Luận văn Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực quảng cáo của Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2010

Trong tiến trình hội nhập, sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo là tất yếu. Thực tiễn những năm qua cho thấy, sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài đã đem lại rất nhiều lợi ích cho sự phát triển của ngành quảng cáo nước ta cũng như người tiêu dùng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế nói chung. Trong thời gian qua do các doanh nghiệp trong nước còn được sự bảo hộ của Nhà nước, nên họ chưa thực sự đầu tư vào con người, công nghệ để phát triển chất lượng dịch vụ quảng cáo và khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường ,vì vậy sự tham gia của các nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo nước ngoài có trình độ và kinh nghiệm sẽ thúc đẩy sự phát triển của môi trường cạnh tranh trong nước. Mặt khác, với xu thế toàn cầu hóa và hợp tác hóa như hiện nay việc mở cửa thị trường là một yêu cầu tất yếu đối với tất cả các quốc gia trong tất cả các lĩnh vực. Do đó, ngành quảng cáo sẽ không tránh khỏi xu thế chung đó. Với những yêu cầu cả về mặt chủ quan và khách quan đó thì trong thời gian tới, Việt Nam cần thiết phải mở rộng thị trường quảng cáo.

doc78 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1499 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực quảng cáo của Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g số 3000 doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam thì đại đa số là “lính đánh thuê”. Thường thì các công ty quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài hoạch định chiến lược. Nhưng bản thân họ không đủ nhân lực hoặc do các yếu tố hạn chế về pháp lý mà họ phải thuê tại các công ty quảng cáo Việt Nam để thực hiện chương trình quảng cáo. Thế nhưng, phần chất xám của họ lại dành được phần ngân sách đáng kể, còn phần thực thi của các công ty quảng cáo nội địa chỉ thu được phần doanh thu khá khiêm tốn. Do vậy, phần lớn doanh thu mà ngành quảng cáo thu được đã “chảy” vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 3.9. Về công tác quản lý nhà nước Việc phối hợp quản lý nhà nước giữa các cơ quan, cụ thể là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Văn hóa – Thông tin, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Văn hóa – Thông tin chưa được chặt chẽ. Trong khi cơ quan quản lý về đầu tư quan tâm nhiều đến việc thực hiện các quy định về ĐTNN, coi việc quản lý chuyên ngành là của cơ quan quản lý về quảng cáo thì cơ quan quản lý về quảng cáo lại cho rằng đây là dự án do Bộ KH&ĐT cấp phép, nên không đủ thẩm quyền kiểm tra, giám sát. 4. Một số vấn đề vướng mắc của các công ty quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Sau một thời gian thực hiện các dự án đầu tư, các dự án quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã tồn tại một số vướng mắc như sau: Một là: Ranh giới giữa dự án cung cấp dịch vụ quảng cáo và các dịch vụ liên quan khác: Theo Khoản 8, Điều 2, Nghị định 24/2003/NĐ-CP về quảng cáo, “Quá trình hoạt động quảng cáo là việc thực hiện chiến lược tiếp thị, xúc tiến quảng cáo, tư vấn quảng cáo, thực hiện ý tưởng quảng cáo, giới thiệu sản phẩm quảng cáo đến người tiêu dùng”. Như vậy, có thể hiểu hoạt động cung cấp dịch vụ quảng cáo được bắt đầu kể từ khi thực hiện chương trình tiếp thị cho đến khi giới thiệu sản phẩm quảng cáo đến người tiêu dùng. Điều này cũng có nghĩa là các dự án nghiên cứu thị trường, lập kế hoạch tiếp thị, chiến lược phát triển sản phẩm là những công đoạn trước của quá trình quảng cáo và do vậy không thuộc nhóm các dự án quảng cáo. Tuy vậy, trong thực tiễn một số dự án cung cấp dịch vụ nghiên cứu thị trường, lập kế hoạch, chiến lược tiếp thị, thiết kế tạo mẫu sản phẩm đã tham gia vào việc sáng tạo các mẫu phẩm quảng cáo. Công việc còn lại là đưa các mẫu phẩm quảng cáo đến công chúng thông qua phương tiện quảng cáo. Hai là: Giới hạn phạm vi mục tiêu hoạt động được phép của doanh nghiệp quảng cáo có vốn ĐTNN: mặc dù không có quy định cụ thể về các hoạt động mà doanh nghiệp cung cấp dịch vụ quảng cáo được thực hiện, nhưng trong các văn bản góp ý thẩm định dự án trước khi cấp phép, Bộ VH-TT luôn đề nghị không cho phép doanh nghiệp quảng cáo được trực tiếp ký hợp đồng với các phương tiện thông tin đại chúng, mà chỉ được phép thay mặt khách hàng đăng ký lịch quảng cáo. Điều này phát sinh bất cập là: · Doanh nghiệp đã được cung cấp dịch vụ quảng cáo nhưng không được ký hợp đồng, nên đã không thực hiện được đầy đủ các dịch vụ quảng cáo. Trong khi đó, khách hàng thường ký hợp đồng trọn gói với 1 công ty quảng cáo cho toàn bộ chiến dịch quảng cáo (thậm chí là chọn công ty quảng cáo toàn cầu làm đối tác chiến lược). Điều này buộc doanh nghiệp quảng cáo có vốn ĐTNN phải ký hợp đồng quảng cáo thông qua một công ty quảng cáo Việt Nam. · Về phương diện giao kết hợp đồng, thì theo công ty quảng cáo Hakuhodo & Quảng cáo Sài Gòn, sau khi các bên thoả thuận xong về việc đăng ký quảng cáo, tức là các điều khoản cơ bản của hợp đồng như giá cá, thời gian phát sóng, nội dung phát sóng… đã được giao kết. Khi đó, bản chất của hợp đồng đã được các bên thoả thuận, việc ký hợp đồng bằng văn bản chỉ là hình thức, thậm chí nếu một trong 2 bên vi phạm thoả thuận đăng ký quảng cáo thì vẫn bị phạt như vi phạm hợp đồng. Ngoài ra, đối với một số phương tiện thông tin đại chúng việc đăng ký quảng cáo phải thực hiện sau khi đã ký hợp đồng quảng cáo. Như vậy, căn cứ ý kiến Bộ Văn hóa - Thông tin, thì doanh nghiệp sẽ không thực hiện được hoạt động đăng ký lịch quảng cáo khi không được ký hợp đồng quảng cáo. Ba là: Các hạn chế về hình thức đầu tư: pháp luật VN quy định điều kiện về hình thức đầu tư đối với dự án cung cấp dịch vụ quảng cáo phải là hình thức liên doanh hoặc HĐHTKD, trong khi công ty quảng cáo hàng đầu trên thế giới không muốn chia sẻ quyền lợi và khách hàng với nhà đầu tư khác, nên một số công ty quảng cáo nước ngoài đã yêu cầu nhân viên tin cậy của mình thành lập doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam theo Luật Doanh nghiệp, sau đó hợp tác thành lập doanh nghiệp liên doanh hoặc HĐHTKD theo Luật ĐTNN. Xuất phát từ bất cập về phạm vi hoạt động nêu trên, một số công ty quảng cáo nước ngoài đã thông qua nhân viên của mình thành lập doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam để thực hiện việc ký hợp đồng với phương tiện thông tin đại chúng cũng như thực hiện các dịch vụ quảng cáo mà pháp luật Việt Nam còn hạn chế. Về mặt pháp lý, việc doanh nghiệp Việt Nam hợp tác với doanh nghiệp có vốn ĐTNN để thực hiện hoạt động này là không vi phạm pháp luật. Bốn là: Chuyển giá làm tăng chi phí kinh doanh, giảm lợi nhuận, tránh thuế thu nhập doanh nghiệp: Mặc dù chưa có bằng chứng cụ thể, nhưng việc một số dự án đã hoạt động từ lâu mà vẫn chưa có lãi, trong khi một số dự án khác lại có lãi ngay từ khi bắt đầu hoạt động; cộng thêm thực tế là dự án có khách hàng lớn, doanh thu cao, nhưng chi phí cũng quá lớn, làm phát sinh vấn đề cần xem xét, kiểm chứng là liệu các dự án quảng cáo có vốn ĐTNN có thực hiện việc chuyển giá giữa các công ty trong cùng tập đoàn làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận và tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đáng lẽ phải nộp tại Việt Nam hay không. Thanh tra Bộ Văn hóa - Thông tin đã thu thập tài liệu tài chính như báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán thuế, sổ phụ ngân hàng để xem xét. Tuy nhiên, để có thể giải quyết thấu đáo vấn đề này, cần có sự phối hợp với thanh tra tài chính. III. KẾT LUẬN VỀ THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO LĨNH VỰC QUẢNG CÁO CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA Sau hơn chục năm (kể từ năm 1995) các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo ở nước ta được triển khai, các dự án này đã góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ quảng cáo ở nước ta và đem lại những thành tưu đáng khích lệ cũng như những hạn chế nhất định. 1. Những thành tựu cơ bản Các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này đã đem lại những thành tựu đáng khích lệ cho ngành quảng cáo Việt Nam, điều đó được thể hiện dưới các măt sau: · Về chất lượng quảng cáo: Các ấn phẩm quảng cáo của các dự án đầu tư này có chất lượng cao, hấp dẫn và được xã hội chấp nhận. Không dừng lại ở chỗ cung cấp thông tin về sản phẩm đến người tiêu dùng, nhiều ấn phẩm quảng cáo đã trở thành biểu tượng hoặc đưa ra thông điệp khẳng định vị trí của mình trên thị trường. Đặc biệt, các ấn phẩm quảng cáo đã dần kết hợp được công nghệ, kỹ thuật hiện đại với những nét văn hoá đặc trưng của Việt Nam. · Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh: Việc tham gia của các nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo nước ngoài có trình độ và kinh nghiệm đã thúc đẩy sự phát triển của môi trường cạnh tranh trong nước. Trong thời gian qua, số lượng các doanh nghiệp quảng cáo trong nước đã tăng mạnh mẽ, chất lượng quảng cáo cũng tăng theo. Quan trọng hơn, các nhà quảng cáo trong và ngoài nước đã xây dựng mối quan hệ, hợp tác gắn bó. Đây cũng là một thực tế tất yếu, vì các nhà quảng cáo nước ngoài không thể phát triển nếu không hiểu va hợp tác với các doanh nghiệp trong nước, ngược lại các doanh nghiệp trong nước sẽ khó tiếp thu được công nghệ hiện đại nếu không hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài. · Thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu: Các ấn phẩm quảng cáo có chất lượng cao đã giúp các nhà sản xuất đưa sản phẩm của mình đến người tiêu dùng; đồng thời, người tiêu dùng cũng có đầy đủ thông tin hơn khi lựa chọn sản phẩm. Bên cạnh đó, các nhà quảng cáo nước ngoài đã thông qua mạng lưới toàn cầu của mình giới thiệu sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam đến với thị trường khu vực và thế giới. Điều này góp phần đáng kể vào việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam trong những năm qua. · Góp phần nâng cao trình độ của các nhân viên Việt Nam: Từ trước đến nay, tại Việt Nam vẫn chưa có một trường nào đào tạo nghề quảng cáo một cách chuyên nghiệp (từ năm 1999 khoa Marketing trường Đại học Kinh tế quốc dân đã mở lớp quản trị quảng cáo hệ đại học chính quy, tuy nhiên các kiến thức đào tạo còn rất khiêm tốn, mới chỉ được coi là bước đầu sơ khai), do vậy trong số hơn 50000 người làm trong lĩnh vực này thì con số chuyên nghiệp là rất ít, còn đa phần là thiếu kiên thức chuyên môn và kinh nghiệm. Do vậy, khi các nhà đầu tư quảng cáo nước ngoài vào Việt Nam, sẽ tạo cơ hội và điều kiện hết sức to lớn để các nhân viên quảng cáo của Việt Nam có thể học hỏi chuyên môn và kinh nghiệm thông qua việc tự học hỏi cũng như quy trình đào tạo nhân viên của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài này. 2. Những vấn đề tồn tại chủ yếu 2.1. Những vấn đề tồn tại Bên cạnh những tích cực nêu trên, đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo ở nước ta trong thời gian qua cũng đã bộc lộ một số hạn chế. Một là: Đến nay, nước ta mới chỉ thu hút được 10 dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này đến từ 8 quốc gia trên thế giới. Đây là một con số quá ít đối với một ngành có tiềm năng phát triển mạnh như quảng cáo. Đồng thời, mặc dù các dự án đều đến từ các nước mạnh và phát triển nhưng điều đó cũng chứng tỏ sự thiếu đa dạng và phong phú về các đối tác đầu tư, chúng ta đã bỏ qua những đối tác rất quan trọng như các đối tác quan trọng khác như các nước trong khu vực Đông Nam Á. Điều này một phần nào đã phản ánh khả năng vận động, xúc tiến đầu tư vào lĩnh vực quảng cáo của Việt Nam còn yếu. Hai là: Trong tống số 10 dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo ơ nước ta tính đến hết năm 2004 thì có tới 9 dự án đầu tư đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ có duy nhất một dự án tại Hà Nội và không có dự án nào ở các tỉnh. Điều đó thể hiện sự phát triển không đồng đều trong lĩnh vực quảng cáo giữa các tỉnh và thành phố ở nước ta, ngoài Thành phố Hồ Chí Minh thì các tỉnh thành khác vẫn chưa chú ý khai thác phát triển ngành này. Mặt khác, điều đó cho thấy công tác xúc tiến đầu tư của các tỉnh thành (ngoại trừ Thành phố Hồ Chí Minh) vẫn còn nhiều yếu kém. Ba là: Công tác quản lý nhà nước về quảng cáo vẫn chưa chặt chẽ và thống nhất giữa các bộ, ban, ngành. Đồng thời còn thiếu sự thống nhất trong các văn bản pháp luật về quảng cáo. Điều này đã gây lên những bất cập trong quá trình phê duyệt các dự án đầu tư cũng như trong quá trình thực hiện các dự án này. Ví dụ như các văn bản pháp luật vẫn chưa rõ ràng trong việc xác định ranh giới giữa các dự án cung cấp dịch vụ quảng cáo và các dịch vụ liên quan khác như các dự án nghiên cứu thị trường, lập kế hoạch tiếp thị… Hay như việc do không có sự quản lý, thanh tra chặt chẽ của các cơ quan chức năng mà trong thời gian qua đã có hiện tượng một số các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ở nước ta chuyển giá làm tăng chi phí kinh doanh, giảm lợi nhuận, tránh thuế thu nhập doanh nghiệp… Bốn là: Mặc dù không có quy định cụ thể về các hoạt động mà doanh nghiệp cung cấp dịch vụ quảng cáo được thực hiện, nhưng trong các văn bản góp ý thẩm định dự án trước khi cấp phép thì Bộ Văn Hóa – Thông Tin luôn đề nghị không cho phép doanh nghiệp quảng cáo được trực tiếp ký kết hợp đồng với các phương tiện thông tin đại chúng, họ phải ký hợp đồng quảng cáo thông qua một công ty quảng cáo Việt Nam. Điều này làm giảm lợi nhuận của các công ty quảng cáo, đây cũng là một sự cản trở thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo ở nước ta thời gian qua. Năm là: Hình thức đầu tư đối với các dự án cung cấp dịch vụ quảng cáo còn hạn chế. Các hình thức đầu tư chỉ bao gồm hình thức liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Đây cũng là mặt hạn chế cho việc thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này, vì nhiều nhà đầu tư trên thế giới họ muốn tìm địa điểm ở các nước để đầu tư nhưng mặt khác họ cũng không muốn chia sẻ lợi nhuận với các đối tác khác. 2.2. Nguyên nhân chính của những hạn chế trên Ngoài những hạn chế chung về môi trường đầu tư (thiếu chiến lược định hướng tổng thể thu hút đầu tư nước ngoài; kết cấu hạ tầng yếu kém; chi phí đầu vào cao…), những yếu tố dưới đây đã làm hạn chế đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực quảng cáo của nước ta thời gian qua. Một là: Quảng cáo là một ngành non trẻ và mới đi những bước đầu trong quá trình phát triển vì vậy đây là ngành được nhà nước bảo hộ. Với sự bảo hộ này, các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam chưa thực sự đầu tư vào con người, công nghệ để phát triển, vì vậy không đủ mạnh khi tham gia vào liên doanh với các đối tác nước ngoài. Ngoài ra sự bảo hộ của nhà nước trong lĩnh vực này còn thể hiện ở việc nhà nước hạn chế những hình thức đầu tư trong các dự án đầu tư nước ngoài, các dự án này chỉ được phép thành lập các doanh nghiệp liên doanh hay các hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hai là: Các văn bản pháp luật chưa theo kịp sự phát triển của hoạt động quảng cáo. Trong các văn bản pháp luật đã ban hành, vẫn còn có những nội dung chưa rõ ràng, và thống nhất. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm trong quá trình các dự án đầu tư được thực hiện vẫn chưa sâu sát, và chưa thống nhất chức năng quản lý giữa các bộ ngành, địa phương. Những điều trên là do sự thiếu hiểu biết và kinh nghiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực hoạt động này. Ba là: Công tác vận động, xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực quảng cáo của Việt Nam thời gian qua còn hạn chế. Chúng ta còn thiếu những hoạt động khuyến khích các nhà đầu tư nước ngòai khi họ muốn tìm hiểu thông tin trước khi chính thức tham gia, như việc thiếu các Website về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo, các thông tin về tình hình đầu tư các dự án trước… Ngoài ra Việt Nam chưa có chương trình xúc tiến đầu tư thống nhất giữa các vùng miền và còn thiếu sự hỗ trợ kịp thời cho các nhà đầu tư hiện đang có các dự án hoạt động, điều này đã gây ảnh hưởng xấu cho việc thu hút các đối tác khác. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO LĨNH VỰC QUẢNG CÁO CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 I. ĐỊNH HƯỚNG MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG, QUAN ĐIỂM VÀ NHU CẦU THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀO LĨNH VỰC QUẢNG CÁO CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2006 - 2010 Đến năm 2010, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng tới mục tiêu đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu đó, phát triển quảng cáo được xác định là một hướng chiến lược. Vì vậy, việc phát huy nội lực, tranh thủ nguồn lực bên ngoài đặc biệt là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để đầu tư phát triển ngành quảng cáo là vấn đề bức thiết đang được đặt ra. 1. Định hướng mở cửa thị trường quảng cáo Việt Nam trong quá trình gia nhập WTO Gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong thời gian qua, thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong hợp tác đa phương và song phương. Nước ta đã trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), đã ký Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ, Hiệp định khung với EU... Hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế đất nước như mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu kinh nghiệm quản lý và công nghệ tiên tiến, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Gia nhập WTO sẽ giúp chúng ta có được một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và minh bạch hơn, có sức hấp dẫn hơn đối với đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Gia nhập WTO cũng là thông điệp hết sức rõ ràng về quyết tâm cải cách của nước ta, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư khi bỏ vốn vào làm ăn tại Việt Nam. Ngoài ra, cơ hội tiếp cận thị trường của các thành viên WTO khác một cách bình đẳng và minh bạch theo hướng đúng chuẩn mực của WTO, cũng là một yếu tố quan trọng để thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đã xếp quảng cáo vào lĩnh vực đầu tư cần có sự bảo hộ của Nhà nước theo một lộ trình hợp lý. Theo cam kết, các nhà đầu tư nước ngoài được phép thành lập doanh nghiệp liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh với các đối tác Việt Nam được phép một cách hợp pháp kinh doanh các dịch vụ quảng cáo. Phần vốn góp của các nhà đầu tư nước ngoài trong liên doanh không được phép vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh. Sau 1 năm khi cam kết này có hiệu lực thì tỉ lệ này sẽ được tăng lên 51% và sau 5 năm cam kết có hiệu lực thì phần giới hạn này bị bãi bỏ. 2. Quan điểm thu hút FDI vào lĩnh vực quảng cáo của Việt Nam trong thời gian tới 2.1. Quan điểm phát triển ngành quảng cáo Việt Nam trong thời gian tới Để hoạt động quảng cáo phát triển vững mạnh, toàn diện, thoả mãn nhu cầu thông tin quảng cáo của xã hội, góp phần tích cực vào sự phát triển của kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta đã có quan điểm phát triển quảng cáo thành một ngành kinh tế quan trọng, thúc đẩy các ngành khác phát triển, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. · Đẩy mạnh phát triển tất cả các hình thức quảng cáo để quảng cáo trở thành một ngành chiểm tỷ trọng lớn trong khối ngành dịch vụ, tạo điều kiện thúc đẩy một số ngành kinh tế- xã hội liên quan cùng phát triển. · Phát triển quảng cáo nhanh và bền vững, tranh thủ khai thác mọi nguồn lực trong và ngoài nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế. Đa dạng hoá các hình thức quảng cáo và nâng cao chất lượng các sản phẩm quảng cáo. Từng bước đưa nước ta trơ thành một trung tâm quảng cáo có tầm cỡ khu vực, phấn đấu đến năm 2020 đưa quảng cáo Việt Nam vào nhóm các nước có ngành quảng cáo phát triển hàng đầu trong khu vực. · Mở rộng thị trường quảng cáo để ngành quảng cáo Việt Nam không chỉ bó hẹp việc phát triển thị trường trong nước mà còn “vươn” ra thị trường các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. 2.2. Quan điểm thu hút FDI vào lĩnh vực quảng cáo của Việt Nam trong thời gian tới · Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta trên tất cả các địa phương, tạo điều kiện cho ngành quảng cáo Việt Nam phát triển một cách toàn diện. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh thu hút FDI vào những địa bàn có nhiều lợi thế phát huy vai trò của vùng động lực, như Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. · Khuyến khích tất cả các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài từ tất cả các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào lãnh thổ Việt Nam, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng lớn về tài chính (Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Australia…) và nắm công nghệ nguồn từ các nước phát triển. 3. Một số dự báo về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành quảng cáo ở Việt Nam trong giai đoạn 2005 - 2010 Căn cứ vào tình hình thực hiện đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo giai đoạn vừa qua, đặc biệt là xu hướng đầu tư trong những năm gần nhất, cục đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch đầu tư) đã xác định các chỉ tiêu trong việc thu hút nước ngoài trong lĩnh vực này như sau: · Tổng vốn đăng ký của các dự án FDI trong lĩnh vực quảng cáo được cấp phép và dự án tăng vốn khoảng 15 triệu USD, trong đó vốn đăng ký của các dự án cấp mới là 12 triệu USD, các dự án tăng vốn đạt trên 3 triệu USD · Vốn đưa vào thực hiện bằng vốn đăng ký là 15 triệu USD. · Hàng năm đóng góp khoảng 60 tỷ VNĐ vào ngân sách nhà nước. II. CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO LĨNH VỰC QUẢNG CÁO CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2006 - 2010 Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể cả về trình độ, công nghệ và chất lượng của các ấn phẩm quảng cáo. Đóng góp không nhỏ vào sự phát triển đó của ngành quảng cáo Việt Nam trong thời gian qua là các công ty quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong thời gian qua việc thu hút đầu tư nước ngoài của nước ta vào lĩnh vực này vẫn chưa tốt, thể hiện qua số dự án đầu tư vào nước ta tính đến hết năm 2004 chỉ là 10 dự án. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực quảng cáo, trong giai đoạn 2006 - 2010 chúng ta cần có các giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào lĩnh vực này. 1. Hoàn thiện khung pháp lý về quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài 1.1. Sự cần thiết của giải pháp Trong những năm vừa qua, nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng cáo đã được ban hành, bao gồm Pháp lệnh Quảng cáo; Nghị định 194/NĐ- CP ngày 31/12/1994 của chính phủ về hoạt động quảng cáo trên lãnh thổ Việt Nam và Thông tư 37/VHTT- TT ngày 1/7/1995 hướng dẫn Nghị định này; Nghị định 24/2000/ NĐ - CP ngày 31/7/2000…Tuy vậy, cơ sở pháp lý về hoạt động quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chưa được quy định một cách đầy đủ, và rõ ràng. Điều này được minh chứng trong một vài bất cập sau. Bất cập đầu tiên là: Mặc dù các văn bản pháp luật đã cho phép nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư dưới hình thức liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để cung cấp dịch vụ quảng cáo tại Việt Nam, nhưng trong thực tiễn quản lý đầu tư, cơ quan quản lý Nhà nước về quảng cáo lại không cho phép các doanh nghiệp quảng cáo có vốn đầu nước ngoài ký hợp đồng trực tiếp với các phương tiện thông tin đại chúng, mà phải ký thông qua một công ty quảng cáo Việt Nam. Điều này không những không khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ để cạnh tranh với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mà còn tạo ra sự thụ động của các doanh nghiệp trong nước. Bất cập thứ hai: Trong các văn bản pháp luật về hoạt động quảng cáo của Việt Nam đã quy định điều kiện về hình thức đầu tư với các dự án cung cấp dịch vụ quảng cáo phải là hình thức liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong khi các công ty quảng cáo hàng đầu trên thế giới không muốn chia sẻ quyền lợi và khách hàng với các nhà đầu tư khác, vì vậy trong thực tế một số công ty quảng cáo nước ngoài đã yêu cầu nhân viên tin cậy của mình thành lập doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam theo Luật doanh nghiệp, sau đó hợp tác thành lập doanh nghiệp liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác liên doanh theo luật đầu tư nước ngoài. Hay như việc Mặc dù không có quy định cụ thể về các hoạt động mà doanh nghiệp cung cấp dịch vụ quảng cáo được thực hiện, nhưng trong các văn bản góp ý thẩm định dự án trước khi cấp phép thì Bộ Văn Hóa – Thông Tin luôn đề nghị không cho phép doanh nghiệp quảng cáo được trực tiếp ký kết hợp đồng với các phương tiện thông tin đại chúng, họ phải ký hợp đồng quảng cáo thông qua một công ty quảng cáo Việt Nam. Vì vậy, trong thực tế một số công ty nước ngoài cũng thông qua nhân viên của mình thành lập doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam để thực hiện việc ký kết hợp đồng với phương tiện thông tin đại chúng cũng như việc thực hiện các dịch vụ quảng cáo mà pháp luật Việt Nam còn hạn chế. Về mặt pháp lý, hành động này không vi phạm pháp luật Việt Nam, nhưng đó lại là kẻ hở để các nhà đầu tư nước ngoài có thể lách nhằm thu được những khoản lợi nhuận lớn hơn mà không phải chia sẻ. Bất cập thứ ba: Ranh giới giữa các dự án cung cấp dịch vụ quảng cáo và các dự án nghiên cứu thị trường, lập kế hoạch tiếp thị, chiến lược phát triển sản phẩm chưa rõ ràng, dẫn đến trong thực tế vẫn có sự nhầm lẫn giữa các loại này. Vì vậy trong thời gian tới, để tránh những bất cập nêu trên và tăng cường thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này đòi hỏi Việt Nam phải có những sửa đổi cũng như hoàn thiện hơn các văn bản pháp luật. 1.2. Nội dung giải pháp Một là: Hiện nay một quảng cáo trước khi được đưa ra trên các phương tiện truyền thông đều phải được các phương tiện truyền thông kiểm tra trước khi phát hành để xác định tính văn hóa của quảng cáo cũng như theo đúng những quy định của pháp luật. Vì vậy, trong thời gian tới các cơ quan chức năng cần ban hành các văn bản cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu đầu tư nước ngoài được ký kết hợp đồng trực tiếp với các phương tiện truyền thông để tránh những bất cập không đáng có như đã nêu ở trên. Hai là: Cần ban hành các văn bản quy định, cũng như các văn bản hướng dẫn về ranh giới hoạt động giữa các dự án cung cấp dịch vụ quảng cáo và các dịch vụ liên quan khác một cách rõ ràng và minh bạch, nhằm tránh sự lấn sân lẫn nhau. Ba là: Các nhà ban hành luật cần phải xem xét, nghiên cứu tình hình phát triển của ngành quảng cáo trong nước, cũng như cập nhập xu thế của ngành quảng cáo trên thế giới để có thể đưa ra các quy định nhanh và phù hợp nhất. Bốn là: Để phù hợp với các nguyên tắc của Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) khi Việt Nam gia nhập, cần ban hành văn bản thống nhất hướng dẫn cụ thể về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo phù hợp với Luật Đầu tư và Luật doanh nghiệp cũng như pháp luật có liên quan. Tóm lại, để phù hợp với tình hình phát triển của nền kinh tế - xã hội và các văn bản pháp luật hiện hành, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi chúng ta cần phải có những bước chuẩn bị cho công tác sửa đổi, bổ sung các điều luật về quảng cáo, đặc biệt là các điều luật về quảng cáo có yếu tố nước ngoài, hướng tới xây dựng Luật Quảng Cáo nhằm tạo điều kiện phát triển vững mạnh nền quảng cáo của Việt Nam. 2. Tăng cường công tác quản lý đối với các dự án cung cấp dịch vụ quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài 2.1. Sự cần thiết của giải pháp Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực quảng cáo là nhiệm vụ thường xuyên của cơ quan quản lý nhà nước. Tuy nhiên, trong thời gian qua công tác thanh tra lĩnh vực này đặc biệt trong những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chưa được quan tâm sâu sát. Điều đó đã thể hiện ở những vấn đề còn tồn tại, chưa được giải quyết trong thời gian qua, cụ thể là: Tuy không phổ biến nhưng đã có dự án mặc dù chưa được phép thực hiện mục tiêu cung cấp dịch vụ quảng cáo, nhưng đã trực tiếp hoặc gián tiếp (như thông qua công ty Việt Nam do chính nhân viên của mình thành lập) để tiến hành kinh doanh quảng cáo tại Việt Nam. Điều này đã gây phản ứng từ phía các doanh nghiệp quảng cáo trong nước cũng như nước ngoài. Ngoài ra, mặc dù chưa có bằng chứng cụ thể, nhưng việc một số dự án đã hoạt động từ lâu mà vẫn chưa có lãi như công ty liên doanh TNHH Saatchi & Saatchi Việt Nam, trong khi một số các dự án khác lại có lãi ngay từ khi bắt đầu hoạt động. Cộng thêm thực tế là dự án có khách hàng lớn, doanh thu cao nhưng chi phí cũng quá lớn, làm phát sinh vấn đề cần xem xét, kiểm chứng là liệu các dự án quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài có thực hiện việc chuyển giá giữa các công ty trong cùng tập đoàn làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận và tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đáng lẽ phải nộp tại Việt Nam hay không. Nguyên nhân cơ bản của những bất cập trên là do các cơ quan quản lý nhà nước còn thiếu hiểu biết và kinh nghiệm trong lĩnh vực này; Công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật còn yếu; Và công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý chưa được chú trọng. Do đó, các vi phạm của các doanh nghiệp quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chưa được xử lý nghiêm túc và kịp thời. Vì vậy, nhằm hạn chế những hạn chế nêu trên, chúng ta cần phải có những giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý đối với các dự án cung cấp dịch vụ quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài. 2.2. Nội dung của giải pháp Một là: Cần tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về quảng cáo và pháp luật có liên quan đồng thời nâng cao khả năng tổ chức thực hiện về quản lý nhà nước. Để làm được điều đó, một giải pháp rất hữu ích là hàng năm chúng ta cần mở các lớp đào tạo cho các cán bộ quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, cụ thể là các nhân viên, các thanh tra thuộc Bộ Văn hóa – Thông tin, cũng như các nhân viên ở cấp dưới (Sở, phòng Văn hóa – Thông tin). Ngoài ra, hàng năm chúng ta có thể mở những cuộc thi nhằm nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý nhà nước trong lĩnh vực quảng cáo qua đó sẽ khuyến khích sự nghiên cứu học hỏi cũng như tinh thần trách nhiệm của họ. Hai là: Thường xuyên tiến hành kiểm tra, thanh tra việc thực thi pháp luật của các doanh nghiệp quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài. Hàng năm Bộ Văn hóa – Thông tin, cũng như các Sở Văn hóa – Thông tin cần tổ chức những cuộc kiểm tra định kỳ, khoảng 6 tháng một lần, ngoài ra cũng nên tổ chức những cuộc kiểm tra đột xuất nhằm đánh giá chính xác nhất hoạt động của các doanh nghiệp này. Trong quá trình kiểm tra, nếu có sai phạm được phát hiện thì cần phải xử lý nghiêm khắc, đúng người đúng tội. Đồng thời, những người quản lý cũng cần phải lắng nghe và giải quyết thấu đáo những thắc mắc của các doanh nghiệp. Ba là: Cần phải chú trọng hơn nữa sự phối hợp với các cơ quan chức năng, các bộ và các phòng ban, nhằm đảm bảo một môi trường cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh giữa các doanh nghiệp, tiến tới xây dựng một ngành quảng cáo ổn định và quảng cáo tại Việt Nam. Thực hiện tốt những giải pháp trên sẽ góp phần giúp cho công tác quản lý của nước ta trong lĩnh vực quảng cáo ngày càng tiến bộ và phát triển, đáp ứng được nhu cầu hội nhập sắp tới. Điều này góp phần tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài về một môi trường đầu tư trong sạch và bình đẳng. 3. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư 3.1. Sự cần thiết của giải pháp Sau 20 năm thực hiện việc thu hút đầu tư nước ngoài, chúng ta đều nhận thấy được tầm quan trọng của công tác vận động và xúc tiến đầu tư như thế nào. Thông qua xúc tiến đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ nhận thấy được mức độ hấp dẫn, cũng như thái độ có nồng nhiệt hay không của những nước thu hút đầu tư, qua đó họ sẽ đưa ra những quyết định ban đầu của mình. Tuy nhiên, ngành quảng cáo ở Việt Nam thời gian qua vẫn chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng đó của công tác này. Điều đó được thể hiện rất rõ, đó là tính đến hết năm 2004 cả nước ta mới thu hút được10 dự án đầu tư trong lĩnh vực này. Các dự án thì không phân bổ đều giữa các địa phương mà chỉ chủ yếu tập trung ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trong suốt quá trình thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này chưa có một địa chỉ chính thức trên các phương tiện thông tin đại chúng nào cung cấp những thông tin cho mọi người khi muốn tìm hiêu về tình hình các các dự án đó ra sao, cũng như những chính sách ưu đãi khi đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo ở nước ta. Vì vậy, trong thời gian tới Việt Nam cần phải đẩy mạnh công tác vận động và xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực quảng cáo để nó trở thành một công cụ hữu hiệu chỉ cho các nhà đầu tư nước ngoài thấy những cơ hội và triển vọng hấp dẫn khi đầu tư vào ngành quảng cáo của Việt Nam. 3.2. Nội dung của giải pháp Công tác vận động, xúc tiến đầu tư cần phải được đổi mới cả về nội dung và phương thức thực hiện, theo một kế hoạch và chương trình chủ động, có hiệu quả, không thụ động ngồi chờ vì đã đến thời kỳ các nhà đầu tư nước ngoài chọn nước đầu tư chứ không phải ngược lại. Một số biện pháp chúng ta cần làm đó là: Một là: Tăng cường cải cách thủ tục hành chính trong việc thẩm định dự án, cấp giấy phép, quản lý hoạt động và sử dụng vốn nước ngoài ở nước ta. Vấn đề hiện nay là vẫn còn kha nhiều thủ tục rườm rà và nhiều “cửa” mà các chủ dự án đầu tư phải thông qua trước khi nhận được câu trả lời có chấp nhận hay không. Vì vậy, đề xuất được đưa ra cho tình trạng này là chúng ta cần thực hiện chính sách “một cửa” trong việc phê duyệt và thẩm định dự án, đó là Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Khái niệm “một cửa” ở đây không có nghĩa là phủ nhận tính nhiều công đoạn của quá trình thẩm định với sự tham gia của các cơ quan hành chính chức năng mà nó chỉ hàm nghĩa về tính “trọn gói” mà một cơ quan đứng ra chịu trách nhiệm lo toàn bộ các thủ tục thẩm định và phê duyệt thay cho việc chủ dự án phải chạy khắp mọi cửa với đủ thứ thủ tục giải trình, xin phê duyệt dự án. Điều đó có nghĩa là, khi một nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam thì họ chỉ cần thông qua Cục đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư để họ xem xét, giải quyết và lo toàn bộ thủ tục cho dự án đó. Điều này sẽ tạo sự an tâm cho nhà đầu tư nước ngoài khi họ tham gia vào đầu tư trong lĩnh vực này ở nước ta, tránh những phiền hà không cần thiết. Hai là: Bộ Kế hoạch – Đầu tư và Bộ Văn Hóa - Thông tin cần phối hợp với nhau nghiên cứu luật pháp, chính sách và biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo ở các nước trong khu vực cũng như trên thế giới để kịp thời có những đối sách thích hợp. Cần tập trung, chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời các nhà đầu tư hiện đang có dự án hoạt động, giúp họ giải quyết tốt các vấn đề phát sinh, đây cũng là một biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng để vận động có hiệu quả và có sức thuyết phục nhất đối với các nhà đầu tư mới. Ba là: Nhà nước cần mở rộng giới hạn chi phí quảng cáo của doanh nghiệp từ không quá 10% doanh thu như hiện nay lên 30%, hoặc chia làm hai phần: - Phần một: chi phí quảng cáo trực tiếp (quảng cáo trên báo chí, bảng, biển…) tối đa bằng 20%. - Phần hai: Chi phí quảng cáo gián tiếp (khuyến mại, thiết kế vật phẩm quảng cáo, tổ chức hội nghị, hội thảo giới thiệu) tối đa bằng 10% doanh thu. Như vậy, thị trường quảng cáo nước ta mới thực sự “béo bở” để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trong lĩnh vực này. Bốn là: Bộ Văn hóa – Thông tin cần phối hợp với Bộ Ngoại giao thành lập các văn phòng đại diện xúc tiến đầu tư ở nước ngoài. Tại các văn phòng đại diện này cần thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo và triển lãm về ngành quảng cáo ở nước ta, giới thiệu về tiềm năng của ngành cũng như những chính sách ưu đãi các nhà đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Đồng thời, cần kết hợp với những địa phương cũng như chính phủ các nước có các văn phòng đại diện đó để tranh thủ sự ủng hộ, hợp tác và giúp đỡ trong việc tìm kiếm các đối tác. Năm là: Cần xây dựng một Website riêng cho ngành quảng cáo. Hiện nay, trong Website của Bộ Văn hóa – Thông tin cũng có những thông tin về quảng cáo, nhưng rất sơ sài và gần như không có mấy nội dung nào mà các đối tác đầu tư nước ngoài có thể tham khảo được. Do vậy việc xây dựng một Website riêng là rất cần thiết. Trên Website này chung ta cần thường xuyên cập nhập thông tin về tình hình ngành quảng cáo Việt Nam, xu hướng phát triển, cũng như tình hình thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài đã và đang triển khai thực hiện ở Việt Nam thời gian qua. Thông qua Website chính thức này, Nhà nước cần có những thông tin về định hướng đầu tư, dự báo thị trường, hỗ trợ thông tin giúp các nhà đầu tư yên tâm hơn khi đầu tư vào lĩnh vực này. Việc thay đổi các chính sách cũng cần phải được phổ biến sớm và rộng rãi tới tất cả các doanh nghiệp để họ có thể dự đoán trước và hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực. Với những chính sách khuyến khích như trên, hi vọng Việt Nam sẽ là điểm dừng chân lâu dài cũng như điểm đến lý tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến lĩnh vực quảng cáo. 4. Khuyến khích các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam tham gia liên doanh, nâng cao trình độ cho đối tác Việt Nam 4.1. Sự cần thiết của giải pháp Khi tham gia vào thị trường quảng cáo Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài phải chịu một ràng buộc là chỉ được phép thành lập các doanh nghiệp liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh với một doanh nghiệp quảng cáo của Việt Nam. Vì vậy, một vấn đề rất được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đó là trình độ (cả vể công nghệ, kinh nghiệm và các mối quan hệ), cũng như những hiểu biết về chính thị trường quảng cáo nước mình của đối tác. Nếu các nhà đầu tư tìm được một đối tác có đầy đủ các yếu tố đó, thì họ sẽ hoàn toàn yên tâm phát triển và xây dựng thương hiệu của mình tại Việt Nam vì họ sẽ không phải dò dẫm hay thử nghiệm những bước đi đầu tiên mà có thể yên tâm đầu tư phát triển vì ít ra họ cũng có những khách hàng thân tín, cũng như những mối quan hệ của đối tác. Đồng thời, việc thu hút nước ngoài vào đầu tư trong lĩnh vực quảng cáo ở nước ta cũng nhằm một mục đích cuối cùng là xây dựng một nền quảng cáo Việt Nam phát triển đi đôi với giữ gìn những nét đẹp trong văn hóa của Việt Nam. Với những lý do trên, Việt Nam cần phải có những chính sách khuyến khích những doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam tham gia liên doanh để nâng cao trình độ, góp phần phát triển một nền quảng cáo Việt Nam tiên tiến trong tương lai. 4.2. Nội dung của giải pháp Để làm được điều đó, chúng ta cần một số biện pháp: Một là: Trong thời gian tới, chúng ta cần hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp trong nước phát triển. Một vài biện pháp nhằm giúp cho các doanh nghiệp quảng cáo trong nước phát triển đó là: - Phải có quy hoạch phát triển các doanh nghiệp này, tránh sự ra đời ồ ạt làm cho thị trường mất giá. - Bỏ quy định “trói buộc” hiện này về giới hạn tỷ lệ chi phí quảng cáo không cao hơn 10% doanh thu của các doanh nghiệp. Đây là rào cản đáng kể để các doanh nghiệp quyết định chiến lược quảng cáo. Rõ ràng với chi phí hạn hẹp, nhiều doanh nghiệp buộc lòng phải tự thực hiện quảng cáo để tiết kiệm chi phí, thay vì thuê các công ty chuyên nghiệp. - Cần xem xét về tỷ lệ không chế diện tích quảng cáo trên báo chí 10% như hiện nay. Bộ Văn hóa – Thông tin hiện nay cho phép các cơ quan báo chí có thể xin ra thêm phụ trương quảng cáo. Nhưng đối với các doanh nghiệp, việc nhét quảng cáo của mình vào giữa phụ trương này coi như “ném tiền qua cửa sổ”. Nên chăng hãy để cho độc giả quyết định tỷ lệ phần trăm quảng cáo nào là hợp lý. - Các văn bản pháp quy là cần thiết nhưng cần phải cần cập nhập nhanh hơn và thường xuyên hơn, giúp cho các doanh nghiệp quảng cáo yên tâm làm việc. Hai là: Bộ Văn hoá - Thông tin, và đặc biệt là Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam cần khuyến khích cũng như tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tìm đối tác nước ngoài . Xem xét việc hợp nhất một số doanh nghiệp quảng cáo trong ngành thành một doanh nghiệp lớn, đủ sức làm đối tác trong các dự án có vốn FDI lớn, bảo đảm quyền lợi cho phía Việt Nam. Chúng ta cần khuyến khích các doanh nghiệp lớn trong nước chủ động tham gia làm đối tác trong nhiều dự án, nhằm xây dựng thương hiệu của mình ngày càng mạnh hơn. Đồng thời, chúng ta cũng cần tăng tỷ lệ góp vốn tổi thiểu của bên Việt Nam (hiện nay tỷ lệ tối thiểu này là 30%) lên một mức cao hơn để các doanh nghiệp Việt Nam khẳng định được vai trò của mình khi tham gia làm đối tác. Với những biện pháp trên, chúng ta hi vọng trong một tương lai không xa Việt Nam sẽ có nhiều doanh nghiệp quảng cáo lớn đủ sức tham gia liên doanh với các đối tác nước ngoài góp phần xây dựng một nền quảng cáo phát triển ở nước ta, đi đôi với việc giữ gìn bản sắc dân tộc. 5. Chú trọng công tác đào tạo lao động làm việc trong lĩnh vực quảng cáo 5.1. Sự cần thiết của giải pháp Tìm hiểu sự phát triển của ngành công nghiệp quảng cáo các nước, chúng ta thấy vấn đề đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho ngành quảng cáo luôn được quan tâm đặc biệt. Như trường hợp của Singapore, họ đã đầu tư hơn 5 triệu USD để xây dựng truyền thông quảng cáo thuộc Đại học quốc gia Nan Yang. Việc phát triển các khoá đào tạo quảng cáo ở đây đã có từ những thập niên 1950. Ở Hàn Quốc, chỉ riêng Học viện Quảng cáo KOBACO ra đời từ năm 1987 đến nay đã giúp đào tạo hơn 19000 lượt học viên. Lực lượng đào tạo bài bản và có chất lượng này đã đóng góp không nhỏ vào việc tạo ra 5,5 tỷ USD doanh thu toàn ngành quảng cáo năm 2003 của Hàn Quốc. Theo số liệu của Hiệp hội Quảng cáo Trung Quốc (CAA 2004), năm 1980 Trung Quốc chỉ có 2300 công ty quảng cáo thì đến nay đã có hơn 90.000 công ty hoạt động với tổng nguồn nhân lực của ngành công nghiệp vượt trên 800.000 người. Vấn đề đào tạo nhân lực đáp ứng được cho nhu cầu và tốc độ tăng trưởng của ngành quảng cáo Trung Quốc trong những năm qua cũng luôn là vấn đề bức xúc và nan giải. Trong khi đó ở Việt Nam hiện có 3000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực quảng cáo nhưng nhân lực được đào tạo chuyên nghiệp làm trong lĩnh vực này lại chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Đây cũng là một rào cản cản trở các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trong lĩnh vực này ở nước ta, vì khi họ đầu tư vào đây thì họ thiếu lao động để có thể tuyển dụng vào làm việc trong những doanh nghiệp của mình, khi đó họ phải bỏ ra một số tiền lớn để thuê những người làm quảng cáo chuyên nghiệp ở nước ngoài làm việc cho họ, cũng như để đào tạo lại nguồn nhân lực. Vì vậy, từ kinh nghiệm ở các nước và thực tiễn Việt Nam, chúng ta cần phải tìm ra những giải pháp đào tạo trước mắt cũng như lâu dài nguồn nhân lực phục vụ cho ngành này. 5.2. Nội dung của giải pháp Một số biện pháp cụ thể được đưa ra, đó là: - Các trường Đại học quốc gia, Đại học chuyên ngành tiếp thị, Mỹ thuật công nghiệp của chúng ta cần sớm hình thành các khoa quảng cáo nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo của các doanh nghiệp trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập. - Cần xây dựng một mối quan hệ hợp tác hiệu quả giữa ngành công nghiệp quảng cáo với các trường đại học chuyên ngành để hỗ trợ cho công tác đào tạo. - Trong giai đoạn trước mắt có thể xây dựng các chương trình đào tạo ngắn hạn với giáo trình theo tiêu chuẩn quốc tế nhưng được biên soạn phù hợp với thị trường Việt Nam. Nhằm trang bị những kiến thức nền tảng, hệ thống về quảng cáo hiện đại cho những người đang và sẽ làm việc trong ngành, các chương trình này gồm: + Đại cương về truyền thông tiếp thị tích hợp. + Quản trị thương hiệu. + Quản trị dịch vụ khách hàng công ty quảng cáo. + Truyền thông sáng tạo. + Dịch vụ Media. + Viết quảng cáo. + Quan hệ công chúng… Chúng ta cần nghiên cứu đề án thành lập Học viện Quảng cáo Việt Nam để hỗ trợ cho công tác giảng dạy nghiên cứu. Ngoài những biện pháp trên, trước mắt chúng ta cần mở các lớp tập huấn ngắn hạn đào tạo lại về nghiệp vụ quảng cáo cho các doanh nghiệp, cũng như có những chương trình hợp tác quốc tế trong đào tạo về quảng cáo với các nước có ngành quảng cáo phát triển. Cùng với sự phát triển của đất nước và với tài trí của người Việt Nam đã thể hiện rất thành công qua những chiến dịch quảng cáo sáng tạo mang đậm bản sắc văn hoá Việt Nam, chúng ta hy vọng những giải pháp đào tạo hiệu quả nhằm phát triển nguồn nhân lực cho ngành quảng cáo Việt Nam sẽ sớm thành hiện thực. 6. Mở cửa thị trường quảng cáo 6.1. Sự cần thiết của giải pháp Trong tiến trình hội nhập, sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo là tất yếu. Thực tiễn những năm qua cho thấy, sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài đã đem lại rất nhiều lợi ích cho sự phát triển của ngành quảng cáo nước ta cũng như người tiêu dùng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế nói chung. Trong thời gian qua do các doanh nghiệp trong nước còn được sự bảo hộ của Nhà nước, nên họ chưa thực sự đầu tư vào con người, công nghệ để phát triển chất lượng dịch vụ quảng cáo và khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường ,vì vậy sự tham gia của các nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo nước ngoài có trình độ và kinh nghiệm sẽ thúc đẩy sự phát triển của môi trường cạnh tranh trong nước. Mặt khác, với xu thế toàn cầu hóa và hợp tác hóa như hiện nay việc mở cửa thị trường là một yêu cầu tất yếu đối với tất cả các quốc gia trong tất cả các lĩnh vực. Do đó, ngành quảng cáo sẽ không tránh khỏi xu thế chung đó. Với những yêu cầu cả về mặt chủ quan và khách quan đó thì trong thời gian tới, Việt Nam cần thiết phải mở rộng thị trường quảng cáo. 6.2. Nội dung giải pháp Một là: Việt Nam cần phải mở rộng thị trường quảng cáo theo lộ trình đã cam kết, mà cụ thể là dựa trên cam kết nền đã ký với Hoa kỳ, và cam kết trong quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam để đảm bảo nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tức là hết thời hạn 5 năm kể từ khi bản cam kết gia nhập WTO của Việt Nam có hiệu lực, các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo tại Việt Nam sẽ không chịu ràng buộc giới hạn về vốn pháp định. Hai là: Khuyến khích tất cả các đối tác nước ngoài thuộc tất cả các quốc gia trên thế giới tham gia vào lĩnh vực này của Việt Nam. Cho phép các đối tác nước ngoài được phép thành lập tại Việt Nam các công ty quảng cáo dưới nhiều hình thức khác nhau. Đặc biệt trong tương lai và về lâu dài chúng ta cần quan tâm hơn đối với các công ty xuyên quốc gia vì đó là nguồn quốc tế lớn về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý mà chúng ta rất cần khai thác. Tuy nhiên để khai thác được họ hoàn toàn không phải là vấn đề đơn giản, đòi hỏi phải có chiến lược, sách lược đúng đắn trên cơ sở cùng có lợi. Với những biện pháp nhằm mở rộng thị trường quảng cáo, chúng ta hi vọng ngành quảng cáo Việt Nam sẽ ngày càng phát triển để trở thành một trong những quốc gia hàng đầu khu vực trong lĩnh vực này, cũng như nâng tầm quảng cáo Việt Nam trên trường quốc tế. III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực quảng cáo của Việt Nam trong giai đoạn 2006- 2010”, với mong muốn góp một phần ý kiến nhỏ bé của mình vào tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo thời gian tới, nhằm xây dựng ngành quảng cáo Việt Nam vững mạnh và phát triển ,phấn đấu đến năm 2020 trở thành một trong những quốc gia phát triển hàng đầu trong khu vực về lĩnh vực này, em đưa ra một vài kiến nghị như sau: Một là: Nhà nước cần nhanh chóng ban hành luật cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được thành lập các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực này, nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, góp phần xây dựng ngành quảng cáo nước nhà. Hai là: Tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp quảng cáo trong nước nâng cao nội lực cạnh tranh. - Nhà nước cần mở rộng giới hạn chi phí quảng cáo của doanh nghiệp từ 5% đến 30%. - Quy định mức dịch vụ phí sàn thấp nhất bằng 5% cho tất cả các dịch vụ quảng cáo. Khi đó, các doanh nghiệp quảng cáo trong nước có thể thu được lợi nhuận cao hơn, đồng thời đầu tư tái sản xuất ngày càng cao. - Xây dựng chương trình “Chất lượng thương hiệu Việt Nam- Sản phẩm Việt Nam” giúp các doanh nghiệp trong nước nhận thức đúng tầm quan trọng của thương hiệu mạnh, làm thế nào để thúc đẩy bán hàng, không chỉ ở trong nước mà còn phải mở rộng ra khu vực và thế giới. Với những nỗ lực nhằm nâng cao nội lực cạnh tranh của các doanh nghiệp quảng cáo trong nước như trên, sẽ tạo sự yên tâm và thiện chí cho các nhà đầu tư nước ngoài khi họ ra quyết định đầu tư. Ba là: Chúng ta cần chuyên nghiệp hoá nghề quảng cáo. - Tổ chức các chương trình chính khoá đào tạo các môn liên quan đến quảng cáo (Ví dụ: đưa tiếp thị và quảng cáo vào giảng dạy ở Đại học Kinh tế quốc dân, môn văn hoá và quảng cáo ở Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn...) - Tổ chức những cuộc thi, diễn đàn, triển lãm về quảng cáo. Những nỗ lực trên góp phần đào tạo cho ngành quảng cáo Việt Nam một đội ngũ chuyên nghiệp, đồng thời góp phần tuyên truyền sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân về ích lợi của quảng cáo. Bốn là: Việt Nam nhất thiết phải ban hành Luật Quảng cáo. Luật quảng cáo nên điều chỉnh quan hệ giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng làm căn bản, vì người tiêu dùng của sản phẩm này có thể sẽ là nhà sản xuất ra sản phẩm khác và ngược lại. Đồng thời, luật cũng cần quy định tạo thuận lợi cho ngành quảng cáo của Việt Nam phát triển. KẾT LUẬN Sau 20 năm đổi mới, chúng ta đều thấy sự phát triển cả về chất và lượng của dịch vụ quảng cáo tại Việt Nam, mà góp phần quan trọng cho sự phát triển đó là vai trò của các doanh nghiệp quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài. Vì vậy, để tạo cơ sở cho sự phát triển vững mạnh của ngành quảng cáo Việt Nam trong tương lai, một mặt chúng ta cần hỗ trợ nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhưng đồng thời cũng cần tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực này thời gian tới. Hy vọng trong một tương lai không xa, nước ta sẽ là điểm đến của nhiều nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến lĩnh vực này, để ngành quảng cáo của nước ta thực sự phát triển, có thể khai thác tốt thị trường trong nước và hướng ra thị trường nước ngoài. Do thời gian và hiểu biết của em về lĩnh vực này còn hạn chế, nên trong đề tài sẽ không tránh khỏi những sai sót, vì vậy em rất mong nhận được ý kiên đóng góp của thầy cô và các bạn, cũng như các bạn đọc để luận văn của em tiếp tục được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo tình hình và giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài trong thời gian tới (Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư). 2. Báo cáo tóm tắt các dự án quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài thời gian qua (Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư). 3. Bộ văn hoá thông tin - Cục văn hoá thông tin cơ sở: “Các quy định của Pháp luật về hoạt động quảng cáo” (Hà Nội- 2005). 4. Bộ văn hoá thông tin - Cục văn hóa thông tin cơ sở: “Báo cáo sơ kết hoạt động quảng cáo và công tác quản lý nhà nước về quảng cáo sau ba năm thực hiện pháp lệnh quảng cáo”. 5. Đỗ Thị Tố Uyên (Đầu tư 41- Kinh tế quốc dân): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực khách sạn- du lịch Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” (Luận văn tốt nghiệp). 6. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. 7. Hiệp định tự do, khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa CHXHCN Việt Nam và Nhật Bản. 8. Ngân hàng thế giới: “Nghiên cứu về chiến lược xúc tiến FDI vào Việt Nam”. 9. Nguyễn Xuân Quỳnh (Kinh tế Phát triển 43- Kinh tế quốc dân): “Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ viễn thông Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010” (Chuyên đề thực tập). 10. Phan Thị Thu Trang (K38 - khoa Tài chính quốc tế - Học viện Tài chính): “Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo của Việt Nam” (Luận văn tốt nghiệp). 11. PGS.TS. Nguyễn Bích Đạt (Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu Tư): “Đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài và nhiệm vụ đặt ra đối với ngành Kế hoạch và Đầu tư” (Tạp chí Kinh tế và Dự báo (số 12/2005)). 12. Tài liệu hội thảo: “Hoạt động quảng cáo ở Việt Nam thực trạng và giải pháp phát triển”. 13. Tài liệu tiếng anh về sự gia nhập của Việt Nam vào WTO: “Accession of Viet Nam”. 14. Trang web của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: 15. Trang web của Cục văn hoá thông tin cơ sở: 16. Văn kiện Đại hội Đảng IX.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28159.doc
Tài liệu liên quan