có thêm các dịch vụ, hưởng hoa hồng nhờ có lượng giao dịch tăng cao. Đối với nhà đầu tư, họ có điều kiện gia tăng đầu tư, mượn đòn cân nợ để nâng cao tỷ suất lợi nhuận trên cùng một lượng vốn. Thời gian qua, những nhà đầu tư mong muốn đầu tư nhiều hơn số tiền mà họ có trong tài khoản và chấp nhận thế chấp chứng khoán đang sở hữu để được vay tiền. Nhìn chung, năng lực và tư duy kinh doanh của đa số các nhà đầu tư hiện nay đã được nâng lên. Như thế họ luôn nghĩ đến cách “xoay” đồng tiền nhanh đến mức tối đa cho phép. Hình thức cho vay cầm cố chứng khoán đáp ứng được nhu cầu rất cấp thiết của nhà đầu tư là tối ưu vốn. Trước nhu cầu này, các công ty chứng khoán đã liên kết với các ngân hàng, đôi khi là ngân hàng mẹ để triển khai dịch vụ cho vay cầm cố chứng khoán. Là công ty con của ngân hàng đầu tư và phát triển, BSC có thể tận dụng được mạng lưới chi nhánh, số lượng khách hàng lớn của ngân hàng mẹ, sự ưu đãi về lãi suất, giảm chi phí trung gian, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh nhưng BSC vẫn chưa mạnh dạn triển khai hoạt động này. Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định về hạn mức tín dụng đối với tài sản cầm cố là chứng khoán, việc quản lý thông tin về chứng khoán giao dịch với cho vay cầm cố như thế nào, mức giải chấp khi chứng khoán mất giá dẫn đến khả năng chống đỡ của các nhà đầu tư và các tổ chức cung cấp dịch vụ là hạn chế. Nếu giá chứng khoán thế chấp giảm tới mức giá trị của chúng thấp hơn giá trị khoản vay ký quỹ, nhà đầu tư buộc phải bán ra làm cung cổ phiếu tăng nhanh, giá cổ phiếu sẽ càng rớt mạnh. Do vậy, để phát triển hoạt động này, công ty phải có những nguyên tắc riêng về đảm bảo thu hồi vốn và tránh tập trung quá mức vào một khách hàng hay một loại chứng khoán nhất định đồng thời dựa trên quan điểm về khoản ký quỹ tối thiểu giữa ngân hàng và chủ tài khoản bảo chứng, công ty sẽ tính ra mức ký quỹ cần thiết đối với từng tài khoản và tách biệt đâu là phần tín dụng, đâu là phần vốn của chủ tài khoản bảo chứng để đưa ra lời cảnh báo thích hợp cho chủ tài khoản trong trường hợp giá cổ phiếu giảm hoặc linh động cho chủ tài khoản rút bớt tiền nếu giá cổ phiếu tăng. Nếu vốn chủ tài khoản (tính bằng tổng thị giá chứng khoán và tiền mặt trừ đi khoản tín dụng) nhỏ hơn khoản ký quỹ tối thiểu, công ty phải yêu cầu chủ tài khoản tiến hành ký quỹ bổ sung hoặc bán bớt chứng khoán để duy trì tỷ lệ ký quỹ tối thiểu trong một thời gian theo quy định. Trường hợp chủ tài khoản không có khả năng duy trì tỷ lệ ký quỹ tối thiểu, quyền quyết định của chủ tài khoản có thể bị hạn chế và khi đó công ty có quyền phong tỏa tài khoản trong một thời gian hoặc chủ động bán một phần chứng khoán để tránh rủi ro, thu hồi vốn cho ngân hàng mà không cần thông qua chủ tài khoản. 3.2.2.Xây dựng chiến lược khách hàng toàn diện, hợp lý Chính sách khách hàng có một vị trí hết sức quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của một công ty chứng khoán. Với phương châm phục vụ “hiệu quả kinh doanh của nhà đầu tư là mục tiêu của BSC” thì một giải pháp về chính sách khách hàng đúng đắn sẽ là một yếu tố quyết định vị trí của BSC trong cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt trong việc giành thị phần với các công ty chứng khoán khác. Chính sách khách hàng có thực hiện được hay không phụ thuộc vào kết quả của việc kết hợp và sử dụng nhiều chính sách cụ thể khác nhau, mỗi chính sách đó sẽ đóng vai trò nhất định nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Một chính sách khách hàng cần phải bao gồm: Có chính sách giá cả hấp dẫn bởi lẽ trong giai đoạn hiện nay, khi mà cung cầu chứng khoán luôn mất cân đối, số nhà đầu tư tham gia trên thị trường chứng khoán còn ít, thì công ty chứng khoán nào có lượng khách hàng lớn sẽ có thuận lợi hơn so với các công ty chứng khoán khác. Đối với BSC, số lượng khách hàng tuy không phải là ít nhưng cũng chưa phải là nhiều so với tiềm năng của công ty. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần phải thu hút được nhiều hơn nữa các nhà đầu tư đến với công ty. Trước mắt, chính sách ưu đãi về giá cả đối với khách hàng tỏ ra có hiệu quả trong việc lôi kéo thêm các nhà đầu tư đến với BSC. Các mức phí của công ty phải được áp dụng một cách linh hoạt, phù hợp trên cơ sở cân đối chi phí, lợi nhuận, thị phần và các mục tiêu khác mà công ty theo đuổi. Mức phí đưa ra phải phù hợp với từng đối tượng khách hàng, từng loại hình dịch vụ, từng thời điểm cụ thể để vừa duy trì được mối quan hệ lâu dài với khách hàng, vừa thu hút được thêm khách hàng mới. Cụ thể: Đối với các khách hàng lớn, thường xuyên có số dư tài khoản và có những giao dịch lớn, công ty có thể áp dụng mức phí thấp hơn so với mức phí hiện nay. Đối với khách hàng mới, lần đầu đến với công ty, vì hiểu biết của họ về công ty, về thị trường chứng khoán còn hạn chế, nên việc hướng dẫn họ làm quen với công ty, với thị trường chứng khoán là hết sức quan trọng. Công ty có thể cung cấp cho họ những tài liệu cơ bản về công ty, về thị trường chứng khoán. Hơn thế nữa, để tạo niềm tin cho khách hàng, nhân viên công ty có thể hướng dẫn họ cụ thể về việc theo dõi bảng điện tử, thủ tục mở tài khoản, quy trình giao dịch…Khách hàng mới sẽ là cầu nối giữa công ty với khách hàng tiềm năng tạo được hình ảnh tốt đẹp đối với các nhà đầu tư. Khách hàng mới hài lòng về công ty bao nhiêu thì lợi thế của công ty cũng tăng lên bấy nhiêu. Chính sách giá cả ưu đãi khách hàng sẽ củng cố mối quan hệ tốt đẹp giữa công ty với khách hàng, giữa công ty với các nhà đầu tư, nâng cao uy tín và danh tiếng của công ty trên thị trường. Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, cải tiến quy trình hoạt động để thỏa mãn nhu cầu ngày càng đa dạng và phát triển của khách hàng. Điều này đòi hỏi công ty cần phải nghiên cứu, học hỏi và đưa ra các dịch vụ mới: cung cấp thông tin cập nhật nhất, nhận lệnh và thông báo kết quả khớp lệnh tận nhà… Tổ chức hội nghị khách hàng một cách định kỳ bởi vì hội nghị khách hàng sẽ là nơi gặp gỡ, trao đổi học tập kinh nghiệm giữa các nhà đầu tư với nhau, giữa các nhà đầu tư với công ty, và hơn thế nữa, hội nghị khách hàng sẽ có lợi cho cả hai bên khách hàng và công ty: Về phía khách hàng, trước hết họ sẽ được cung cấp những văn bản pháp lý mới nhất liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán, được hướng dẫn thực hiện đúng theo pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, tránh được những sai phạm không đáng có khi tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán. Tiếp đến, họ có thể được tham khảo những bài phát triển, đánh giá của các chuyên gia trong công ty về tình hình thị trường chứng khoán, tình hình hoạt động kinh doanh của các công ty niêm yết. Cái lợi mà khách hàng có được chính là ở chỗ: dựa trên các thông tin có được họ tự biết điều gì nên và không nên làm, đầu tư như thế nào trong thời gian tới để đạt hiệu quả cao nhất. Về phía công ty, hội nghị khách hàng là một dịp tốt để tăng cường mối quan hệ với các nhà đầu tư, là một dịp để các nhà đầu tư tìm hiểu kỹ hơn về công ty thông qua các loại hình dịch vụ mà công ty đang cung cấp cho họ. Hội nghị khách hàng giúp cho công ty tiếp cận, tìm hiểu cặn kẽ hơn nhu cầu và thu nhận thông tin ngược chiều phía các nhà đầu tư và công chúng. Hơn nữa, thông qua hội nghị khách hàng, công ty còn cho khách hàng thấy họ là tâm điểm của mọi hoạt động kinh doanh của mình, là mối quan tâm hàng đầu của mình để từ đó khách hàng có niềm tin vững chắc vào công ty. Công ty cần phải tiến hành phân đoạn thị trường. ở đây, đoạn thị trường được hiểu là một nhóm các nhà đầu tư có phản ứng như nhau đối với cùng một tập hợp kích thích của marketing và phân đoạn thị trường là quá trình phân chia các khách hàng thành nhóm trên cơ sở những điểm khác biệt về nhu cầu, về tính cách hay về hành vi. Như vậy, về thực chất việc phân đoạn thị trường là phân chia theo tiêu thức nhất định thị trường tổng thể quy mô lớn, không đồng nhất, muôn hình muôn vẻ về nhu cầu thành các nhóm (đoạn, khúc) nhỏ hơn đồng nhất về nhu cầu. Các tiêu thức có thể dùng để phân đoạn thị trường: Đối với các nhà đầu tư cá nhân: Cơ sở phân đoạn Tiêu thức phân đoạn Địa lý Miền (bắc, trung, nam), vùng,… Dân số-xã hội Tuổi, giới tính, thu nhập, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân,… Tâm lý Thái độ, cá tính, lối sống, thói quen, giá trị văn hóa,… Hành vi đầu tư Lý do đầu tư, lợi ích tìm kiếm, số lượng và tỷ lệ đầu tư.. Đối với nhà đầu tư có tổ chức: Các tiêu thức Các ví dụ về chủng loại - Quy mô - Loại hình sở hữu - Loại hình tổ chức - Địa điểm tổ chức Nhỏ, vừa, lớn Tư nhân, Nhà nước, liên doanh… Sản xuất, kinh doanh, tổ chức phi kinh tế… Miền, vùng, tỉnh… Để xác định một đoạn thị trường có hiệu quả thì việc phân đoạn thị trường phải đạt được những yêu cầu sau: Tính đo lường được, tức là quy mô và hiệu quả của đoạn thị trường phải đo lường được. Tính tiếp cận được, tức là công ty phải nhận biết và phục vụ được đoạn thị trường đã phân chia theo tiêu thức nhất định. Tính quan trọng, tức là các đoạn thị trường phải bao gồm các khách hàng có nhu cầu đồng nhất với quy mô đủ lớn để có khả năng sinh lời được. Tính khả thi, tức là có thể có đủ nguồn lực để hình thành và phát triển chương trình hoạt động riêng biệt cho từng đoạn thị trường đã chia. Từ việc phân đoạn thị trường, công ty cần phải lựa chọn thị trường mục tiêu cho mình. Dựa trên kết quả phân tích môi trường kinh doanh, nhiệm vụ và mục tiêu mà công ty mong muốn đạt tới, thực chất của việc lựa chọn thị trường mục tiêu là lựa chọn những nhóm khách hàng tiềm năng mà công ty sẽ phục vụ với các dịch vụ nhất định. Những thị trường mục tiêu được lựa chọn có thể là một, hay một số đoạn thị trường chính hay toàn bộ thị trường. Khi lựa chọn các thị trường mục tiêu, cần làm rõ các vấn đề: + Loại hình dịch vụ hay hoạt động nào sẽ được mang ra phục vụ nhu cầu của khách hàng. + Quy mô và khả năng tăng trưởng của thị trường + Khả năng thu lợi nhuận + Mức độ phù hợp giữa một bên là nhu cầu khách hàng ở các thị trường được lựa chọn và bên kia là khả năng thỏa mãn của công ty đối với những nhu cầu đó. Tùy thuộc vào việc phân tích, đánh giá những vấn đề nói trên mà công ty sẽ lựa chọn những thị trường tiềm năng tốt nhất cho mình. Chủ động tìm kiếm khách hàng là một hoạt động không thể thiếu nhằm mở rộng và nâng cao số lượng khách hàng đến với mình. Chính sách này không những nhằm vào các nhà đầu tư trong nước mà còn nhằm cả vào những nhà đầu tư có tổ chức. Thực hiện chính sách này, tức là tìm được khách hàng mới, công ty sẽ có nhiều thuận lợi như: có cơ hội tốt trong việc thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành cho khách hàng mới, từ đó có cơ sở thực hiện các hoạt động môi giới, quản lý danh mục đầu tư… cho khách hàng để tìm kiếm lợi nhuận và nâng cao uy tín cho mình. Bảo đảm phong cách giao tiếp văn minh, lịch sự, tận tình, chu đáo chính là một nghệ thuật giữ khách hiệu quả nhất. Thái độ của nhân viên có thể tạo nên hình ảnh của công ty trong khách hàng. Vì vậy, phong cách giao tiếp và tác phong làm việc của cán bộ sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của việc thu hút khách. Ngoài ra, các cán bộ nhân viên còn phải làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, cẩn thận không để mắc sai sót, nhầm lẫn tạo sự an tâm, tin tưởng tuyệt đối từ phía khách hàng. 3.2.3Chính sách đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực Như đã phân tích, để phát triển hoạt động của công ty chứng khoán điều quan trọng nhất là vốn và nhân lực. Hiện nay, BSC đã có vốn điều lệ là 55 tỷ (lớn hơn so với mức vốn pháp định là 43 tỷ). Do đó, đào tạo và sử dụng nhân lực là một trong những chính sách hàng đầu mang tính chiến lược trong bất cứ giai đoạn phát triển nào của công ty. Do tính non trẻ của thị trường, nên hầu hết các nhân viên của công ty đều từ ngành khác chuyển sang, số nhân viên còn lại đa số mới ra trường, số nhân viên đã có kinh nghiệm từ những thị trường tiên tiến rất ít. Trước thực tế này, công ty phải tìm cách khai thác mọi nguồn nhân lực, kết hợp và tận dụng các mô hình đào tạo và nguồn tài trợ khác nhau để phục vụ cho công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, nhân viên của công ty có thể áp dụng một số biện pháp sau: - Cử cán bộ tham gia các công trình đào tạo và khóa huấn luyện ở trong và ngoài nước về phục vụ cho công ty. - Phối hợp với các đơn vị nghiên cứu, tận dụng nguồn tài trợ để tổ chức các khóa học, nâng cao trình độ cho nhân viên tại chính công ty. - Khuyến khích và tạo điều kiện để các nhân viên tự túc đi học tập và nghiên cứu sau đó về phục vụ công ty. - Thực hiện các công trình tự nghiên cứu, thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo phổ biến kiến thức trong nội bộ công ty - Có các chính sách hỗ trợ việc thuyên chuyển, điều động để phát huy các thế mạnh của từng cá nhân trong công ty - Chuẩn hóa các tiêu chuẩn về nhân viên của công ty, về bộ máy nhân lực, từ đó có những hình thức khen thưởng thích đáng - Hàng năm trích lập quỹ đào tạo để phục vụ cho các mục đích về nguồn nhân lực trong thời gian tiếp theo Trong chính sách nhân lực, công ty nên quan tâm thực hiện chính sách “hòa nhập”. Đó là việc kết hợp hài hòa giữa lợi ích khách hàng với lợi ích công ty thông qua sự tôn trọng và hỗ trợ những sáng tạo, năng động của các đơn vị kinh doanh như phòng giao dịch, các chi nhánh, bộ phận hoạt động. Một lý do của chính sách “hòa nhập” là do những biến động trên thị trường chứng khoán nhiều khi không lường trước được nên các đơn vị kinh doanh cần được trao quyền tự quyết trong một phạm vi nhất định mà không gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động dài hạn của công ty. Điều này giúp công ty nắm bắt được những cơ hội đến nhanh chóng và tránh được rủi ro khi có sự thay đổi bất thường của thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, công ty nên tổ chức một bộ phận chuyên trách nghiên cứu và phân tích thị trường bởi hiện nay công ty đang thực hiện theo chế độ kiêm nhiệm, có nghĩa là một nhân viên có thể vừa thực hiện hoạt động môi giới vừa thu thập thông tin, vừa đánh giá tình hình dẫn đến sự hạn chế và non kém trong năng lực phân tích thị trường và gây ảnh hưởng đến hoạt động chính. Phân tích thị trường là một nhiệm vụ rất quan trọng và là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của công ty. Khả năng mở rộng và phát triển của công ty phụ thuộc rất nhiều vào uy tín và chất lượng dịch vụ cung cấp. Có thể nói, phân tích thị trường là một mũi nhọn cạnh tranh về dịch vụ giữa các công ty chứng khoán. Trong điều kiện hiện nay, khi các công ty chứng khoán mới đi vào hoạt động không lâu, các lợi thế cạnh tranh chưa có sự khác biệt rõ rệt thì yếu tố chủ yếu để thu hút khách hàng chính là chất lượng dịch vụ mà các công ty cung cấp. Hơn nữa, đối với bản thân công ty, các kết quả phân tích thị trường cũng là cơ sở để đưa ra quyết định đầu tư nhằm đem lại lợi ích lớn nhất. Với những lý do đó, công ty cần quan tâm thích đáng đến việc phát triển năng lực phân tích thị trường của mình. Cơ sở để phân tích thị trường của các công ty chứng khoán bao gồm ba bộ phận chủ yếu là môi trường kinh doanh, hệ thống giao dịch tài sản-chứng khoán và các số liệu thống kê. Nguồn thu thập thông tin của công ty tương đối đa dạng: từ các báo cáo của doanh nghiệp, từ kết quả nghiên cứu trước đây, từ các phương tiện thông tin đại chúng và sau này có thể từ các tổ chức định mức tín nhiệm và trung tâm thông tin thương mại. Ngoài ra, công ty có thể tự tổ chức các cuộc điều tra, khảo sát nghiên cứu tình hình doanh nghiệp và thị trường để có được những thông tin sát thực nhất. Trên cơ sở những thông tin đã tập hợp, công ty thực hiện chắt lọc, áp dụng các phương pháp , công cụ như đối chiếu, thống kê, lượng hóa để phân tích và tổng hợp dữ liệu, làm cơ sở để đưa ra các kết luận về doanh nghiệp- thị trường. Trong khi phân tích, cần quan tâm đến cả con số tương đối và tuyệt đối, so sánh với điều kiện ngành và môi trường kinh tế để thấy được sự tăng trưởng và đánh giá vị thế cạnh tranh. Những kết luận và dự đoán cuối cùng cần được đưa ra một cách chính xác để phục vụ cho quá trình ra quyết định và xây dựng chiến lược hoạt động cho thời gian tới. Một điều nữa cần lưu ý là trong quá trình thu thập, tổng hợp và phân tích thông tin, công ty cần hết sức chú ý tới việc sàng lọc, phân biệt giữa những thông tin thật sự và thông tin giả mạo bởi các lý do cơ bản: chúng ta chưa có một môi trường công nghệ thông tin tiên tiến, hiện đại, các doanh nghiệp của ta chưa có thói quen, đúng hơn là không muốn công bố nhiều thông tin về mình để giữ bí mật kinh doanh, bởi vậy mà những thông tin bị rò rỉ, những tin đồn không có sự chính xác cao vẫn còn môi trường tồn tại và nhiều khi gây ra những tác động không tốt tới thị trường. Nếu xây dựng được hệ thống chuyên trách phân tích thị trường, công ty sẽ tránh được sự trùng lặp lãng phí và tiết kiệm được thời gian cũng như chi phí trong quá trình nghiên cứu, phân tích và sử dụng được thông tin một cách có hiệu quả nhất. Hiện nay, công ty có 3 phòng phân tích với 9 nhân viên. Theo em, nên nhập vào một phòng phân tích với 6 người, 3 người còn lại chuyên về phân tích thị trường. 3.2.4 Hiện đại hóa cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động kinh doanh và hoàn thiện hệ thống tin học cho công ty. Cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật và công nghệ phần mềm là những yếu tố hỗ trợ đắc lực cho hoạt động của công ty diễn ra suôn sẻ, đạt hiệu quả cao. Vì vậy, công ty cần chú trọng đầu tư vào lĩnh vực này. Sau đây là một số gợi ý đối với công ty về vấn đề này: Thường xuyên nâng cấp trang thiết bị hoạt động kinh doanh cho cán bộ công nhân viên của công ty, đảm bảo cho mọi người có đủ điều kiện làm việc theo tác phong công nghiệp, phát huy tối đa khả năng làm việc của mình. Để phục vụ khách hàng tốt hơn, công ty cần có một màn hình tốt, chỗ ngồi dành cho khách hàng rộng rãi thoải mái. Bảng điện tử của công ty hiện nay chữ số còn nhòe, nhìn không rõ rất dễ nhầm lấn hay bị gián đoạn do lỗi kỹ thuật, gây phản ứng không tốt tới khách hàng. Công ty cần trang bị bảng điện tử mới, tốt hơn, chuẩn bị ghế phụ cho khách hàng những hôm đông, tránh tình trạng khách hàng phải đứng để theo dõi tình hình thị trường. Đặc biệt công ty nên cung cấp nhiều báo, tạp chí chuyên ngành như báo đầu tư chứng khoán, tạp chí chứng khoán Việt Nam, thời báo kinh tế. Thực hiện đặt lệnh trực tiếp qua internet giúp các nhà đầu tư không phải trực tiếp đến công ty để đặt lệnh, tiết kiệm thời gian và chi phí cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó, yêu cầu áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh là một tất yếu trong quá trình phát triển của công ty. Công ty cần triển khai nghiên cứu và ứng dụng công nghệ điện tử vào kinh doanh chứng khoán, đặc biệt là trong các hoạt động giao dịch và quản lý khách hàng. Tuy nhiên, đi kèm với những tiện ích của nó thì công nghệ thông tin cũng chứa đựng những mặt trái nhất định, đó là các loại vius có thể phá hủy dữ liệu, làm rối loạn hệ thống, nạn hacker- kẻ gian có thể đột nhập vào những thông tin bảo mật… do đó các nhân viên cũng phải có đủ chuyên môn kỹ thuật để nắm bắt, vận hành có hiệu quả. Về nguyên tắc, các giải pháp tin học cho việc hoạt động, quản lý và giám sát của công ty phải đáp ứng các yêu cầu sau: Tăng tốc độ, khối lượng và quy mô thực hiện các giao dịch chứng khoán Bảo đảm chi phí giao dịch chứng khoán cho khách hàng ở mức độ thấp nhất Bảo đảm thời gian thực hiện giao dịch chứng khoán là ngắn nhất Bảo đảm khả năng kiểm soát tốt nhất tài khoản khách hàng và tài khoản công ty, cũng như việc đăng ký, lưu giữ chứng khoán cho khách hàng. Giảm thiểu rủi ro trong việc thực hiện giao dịch chứng khoán và tăng khả năng thanh toán cho công ty. Bảo đảm khả năng kiểm soát nội bộ một cách hữu hiệu và quản lý tốt nhất việc phân cấp trong hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán. Cho phép các cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán thực hiện quản lý giám sát việc chấp hành các tiêu chuẩn và hạn mức kinh doanh đối với công ty chứng khoán. Hiện nay, các công ty chứng khoán trên thế giới đang hết sức quan tâm và đầu tư mạnh mẽ cho việc tự động hóa hoạt động kinh doanh chứng khoán nhằm tăng tốc độ giao dịch, giảm chi phí giao dịch và tăng cường áp dụng các mô hình kinh doanh, quản lý được tự động hóa để quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Mặt khác, việc nhiều công ty chứng khoán trên toàn thế giới đã bắt đầu thực hiện giao dịch chứng khoán trên mạng Internet đã đặt ra yêu cầu mới đối với hệ thống tin học cho hoạt động kinh doanh chứng khoán. Vì vậy, BSC nên phối hợp với công ty chứng khoán khác thực hiện chương trình tự động hóa. Điều kiện tương đối thuận lợi là chi phí cho hệ thống tin học cho hoạt động kinh doanh và quản lý ngày càng có xu hướng giảm. Tuy nhiên trong thời gian đầu, do thị trường chứng khoán Việt Nam chưa sôi động, quy mô giao dịch còn nhỏ, công ty chưa có lãi nhiều nên để tiết kiệm có thể chỉ lắp đặt hệ thống tự động có công suất xử lý thông tin vừa phải, song phải là hệ thống mở để khi cần thiết có thể tăng ngay công suất. Cách làm này cho phép tiết kiệm được chi phí và hoạt động của công ty vẫn đảm bảo khả năng cấp và phát triển liên tục của hệ thống tin học của công ty khi thị trường phát triển. Tóm lại, giải pháp về công nghệ thông tin cần tập trung vào các mặt: Tiêu chuẩn hóa hệ thống thông tin khách hàng bao gồm nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, phân loại thông tin để phục vụ cho các mục đích sử dụng khác nhau. Thiết kế và cài đặt mạng cục bộ cũng như mạng toàn diện để việc trao đổi thông tin được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, an toàn. Có chương trình dự phòng kế hoạch sẵn sàng ứng phó với tình trạng bị xâm nhập bất hợp pháp, bị mất liên lạc trong khi giao dịch cũng như trong trường hợp khẩn cấp. 3.2.5. Tăng cường xây dựng các mối quan hệ đối ngoại Để giữ vững và tăng cường uy tín đối ngoại của BSC, cần đẩy mạnh việc xây dựng các quan hệ đối ngoại, mở rộng quan hệ để tranh thủ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của các công ty chứng khoán nước ngoài: Củng cố và mở rộng quan hệ đối ngoại vốn có. Lựa chọn các công ty chứng khoán, đối tác nước ngoài phù hợp với từng lĩnh vực đối ngoại của từng khu vực để thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các công ty có uy tín cao. Tăng cường nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm, nắm bắt nhanh nhạy các diễn biến về tài chính, tiền tệ trên thế giới nhằm cập nhật thông tin, nắm bắt các xu thế mới của thị trường để thích ứng và có đối sách kịp thời khi có biến động. Mở rộng các quan hệ song phương và đa phương, xây dựng và phát triển quan hệ chặt chẽ với công ty chứng khoán các nước Asean, đặc biệt với công ty chứng khoán của các nước láng giềng như Thái Lan, Trung Quốc. 3.3. Một số kiến nghị Để công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển thực sự trở thành những định chế trung gian hoạt động có hiệu quả trên thị trường chứng khoán, phát huy tích cực vai trò của mình trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán nói riêng và của nền kinh tế nói chung, chỉ với sự nỗ lực của bản thân công ty thì chưa đủ mà cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành có thẩm quyền liên quan. Dĩ nhiên, sự quan tâm của chính phủ cũng rất cần thiết. Trên cơ sở những tồn tại, hạn chế, những nhu cầu chưa được đáp ứng của công ty trong quá trình hoạt động, bài viết xin được đưa ra một số kiến nghị đối với chính phủ, ủy ban chứng khoán Nhà nước cũng như các bộ ngành, cơ quan liên quan nhằm tạo điều kiện cho công ty phát triển một cách toàn diện. 3.3.1. Hoàn thiện khung pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán. ở Việt Nam, cũng như thị trường các yếu tố sản xuất khác (như thị trường sức lao động, thị trường bất động sản, thị trường công nghệ, chất xám…), thị trường chứng khoán còn rất mới mẻ. Do vậy, cơ sở hình thành mảng pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán trong thị trường đặc thù này còn sơ khai và nói chung, còn rất manh mún. Cho đến nay, cơ sở pháp lý trực tiếp điều chỉnh việc thành lập và giám sát hoạt động của công ty chứng khoán là: Luật công ty (từ 1/1/2000 áp dụng luật doanh nghiệp) quy định các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động và quản lý công ty (công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty tư nhân), luật doanh nghiệp Nhà nước quy định các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động và quản lý doanh nghiệp Nhà nước; luật ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng quy định các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động và quản lý ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Các luật như luật dân sự, luật thương mại, luật phá sản, luật đầu tư nước ngoài, luật hợp đồng quy định quyền sở hữu về chứng khoán, phương thức chuyển giao quyền sở hữu này và vấn đề về phá sản công ty chứng khoán. Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán có thể kể tới vài chục văn bản, nằm rải rác ở nhiều lĩnh vực, do nhiều cấp có thẩm quyền ban hành, dưới những hình thức khác nhau (nghị định, thông tư, quyết định). Tuy nhiên, các văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình phát hành, kinh doanh và quản lý Nhà nước về chứng khoán đều là những văn bản có giá trị dưới luật, trong đó văn bản điều chỉnh trực tiếp và quan trọng nhất là nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nhìn tổng thể, tuy chưa có một đạo luật chung về phát hành và kinh doanh chứng khoán như ở một số nước trên thế giới, nhưng trên thực tế, khung pháp lý về chứng khoán với ba bộ phận cấu thành tối thiểu cần có của nó, gồm: Những quy định về tiêu chuẩn hàng hoá và điều kiện phát hành. Điều kiện và thể thức kinh doanh. Quản lý Nhà nước và giám sát về chứng khoán và thị trường chứng khoán đã hình thành. Tuy nhiên về mặt nội dung, các quy định hiện còn bộc lộ nhiều hạn chế Hệ thống văn bản quy phạm về chứng khoán và thị trường chứng khoán hầu hết là các văn bản dưới luật, có giá trị pháp lý thấp. Các văn bản thiếu tính hệ thống còn manh mún, chắp vá, thiếu tính đồng bộ và còn mâu thuẫn chồng chéo giữa các quy định. Còn bỏ ngỏ nhiều vấn đề thuộc về chứng khoán và các quan hệ trong thị trường chứng khoán chưa được luật pháp quy định, điều chỉnh.Ví dụ: luật dân sự không cho phép bán tài sản không thuộc sở hữu của người bán, như vậy chúng ta không thể cho phép công ty chứng khoán thực hiện bán khống. Bộ luật hình sự còn chưa có quy định rõ ràng về tội danh mua trong hoạt động của thị trường chứng khoán. - Hầu hết các quy định được xây dựng trên cơ sở tham khảo, học tập kinh nghiệm luật pháp, kinh nghiệm tổ chức thị trường chứng khoán của nước ngoài mà chưa được hay còn ít kiểm nghiệm qua thực tế tại Việt Nam. Do đó, em xin đề xuất một số ý kiến như sau: Về lâu dài chúng ta phải xây dựng luật chứng khoán và thị trường chứng khoán với hiệu lực pháp lý cao. Tuy nhiên, việc xây dựng sẽ tốn một thời gian dài để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thị trường chứng khoán theo từng thời kỳ. Theo kinh nghiệm của các nước có thị trường chứng khoán mới xây dựng, phần lớn họ đều ban hành các văn bản dưới hình thức quy định của chính phủ để linh hoạt và thuận tiện cho việc xử lý các vấn đề của thị trường ở giai đoạn đầu hoạt động, sau đó nâng dần lên thành luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Hiện nay, hiệu lực của nghị định chính phủ chưa cao, chưa giải quyết được những điểm mâu thuẫn với các văn bản luật, pháp lệnh khác, phạm vi điều chỉnh cũng ở diện hẹp. Do đó, trước mắt, chúng ta nên xây dựng một pháp lệnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán. ủy ban chứng khoán Nhà nước cần nhanh chóng kiến nghị với chính phủ có kế hoạch trình ủy ban thường vụ quốc hội, đưa việc xây dựng pháp lệnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của quốc hội. Nếu pháp lệnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán được ban hành thì đây sẽ là văn bản pháp lý cao nhất của ngành chứng khoán trong thời gian trước mắt, tạo nên sự thống nhất cao và ổn định trong hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho sự vận hành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, tạo lòng tin cho các tổ chức và người đầu tư an tâm khi tham gia thị trường. Việc xây dựng pháp lệnh nên thực hiện trên nền những quy định pháp lý hiện có như quy định về phát hành chứng khoán, công ty chứng khoán, công khai thông tin… và sửa đổi bổ sung những phần cần thiết như điều kiện để chứng khoán được niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung và những trường hợp chứng khoán bị hủy bỏ niêm yết. Các luật và nội dung khác cũng cần xem xét để tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật điều chỉnh chứng khoán và thị trường chứng khoán, bao gồm: Luật doanh nghiệp ban hành ngày 12/6/1999, trong đó chú ý vấn đề về quy định phát hành chứng khoán , chế độ công bố thông tin, báo cáo của doanh nghiệp. Luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi năm 2000), trong đó chú ý tới vấn đề hình thức đầu tư nước ngoài gián tiếp, về phát hành cổ phiếu và trái phiếu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bộ luật hình sự: chú ý tới vấn đề về tội danh của thị trường chứng khoán như mua bán nội gián, phát hành chứng khoán ra công chúng mà chưa có giấy phép… Luật các tổ chức tín dụng ngày 26/12/1997, trong đó chú ý tới vấn đề về phát hành và chuyển nhượng chứng khoán của các tổ chức tự doanh. Bộ luật dân sự ngày 28/10/1995, trong đó chú ý tới vấn đề về định nghĩa tài sản, về hợp đồng gửi giữ tài sản. Luật doanh nghiệp Nhà nước ngày 20/4/1995 trong đó chú ý tới vấn đề thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước khi phát hành cổ phiếu. 3.2.2 Công khai thông tin Thông tin về thị trường chứng khoán là cơ sở cho hoạt động của thị trường chứng khoán, là yếu tố để các nhà đầu tư định giá mua bán chứng khoán. Các thông tin sai lệch trên thị trường chứng khoán có thể gây nên những biến động lớn trong hoạt động của thị trường cũng như sự hoảng loạn trong tâm lý của các nhà đầu tư, đẩy thị trường đến những đột biến giá, tạo nên các cơn sốc đối với hệ thống tài chính quốc gia, và do vậy ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Trong giai đoạn toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, thông tin không minh bạch có thể gây nên sự xáo trộn trên thị trường, dẫn đến phản ứng xấu của thị trường chứng khoán và nền kinh tế quốc gia. Chính vì vậy, công khai thông tin được coi là nguyên tắc quan trọng nhất của thị trường chứng khoán. Ngay từ giai đoạn đầu xây dựng thị trường chứng khoán tại Việt Nam, ủy ban chứng khoán Nhà nước đã luôn coi trọng nguyên tắc này, và có những quy định cụ thể về việc bắt buộc công khai thông tin trên thị trường chứng khoán. Nguồn thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời mà một công ty có thể tiếp nhận để cung cấp cho khách hàng là nguồn tin từ cơ quan quản lý thị trường, từ tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh chứng khoán tại sàn, từ tổ chức phát hành chứng khoán…Hiện nay, công ty đã cung cấp cho các khách hàng những bản tin liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán do công ty tự xử lý trên cơ sở những thông tin tập hợp được từ nhiều nguồn chính thức khác nhau như từ tổ chức phát hành, từ các chủ thể tham gia thị trường và từ chính điều tra của bản thân công ty. Những bản tin này không chỉ dừng lại ở việc nêu ra những con số sự kiện mà còn đưa ra những nhận định và phân tích mang tính chuyên nghiệp, do đó giúp ích rất nhiều cho các nhà đầu tư khi đưa ra quyết định đầu tư của mình. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, có thể nói rằng công ty hiện vẫn chưa làm tốt được vai trò công bố thông tin của mình. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó có những nguyên nhân từ phía chính công ty, có những nguyên nhân khách quan từ bên ngoài. Để công ty thực hiện được tốt chức năng này cần có sự phối hợp và giúp đỡ từ các phía có liên quan, cụ thể như sau: Về phía ủy ban chứng khoán Nhà nước và trung tâm giao dịch chứng khoán: ủy ban chứng khoán Nhà nước và trung tâm giao dịch chứng khoán cần nghiên cứu bổ sung, sửa đổi, cụ thể hóa các quy định về công bố thông tin, đặc biệt liên quan đến các vấn đề như phát hành cổ phiếu mới, thay đổi chế độ kế toán, hợp nhất báo cáo tài chính, công bố ấn phẩm thường niên, công bố trên báo… Những quy định này cần cụ thể và phù hợp với thực tế để tạo điều kiện cho các công ty niêm yết thực hiện được tốt. ủy ban chứng khoán Nhà nước và trung tâm giao dịch cần tăng cường thông tin về thị trường để định hướng người đầu tư, bác bỏ những thông tin sai lệch, gây hoang mang hoặc gây nhiễu. Cần sớm xây dựng một tờ thông tin chính thức của ủy ban chứng khoán Nhà nước, bên cạnh tờ tin thị trường chứng khoán của trung tâm giao dịch chứng khoán cùng với việc cập nhật trang Web thông tin để đưa ra những quan điểm chính thức của ủy ban chứng khoán Nhà nước về những vấn đề chứng khoán và thị trường chứng khoán, tạo điều kiện cho công chúng đầu tư và những người muốn tìm hiểu lĩnh vực này có được những thông tin đáng tin cậy. Một số vấn đề về công bố thông tin quy định trong quy chế thành viên niêm yết và công bố thông tin tại Thông tư 79/2000/ TT-UBCK còn chưa rõ ràng và chưa đầy đủ so với thực tế phát sinh, do vậy cần có sự điều chỉnh phù hợp và kịp thời hơn. Cần xử lý nghiêm các hành vi vi phạm chế độ công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, công khai các vi phạm và mức độ xử lý về công bố thông tin của các tổ chức niêm yết và các đối tượng khác có liên quan trên các phương tiện thông tin đại chúng. Về phía công ty niêm yết: Mỗi công ty cần xây dựng quy trình công bố thông tin của mình trên cơ sở quy trình công bố thông tin mẫu của trung tâm giao dịch. Ngoài quy trình công bố thông tin, để nâng cao chất lượng công bố thông tin, các công ty cần lập ra một bộ phận chuyên trách theo dõi việc công bố thông tin. Tiến tới chuẩn mực hóa chức vụ, tiêu chuẩn của người chịu trách nhiệm công bố thông tin (như phải có hiểu biết về kinh tế- tài chính, luật pháp và công nghệ thông tin…) Cần phổ biến các vấn đề về công bố thông tin trong nội bộ công ty, đồng thời tăng cường giám sát để hạn chế việc rò rỉ thông tin ra bên ngoài hoặc ra báo chí trước khi báo cáo với ủy ban chứng khoán Nhà nước, trung tâm giao dịch chứng khoán và công khai ra thị trường. Về phía Nhà nước: Cần chỉnh sửa pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán để thống nhất quản lý Nhà nước về việc phát hành và kinh doanh chứng khoán, khắc phục sự bất bình đẳng giữa các công ty niêm yết và không niêm yết trong nghĩa vụ công bố thông tin khi phát hành chứng khoán ra công chúng. áp dụng các chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế vào Việt Nam, đồng thời ban hành quy định bắt buộc các doanh nghiệp Nhà nước và công ty cổ phần có một mức vốn nhất định trở lên phải thực hiện kiểm toán các báo cáo tài chính hàng năm và công khai ra công chúng. Bên cạnh đó, cần tăng cường kỷ luật tài chính doanh nghiệp và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm. 3.3.3 Tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việc tuyên truyền và quảng bá rộng rãi kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng là điều hết sức quan trọng và không nên xem nhẹ vì người ta chỉ có thể tham gia “cuộc chơi” khi mà họ tin rằng mình đã hiểu “luật chơi” và biết cách tự mình giành chiến thắng trong “cuộc chơi” đó. Theo điều tra của ủy ban chứng khoán Nhà nước, công chúng cho rằng: tuy thị trường chứng khoán còn là một lĩnh vực mới mẻ, chứa đựng nhiều rủi ro nhưng cũng không phải là ít tiềm năng đáng trông đợi. Đa số các nhà đầu tư là tổ chức, cho dù có hay không có ý định huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán, đều mong muốn có được hiểu biết về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Đối với nhà đầu tư cá nhân, phần lớn đều chưa qua đào tạo kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán nên nhu cầu về đào tạo là rất lớn. Ngoài ra, các thông tin về chứng khoán và thị trường chứng khoán mà công chúng tiếp nhận được chủ yếu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các buổi nói chuyện chuyên đề nên hiểu biết của họ còn hạn chế: chỉ mới nghe nói về hoạt động chứ chưa hiểu biết được thậm chí cả những nguyên tắc cơ bản của chứng khoán và thị trường chứng khoán. Điều này phản ánh thực tế là công tác thông tin tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán chưa được triển khai mạnh mẽ và hiệu quả. Nhìn chung nhu cầu học hỏi kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán của các nhà đầu tư là rất lớn và để cho công chúng bắt kịp được sự phát triển của chứng khoán và thị trường chứng khoán thì ủy ban chứng khoán Nhà nước cần phối hợp với các cơ quan chức năng để tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán một cách có hiệu quả. ở cấp địa phương, ủy ban chứng khoán Nhà nước nên phối hợp với các ban ngành địa phương tổ chức các lớp phổ biến kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán, trong đó cần thức tỉnh cho các doanh nghiệp những ưu điểm và hạn chế khi tham gia huy động vốn trên thị trường này. Nếu việc làm này đạt kết quả tốt sẽ khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp cổ phần tham gia niêm yết trên thị trường, góp phần làm tăng nguồn cung cho thị trường chứng khoán, tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành. ở quy mô lớn hơn, chúng ta phải có biện pháp đẩy mạnh quá trình phổ biến kiến thức vào đông đảo các tầng lớp nhân dân trong nền kinh tế xã hội, đặc biệt phải khuyến khích các chương trình đào tạo về chứng khoán và thị trường chứng khoán, cũng như các khóa huấn luyện nâng cao cho lớp cán bộ khoa học đi đào tạo tại nước ngoài, cấp vốn cho các trung tâm nghiên cứu kinh tế về chứng khoán, qua đó tạo ra những hạt nhân giỏi, phục vụ quá trình nghiên cứu, tham mưu các vấn đề về ngành công nghiệp chứng khoán. 3.3.4 Đẩy mạnh cổ phần hóa. Tăng cung cho thị trường chứng khoán chính là tạo điều kiện cho công ty chứng khoán phát triển, và cổ phần hóa sẽ tạo thêm hàng hoá cho thị trường chứng khoán cũng như công ty chứng khoán. Tuy nhiên, hiện nay công tác cổ phần hóa chưa thực sự đem lại cho thị trường chứng khoán nhiều loại hàng hoá mà chỉ dừng lại ở con số rất khiêm tốn: 21 cổ phiếu và 43 trái phiếu. Nguyên nhân gây ra sự ách tắc trong công tác cổ phần hóa là: Về tư tưởng: các doanh nghiệp Nhà nước từ giám đốc đến người lao động đều muốn duy trì hình thức doanh nghiệp Nhà nước, không muốn chuyển đổi chế độ sở hữu bởi các vấn đề liên quan đến quyền lợi. Các doanh nghiệp Nhà nước vẫn được hưởng ưu đãi nhất định của Nhà nước, khi doanh nghiệp gặp khó khăn, thua lỗ sẽ được Nhà nước trợ giúp về nhiều mặt. Bản thân các giám đốc doanh nghiệp Nhà nước được bổ nhiệm đã quen với cơ chế cũ, ỷ lại Nhà nước. Chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần, các giám đốc không được thêm quyền lợi gì, thậm chí còn đứng trước nguy cơ bãi miễn do không đủ khả năng lãnh đạo. Hơn nữa, phải đối mặt với một môi trường kinh doanh mới, đầy rủi ro và cạnh tranh cao, một mô hình quản lý mới đòi hỏi tính công khai và cơ chế giám sát chặt chẽ, những giám đốc không năng động, ngại đổi mới thường tỏ ra thờ ơ với chủ trương cổ phần hóa của Nhà nước. Người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước có ít kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán, phần lớn họ quan tâm đến lợi ích trước mắt hơn là những lợi ích sẽ thu được nếu doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa. Tài sản của doanh nghiệp Nhà nước được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, việc xác định nguồn gốc và cách tính các nguồn vốn (vốn của Nhà nước và vốn tự có của doanh nghiệp) thường gặp nhiều khó khăn, do đó, tình trạng cùng một doanh nghiệp nhưng các cơ quan khác nhau đưa ra những kết quả định giá khác nhau là không ít. Vì vậy, việc xác định giá trị doanh nghiệp đã kéo dài thời gian cổ phần hóa. Khó khăn trong việc lựa chọn các doanh nghiệp, các lĩnh vực cổ phần hóa cũng làm giảm tiến độ cổ phần hóa. Các bộ, ngành, địa phương nếu chọn các doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả để tiến hành cổ phần hóa thì sẽ ảnh hưởng tới chỉ tiêu nộp ngân sách Nhà nước và nhiều lợi ích trực tiếp của họ. Thế nhưng, khi đưa ra các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, trang thiết bị lạc hậu, khả năng cạnh tranh kém để cổ phần hóa thì các nhà đầu tư lại không muốn mua cổ phần của các doanh nghiệp đó, làm chậm lại quá trình cổ phần hóa. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang kinh doanh khá hiệu quả, có thị trường xuất khẩu và thị trường nội địa ổn định, có công nghệ hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến lại không được phép cổ phần hóa. Để tháo gỡ những khó khăn trên, đồng thời tạo thêm hàng hoá cho thị trường phát triển thì Nhà nước cần phải: Tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt doanh nghiệp quốc doanh hay doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Điều này sẽ tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp Nhà nước, là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp Nhà nước phải đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới phương thức sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Coi cổ phần hóa là biện pháp bắt buộc trong việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, loại bớt các doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, không những làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước mà còn tạo được lòng tin ở các nhà đầu tư. Sự bắt buộc này phải được thực hiện trên cơ sở đã xem xét và phân tích kỹ lưỡng thực trạng từng doanh nghiệp trước khi quyết định. Đề ra những nguyên tắc cơ bản, tiêu chuẩn và tiêu chí cụ thể, thống nhất làm cơ sở để xác định giá trị doanh nghiệp. Cố gắng rút ngắn thời gian xem xét, định giá doanh nghiệp nhưng vẫn đảm bảo sự chính xác tương đối. Có thể thực hiện bán đấu giá doanh nghiệp ngay trên thị trường chứng khoán. Trong thời gian đầu, có thể tiến hành cổ phần hóa những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, hoạt động tương đối tốt, có tiềm năng và triển vọng sau khi cổ phần hóa. Cho phép cổ phần hóa một số doanh nghiệp hoặc bộ phận doanh nghiệp trong những ngành có nhịp độ tăng trưởng cao như: Tổng công ty đầu khí Việt Nam, tổng công ty điện lực Việt Nam, tổng công ty hàng không Việt Nam, tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam… Các công ty này có vị thế và quy mô lớn, hoạt động tương đối ổn định, hiệu quả cao có thể tạo ra được khối lượng chứng khoán lớn và có độ tin cậy cao trên thị trường Thực hiện thí điểm chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần để có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu, đây sẽ là những loại chứng khoán rất hấp dẫn các nhà đầu tư. Nếu thành công có thể nhân ra diện rộng. Kết luận ở Việt Nam, hiện tại các công ty chứng khoán đang còn trong giai đoạn đầu và còn nhiều bỡ ngỡ khi tham gia vào thị trường chứng khoán. Cho dù gặp không ít khó khăn trong hoạt động của mình nhưng các công ty cũng đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm để có thể phát triển tốt trong tương lai không xa. Từ những buổi đầu thành lập cho tới nay công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đã từng bước kinh doanh có hiệu quả và tạo được lòng tin nơi khách hàng cũng như lòng tin của công chúng đầu tư. Tuy nhiên, chặng đường trước mắt đối với công ty là rất khó khăn và đầy thử thách. Do đó, công ty cần phải có những bước đi cụ thể để tự mình vượt qua những khó khăn thử thách hướng tới sự phát triển vững mạnh. Qua thời gian nghiên cứu và thực tập tại công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, em đã hiểu phần nào các hoạt động kinh doanh và mạnh dạn đề ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Em mong rằng sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp của thầy cô, các cán bộ công ty để em có thể hoàn thiện đề tài của mình trong tương lại. Em xin chân thành cảm ơn! Tài liệu tham khảo Chứng khoán và thị trường chứng khoán- những kiến thức cơ bản-Tài liệu UBCKNN- Trung tâm nghiên cứu và bồi dưỡng hoạt động Luật áp dụng trong ngành chứng khoán - Tài liệu UBCKNN- Trung tâm nghiên cứu và bồi dưỡng hoạt động Tạp chí chứng khoán Việt Nam các số năm 2001, 2002, 2003 Tạp chí đầu tư chứng khoán các số năm 2001, 2002, 2003 Giáo trình thị trường chứng khoán- Trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29729.doc
Tài liệu liên quan