Luận văn Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiên hội nhập kinh tế quốc tế

Do những bất cập trong việc xác định giá tính thuế đối với nhập khẩu những lô hàng chưa đủ điều kiện để áp giá tính thuế theo Quyết định149/2002/QD-BTC và giải pháp tạm thời của Tổng cục trưởng Tổng Cục Hải quan là giao cho các Cục Hải quan và Chi Cục Hải quan xác định giá tính thuế đối với những mặt hàng này, thẩm quyền định giá tuỳ thuộc vào giá trị của từng lô hàng và cho đây là biện pháp tạm thời, tình thê. Nhưng cứ tình thế nối tiếp tình thế như thế này thì bao giờ mới có được một giải pháp lâu dài cho việc xác định giá hàng để tính thuế khi những lô hàng mới mà các tổ chức kinh tế nhập về ngày càng nhiều, khi mà coi nó không phải là công việc hết sức quan trọng để bắt tay ngay vào thực hiện xây dựng giải pháp lâu dài. Theo em giải pháp tình thế chỉ có hiệu quả ngày ngày một ngày hai khi mọi chuyện chưa có sự thay đổi, biến động lớn. Nhưng rồi những ngày sau liệu có còn là những giải pháp tốt nữa chăng hay nó chính là những hậu quả mà không còn biện pháp tháo gỡ nữa. Vì thế, ngay từ bây giờ định giá tính thuế vẫn còn là vấn đề nóng trong các công việc của Ngành Hải quan, thì Bộ Tài chính nên xây dựng một bộ phận trực thuộc Ngành Hải quan như một đơn vị nhỏ chuyên về lĩnh vực xác định giá của hàng hoá nhập khẩu trong phạm vi toàn quốc. Khi đó cán bộ thuộc đơn vị này mới có điều kiện chuyên sâu mới có thời gian để nguyên cứu và thu thập thông tin về giá cả. Đồng thời có điều tra chính xác về giá hàng nhập khẩu.

doc90 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiên hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nếu giá ghi trên hợp đồng thấp hơn giá mua tối thiểu tại cửa khẩu theo bảng giá của cơ quan quản lý thuế ban hành. Quy định này tuy đã góp phần khuyến khích các doanh nghiệp thanh toán không dùng tiền mặt và chống trốn lậu thuế qua giá bán, những cũng gây ra những ảnh hưởng tiêu cực nhất định. Giá trong bảng giá tối thiểu do cơ quan quản lý thuế ban hành còn sai lệch so với thực tế ban hành quá chi tiết cho một số mặt hàng, quá cứng nhắc thường một năm hoặc nửa năm mới sửa đổi một lần, không phù hợp với tình hình biến động thực tế của thị trường. Vì vậy, giá tối thiểu thường chênh lệch lớn so với giá thị trường, thường thì giá thấp hơn giá thị trường từ 30-40%, có khi tới 50-60%. Chẳng hạn, các mặt như táo, lê mua tại cửa khẩu Trung Quốc khoảng 5 triệu đồng/tấn, nếu theo giá tối thiểu do cơ quan quản lý thuế quy định thì mức giá tính thuế nhập khẩu bị thất thoát rất lớn đối với những mặt hàng được áp giá tối thiểu loại này. -Theo quyết định 283/TCHQ/QĐ ngày 31/8/1998 về thuế áp giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu, nếu doanh nghiệp nhập khẩu theo hợp đồng ngoại thương thanh toán 100% qua ngân hàng thì được sử dụng giá ghi trên hợp đồng. Bởi quy định của Chính phủ là một tiểu chuẩn có tính chất pháp lý để các nhà sản xuất nước ngoài làm căn cứ trong kinh doanh với các doanh nghiệp Việt Nam sao có lợi nhất, quy định trên tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu mặc cả về giá cả với đối tác nước ngoài, qua đó làm các doanh nghiệp và người tiêu dùng trong nước được hưởng lợi, mặt khác, tiết kiệm nguồn ngoại tệ hạn hẹp cho đất nước. Bên cạnh mặt ưu khi phân tích sử dụng phương thức này của chính sách thuế nhập khẩu đó là thực tế, thực tế khi đem chính sách này áp dụng thì nó không hoàn toàn tốt đẹp bởi nó còn phụ thuộc vào người hướng dẫn thi hành, và những đối tượng bị điều chỉnh bởi chính sách này. Đúng vậy, các chủ hộ kinh doanh một mực thoả thuận với bên nước ngoài trả một phần lớn hợp đồng bằng hình thức trực tiếp, mặt khác thông qua “tư cách pháp nhân” mua của các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu để thanh toán nốt phần còn lại cho đối tác nước ngoài bằng hình thức thanh toán qua ngân hàng. Song mức giá ghi trên hợp đồng thường thấp hơn nhiều so với mua bán thực tế và giá tính thuế tối thiểu. Do đó, một khối lượng lớn giá tính thuế nhập khẩu đã bị thất thu. Kể từ khi có Luật thuế ban hành ngày 26/12/1991, giá tính thuế đã được điều chỉnh nhiều lần nhưng đến hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, nguyên nhân chính ở đây là chính sách thuế nhập khẩu không theo kịp với với sự biến động, chuyển đổi của nền kinh tế. -Sự chậm trễ trong việc xác định giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu bởi chưa có sự xác định rõ ràng đối với từng nhóm hàng, tạo ra sự lúng túng cho các cán bộ Hải Quan khi xác định giá để tính thuế. Đã có nhiều doanh nghiệp đã phải gánh chịu hậu quả này vào đầu những năm 2003 này, bởi những lô hàng nhập khẩu về chưa được tính thuế nhập khẩu do Hải quan cửa khẩu chưa xây dựng được giá tính thuế đối với những mặt hàng không có trong bảng tính thuế đối với những hàng hoá không thuộc mặt hàng Nhà nước quản lý giá tính thuế, không đủ điều kiện áp giá ghi trên hợp đồng, ban hành kèm theo Quyết định số 149/2002/QD-BTC ngày 9/12/2002 của Bộ Trưởng Bộ Tài chính, có hiệu lực từ ngày 1-1-2003. Theo Cục Hải quan TP HCM, hiện còn hàng trăm hồ sơ của doanh nghiệp đang phải chờ xây dựng giá, tại Cục Hải quan Hải phòng ở thời điểm 17-2-2003 ở đó còn tồn khoảng 300 bộ hồ sơ nhập khẩu hàng hoá chưa xây dựng được giá. Mặc dù trong thời gian qua tại Cục Hải Quản ở tỉnh, Thành phố nơi có Cảng với khối lượng nhập khẩu hàng hoá lớn đã thành lập những tổ thuộc phòng nghiệp vụ chuyên nghiên cứu về xây dựng gía tính thuế, nhưng dừng như các tổ này đã quá tải vì các hồ sơ giửi về từ các cửa khẩu ngày càng nhiều. Trước tình hình trên thì Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan đã có hướng dẫn tại công văn 6436/TCHQ/KTTT ngày 19/12/2002. Theo đó, Cục Trưởng cục Hải quan địa phương uỷ quyền cho Chi cục trưởng Chi cục Hải quan cửa khẩu tiến hành xây dựng giá tính thuế đối với những mặt hàng không có trong bảng giá 149, trị giá lô hàng ước tính dưới 20 triệu đồng; còn từ 20 triệu đồng trở lên giao cho Cục Hải quan xây dựng giá. Điều này có nghĩa là cán bộ Hải quan phụ trách đối với lĩnh vực này phải thực hiện khảo sát giá thực tế từ thị trường. Vì vậy trong thời gian đầu có nhiều mặt hàng cần phải khảo sát giá, nên chưa đưa ra được giá tính thuế. Trong khi đó khâu xác định giá tính thuế không thuộc chuyên môn của các cán bộ ngành Hải quan, nên khung giá xây dựng lên liệu chính xác được bao nhiêu. Mà giá hiện nay thay đổi liên tục có thể nói là hàng ngày, vậy nếu xác định giá này do một tổ, một nhóm như là một phòng ban trong một cơ quan thì vấn đề điều chỉnh giá cho phù hợp đối với họ là quá khó khăn, như vậy thực hiện nhiệm vụ này là không có hiệu quả. Do đó, còn nhiều lô hàng còn vướng trong hoàn thành thủ tục Hải quan. Nhưng có lẽ vướng mắc nhiều nhất của Hải quan trong xây dựng giá hiện nay là đối với những mặt hàng có thuế suất ưu đãi từ 5% trở xuống. Những mặt hàng này chủ yếu là nguyên liệu để sản xuất, trên thị trường không có bán như hàng tiêu dùng khác, như hoá chất để sản xuất thuốc trừ sâu... hay hàng chuyên ngành Bưu chính viễn thông, ngành điện... nên không có cơ sở để định giá. Nói chung những hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam mà chưa xác định được giá tính thuế biện pháp trước mắt là cho giải phóng mà không giữ lại tại cửa khẩu với điều kiện là các tổ chức kinh tế này phải cam kết sẽ nộp thuế đủ theo đúng quy định khi nhưng mặt hàng này xác định được giá tính thuế. Liệu giải pháp này có khả quan hay không khi số lô hàng nhập vào Việt Nam ngày càng nhiều hơn, sẽ có rất nhiều hàng chưa nộp thuế liệu các cơ quan Hải quan có kiểm soát được hết hay không. Khi mỗi chi cục Hải quan tự xác định giá tính thuế cho những lô hàng có trị giá tính thuế dưới 20 triệu, điều đáng nói ở đây không phải là trị giá của lô hàng mà là sự bất ổn, thiếu đồng đều trong giá tính thuế cho các mặt hàng, mỗi cửa khẩu sẽ có một giá riêng cho cùng một mặt hàng. Như vậy sẽ không tránh khỏi sự luân chuyển hàng từ cửa khẩu này sang cửa khẩu khác, sự móc nối giữa các cán bộ Hải quan làm những điều vi phạm với quy định của ngành thuế. Mục dù về lâu dài thì ngành Hải quan sẽ có biện pháp khả quan hơn trong việc xây dựng giá cho hàng hoá nhập khẩu để tính thuế, nhưng thời gian đấy là lúc nào khi mà họ không cho nó là vấn đề quan trọng cần phải giải quyết ngay thay vào đó là các biện pháp tình thế này nối tiếp tình thế kia. Thực hiện xác định giá tính thuế trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết, nó là một yếu tố quan trọng giúp Việt Nam ta thành công trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Trước mắt là trong khu vực ASEAN. Về lâu dài, khi thực hiện nghị định 60 về áp giá tính thuế nhập khẩu theo GATT, vị trí vai trò, trách nhiệm của cơ quan Hải quan cần được tăng lên rất nhiều để đảm bảo mục tiêu hàng hoá nhập khẩu theo đúng thông lệ quốc quốc tế mà không gặp những trở ngại như chúng ta đang phải đối mặt như hiện nay. 2.4.2.1.2. Về biểu thuế. Biểu thuế bước đầu đã được điều chỉnh đựa trên danh mục hàng hoá nhập khẩu năm 1996, với 97 chương, bao gồm 5983 dòng hàng (thời điểm 01/01/1999) nay đã bổ một số mặt hàng mới lên đến khoảng 6400 dòng hàng, và tới ngày 01/7/2003 chúng ta sẽ áp dụng một biểu thuế mới với số dòng hàng lên tới 10800 dòng hàng theo quy định chung của ASEAN sự tăng lên của số dòng hàng này là do một số mặt hàng theo ASEAN thì nó được phân ra chi tiết hơn nhiều: Biểu thuế nhập khẩu ban hành kèm theo Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 1991, được bổ sung năm 1993 và năm 1998 đã thường xuyên điều chỉnh. Trong biểu thuế do mới xuất hiện trên thị trường hoặc do cách hiểu khác nhau, có thể áp mã tính thuế vào nhiều mức khác nhau. Tình trạng trên đã dẫn đến có trường hợp cố tình áp mức thế suất thấp để hưởng mức thuế phải nộp thấp hơn. Mặt khác trong biểu thuế có quá nhiều mức thuế suất thấp, cụ thể cụ thể có 3228 mặt hàng có thuế suất từ 0-5%, trong đó có một số dòng thuế có mức thuế manh mún, chẳng hạn mức thuế suất 12% có 3 dòng hàng, mức thuế suất 18% có một dòng hàng, 25% có 2 dòng hàng, 45% có 12 dòng hàng, 55% có 1 dòng hàng. Từ chỗ biểu thuế có nhiều mức thuế suất như vậy nên trong cùng nhóm, cùng phân nhóm có những mặt hàng không khác nhau về tính chất lý hoá và công dụng như cùng một loại hàng hoá nhưng có mục đích sử dụng khác nhau tạo ra kẽ hở lớn cho nhiều đối tượng kinh doanh hàng nhập khẩu lợi dụng để trốn thuế và tạo điêu kiện cho tham nhũng nảy sinh. Ví dụ như: mặt hàng đầu video, tại biểu thuế phân làm hai loại là loại nhập khẩu dùng cho công cộng thuế suất là 5%, còn loại dùng trong dân dụng thì thuế suất là 50%... Mức chênh lệch này là rất lớn. Nhưng thực tế mặt hàng này giống nhau nhưng được sử dụng với mục đích khác nhau ở gia đình và ở nơi công cộng là điều hết sức thiếu căn cứ, và điều này dễ bị lợi dụng khi nhập khẩu hàng hoá, vừa thất thu ngân sách vừa không thực hiện được mục tiêu của chính sách thuế nhập khẩu. Do biến động của thị trường thế giới và trong nước, Nhà nước đã tiến hành nhiều lần sửa đổi, điều chỉnh mức thuế suất trong biểu thuế nhằm đảm bảo tính kịp thời, đáp ứng yêu cầu quản lý hoạt động nhập khẩu. Về phương diện quản lý vĩ mô, quá trình điều chỉnh thuế suất nhập khẩu nhằm đảm bảo ổn định và thích ứng của nền kinh tế trước những biến động từ bên ngoài. Tuy nhiên, thực tế việc điều chỉnh thường xuyên thuế suất trong biểu thuế nhập khẩu gây khó khăn cho các doanh nghiệp làm giảm đi tính chủ động trong kinh doanh, gây ra tâm lý ỷ lại, trông chờ Nhà nước, và chính tình trạng này gây ra sơ hở trong chính sách, dễ bị lợi dụng sơ hở dẫn tới tiêu cực, thất thu thuế nhập khẩu. Tuy nhiên việc ấn định mức thuế suất chưa dựa vào tính chất của hàng hoá, chủ yếu dựa vào mục đích sử dụng của hàng hoá đó chính điều này gây nên sự tuỳ tiện, trốn thuế, khai báo xuyên xẹo, không trung thực. Ví dụ như hàng nông sản dùng chế biến với thuế suất cao, nhưng dùng với mục là làm giống thì thuế suất thấp... Nguyên nhân chính trong việc xác định thuế suất do mục tiêu chính của chính sách thuế nhập khẩu là bảo hộ sản xuất trong nước, thực hiện các chính sách vĩ mô như: Nhiều mặt hàng thuế suất đáng nhẽ nên để ở mức thuế suất thấp do ngành hàng này ở Việt Nam không có khả năng sản xuất như sản xuất ô tô, xe máy... nhưng chúng ta lại để ở mức thuế suất rất cao cùng với thuế suất tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng cao đánh vào những hàng hoá này. Như vậy chúng ta cần phải so sánh những tổn thất, tác hại với những lợi ích mà chính sách đó mang lại trước mắt và lâu dài để có những quyết định đúng đắn trong việc ban hành các văn bản, Nghị định... 2.4.2.1.3. Những hạn chế trong quy định miễn giảm thuế. Chế độ miễn giảm thuế quy định cho các đối tượng còn quá rộng, nhiều ưu đãi cho một số đối tượng. Điều này không chỉ gây khó khăn cho việc quản lý, mà còn tạo ra một sự không công bằng giữa các đối tưọng nộp thuế, đồng thời không phản ánh đúng đắn gía trị hàng nhập khẩu khi hạch toán hiệu quả kinh doanh của đơn vị. Nội dung miễn giảm thuế trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chưa có sự nhất quán trong hệ thống pháp luật về thuế. Đây cũng là một trong những tồn tại của Hệ thống chính sách thuế hiện nay nói chung cũng như thuế nhập khẩu khẩu nói riêng. 2.4.2.1.4. Những khía cạnh chưa thích ứng của chính sách thuế nhập khẩu hiện hành so với yêu cầu hội nhập. Vì mục tiêu chính của chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước nhằm làm giảm lượng hàng hoá nhập khẩu và thu hút nguồn lực từ các ngành sản xuất khác vào ngành sản xuất được bảo hộ, tạo điều kiện tăng quy mô sản xuất trong các ngành này bởi lợi thế so sánh của Việt Nam còn hạn hẹp, vì thế để đáp ứng yêu cầu cắt giảm thuế quan trong quá trình hội thì mục tiêu bảo hộ của chính sách thuế nhập khẩu của ta sẽ giảm dần và một lúc nào đó nó sẽ không còn nữa. Nhưng bất cấp, vướng mắc của chính sách thuế nhập khẩu hiện nay là chính sách mới được hình thành và hoàn thiện từng bước vẫn còn mang tính tình thế là chủ yếu, nhằm đối phó với những yêu cầu của hội nhập, áp lực của gia tăng cạnh tranh của thị trường quốc tế cụ thể. Một là: chính sách thuể nhập khẩu chú trọng đến mục tiêu,tăng thu ngân sách nhà nước, chưa tạo điều kiện và áp lực tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chính sách thuế nhập khẩu hiện hành được xây dựng theo nguyên tắc bảo hộ sản xuất trong nước, cụ thể là bảo hộ đối với máy móc thiết bị, nguyên vật liệu trọng yếu cho sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được thì có mức thuế suất cao hơn. Do vậy hầu như tất cả các ngành sản xuất trong nước đều đang được bảo hộ triệt để như nhau, cứ có sản xuất trong nước thì mức thuế suất mặt hàng đó lại được điều chỉnh tăng lên. Biêủ thuế nhập khẩu ban hành kèm theo Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 1991 và sau hai lần sửa đổi bổ sung (năm 1993 và năm 1998) đã thường xuyên điều chỉnh. Trong biểu thuế, có những mặt hàng do mới xuất hiện trên thị trường hoặc cách hiểu khác nhau, có thể áp mã tính thuế vào nhiều mức khác nhau. Tình trạng trên đây đã dẫn đến có nhiều trường hợp cố tình áp mức thuế suất thấp để được hưởng mức thuế phải nộp thấp hơn. Mặt khác, danh mục hàng hoá ghi trong biểu thuế nhập khẩu chưa đầy đủ, chưa phù hợp danh mục hài hoà và mã hoá hàng hoá xuất nhập khẩu (HS), gây khó khăn cho việc xác định áp mã hàng hoá tính thuế nhập khẩu. Số dòng hàng trong biểu thuế hiện hành là 6400 dòng hàng, trong khi đó số dòng hàng hoá ghi trong danh mục (HS) là 10515 mặt hàng chỉ chiếm 60,66%. Thực tế này đã gây nên không ít khó khăn diến ra nhiều cuộc tranh chấp giữa doanh nghiệp và cơ quan Hải quan trong việc áp mã tính thuế. Do trình độ phát triển kinh tế của nước ta xuất phát điểm rất thấp so với các nước trên khu vực và trên thế giới cơ chế kinh tế trong giai đoạn chuyển đổ từ thể chế kinh tế tới các biện pháp vi mỗ, vĩ mô...từ chỗ gần như khép kín trong hội đồng tương trợ kinh tế mà nền tảng là cơ chế kế hoạch, chuyển sang nền kinh tế thị trường hội nhập kinh tế quốc tế. Khả năng cạnh tranh thấp, giá thành cao, sự mất cân đối trong nền kinh tế diễn ra triền miên. Những khó khăn ban đầu khi tham gia hội nhập ta không thê tránh khỏi, từ quan hệ song phương đến quan hệ đa phương chúng ta vừa hội nhập vừa rút ra kinh nghiệm. Vừa thực hiện chiến lược phát triển đẩy nhanh khả năng cạnh tranh hàng hoá và trông chờ vào khả năng của các doanh nghiệp, khả năng nhanh nhậy, tự lực thích nghi xu thế hội khập cạnh tranh ngày càng khốc liệt này. Trong khi đó, một nhược điểm không thể tránh khỏi là sức ỳ của đại bộ phận các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tư tưởng chờ bảo hộ còn lớn nhờ hưởng lợi thế độc quyền. Môi trương đầu tư không được thông thoáng, kém sự ổn định, kìm hãm sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Hai là: chính sách Thuế nhập khẩu chưa thể hiện các biện pháp tính thuế mà WTO cũng như các tổ chức khác chấp nhận, đó là hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đôí, thuế định lượng. Kể từ khi thiết lập hàng rào thuế quan- thuế nhập tính theo tính theo tỷ lệ là loại thuế quan duy nhất mà nước ta áp dụng. Với phương này, đối tượng nộp thuế phải nộp một lượng như nhau mà không phân biệt khối lượng nhập khẩu nhiều hay ít. Đây là phương pháp đơn giản dễ tính toán. Nhưng áp dụng phương pháp này có nhiều hạn chế, đặc biệt là trong điều kiện và cấp độ thương mại khác nhau, thu nhập từ hoạt động khác nhau, bên cạnh đó sức ép của việc cắt giảm hàng dào thuế ngày càng lớn trước xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Chính vì vậy, với phương pháp tính thuế theo tỷ lệ hiện nay đã nẩy sinh những bất cập. Đặc biệt, trong điều kiện có thể có thể áp dụng các loại thuế nhập khẩu. Khác như thuế nhập khẩu theo luỹ tiến, thuế nhập khẩu tuyệt đối, thuế nhập khẩu tính theo định lượng hoặc hạn ngạch thuế quan, thuế nhập khẩu mà WTO cũng như các tổ chức trong khu vực cho phép áp dụng với các nước đang phát triển. Ba là: Cơ chế xác định giá tính thuế chưa đảm bảo tính khách quan, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế; Theo tổ chức WTO thì giá tính thuế phải do giá thị trường quyết định, Nhà nước không được can thiệp vào. Thực tế ở Việt Nam Nhà nước can thiệp quá sâu vào giá tính thuế, thay biện pháp kinh tế bằng biện pháp hành chính, xây dựng lên hẳn một khung thuế suất áp dụng một cách máy móc, bảng giá một năm hay nửa năm mới thay đổi một lần, trong khi đó giá hàng hoá thay đổi theo cung cầu trên thị trường làm giảm hiệu quả của chính sách thuế nhập khẩu, trái với quy định của WTO. Hiệp định trị giá WTO quy định bắt buộc các phương pháp xác định trị giá tính thuế phải tuân theo một trình tự nghiêm ngặt nhất định lần lượt theo 6 phương pháp, trong khi đó về cơ bản chúng ta áp dụng hai phương pháp ban đầu là trị giá giao dịch nếu không đảm bảo thì áp dụng phương pháp theo bảng giá giá tối thiểu do Nhà nước định ra tương đương với phương pháp 6 (phương pháp suy luận). Nhưng ngay cả phương pháp xác định giá theo giá hợp đồng thì nó cũng không đầy đủ thoả moãn điều kiện theo phương pháp 1 bởi vì theo phương pháp 1 trong xác định giá cuả Hiệp định trị giá WTO thì ngoài giá bán theo hợp đồng còn thiếu các khoản điều chỉnh tăng (giảm). 2.4.2.2.Những nguyên nhân cơ bản của những tồn tại trong chính sách thuế nhập khẩu hiện nay ở nước ta so với yêu cầu hội nhập. Thứ nhất: Chính sách thuế nhập khẩu thực hiện cùng một lúc nhiều mục tiêu, trong đó có những mục tiêu mâu thuẫn nhau. *Hỗ trợ nguồn thu ngân sách nhà nước với tỷ lệ động viên khá cao bình quân khoảng từ 16% tới 18% trên tổng thu ngân sách nhà nước từ thuế. Để có tỷ lệ động viên khá cao từ 0% đến 200% trước năm 1999, và sau năm 1999 từ khoảng 0% tới 60%. Mức thuế cao như thế nay, rõ ràng cản trở tới quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. *Bảo hộ nền sản xuất trong nước bằng cách ban hành các mức thuế suất cụ thể cho từng mặt hàng, từng ngành mà nhà nước thấy cần thiết bảo hộ. Chính điều này đi ngược với nguyên tắc minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện. *Thuế nhập phải đảm bảo thực hiện công bằng xã hội. Cách tính thuế nhập khẩu hiện nay là phương pháp tỷ lệ. Với cách tính này nhìn bên ngoài đảm bảo được nguyên tắc công bằng, tức là phát sinh thu nhập từ hoạt động nhập khẩu càng cao thì tỷ lệ nộp thuế càng lớn. Nhưng xét về bản chất, tỷ lệ nộp thuế của người có mức độ nhập khẩu càng lớn thì tỷ lệ so với thu nhập càng nhỏ và ngược lại. Bên cạnh đó, để đảm bảo công bằng xã hội, đánh thuế cao đối với hàng hoá xa xỉ phẩm. Nhưng thực chất, việc điều tiết này phải dùng đến chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt. Do vậy, chưa thực hiện được mục tiêu công bằng của chính sách thuế. Hai là: thiếu chuẩn mực trong việc hoạch định chính sách thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế.Đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn chuyển đổi, chính sách thuế nhập khẩu được nhà nước ta sử dụng như là công cụ chủ yếu trong chính sách ngoại thương với những mục tiêu và những bước đi phù hợp với khả năng thích ứng của nền kinh tế. Trong thời gian qua thuế nhập khẩu cùng một luc thực hiện nhiểu mục tiêu, trong đó có những mục tiêu tác động trái ngược làm giảm vai trò của thuế nhập khẩu. Nhưng xét phương diện là công cụ hỗ trợ hội nhập kinh tế, có thể thấy rằng, quá trình hoạch định , điều chỉnh chính sách thuế nhập khẩu dựa vào ý chí chủ quan nhằm đảm bảo thích ứng của nền kinh tế, trong điều kiện sức ép hội nhập chưa ca. Ví dụ: hạn chế chính sách thuế nhập khẩu hiện hành thiếu ổn định do phải điều chỉnh qua nhiều lần thuế suất trong một thời gian ngắn như xăng dầu, xe gắn máy,vv… đã không tuân thủ chuẩn mực hoạch định chính sách thuế nhập khẩu. Hoặc là để bảo hộ cụ thể từng ngành hàng, nhóm hàng đòi hỏi phải có nhiều mức thuế suất đã không tuân thủ chuẩn mực đơn giản, minh bạch, dễ thực hiện. Những biện pháp trên đây chỉ mang tính tình thế, vì chưa xuất phát từ những hoạch định lâu dài của nhà nước về phát triển kinh tế, đặc biệt liên quan đến chính sách phát triển các ngành hàng chiến lược, sử dụng từ nguyên, nhiên vật liệu từ nhập khẩu. Ba là: chích sách, thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu và sự phối hợp liên quan tới thuế nhập khẩu của các ngành, các cấp còn thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, thiếu cơ chế phối hợp tổ chức thực hiện: Trên thực tế, các văn bản của các Bộ, ngành ban hành thiếu thống nhất, thiếu minh bạch, thiếu kịp thời khó tổ chức thực hiện từ phía doanh nghiệp và cả ngành hải quan, làm ảnh hưởng đến hiệu quả chính sách thuế nhập khẩu. Thể hiện bất cập ở chỗ: -Thể hiện chưa nhất quán và kịp thời giữa luật thuế nhập khẩu và văn bản hướng dẫn thực hiện. -Thiếu đồng bộ giữa chính sách thuế nhập khẩu và thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu gây cản trở tới quá trình hội nhập. - Chưa quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu. -Chưa bao quát hết các loại hình xuất nhập khẩu, đầu tư, dịch vụ mới phát sinh do hệ quả của quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Kể từ khi áp dụng cơ chế thu thuế nhập khẩu mới ngày 1/1/1999, doanh nghiệp tự khai báo, tự tính thuế và chịu trách nhiệm pháp lý, với kết quả bước đầu đã giúp việc giải phóng hàng nhanh, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội như đã phân tích. Nhưng với thời gian ngày càng rút ngắn, hàng hoá thông quan ngày càng nhiều, đa dạng về chủng loại…hệ quả tất yếu là khả năng kiểm soát trước và trong khi thông quan ngày càng giảm Chương III. Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở Việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 3.1. Định hướng và nguyên tắc hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam. 3.1.1. Định hướng hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam. 3.1.1.1.Định hướng bảo hộ bằng thuế nhập khẩu phải có thời hạn: Bảo hộ chỉ là một biện pháp tình thế trong một giai đoạn quá độ nào đó và nó được áp dụng một cách triệt để đặc biệt đối đối với các nước đang phát triển, nhưng đến khi hội nhập hoàn toàn cũng như tham gia vào khu mậu dịch tự do thì chính sách thuế nhập khẩu bảo hộ sản xuất trong nước bị xoá bỏ hoàn toàn. Cho tới thời điểm này, Việt Nam đã có hai cam kết hội nhập với hai mốc thời gian để xoá bỏ bảo hộ hoàn toàn đó là: +Đối với ASEAN, Việt Nam cam kết hội nhập đầy đủ vào khu vực mậu dịch tự do vào năm 2006. +Đối với APEC, Việt Nam sẽ thực hiện cam kết của mình vào năm 2020, mà các thành viên trong APEC chiếm một tỷ lệ lớn trong thương mại thế giới. Điều này dẫn tới sự mở rộng ưu đãi đối với thành viên của WTO. Vì vậy, thời hạn bảo hộ đối với APEC và WTO có thể bị chấm dứt đồng thời vào năm 2020. Như vậy trong tương lai không xa, chính sách bảo hộ đối với nền sản xuất trong nước sẽ bị xoá bỏ. Để tạo thế chủ động cho các doanh nghiệp trong chiến lược kinh doanh của mình thì trong chính sách thuế nhập khẩu cần xác định chính xác thời hạn bảo hộ nếu không các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cứ ỷ vào chính sách bảo hộ của Nhà nước mà không dành thời gian vào khâu nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành tăng sức cạnh tranh của hàng hoá thì chẳng bao lâu thị trường hàng hoá của chúng ta sẽ không tồn tại. Vì vậy, bảo hộ bằng thuế nhập khẩu cần phải xác định thời hạn là hết sức cần thiết. 3.1.1.2. Cam kết về thuế nhập khẩu phải đảm bảo chủ động hội nhập, tránh làm xáo trộn, tác động tới nền sản xuất trong nước Đứng trước thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình hội nhập này tuỳ thuộc vào khả năng thích ứng của nền kinh tế của từng quốc gia. Vì thế, những nước đang phát triển cần phải biết phát huy nội lực dựa vào nguồn lực dồi dào sẵn có của mình tạo một vị trí vững chắc trong quá trình hội nhập và xem sự hội nhập này là cơ hội để các nước đang phát triển khai thác nguồn vốn công nghệ từ bên ngoài để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá và nâng cao tính cạnh tranh hàng hoá sản xuất trong nước. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với chính sách thuế nhập khẩu vừa đảm bảo yêu cầu của hội nhập vừa đảm bảo sự chủ động cho nền sản xuất trong nước có được thế cạnh tranh và thâm nhập sâu vào thị trường quốc tế. Đồng thời phải có giải pháp nhằm hạn chế sự xáo trộn lớn đối với nền sản xuất trong nước cũng như nguồn thu đối với ngân sách Nhà nước. Do nền kinh tế của ta còn qúa non trẻ, yếu kém hầu như ở dạng tiềm năng trong khi nền kinh tế thế giới thì cực mạnh, phát triển nhanh như vũ bão dễ dàng quật đổ những cây non, gốc nông nhỏ như nền kinh tế Việt Nam. 3.1.1.3. Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu phải dựa trên cơ sở chiến lược hội nhập tổng thể. Theo nguyên tắc của tổ chức WTO khi tham gia hội nhập chỉ có thể được sử dụng duy nhất một biện pháp bảo hộ nền sản xuất trong nước là thuế quan. Mức thuế suất của thuế nhập khẩu thể hiện mức độ bảo hộ đối với các ngành sản xuất trong nước. Để thực hiện nguyên tắc này, các nội dung cam kết về thuế nhập khẩu sẽ bao gồm cả các yếu tố bảo hộ bằng biên pháp phi thuế quan khác. Như vậy mức cam kết về thuế nhập khẩu đề cập ở đây được coi là mức cuối cùng, đã tính đến vấn đề xử lý đối với các cam kết khác có liên quan đến các biện pháp phi thuế quan khác như chế độ giá tính thuế, trợ cấp xuất khẩu, han chế định lượng. Vì vậy các biện pháp liên quan tới cơ chế quản lý nhập khẩu hiện hành phải đảm bảo được thể chế hoá. Mặc dù thuế quan đựơc sử dụng bảo hộ sản xuất trong nước, nhưng cần phải có chọn lọc, điều kiện theo hướng hiệu quả, không dàn trải, không cục bộ và trong một khoảng thời gian nhất định phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế. Vậy nhất thiết phải tiến hành việc phân loại các ngành hàng, nhóm hàng trong biểu thuế suất nhập khẩu vào các cấp độ khác nhau, căn cứ vào triển vọng và khả năng cạnh tranh trong điều kiện hội nhập, mở cửa thị trường cho phù hợp với chiến lược phát triển. 3.1.2. Nguyên tắc hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu. 3.1.2.1. Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu phải đảm bảo phát huy tối đa lợi ích quốc gia trong các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Không xa nữa chúng ta sẽ phải xoá bỏ hàng rào thuế quan nhằm thực hiên các cam kết tự do hoá thương mại ở phạm vi toàn cầu trong điều kiện là quốc gia đang phát triển. Trong thời thời gian này chúng ta phải hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu như thế nào để có thể phát huy nội lực của nền kinh tế, tận dụng tối đa nguồn lực từ bên ngoài, yếu tố bên ngoài(vốn, kỹ thuật, công nghệ) là hết sức quan trọng bởi vì chỉ có thể có cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến, hiện đại thì chúng ta mới tiếp cận được với thế giới bên ngoài thông qua thương mại, đầu tư vv... Mặt khác, các quốc gia khác rất cần có một thị trường như Việt Nam để tiêu thụ hàng hoá, đầu tư nhằm mục đích thu lợi nhuận thông qua hoạt động đó. Những quan hệ qua lại này thực sự cần và cần có trong khi chính sách thuế nhập khẩu lại điều chỉnh những hoạt động này. Vì vậy cần phải phát huy chức năng và vai trò của thuế nhập khẩu trong quá trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới nhằm đem lại lợi ích tối đa cho đất nước. 3.1.2.2. Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu trong điều kiên hội nhập kinh tế quốc tế phải đảm bảo nguồn thu cho NSNN. Đổi mới kinh tế hội nhập với thế giới bên ngoài là nỗ lực của mỗi quốc gia với mục đích cuối cùng là nâng cao đời sống của người dân, thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Như vậy, việc phân phối lợi ích giữa các thành phần tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế phải được đảm bảo, trong đó lợi ích quốc gia thông qua chính sách thu hút nguồn thu cho NSNN là nhiệm vụ của các cấp, các ngành và toàn xã hội. Nguồn thu cho ngân sách thấp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế xã hội, đến qua trình đầu tư phát triển. Cho nên hội nhập kinh tế đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu cũng như các loại thuế khác trong hệ thống thuế một cách tối ưu tránh gây ảnh hưởng làm giảm sút nguồn thu cho ngân sách khi cắt giảm thuế nhập khẩu, bằng cách nâng cao kim ngạch nhập khẩu song song với tăng cường kim ngạch xuất khẩu đồng thời chúng ta sẽ chuyển dần sử dụng đồng bộ các loại thuế khác, nhằm tăng thu thuế nội địa nhằm khắc phục giảm thu ngân sách do cắt giảm thuế nhập khẩu. 3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu trong điều kiên hội nhập kinh tế quốc tế. 3.2.1. Giá tính thuế. Hiên nay Việt Nam đang sử dụng chủ yếu hai phương pháp xác định giá tính thuế đó là : -Phương pháp xác định giá tính thuế theo hợp đồng, nếu trong quan hệ mua bán ngoại thương có hợp đồng và đủ điều kiện để áp giá tính thuế theo hợp đồng để tính thuế phải nộp, riêng phương pháp này áp dụng ở Việt Nam còn tồn tại nhiều vấn đề, nguyên nhân phần lớn là do ý thức kém của đối tượng phải nộp thuế đã không thực hiện đúng quy cách, mục đích mà các nhà hoạch địch chính sách mong muốn. Mặt khác phương pháp này cũng chưa giống với cách xác định giá tính thuế theo hợp đồng trong Hiệp định trị giá WTO. -Phương pháp định giá tính thuế theo bảng giá tối thiểu đối với danh mục hàng hoá do Nhà nước quản lý thì quá cứng nhắc thiếu tính chính xác do giá hàng hoá thường xuyên thay đổi theo quy luật cung cầu trong khi đó bảng giá để áp giá tính thuế thì nửa năm có khi một năm thay đổi một lần. Nay lại áp dụng Quyết định 149/2002/QD_BTC đối với hàng hoá không thuộc mặt hàng Nhà nước quản lý giá tính thuế, không đủ điều kiện áp giá tính thuế theo hợp đồng. Theo quyết định này đã tạo ra một sự ùn tắc đối với những hàng hoá nhập khẩu về chưa xác định được giá tính thuế. Vậy để giải quyết vướng mắc trên, nhất thiết là chúng ta phải xây dựng lại phương pháp xác định giá tính thuế. *Biện pháp tạm thời: Đối với việc giải quyết các mặt hàng theo quyết định 149, cho những lô hàng này qua cửa khẩu với điều kiện các chủ hàng của những lô hàng này phải cam kết sẽ thanh toán số tiền thuế khi mà ngành Hải quan xác định được giá tính thuế. Đồng thời giao cho các Cục Hải quan, Chi cục Hải quan xác định giá tính thuế để giải quyết đối với những lô hàng đã nhập khẩu về và sẽ nhập khẩu. Nhưng đề ra biện pháp tạm thời phải làm cơ sở cho việc xây dựng giá tính thuế hàng nhập khẩu phù hợp với Hiệp định trị giá hải quan của tổ chức thương mại thế giới khi ta hội nhập kinh tế quốc tế. Vì thế Cục Hải quan, Chi cục hải quan nên xây dựng bảng giá tính thuế theo nguyên tắc cơ bản quy định của GATT. +Phải căn cứ vào giá trị thực tế của hàng hoá: Như vậy mỗi Cục Hải quan, Chi cục Hải quan phải phân ra một phòng nghiệp vụ chuyên phụ trách về mảng giá của những mặt hàng mới vừa nhập về, nhu thập các thông tin thông qua nhiều phương diện (như khảo sát giá mua bán trên thị trường, giá của hàng hoá đăng trên báo hàng ngày) +Không căn cứ vào trị giá hư cấu hay áp đặt của hàng hoá cùng loại được sản xuất tại nước nhập khẩu. +Phải là giá hàng hoá đó hoặc hàng hoá tương tự trong kỳ kinh doanh bình thường, với các điều kiên cạnh tranh không hạn chế. *Chiến lược lâu dài: Chúng ta nên chuyển công việc xây dựng giá bổ sung này cho phòng giá hoặc tổ giá trực thuộc Cục Hải quan tỉnh, thành phố và phát triển mô hình phòng tổ này trên một quy mô lớn tương xướng với tầm quan trong của nó đối với lợi ích quốc gia trên con đường hội nhập. Khi đó việc xây dựng giá vẫn tiếp tục dựa trên 4 phương pháp đưa ra trước đây: Phương pháp1: căn cứ vào giá hàng hoá tương tự đã được quy định trong bảng giá của Bộ Tài chính, quyết định giá ở mỗi Cục Hải quan tỉnh, thành phố. Phương pháp 2:Dựa vào giá bán trên thị trường nội địa: Phương pháp 3:Dựa vào giá chào bán trên báo chí, sách báo quốc tế, internet... Phương pháp 4:Dựa vào giá ghi trên hợp đồng: Khi xây dựng giá phải sử dụng lần lượt từng phương pháp một, nếu phương pháp 1 không được thì chuyển sang phương pháp 2 và lần lượt như vậy. Khi cả 3 phương pháp đầu không thực hiện được thì Hải quan sẽ chấp nhận giá trên hợp đồng. -Đối với áp giá tính thuế nên hướng tới áp giá tính thuế theo giá ghi trên hợp đồng, giảm tối thiểu cánh tính thuế theo khung giá Nhà nước quản lý, khi đó cần: +Cần kiểm soát tổng giá trị của các tổ chức kinh tế đặc biệt là các tổ chức kinh tế có hoạt động xuất nhập khẩu. +Yêu cầu các tổ chức này phải có một lượng tài khoản tương ướng với bình quân giá trị giao dịch xuất nhập khẩu trong một thời kỳ nhất định. +Có biện pháp khuyến khích các tổ chức kinh tế có hoạt động thương mại này thực hiện thanh toán qua hệ thống ngân hàng bằng cách giảm một tỷ lệ nhất định thuế suất cho những lô hàng này. đồng thời phải đưa ra các hình phạt thật nặng, làm triệt để đối với các hành vi gian lận thương mại. -Sau khi áp giá tính thuế theo hợp đồng trở thành phương pháp chủ yếu thì có thể dễ ràng mở rộng các phương pháp áp giá tính thuế thuế theo Hiệp định trị giá WTO. 3.2.2. Giải pháp hoàn thiện đối với biểu thuế. Như biểu thuế hiện hành gồm 97 chương với khoảng 6400 dòng hàng, mỗi dòng hàng được mã hoá chi tiết ở tám con số. Trong khi đó, số mặt hàng trao đổi quốc tế hiên nay ở mức trên 200.000 loại hàng hoá thì số hàng hoá có trong biểu thuế của Việt Nam là quá nhỏ. Như vậy không thể tránh khỏi số mặt hàng nhập khẩu vào Việt Nam mà không có trong biểu thuế để xác định thuế suất. Để thuận tiện cho việc áp mã tính thuế, giảm bớt hiện tượng một mặt hàng có thể bị xếp nhiều mã số thuế, gây ra tình trạng gian lận, sử dụng mánh khoé do khe hở của biểu thuế dẫn tới thất thu thì biểu thuế cần phải được: +Mở rộng quy mô tức là phải đưa thêm số hàng hoá mới vào biểu thuế, chi tiết hoá số dòng hàng. Tránh tình trạng lúng túng không có cách giải quyết mỗi khi có hàng hoá mới nhập khẩu vào Việt Nam. +Cần phải phân loại hàng hoá dựa vào tính chất, công dụng để xác định mức thuế suất cho hàng hoá dựa vào mục đích sử dụng như hiện nay gây ra tình trạng cùng một mặt hàng có 2-3 mã số thuế và tương ứng với thuế suất khác nhau. Ví dụ như; củ gừng làm giống thuế suất là 0%, nhưng làm nguyên liệu là 30%, hương liệu để chế biến thực phẩm là 5%...vì thế, dễ tạo ra sự khai man mục đích sử dụng để được giảm thuế phải nộp. Nhiều tranh chấp khiếu kiện giữa các doanh nghiệp và cơ quan Hải quan trong việc áp mã tính thuế dẫn tới tình trạng nợ đọng thuế dẫn tới thất thu cho NSNN. Cho nên thay đổi biểu thuế theo tính chất sử dụng của hàng hoá là cần thiết và nên làm. 3.2.3. áp dụng thuế chống trợ cấp đối với hàng nhập khẩu vào Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Song song với việc tham gia các tổ chức thương mại khu vực hoặc đàm phán để thành lập các khu thương mại tự do mới, Việt Nam đang tích cực đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) này là hướng tới tự do hoá thương mại. Như vậy trong vòng 5 năm đến 10 năm nữa, chính sách thương mại của Việt Nam chắc chắn sẽ tương đối tự do, hàng rào bảo hộ bằng thuế quan của Việt Nam sẽ ngày càng giảm, còn các nước khác vẫn tiếp tục duy trì thậm trí ngày càng tăng cường trợ cấp cho các nhà sản xuất của họ. Trước tình hình đó, Việt Nam cần phải áp dụng các công cụ bảo hộ mới nhưng phải phù hợp với Luật thương mại quốc tế. Thuế chống trợ cấp vừa là công cụ bảo hộ hợp pháp cho sản xuất trong nước, vừa đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng với các nhà sản xuất của nước ngoài. Vì thế đưa Luật thuế chống trợ cấp vào thực tế áp dụng trong giai đoạn hội nhập hiện nay là hết sức cần thiết. Luật thuế chống trợ cấp đưa vào áp dụng khi: -Khi có nghi ngờ hàng hoá nhập khẩu theo nguyên tắc áp dụng thuế chống trợ cấp thì tiến hành điều tra và tính mức trợ cấp; -Điều tra thiệt hại: xác định thiệt hại đối với các nhà sản xuất trong nước khi phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu được trợ cấp cũng như ảnh hưởng của việc đánh thuế chống trợ cấp đối với người sử dụng hoặc tiêu dùng hàng hoá đó. -Trình tự áp dụng thuế chống trợ cấp: đánh thuế tạm thời, đánh thuế chính thức, thời hạn đánh thuế, rà soát việc đánh thuế. Xác định hàng hoá được trợ cấp, hình thức trợ cấp cũng như mức độ trợ cấp cụ thể. Công việc có thể giao cho một cơ quan duy nhất chuyên trách về khâu này và chỉ thành lập khi có việc chống trợ cấp xẩy ra, sau đó sẽ tự đông giải tán hoặc công việc này có thể giao cho hai cơ quan .Một cơ quan điều tra về thiệt hại(chủ yếu là điều tra trong nước) .Một cơ quan điều tra về trợ cấp và tính mức thuế chống trợ cấp. Theo mô hình tổ chức này thì đảm bảo tính khách quan, chuyên môn sâu hơn nhưng tổ chức này cồng kềnh khó điều phối. Để có thể thực hiện thuế chống trợ cấp, ngoài cơ quan chịu trách nhiệm chính còn có sự phối hợp của các cơ quan liên quan. Trong đó quan trọng nhất là cơ quan nắm các thông tin về phát triển ngành và số liệu xuất nhập khẩu vv...Đồng thời, trong các trường hợp có tranh chấp phát sinh từ việc áp dụng thuế chống trợ cấp thì cần có sự hợp tác chặt chẽ với các bộ phận phụ trách quan hệ thương mại song phương hoặc với tổ chức diễn đàn tranh chấp đó được đưa ra (WTO, ASEAN vv...) Do yêu cầu đòi hỏi của công việc này, chúng ta nên để cho phòng giá hoặc tổ giá trực thuộc Cục hải quan tỉnh, thành phố vừa phụ trách công việc xây dựng giá tính thuế vừa phụ trách về thuế chống trợ cấp đối với hàng nhập khẩu. Như vậy nếu tổ chức theo hình thức một cơ quan duy nhất sẽ không phải giải tán khi công việc đánh thuế chống trợ cấp kết thúc. Mặt khác do hai công việc xác định giá hàng nhập khẩu để tính thuế và xác định hàng nhập khẩu có hiện tượng trợ cấp cũng không sai khác nhau về chuyên môn nhiều, đều phải thu thập thông tin về giá cả, phải so sánh giá cả giữa thị trường này và thị trường kia và nhiều công việc khác tương tự. Công việc giải quyết chống trợ cấp giá đối với hàng nhập khẩu được tổ chức dưới hình thức một cơ quan duy nhất điều tra đóng vai trò làm đâù mối chung, phù hợp với cơ chế “một cửa” tiết kiệm được đáng kể chi phi, nguồn nhân lực và tránh được các khó khăn phát sinh trong quá trình điều phối. +Cơ quan điều tra thuế chống trợ cấp cần kết hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra về tự vệ và đặc biệt là cơ quan điều tra về thuế chống bán phá giá để tiết kiệm đáng kể nguồn nhân lực, đặc biệt trong bối cảnh số vụ kiện chống trợ cấp thường ít hơn nhiều so với thuế chống bán phá giá hoặc tự vệ. +Cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm điều tra nên đặt tại Bộ Thương mại, đây là hình thức áp dụng ở hầu hết các nước. Đồng thời, cách tổ chức như trên có thể tận dụng được mạng lưới các thương vụ ở nước ngoài trong khâu điều tra, tính toán trợ cấp. +Cùng với Bộ Thương mại, tham gia cơ quan thực thi cần có đại diện của Tổng Cục thuế và Tổng Cục Hải quan và các bộ ngành quản lý sản xuất chuyên ngành như Bộ Công nghiệp, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thuỷ sản, thương mại, kế toán, luật...Các giáo sư, tiến sĩ thuộc các trường, các viện nghiên cứu cũng nên được tham gia trong nhóm điều tra hoặc ít ra cũng đóng vai trò tư vấn cho cơ quan điều tra trong quá trình điều tra và ra quyết định cuối cùng. 3.2.4. Hoàn thiện về việc thu thuế nhập khẩu bổ sung. Mặc dù thuế nhập khẩu bổ sung đã được đề cập trong luật thuế xuất nhập khẩu, nhưng hiện nay vẫn chưa được chuyển khai, công việc này mới chỉ là lý thuyết. Trong qua trình hội nhập hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam ngày càng tăng, và không tránh khỏi trường hợp bán phá giá hàng nhập khẩu này có sự trợ cấp của Chính phủ nước đó. Nếu chúng ta không sớm đưa thuế nhập khẩu bổ sung này vào áp dụng thì thị trường hàng hoá sẽ không còn sức cạnh tranh và nhanh chóng biến mất. Vì thế, cần sớm đưa “Luật thuế chống bán phá giá”vào thực hiện một cách nhanh chóng tránh trường hợp khi việc đã rồi mới đưa vào áp dụng. Nội dung của Luật thuế chống bán phá giá ở Việt Nam cần phải có những nội dung sau: -Đối với hàng hoá nhập khẩu có hiện tượng bán phá giá hoặc có sự trợ cấp của Chính phủ, cơ quan nước ngoài gây thiệt hại lớn đối với hàng hoá hoá sản xuất trong nước thì áp dụng Luật thuế chống bán phá giá. -Quy định cách tính giới hạn bán phá giá, -Nên quy định Bộ Thương mại là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc điều tra việc chống phá giá, cơ quan Hải quan là cơ quan trực tiếp quản lý thu thuế chống bán phá giá. -Quy định các biện pháp về chống bán phá giá gồm: +Thuế chống bán phá giá tạm thời : thu một mức thuế chống bán phá giá tạm thời theo kết luận bước đầu của cơ quan có trách nhiệm kết luận có việc bán phá giá gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. +Thuế chống bán phá giá chính thức: đây là kết luận chính thức của cơ quan có thẩm quyền về việc có hành vi bán phá giá và gây tổn thất do việc bán phá giá gây ra cho ngành sản xuất trong khi thuế chống bán phá giá chính thức phải cao hơn mức tạm thời. 3.2.5. Về miễn giảm thuế và xét miễn giảm. Thực tế quy định về miễn giảm thuế ở Việt Nam bi lợi dụng nhiều hàng năm con số này lên tới trên dưới 8 tỷ đồng (IMF) làm cho NSNN bị giảm đi rất nhiều. Số lượng trốn thuế nhập khẩu, VAT đối với hàng nhập khẩu thông qua hình thức miễn giảm thuế là rất nhiều. Vì thế, chính sách thuế nhập khẩu cần phải có chính sách miễn giảm phù hợp, hạn chế tối đa việc gian lận, lợi dụng hình thức này, vì thế: -Nên thực hiên xoá bỏ việc miễn giảm thuế cho hàng hoá nhập khẩu chuyên dùng phục vụ cho an ninh quốc phòng thay vào đó hàng năm NSNN cấp bổ sung một khoản tương ứng số thuế được miến theo quy định hiện hành. Như vậy Nhà nước vừa quản lý được hàng nhập khẩu, tránh được tiêu cực đã nêu trên vừa đảm bảo nguồn thu cho an ninh quốc phòng. Đối với hàng miễn thuế phục vụ giáo dục, đào tạo, nên quy định miễn thuế đối với hàng hoá trong nước chưa sản xuất được, còn mặt hàng mà trong nước sản xuất được thì đánh thuế bình thường. -Tăng cường kiểm tra chặt chẽ hoá đơn, chứng từ đối với các nguyên liệu, vật liệu nhập về để gia công cho bên nước ngoài, nhập về để sản xuất sản phẩm rồi xuất khẩu ra nước ngoài và đặc biệt là xem xét các hợp đồng của bên nhập khẩu đối với nguyên liệu trong các trường hợp trên. -Giảm khối lượng hành lý mang theo của khách hàng nhập cảnh được miễn thuế mặc dù số tiền thuế này tăng lên không đáng kể, nhưng nó vừa hạn chế được việc lợi dụng hình thức này để trốn thuế vừa có thể bù đắp một phần phí để duy trì bộ phận kiểm tra miễn thuế hành lý cho khách hàng nhập cảnh. 3.2.6. Thay đổi hình thức nợ thuế như hiện nay bằng cơ chế tín dụng thông quan. Để tránh tình trạng tồn đọng lô hàng nhập khẩu tại cửa khẩu do chưa nộp đủ thuế, hoặc số thuế nợ tồn đọng ở những lần nhập khẩu trước quá nhiều vượt so với quy định cho phép hàng hoá được thông quan. Hoặc những lô hàng không được thông quan do có tranh chấp về chất lượng, giá cả khai báo hồ sơ thanh toán...nên hình thành: -Cơ chế bảo lãnh và ký quỹ thay cho hình thức nợ thuế như hiện nay là đòi hỏi khách quan, vừa có lợi cho doanh nghiệp vừa đảm bảo không có thất thoát nguồn thu cho NSNN, giảm chi phí theo dõi, đôn đốc nợ thuế, tránh tình trạng cưỡng chế do tình trạng nợ thuế nhập khẩu dây dưa như hiện nay. -Trong trường hợp mà các doanh nghiệp không thể nộp thuế ngay được hoặc chưa thể cung cấp cho cơ quan Hải quan đầy đủ chứng từ cần thiết để làm thủ tục thông quan hàng hoá nhập khẩu thì vẫn có thể giải quyết cho thông quan bằng bảo lãnh của tổ chức tín dụng thay cho việc giữ lại hàng hoá để chờ bổ sung chứng từ liên quan tới hàng hoá. -Sau khi thông quan, hàng hoá đó đưa vào sản xuất hoặc lưu thông mà doanh nghiệp nhập khẩu vẫn chưa nộp thuế nhập khẩu, chiếm dụng tiền thuế để quay vòng vốn hoặc cố tình trốn tránh nộp thuế cho Nhà nước thì cơ quan Hải quan vẫn thu được tiền thuế thông qua tổ chức tín dụng đó. Như trên ngân hàng sẽ thay mặt doanh nghiệp chuyển số tiền thuế nhập khẩu cho cơ quan Hải quan theo số thuế ghi trên hợp đồng “thông báo thuế” của cơ quan Hải quan mà không cần sự chấp thuận của doanh nghịêp. Nói chung phương pháp này tiết kiệm được chi phí quản lý, tránh thất thu thuế nhập khẩu. 3.2.7. Đổi mới và tăng cường công tác đào tạo, huấn luyện và tuyên truyền về chính sách thuế nhập khẩu. Yếu tố con người có vai trò quyết định đối với thực hiện chính sách thuế nhập khẩu đặc biệt trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài việc hoạch định chính sách, cơ chế hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu, nghiên cứu triển khai các quy định, thông lệ quốc tế liên quan đến hội nhập, đến chính sách thuế quan, công tác tổ chức thực hiện có tính quyết định đến hiệu quả của công tác đổi mới, hoàn thiện chính sách như là đào tạo, huấn luyện và tuyên truyền về chế độ chính sách và cơ chế thuế nhập khẩu. Thời gian qua công tác này đã chú trọng nhưng chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu trước xu thế hội nhập. Công khai, minh bạch chính sách, cơ chế tổ chức thực hiện chính sách liên quan đến thuế nhập khẩu là yếu cầu cần thiết. -Đối với đào tạo, huấn luyện cán bộ, công chức hải quan. Do trình độ, chuyên môn của đội ngũ công chức hải quan hiện nay là đa dạng chuyên môn, đa dạng ngành nghề và được đào tạo từ nhiều nguồn, nhiều hình thức đào tạo. Trong khi đó, chuyên môn, nghiệp vụ Hải quan đòi hỏi cán bộ công chức hải quan phải có kiến thức vừa tổng thể, vừa chuyên sâu cùng với công cuộc xây dựng và hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu có nhiều thay đổi. Như vậy, để kịp thời đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực, hiên đại hoá công tác hải quan cần phải tiến hành đồng bộ các khâu trong công tác tổ chức cán bộ hải quan. +Đối với công tác tổ chức đào tạo nguồn nhân lực Hải quan phù hợp với xu thế hội nhập: .Lựa chọn những công chức có đủ điều kiện về chuyên môn được đào tạo đúng chuyên ngành. .Có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại thường xuyên cho đội ngũ cán bộ Hải quan về kỹ năng phân loại hàng hoá, kỹ năng định trị giá Hải quan... .Xử lý nghiêm các hình thức cán bộ hải quan vi phạm luật, cố tình lợi dụng khi làm thủ tục hải quan. +Hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực ngành Hải quan: Chính sách sử dụng, đối xử nguồn nhân lực là khâu đột phá tác động trực tiếp đến đào tạo thông qua quy hoạch, tiêu chuẩn hoá đội ngũ. Tôn trọng và phát huy tài năng, song việc tự hoàn thiện hoặc tự đào thải là cơ chế thích hợp để phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt đối với các ngành đặc thù, có nhiều nguồn cán bộ, công chức do lịch sử phát triển của ngành hải quan chi phối. -Đối với các doanh nghiệp. Muốn áp dụng chính sách thuế nhập khẩu một cách có hiệu quả trong thực tế, không chỉ đòi hỏi sự hoàn hảo trong chính sách mà nó còn phụ thuộc vào cơ quan hải quan và các doanh nghiệp cũng có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định tới sự thành bại của một chính sách. Vì vậy, hỗ trợ đào tạo, huấn luyện để họ thực hiện tốt chính sách của Nhà nước về lĩnh vực này được xem là một trong những hỗ trợ của Nhà nước đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền thực hiện chính sách, pháp luật Nhà nước liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. 3.3. Một số kiến nghị: *Kiến nghị với Bộ Tài chính: Do những bất cập trong việc xác định giá tính thuế đối với nhập khẩu những lô hàng chưa đủ điều kiện để áp giá tính thuế theo Quyết định149/2002/QD-BTC và giải pháp tạm thời của Tổng cục trưởng Tổng Cục Hải quan là giao cho các Cục Hải quan và Chi Cục Hải quan xác định giá tính thuế đối với những mặt hàng này, thẩm quyền định giá tuỳ thuộc vào giá trị của từng lô hàng và cho đây là biện pháp tạm thời, tình thê. Nhưng cứ tình thế nối tiếp tình thế như thế này thì bao giờ mới có được một giải pháp lâu dài cho việc xác định giá hàng để tính thuế khi những lô hàng mới mà các tổ chức kinh tế nhập về ngày càng nhiều, khi mà coi nó không phải là công việc hết sức quan trọng để bắt tay ngay vào thực hiện xây dựng giải pháp lâu dài. Theo em giải pháp tình thế chỉ có hiệu quả ngày ngày một ngày hai khi mọi chuyện chưa có sự thay đổi, biến động lớn. Nhưng rồi những ngày sau liệu có còn là những giải pháp tốt nữa chăng hay nó chính là những hậu quả mà không còn biện pháp tháo gỡ nữa. Vì thế, ngay từ bây giờ định giá tính thuế vẫn còn là vấn đề nóng trong các công việc của Ngành Hải quan, thì Bộ Tài chính nên xây dựng một bộ phận trực thuộc Ngành Hải quan như một đơn vị nhỏ chuyên về lĩnh vực xác định giá của hàng hoá nhập khẩu trong phạm vi toàn quốc. Khi đó cán bộ thuộc đơn vị này mới có điều kiện chuyên sâu mới có thời gian để nguyên cứu và thu thập thông tin về giá cả. Đồng thời có điều tra chính xác về giá hàng nhập khẩu. *Kiến nghị với Chính phủ: Mặc dù Luật thuế đã có nhiều lần sửa đổi, bổ sung dần dần thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, yêu cầu của hội nhập, nhưng do sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới, đất nước ta không muốn bị tụt hậu thì cần phải có những chính sách kinh tế nhằm thoả moãn yêu cầu chung mang tính chất quốc tế . Vì thế Chính phủ cần phải quan tâm, thường xuyên bổ sung, sửa đổi chính sách thuế nhập khẩu, hướng dẫn thi hành cùng với văn bản hướng dẫn chi tiết. Kết luận Trong quá trình chuyển đổi và phát triển kinh tế, Nhà nước sử dụng chính sách thuế nhập khẩu như là một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế đặc biệt là chính sách bảo hộ sản xuất trong nước để thực hiện giải pháp tình thế này trước công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế nhằm chống đỡ sự thu hẹp nền kinh tế còn non yếu, kém sức cạnh tranh. Vì thế, chính sách thuế nhập khẩu không thể tránh khỏi những bất cập do mục đích sử dụng nó, do biến động thường xuyên của nền kinh tế và yêu cầu của hội nhập. Đứng trước thực trạng này, Việt Nam cần phải cải cách chính sách thuế nhập khẩu cho phù hợp với chính sánh thương mại quốc tế nên hoàn thiện chính sáh thuế nhập khẩu là một điều cần thiết, phù hợp với xu thế chung. Đề tài “Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” chỉ là một ý kiến nhỏ của một thực tập sinh khoa ngân hàng- tài chính. Tuy nhiên với sự cố gắng hết mình, em mong rằng sẽ góp phần nhỏ vào việc hoàn thiện hơn nữa chính sách thuế nhập khẩu này. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Ngân hàng- Tài chính và đặc biệt là thầy giáo: Tiến sĩ. Vũ Duy Hào cùng các anh chị Phòng xuất nhập khẩu của Tổng Cục thuế đã tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành Luận văn này. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Quản lý thuế Trường Đại học Kinh tế Quốc dân - NXB Thống kê 2001 2. Giáo trình Kinh tế học quốc tế Chủ biên GS.TS. Tô Xuân Dân - NXB Thống kê - 1998. 3. Báo cáo tổng kết công tác năm của Tổng cục Thuế 2002. 4. Hướng dẫn thực hiện các Luật và pháp lệnh trong lĩnh vực thuế. NXB Tài chính - 2002 5. Tư liệu kinh tế của các nước thành viên của ASEAN 6. Thời báo kinh tế tài chính - Tạp chí Thương mại, Báo Hải quan, Tạp chí Kinh tế và phát triển. Mục lục Trang Lời cảm ơn………….………………………………………………………1 Tài liệu tham khảo……………………………………………………………..82

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37115.doc
Tài liệu liên quan