Luận văn Hoàn thiện qui định pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước từ thực tiễn ngành dược

Cho đến nay, tiến trình CPH DNNN nói chung cũng như CPH DNDNN nói riêng đã đạt được những thành công nhất định, đã khẳng định chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước ta là đúng đắn và là giải pháp quan trọng trong việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN. Đây cũng là một giải pháp rất quan trọng cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả của nền knh tế. Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh việc CPH một cách kiên quyết và dứt khoát, trên cơ sở đó, phát huy tính năng động và thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế, nhằm bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao và ổn định, cải thiện từng bước đời sống nhân dân, thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

doc96 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1628 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện qui định pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước từ thực tiễn ngành dược, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐHĐCĐ hàng năm. Do đó, một số không hiểu được thực chất công ty cổ phần, cảm thấy bị đứng ngoài công ty, không phải với tư cách là người làm chủ mà là người cho vay vốn. Ngoài ra, việc kiểm soát tình trạng mua bán CP của người lao động tại một số doanh nghiệp dược không thực hiện được. Theo qui định tại Nghị định 64/2002/NĐ-CP, cứ mỗi năm làm việc trong doanh nghiệp người lao động được quyền mua tối đa 10 cổ phần với giá giảm 30% so với mệnh giá ban đầu nhưng không được chuyển nhượng trong vòng 03 năm kể từ khi mua. Tuy nhiên vẫn có hiện tượng chuyển nhượng ngầm cổ phiếu của người lao động. Nguyên nhân là do nhiều người lao động còn hạn chế về nhận thức, tâm lý hoặc thiếu tiền mua cổ phần. Một số khác lại chưa tin tưởng vào khả năng phát triển của doanh nghiệp sau CPH nên đã nhượng bán cho người khác kiếm chênh lệch ngay sau CPH. Nhưng khi chuyển nhượng, cổ đông không được làm thủ tục qua công ty, mà chỉ trao cho nhau một tờ giấy viết tay, theo đó người nhận chuyển nhượng được hưởng và thực hiện tất cả các quyền của cổ đông, trừ việc đăng ký tên trong sổ đăng ký cổ đông. Mặt khác, người lao động trong doanh nghiệp CPH do ít được tiếp cận với các nguồn thông tin cần thiết thông qua việc tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn đầu tư nên đã bán cổ phần với giá rẻ. Tình trạng này đã ảnh hưởng lớn đến việc kiểm soát công ty và quyền lợi cổ đông, không đạt được mục tiêu của CPH. 2.4.8. Về quyền lợi của người lao động, đặc biệt người lao động bị mất việc, thôi việc..., kể cả trường hợp người lao động tự nguyện thôi việc Theo qui định tại điểm b khoản 8 Điều 17 Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 thì quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi được hình thành từ việc tự quyết định của công ty trong việc trích lại phần lợi nhuận phân chia theo nguồn vốn công ty tự huy động. Theo qui định tại khoản 3 Điều 10 Nghị định 187/2004/NĐ-CP thì những tài sản thuộc công trình phúc lợi như nhà trẻ, nhà mẫu giáo, bệnh xá và các tài sản phúc lợi khác đầu tư bằng nguồn quỹ khen thưởng, phúc lợi thì chuyển giao cho công ty cổ phần quản lý, sử dụng để phục vụ tập thể người lao động trong doanh nghiệp. Khoản 7 Điều 36 Nghị định 187/2004/NĐ-CP qui định DN được duy trì và phát triển quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật như: các công trình văn hóa, câu lạc bộ, bệnh xá, nhà điều dưỡng, nhà trẻ để đảm bảo phúc lợi cho người lao động trong công ty cổ phần. Những tài sản này thuộc sở hữu của tập thể người lao động do công ty cổ phần quản lý. Những tài sản trên theo qui định tại khoản 2 Điều 17 Nghị định 187/2004/NĐ-CP không được tính vào giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá. Tuy nhiên qui định này là không hợp lý đối với người lao động bị mất việc, thôi việc... khi DNNN chuyển đổi vì họ sẽ không được sử dụng các công trình này. Hơn nữa, DN CPH có thể cho thôi việc đối với những lao động dôi dư, không phù hợp với tính chất công việc tại CTCP nhưng lại tuyển những lao động mới phù hợp hơn. Những lao động mới này đương nhiên được hưởng những thành quả tồn tại từ trước do những người lao động cũ của DNNN trong đó có cả các lao động đã nghỉ việc đóng góp. Bên cạnh đó, giả dụ DN CPH sau một thời gian hoạt động mà bị giải thể hoặc phá sản thì những tài sản này sẽ được giải quyết như thế nào? có được tính khi định giá doanh nghiệp không? Hơn nữa, điểm đ 1.1 phần B mục II Thông tư 126/2004/TT-BTC lại qui định tài sản phúc lợi được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách hoặc có nguồn gốc từ ngân sách, nếu DN CPH tiếp tục sử dụng được tính vào DN CPH. Như vậy, theo qui định hiện hành, tài sản phúc lợi được đầu tư bằng hai nguồn khác nhau thì có các cách xử lý khác nhau trong việc định giá doanh nghiệp. Ngoài ra, khoản 4 Điều 10 Nghị định 187/2004/NĐ-CP qui định tài sản đầu tư bằng nguồn Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi được CTCP tiếp tục dùng trong sản xuất kinh doanh thì tính vào giá trị doanh nghiệp CPH và chuyển thành cổ phần để chia cho người lao động trong DN tại thời điểm CPH theo thời gian thực tế đã làm việc tại DN của từng người. Điều 15 Nghị định này cũng qui định số dư bằng tiền của quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi được chia cho người lao động đang làm việc tại DN để mua CP. Trong thực tế CPH DNDNN, một số DN đã cho tiến hành thanh lý các tài sản này trước khi tiến hành định giá DN. Một số lãnh đạo DN đã lợi dụng việc này để chia nhau hay phục vụ cho những mục đích cá nhân. Điều này đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Nhà nước và người lao động trong DN. Vì vậy, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung qui định pháp luật hiện hành về định giá tài sản trong trường hợp này để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động trong DN. 2.4.9. Về qui định quyền và nghĩa vụ của cổ đông chiến lược Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã bổ sung đối tượng mua cổ phần lần đầu với giá bán ưu đãi (giảm 20% so với giá đấu bình quân) là các nhà đầu tư chiến lược, tạo điều kiện để các nhà đầu tư chiến lược tham gia góp vốn mua cổ phần với một tỷ lệ theo qui định nhằm tạo sự gắn kết nhất định của các nhà đầu tư này đối với công ty. Đặc biệt trong ngành dược, việc cung cấp nguyên liệu làm thuốc cũng như phân phối thuốc thành phẩm phụ thuộc rất lớn vào các nhà đầu tư chiến lược. Tuy nhiên, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư chiến lược theo qui định hiện hành từ thực tiễn ngành dược vẫn còn một số bất cập, cụ thể như sau: Một số doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu dược liệu (Công ty Dược liệu Trung ương I, Công ty Xuất nhập khẩu y tế II...) có nhiều bạn hàng là người trồng và cung cấp nguyên liệu, trong khi đó số lượng lao động ở các doanh nghiệp đông với thâm niên công tác cao, cổ phiếu thuộc diện ưu đãi chiếm tỷ lệ lớn. Tuy nhiên theo Quyết định 117/2003/QĐ-TTg, những doanh nghiệp này thuộc diện CPH Nhà nước giữ trên 51% vốn điều lệ. Điều này rất khó khăn cho doanh nghiệp trong việc bán cổ phần ưu đãi cho người lao động và người cung cấp nguyên liệu làm thuốc. Vì vậy, thời gian qua, tỷ lệ cổ phần bán cho cổ đông chiến lược của DNDNN CPH là rất ít, nhiều DN không còn CP để bán cho cổ đông chiến lược (tại Công ty dược liệu Trung ương I là 5,17%, tại Công ty CP dược phẩm Hải Phòng là 0%...). Hơn nữa, qui định của pháp luật hiện hành về chuyển nhượng CP của cổ đông chiến lược vẫn còn những bất cập. Điểm b khoản 2 Điều 38 Nghị định 187/2004/NĐ-CP qui định cổ đông chiến lược không được chuyển nhượng CP trong 03 năm sau CPH, nhưng điểm c khoản 1 Điều này lại qui định cổ đông chiến lược được cầm cố, thế chấp cổ phần, kể cả trong 03 năm đầu sau CPH. Do đó, cổ đông chiến lược vẫn có thể áp dụng qui định này, thực chất là bán lại CP cho người khác. Bên cạnh đó khoản 2 Điều 38 Nghị định 187/2004/NĐ-CP qui định trong vòng 03 năm đầu sau CPH, cổ đông chiến lược được phép chuyển nhượng trong trường hợp đặc biệt và phải được HĐQT CTCP chấp thuận. Vậy “trường hợp đặc biệt” ở đây là gì? Việc giao lại cho HĐQT quyết định việc cho phép bán hay không là hình thức duy trì cơ chế “xin - cho”, kiểu quản lý hành chính, ảnh hưởng quyền tự do chuyển nhượng CP của cổ đông. Vì vậy, cổ phiếu của cổ đông sẽ kém tính thanh khoản và giá trị tất yếu sẽ giảm đi rất nhiều, ảnh hưởng tới lợi ích của bản thân cổ đông. Cổ đông, dù là cá nhân hay pháp nhân, là người cung cấp nguyên vật liệu thì vẫn có các quyền và nghĩa vụ của một cổ đông phù hợp với loại cổ phần mà họ sở hữu. Tuy nhiên việc qui định cổ đông chiến lược không được chuyển nhượng CP trong 03 năm sau CPH tại điểm b khoản 2 Điều 38 Nghị định 187/2004/NĐ-CP là mâu thuẫn với các qui định của Luật Doanh nghiệp hiện hành. Theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 51 Luật Doanh nghiệp, cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng CP của mình cho người khác, chỉ trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết hoặc cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập với tỷ lệ nhất định. Trong khi đó CP của cổ đông chiến lược tại các DNNN CPH không thuộc các trường hợp này. 2.4.10. Có sự vi phạm về quyền cổ đông thiểu số tại các doanh nghiệp dược CPH Nhiều doanh nghiệp dược sau CPH có những vi phạm quyền cổ đông thiểu số (các cổ đông này phần lớn là người lao động trong DN). Điều lệ của nhiều doanh nghiệp dược CPH qui định tiêu chuẩn đối với người tham dự ĐHĐCĐ. Theo đó, người tham dự phải đại diện một số lượng CP nhất định (ví dụ như 1.000 CP, 10.000 CP hay 1% tổng số cổ phiếu ...) mới được tham dự ĐHĐCĐ. Quan niệm của doanh nghiệp về vấn đề này là nhằm đảm bảo tập trung, dân chủ, tiết kiệm chi phí... và cổ đông nhỏ thì không ảnh hưởng đến quyết định của công ty. Tuy nhiên, theo Luật Doanh nghiệp hiện hành, cổ đông phổ thông có quyền tham dự và biểu quyết tất cả các vấn đề thuộc quyền của ĐHĐCĐ (Điều 53, 70, 72 và 74). Mỗi cổ phần phổ thông có một phiếu biểu quyết, ĐHĐCĐ gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết. Như vậy, qui định này tại điều lệ của một số doanh nghiệp dược là hoàn toàn trái với Luật Doanh nghiệp. Ngoài ra, điều lệ của một số doanh nghiệp dược CPH hạn chế quyền tự do chuyển nhượng của các cổ đông phổ thông. Nhiều DN qui định cổ đông phổ thông chỉ được chuyển nhượng CP sau từ 01 đến 03 năm hoạt động. Trong thời gian đó, nếu có nhu cầu chuyển nhượng CP, phải trình báo HĐQT để thông báo bán ưu tiên trong nội bộ doanh nghiệp. Trường hợp không thỏa thuận được mới được chuyển nhượng cho các cổ đông bên ngoài. Qui định này cũng hoàn toàn trái với Luật Doanh nghiệp như đã phân tích tại điểm 4.9 Chương này. 2.4.11. Chi phí CPH là quá lớn so với mức chi phí mà pháp luật hiện hành qui định Theo qui định tại Thông tư số 76/2002/TT-BTC ngày 09/09/2002 hướng dẫn những vấn đề tài chính khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần trước đây cũng như Thông tư số 126/2004/TT-BTC hiện hành hướng dẫn thực hiện Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004, mức chi phí CPH tối đa tùy thuộc qui mô doanh nghiệp đã được qui định. Cụ thể là không quá 200 triệu đồng đối với doanh nghiệp có giá trị dưới 30 tỷ đồng; không quá 300 triệu đồng đối với DN có giá trị từ 30 đến 50 tỷ đồng; không quá 400 triệu đồng đối với DN có giá trị trên 50 tỷ đồng. Tuy nhiên nhiều DNDNN khi CPH đã tính toán với chi phí gần gấp đôi so với qui định. Vì vậy, qui định pháp luật về vấn đề này cũng cần điều chỉnh phù hợp với thực tế thực hiện sau khi nghiên cứu, khảo sát thực tế. 2.4.12. Về vấn đề đổi mới công nghệ của doanh nghiệp dược cổ phần hóa Sau CPH, hầu hết các doanh nghiệp dược đều làm ăn có hiệu quả, lợi nhuận ngày càng cao. Tuy nhiên, tại nhiều doanh nghiệp, từ cán bộ quản lý đến người lao động và nhà đầu tư chỉ tập trung vào tiết kiệm chi phí, giảm giá thành để tăng lợi nhận, chia cổ tức, nghĩa là chỉ quan tâm đến lợi nhuận trước mắt. Họ chủ yếu quan tâm đến cổ tức hàng năm có hơn lãi ngân hàng hay không? Trong khi đó lại không mấy chú ý đến những vấn đề có ảnh hưởng lâu dài đến hoạt động của doanh nghiệp như việc đổi mới công nghệ, đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đầu tư vốn vào phát triển sản xuất kinh doanh - mục tiêu quan trọng trong việc phát triển công nghiệp dược và một trong những mục tiêu CPH DNDNN. Mặc dù một số DN CPH đã đầu tư các dây chuyền sản xuất đạt tiêu chuẩn GMP nhưng so với tổng số DN đã CPH, số DN này là không nhiều (mới chỉ có 17 DN CPH đạt GMP). Các DNDNN CPH cũng đều có những thay đổi nhất định về cơ cấu sản phẩm, thị trường, công nghệ sản xuất… tuy nhiên mức độ thay đổi không lớn, không đáng kể. Ngoài ra, nguyên nhân chậm đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp dược sau CPH còn do các chính sách ưu đãi của Nhà nước về vốn, thuế, đất đai... đối với việc ứng dụng công nghệ tiên tiến để sản xuất thuốc vẫn còn bất cập. Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, sản xuất thuốc, nguyên liệu làm thuốc chữa bệnh cho người thuộc danh mục lĩnh vực khuyến khích đầu tư. Trong khi đó, theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi), sản xuất thuốc và nguyên liệu làm thuốc lại không thuộc danh mục các lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư. Hơn nữa, các biện pháp khuyến khích đầu tư hiện hành cũng chưa được qui định cụ thể. Điều này gây khó khăn và ảnh hưởng rất lớn tới việc đầu tư phát triển công nghiệp dược. 2.4.13. Về vấn đề đại diện phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp dược nhà nước cổ phần hóa Việc Chủ tịch HĐQT kiêm nhiệm Giám đốc doanh nghiệp là không trái với qui định của Luật Doanh nghiệp (Điều 81). Tuy nhiên, nhiều Giám đốc doanh nghiệp vừa kiêm nhiệm Chủ tịch HĐQT, vừa là đại diện duy nhất phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp nên quyền lực được tập trung, đặc biệt đối với DN CPH mà Nhà nước giữ tỷ lệ CP lớn. Chính vì vậy, trong ngành dược đã có trường hợp Giám đốc công ty (cũng là Chủ tịch HĐQT) đã thay một loạt các vị trí quan trọng trong doanh nghiệp mà trước đây khi còn là DNNN, do cơ quan chủ quản quyết định như: Phó Giám đốc, Kế toán trưởng... Vì vậy, việc cử đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp cần được qui định chặt chẽ hơn nhằm tránh sự lạm quyền. Bên cạnh đó, khi CTCP được thành lập với tư cách là kết quả của CPH DNNN thì phải hoạt động theo Luật Doanh nghiệp năm 1999. Nhà nước trong trường hợp này sẽ là một cổ đông của doanh nghiệp. Việc cử cán bộ, công chức đang làm việc tại các cơ quan nhà nước làm người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở một số DNDNN CPH thuộc các tỉnh, thành phố là trái với qui định pháp luật hiện hành về cán bộ, công chức. Điều 17 Pháp lệnh cán bộ, công chức qui định: “Cán bộ, công chức không được thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều hành các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, CTCP, hợp tác xã, doanh nghiệp tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư”. Như vậy, việc tham gia quản lý, điều hành CTCP là một trong những việc cán bộ, công chức không được làm. Hơn nữa, các cán bộ, công chức đại diện phần vốn góp của Nhà nước trong cơ cấu HĐQT tại nhiều CTCP trên thực tế đã không thể thực hiện tốt vai trò đại diện của mình vì độ am hiểu về doanh nghiệp, trình độ quản trị kinh doanh trong kinh tế thị trường chưa được cập nhật nên tính mạo hiểm thấp, chủ yếu lo “canh giữ” phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp [36]. Bên cạnh đó, do kiêm nhiệm nên họ cũng không có đủ thời gian để tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp. Điều này cũng có thể làm mất đi các cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp do phải chờ ý kiến của đối tượng này. Đây thực chất là lực cản lớn trong việc phát huy tính năng động, sáng tạo, tìm ra các giải pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp dược sau CPH. 2.4.14. Có sự mâu thuẫn giữa việc cổ phần hóa doanh nghiệp dược nhà nước với việc thực hiện nhiệm vụ xã hội bảo đảm cung ứng thường xuyên và đủ thuốc đạt chất lượng cho nhân dân Một trong những mục tiêu cơ bản của Chính sách Quốc gia về thuốc của Việt Nam là bảo đảm cung ứng thường xuyên và đủ thuốc có chất lượng đến người dân [22]. Vì vậy, các doanh nghiệp dược ngoài mục tiêu lợi nhuận, còn có mục tiêu rất quan trọng là đảm bảo cung ứng đủ thuốc có chất lượng cho nhân dân, nhất là các thuốc thiết yếu, các thuốc kinh doanh mà hầu như không có lãi như thuốc gây nghiện, thuốc hướng tâm thần, thuốc cấp cứu... và đặc biệt là thuốc cho người dân ở vùng sâu, vùng xa cũng như phải dự trữ một số lượng thuốc nhất định để đề phòng bệnh dịch, thiên tai... CPH DNDNN đã làm thay đổi hệ thống cung ứng thuốc cũ mà chưa hình thành được mô hình mới. Phần lớn các DN sau CPH đặt vấn đề lợi ích kinh tế của doanh nghiệp lên trên nhiệm vụ đảm bảo cung ứng thường xuyên và đủ thuốc cho nhân dân. Bởi vì sau CPH, Nhà nước chỉ chiếm một tỷ lệ CP nhất định hoặc không nắm CP trong DN nên đương nhiên DN phải đảm bảo kinh doanh có lãi khi hoạt động. Do đó, DN phải lựa chọn kinh doanh các mặt hàng thuốc có lợi nhuận cao, đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp, tập thể và từng cá nhân trong DN. Điều này tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng bị động, không có đủ thuốc để phục vụ nhân dân, đặc biệt khi có dịch bệnh, thiên tai. Đây cũng là thách thức đặt ra với ngành Dược trong tiến trình CPH các DNNN. Tuy nhiên, việc giải quyết được mâu thuẫn giữa lợi ích của DN và nhiệm vụ xã hội của ngành không chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành dược mà còn phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế, chính sách chung của Nhà nước. 2.4.15. Việc niêm yết trên TTCK của doanh nghiệp dược CPH Niêm yết trên TTCK sau CPH sẽ tạo một kênh huy động vốn hiệu quả bởi các nhà đầu tư khi tham gia đầu tư vào DN thông qua TTCK không những được hưởng lãi từ cổ tức mà còn được hưởng phần chênh lệch giá khi chứng khoán lên cao và giá trị cổ phiếu tăng khi DN làm ăn có hiệu quả. Hơn nữa thông qua TTCK, cổ phiếu của họ sẽ được chuyển nhượng một cách dễ dàng theo giá thị trường. Điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư, đặc biệt đối với nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, việc này dường như là điều còn xa lạ đối với các doanh nghiệp dược. Tính đến nay, chưa có một doanh nghiệp dược nào tham gia vào TTCK. Tình trạng trên ngoài các nguyên nhân không hấp dẫn các DN nói chung tham gia TTCK như: phải minh bạch hoạt động DN, kiểm toán báo cáo tài chính (qui định này chỉ thực hiện bắt buộc đối với DN niêm yết - đây là yếu tố “kém cạnh tranh” trong môi trường kinh doanh chung); TTCK chưa tạo niềm tin cho các DN tham gia, kiến thức về TTCK còn mới đối với các nhà quản lý DN... thì doanh nghiệp dược còn có nguyên nhân khác nữa là do không đủ điều kiện để niêm yết trên TTCK. Theo qui định tại Nghị định 144/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán, DN CPH muốn niêm yết trên TTCK thì phải đáp ứng đủ các điều kiện sau: - Vốn tối thiểu 5 tỷ đồng; - Kinh doanh lãi trong 02 năm trước khi niêm yết; - 20% vốn do ít nhất 50 cổ đông ngoài doanh nghiệp nắm giữ. Theo qui định trên thì có nhiều doanh nghiệp dược không đủ điều kiện về tỷ lệ CP do cổ đông ngoài DN nắm giữ. Theo thống kê, chỉ có chưa đầy 10 doanh nghiệp dược đủ điều kiện này. Đây là một vướng mắc khi DN muốn tham gia TTCK chứng tỏ khi CPH DNDNN thì tỷ lệ CP của cổ đông bên ngoài là quá ít. Tóm lại, trong những năm qua, công tác CPH DNDNN tuy đã đạt được một số kết quả tích cực nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, tiến độ CPH chậm. Việc huy động vốn trong quá trình CPH chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng, chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư tiềm năng. Công ty cổ phần chưa có sự đổi mới mạnh trong quản trị doanh nghiệp; phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy vẫn còn như khi là DNNN nên hiệu quả kinh doanh chưa cao, chưa khai thác tốt các nguồn lực để phát triển sản xuất kinh doanh... Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trong đó có nguyên nhân là các qui định pháp luật và việc thực hiện pháp luật về CPH DNNN nói riêng và pháp luật điều chỉnh các hoạt động của DN nói chung vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Mặc dù các qui định pháp luật điều chỉnh các vấn đề này ngày càng được hoàn thiện nhưng vẫn còn nhiều vấn đề chưa phù hợp với thực tiễn, cần phải được nghiên cứu, hoàn thiện. Chương 3 Một số giải pháp pháp lý nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp dược nhà nước 3.1. Nhiệm vụ cổ phần hóa doanh nghiệp dược nhà nước trong thời gian tới Trong giai đoạn 2001 - 2005, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khóa IX đã nhấn mạnh: “đẩy mạnh CPH những DNNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN”. Trong giai đoạn tới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa cải cách DNNN thông qua CPH. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 khóa IX đã khẳng định: “Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả khu vực DNNN trọng tâm là CPH mạnh hơn nữa...”. “Đẩy nhanh tiến độ CPH, mở rộng diện các DNNN cần CPH, kể cả một số tổng công ty và doanh nghiệp lớn...” Đó là sự thể hiện một cách đầy đủ nhất mục tiêu đồng thời là quan điểm của Đảng ta về CPH một bộ phận DNNN. Nhiệm vụ chung đặt ra là phải đẩy nhanh và vững chắc việc cơ cấu lại DNNN theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa IX) để DNNN có cơ cấu thích hợp, có sức cạnh tranh và hoạt động có hiệu quả trong những ngành, lĩnh vực then chốt nhất của nền kinh tế, làm nòng cốt phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, góp phần cải cách hành chính, đấu tranh chống tham nhũng. Việc CPH DNNN trong thời gian tới phải kiên quyết chuyển sang áp dụng các phương thức thị trường, tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng diện CPH DNNN, kể cả các tổng công ty nhà nước trong các ngành, lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để xã hội hóa và huy động thêm vốn, hình thành doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, tạo thêm động lực và cơ chế quản trị DN năng động, hiệu quả. Thực hiện việc bán cổ phần của các DNNN CPH, trước hết là các tổng công ty, công ty có qui mô lớn, hoạt động có hiệu quả trên TTCK. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 9 khóa IX, Chỉ thị số 45 CT/TW của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN trong hai năm 2004 - 2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 155/2004/QĐ-TTg ngày 24 tháng 08 năm 2004 về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại công ty nhà nước và công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc tổng công ty nhà nước và yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương, tổng công ty rà soát, bổ sung DNNN thực hiện sắp xếp theo tiêu chí này, trong đó chú trọng CPH DNNN. Theo tiêu chí trên, số DNDNN ở Trung ương tiếp tục duy trì 100% vốn nhà nước ở 03 doanh nghiệp tại 3 khu vực Bắc, Trung, Nam: Công ty Dược phẩm Trung ương I, Công ty Dược phẩm Trung ương II và Công ty Dược phẩm Trung ương III. Số DNDNN ĐP tiếp tục duy trì 100% vốn nhà nước là 03 doanh nghiệp: Công ty Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Công ty Dược Bình Định và Công ty Dược Phú Yên. Số doanh nghiệp còn lại sẽ sắp xếp theo hình thức CPH; trường hợp không CPH được thì lựa chọn hình thức sắp xếp khác phù hợp (giao, bán, giải thể, phá sản...). Cụ thể là trong thời gian tới, DNDNN TW còn 06 doanh nghiệp cần CPH, trong đó có 03 doanh nghiệp còn tồn lại chưa CPH được từ những năm trước, DNDNN ĐP còn 36 doanh nghiệp cần CPH. Ngoài ra, theo tiêu chí tại Quyết định 155/2004/QĐ-TTg, Tổng công ty Dược Việt Nam và các đơn vị thành viên (đã CPH hay chưa CPH hoặc giữ nguyên 100% vốn nhà nước) cũng cần được sắp xếp lại theo mô hình công ty mẹ - công ty con phù hợp với yêu cầu phát triển của thời kỳ đổi mới cùng với việc sắp xếp lại và đổi mới hệ thống cung ứng thuốc thống nhất trong toàn Tổng công ty. Việc sắp xếp này nhằm góp phần ổn định thị trường thuốc, làm cơ sở để thay thế dần chức năng điều hành của Tổng công ty, đảm bảo việc cung ứng thuốc cho nhân dân ngày càng tốt hơn, hiệu quả hơn, kịp thời hơn và phù hợp với nội dung cơ bản của Chính sách quốc gia về thuốc của Việt Nam là đảm bảo cung ứng đủ thuốc thường xuyên và có chất lượng cho nhân dân. Đồng thời chuyển mối quan hệ giữa Tổng công ty với các đơn vị thành viên từ liên kết hành chính sang cơ chế đầu tư tài chính, tạo ra sự liên kết bền chặt. Trên cơ sở đó, xác định rõ quyền lợi, trách nhiệm về vốn và lợi ích kinh tế giữa công ty mẹ với các công ty con; thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung vốn, tập trung nguồn lực cho đầu tư hiện đại hóa và phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng cường năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong xu hướng hội nhập. Bên cạnh đó, trong thời gian tới, Bộ Y tế cũng như các địa phương cần tiến hành rà soát hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp dược đã CPH có vốn Nhà nước tham gia; bán đấu giá cổ phần thuộc vốn nhà nước tại những công ty cổ phần hoạt động không hiệu quả, hoặc Nhà nước không cần thiết phải nắm giữ cổ phần. Đồng thời, xem xét cấp bổ sung vốn cho các doanh nghiệp dược cần ưu tiên phát triển. Các nhiệm vụ nêu trên thực sự nặng nề vì cho đến nay có thể thấy rằng tiến độ CPH DNDNN không những không đạt chỉ tiêu đề ra mà còn có xu hướng chững lại. Nguyên nhân chủ yếu là các DNDNN chưa CPH còn lại hầu hết là các doanh nghiệp đang có những vướng mắc: nhiều doanh nghiệp đang thực hiện những dự án đầu tư lớn, nhiều vấn đề tài chính cần xử lý ở tầm liên ngành..., mô hình tổ chức lại Tổng công ty dược chưa được thống nhất hoàn thiện, phê duyệt. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc của các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương và đặc biệt là từ phía doanh nghiệp, ngoài ra cũng cần có những giải pháp hữu hiệu để có thể hoàn thành nhiệm vụ. 3.2. Một số giải pháp pháp lý nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp dược nhà nước Để thúc đẩy tiến trình CPH DNDNN, có nhiều giải pháp cần được tiến hành như: giải pháp kinh tế, giải pháp chính trị, giải pháp pháp lý, giải pháp xã hội... Tuy nhiên luận văn tập trung vào giải quyết các giải pháp pháp lý trong việc CPH DNDNN. Pháp luật hiện hành về CPH DNNN ngày càng được hoàn thiện, đã tạo ra một hành lang pháp lý khá đầy đủ cho vấn đề CPH DNNN song vẫn còn những điểm bất cập, chưa theo kịp yêu cầu của sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN xét từ hai khía cạnh: - Thứ nhất, xét riêng trong lĩnh vực CPH; - Thứ hai, xét trong mối liên hệ với các lĩnh vực liên quan khác như pháp luật về chứng khoán, pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về lao động, cũng như một số lĩnh vực khác. Vì vậy, Nhà nước cần hoàn thiện các qui định của pháp luật về CPH DNNN cũng như pháp luật điều chỉnh hoạt động của DN nói chung. Để CPH DNNN thực sự đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp, CPH DNNN phải được tiến hành trên một nền tảng pháp lý vững chắc. Qua phân tích tình hình thực hiện qui định pháp luật về CPH DNNN trong lĩnh vực dược tại Chương II, có thể rút ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về CPH DNNN trên hai góc độ như sau: 3.2.1. Hoàn thiện qui định pháp luật trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nói chung 3.2.1.1. Củng cố và có chính sách hợp lý đối với các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa Theo kinh nghiệm CPH DNNN trong thời gian qua và kinh nghiệm quốc tế, các doanh nghiệp đang trên đà phát triển, sản xuất và kinh doanh các mặt hàng có chất lượng, hiệu quả, đang nằm trong thị hiếu tiêu dùng, có mức thu lợi nhuận lớn, không có khó khăn về khả năng thanh toán, tình hình tài chính lành mạnh, có đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý nhiều kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn giỏi và phẩm chất tốt, đang nhận được sự tín nhiệm cao của đông đảo quần chúng lao động trong DN, sẽ là những đơn vị thực hiện CPH hiệu quả nhất, kể cả quá trình tổ chức thực hiện cũng như hoạt động sau CPH. Vì vậy, để một DNNN hấp dẫn các nhà đầu tư, có thể CPH được nhanh chóng và đạt kết quả tốt, trước tiên doanh nghiệp đó phải có cơ sở vật chất trang thiết bị hiện đại, đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực, kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có xu hướng phát triển ổn định, có lãi, khả năng sinh lời cao và tình hình tài chính của doanh nghiệp trước khi CPH phải tương đối lành mạnh. Do đó, trước khi CPH, đối với những DN chưa đủ điều kiện cần thiết để thực hiện thì cần phải có chính sách cũng như kế hoạch chuẩn bị trên mọi phương diện kể cả thực hiện những biện pháp để giúp DNNN thực hiện cơ cấu lại. Đó có thể bao gồm những chính sách hỗ trợ vốn, bổ sung thay thế cán bộ, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và lành mạnh hóa tình hình tài chính của doanh nghiệp, đặc biệt là xử lý các khoản nợ tồn đọng để nhanh chóng hội tụ đầy đủ điều kiện tham gia CPH. Cụ thể là: a) Cơ cấu lại năng lực sản xuất kinh doanh Cần có cơ chế hỗ trợ cho các DNNN thuộc diện CPH để nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các DNNN thuộc các ngành nghề kinh doanh có điều kiện như ngành dược mà điều kiện kinh doanh của các doanh nghiệp này còn chưa đáp ứng theo các qui chế chuyên môn về dược. Trên cơ sở đó, sau khi chuyển sang hình thức tổ chức mới, các doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt động được ngay, không bị gián đoạn. Các doanh nghiệp này cần được nhận sự giúp đỡ từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp và CPH DNNN và được vay các khoản ưu đãi với sự điều chỉnh giảm về lãi suất và gia tăng về thời hạn. b) Lành mạnh hóa tình hình tài chính của doanh nghiệp Quá trình CPH DNNN nói chung và DNDNN nói riêng chưa đạt được kế hoạch đề ra một phần là do vướng mắc trong việc giải quyết, xử lý nợ tồn đọng khó đòi lâu năm và nợ mới phát sinh, nhưng chủ yếu là nợ lâu năm khó đòi. Một số DNDNN từ Ban lãnh đạo đến người lao động trong doanh nghiệp đều rất tha thiết và quyết tâm CPH đối với DN mình đang công tác nhưng do vướng mắc về giải quyết công nợ tồn đọng đã phát sinh từ hàng chục năm, chưa được xử lý từ các giai đoạn trước nên không thể xác định được giá trị doanh nghiệp và dẫn đến việc không CPH được DN hoặc quá trình CPH kéo dài, gây tâm lý không ổn định cho người lao động làm việc tại doanh nghiệp, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Việc chưa xử lý được các khoản công nợ tồn đọng này có cả nguyên nhân khách quan, chủ quan và nguyên nhân từ việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan nhà nước có liên quan (như cơ quan thi hành án, cục thuế...). Vì vậy, đối với nợ tồn đọng khó đòi, phát sinh trước thời điểm CPH, các cơ quan chức năng cần hỗ trợ DN CPH giải quyết dứt điểm. Đối với các khoản nợ có khả năng thu hồi thì hỗ trợ DNNN để thu hồi được trước khi CPH. Đối với những khoản nợ không thể thu hồi ngay thì cần xây dựng cơ chế cho phép doanh nghiệp được bóc tách công nợ chưa xử lý được để tiến hành CPH đối với phần vốn còn lại của doanh nghiệp. Việc xử lý công nợ tồn đọng sẽ được giải quyết theo các qui định pháp luật về xử lý nợ tồn đọng. Có như vậy, việc CPH DNNN mới có thể thực hiện được theo tiến độ đề ra và DN mới có thể ổn định trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, các qui định về xử lý nợ tồn đọng cần phải thông thoáng hơn bởi nếu qui định quá chặt chẽ, doanh nghiệp sẽ tìm mọi cách để xác định các khoản nợ đó không có khả năng thu hồi. Chẳng hạn như xác định khách nợ là doanh nghiệp, tổ chức đã giải thể, phá sản hoặc khách nợ là cá nhân đã chết, mất tích... Hơn nữa, cũng cần nghiên cứu lại tính khả thi của qui định pháp luật về vấn đề xác định các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi. Chẳng hạn điểm 1.3.2 phần I Mục B Thông tư số 85/2002/TT-BTC ngày 26/09/2002 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 69/2002/NĐ-CP qui định các căn cứ xác định các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi đối với khách nợ đã ngừng hoạt động là xác nhận của cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp về việc doanh nghiệp đã ngừng hoạt động không có khả năng thanh toán. Tuy nhiên, do thay đổi hệ thống chính trị ở nhiều quốc gia, nhiều cơ quan thành lập doanh nghiệp nước ngoài nay đã thay đổi hoặc không còn tồn tại nữa. Vì vậy, đề nghị bổ sung việc cho phép đại sứ quán hoặc thương vụ của Việt Nam tại nước sở tại có quyền xác nhận doanh nghiệp đã ngừng hoạt động, tránh trường hợp không có cơ quan nào xác nhận cho DN. Ngoài ra, cần cho phép thành lập các công ty hỗ trợ chuyển đổi sở hữu và mua bán nợ để giúp doanh nghiệp chủ động xử lý các khoản nợ phải thu ngay trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này rất cần thiết để xác định tài sản doanh nghiệp trước CPH theo hướng tiếp nhận, quản lý, khai thác và tổ chức bán đấu giá những loại tài sản không đưa vào giá trị doanh nghiệp chuyển đổi sở hữu. Những giải pháp nêu trên nhằm mục tiêu là tạo cho CTCP chuyển đổi từ DNNN sự rõ ràng, minh bạch về vốn, có một điểm xuất phát với đầy đủ những gì cần có cho một CTCP theo đúng nghĩa. 3.2.1.2. Cụ thể hóa và phân định rõ ràng hơn về phương thức, lộ trình và trách nhiệm thực hiện Phương thức, lộ trình CPH DNNN là vấn đề lớn, có ảnh hưởng đến tiến độ CPH DNNN. Vì vậy, cần qui định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý có liên quan cũng như lãnh đạo DN trong trường hợp chậm CPH, gắn trách nhiệm hành chính của người lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương, lãnh đạo DN với kết quả sắp xếp và CPH ở đơn vị mình theo lộ trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Các cấp trên quản lý DN phải chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với các quyết định của mình nếu quyết định đó sai hoặc chậm chễ, làm thiệt hại lợi ích của DN và cũng là lợi ích chung của xã hội. Điều 9 Nghị định 187/2004/NĐ-CP và khoản 4 Điều 19 Nghị định 69/2002/NĐ-CP qui định doanh nghiệp phải báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp. Tuy nhiên lại không qui định thời hạn phải trả lời của các cơ quan này. Thực tế là vì chưa có quy định nên khi gặp tình huống khó khăn thì DN phải một mình hứng chịu, mặc dù DN không tự quyết định được các tình huống đó. Bên cạnh đó, cần qui định cụ thể trách nhiệm của lãnh đạo DN trong trường hợp DN chậm CPH so với tiến trình đã được phê duyệt. Điểm e khoản 1 và điểm c khoản 2 Điều 40 Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã bổ sung trách nhiệm của các Bộ, UBND tỉnh, thành phố trục thuộc Trung ương, Hội đồng Quản trị Tổng công ty nhà nước trong trường hợp không thực hiện phương án CPH đã được phê duyệt. Theo đó thì Thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước, HĐQT Tổng công ty nhà nước phải chịu các hình thức kỷ luật theo qui định hiện hành. Tuy nhiên, từ trước đến nay chưa có tổ chức, cá nhân nào phải chịu hình thức kỷ luật về vấn đề này. Vì vậy, cần qui định rõ loại trách nhiệm pháp lí đối với hành vi này (trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự hay trách nhiệm hình sự...). Ngoài ra cũng cần qui định cụ thể trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong việc tiếp tục cung cấp thông tin, phổ biến chính sách, chế độ cho DN sau chuyển đổi, giải quyết kịp thời các vướng mắc cho DN. Hoàn thiện hệ thống cơ quan đăng ký kinh doanh và thông tin DN thuộc cơ quan kế hoạch và đầu tư để kết hợp đăng ký kinh doanh đối với DN sau CPH và cung cấp thông tin cho DN sau CPH. 3.2.1.3. Về vấn đề định giá doanh nghiệp Cần bổ sung qui định về việc tính toán và định giá tài sản vô hình như các mối quan hệ hợp tác, bằng phát minh sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu hàng hóa và đặc biệt là yếu tố nhân sự, đội ngũ lao động trong doanh nghiệp có trình độ, tâm huyết - “nguồn vốn” chất xám có tính chất quyết định đến thành công của DN, quyết định năng suất lao động - một yếu tố chi phí của đầu vào, đồng thời nó cũng quyết định định đến quá trình đổi mới công nghệ và hoàn thiện sản phẩm cũng như khả năng thích ứng của doanh nghiệp đối với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Đây là những yếu tố tác động đến khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Vì vậy, cần được quan tâm khi định giá doanh nghiệp, tránh thất thoát tài sản Nhà nước. Về việc xác định giá trị phần vốn đầu tư dài hạn của DN CPH tại DN khác, Nghị định 187/2004/NĐ-CP qui định DN được quyền lựa chọn việc kế thừa hoặc không kế thừa. Trong trường hợp doanh nghiệp kế thừa thì giá trị vốn đầu tư dài hạn của DN CPH tại các DN khác được đánh giá theo giá trị thị trường tại thời điểm định giá nhưng không được thấp hơn giá trị ghi trên sổ sách kế toán. Việc sửa đổi, bổ sung qui định này được lý giải là do “các hoạt động liên doanh, liên kết những năm đầu thường lỗ (theo kế hoạch), có trường hợp đối tác cố tình lỗ thông qua việc chuyển giá để mua lại phần vốn của DNNN” [5]. Qui định này nhằm giảm thiểu tổn thất cho Nhà nước trong quá trình CPH DNNN nhưng là phi thực tế, đi ngược lại với nguyên tắc gắn với thị trường trong định giá doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng có trường hợp DNNN góp vốn bằng quyền sử dụng đất và một số DNNN giờ đây thừa nhận rằng quyền sử dụng đất đó có thể đã được định giá quá cao khi thành lập liên doanh, góp vốn. Vì vậy, việc xác định giá trị tài sản DN cần phải được tính tại thời điểm xác định giá trị DN. Như vậy mới chính xác và là giá trị thực và cũng chính là tôn trọng quy luật thị trường, quy luật kinh tế. Do đó, việc áp đặt giá trị phần vốn đầu tư dài hạn vào DN khác tối thiểu phải bằng giá trị ghi trên sổ sách kế toán theo qui định pháp luật hiện hành không phải là giá trị thực tế và qui định này mới chỉ bảo vệ quyền lợi của Nhà nước. Điều này là không hợp lý và cần thiết phải qui định lại việc xác định phần vốn này theo giá thị trường tại thời điểm định giá DN CPH. Theo quan điểm của ông Daniel Musson, chuyên gia về DNNN, Ngân hàng thế giới tại Việt Nam về vấn đề định giá thì “Định giá không phải là một môn khoa học chính xác. Các phương pháp định giá hoặc là dựa trên thông tin quá khứ, hoặc là dựa trên dự đoán về tương lai. Phương pháp dựa trên thông tin quá khứ có thể không phản ánh được hiện tại và tương lai, còn phương pháp dựa trên suy đoán về tương lai thì phụ thuộc vào độ chính xác của suy đoán. Cách duy nhất để hạn chế những điểm yếu này là chào bán trên thị trường công khai”.[12] Ngoài ra, cần bổ sung việc tính tài sản hình thành từ quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật vào giá trị DN trên cơ sở chuyển thành cổ phần để chia cho người lao động trong DN tại thời điểm CPH theo thời gian thực tế đã làm việc tại DN. 3.2.1.4. Cụ thể hóa qui định về quyền của các cổ đông thiểu số Cần qui định quyền của các cổ đông thiểu số trong việc đề cử người vào HĐQT, ban Kiểm soát và quyền triệu tập ĐHĐCĐ, nhất là qui định về nguyên tắc xác định số lượng người mà họ được cử, cũng như hình thức và nội dung của việc yêu cầu triệu tập ĐHĐCĐ nhằm đảm bảo các quyền này có thể thực thi có hiệu quả trong thực tế. Bên cạnh đó, cần bổ sung cơ chế uỷ quyền biểu quyết nhằm tạo điều kiện tập trung lượng phiếu nhất định cho những quyết định tại ĐHĐCĐ trước áp lực của các cổ đông đa số. 3.2.1.5. Sửa đổi qui định về quyền, nghĩa vụ cổ đông là người lao động, nhà đầu tư chiến lược Các chính sách ưu đãi cho cổ đông là người lao động, cổ đông chiến lược cần thống nhất với Luật Doanh nghiệp hiện hành và theo nguyên tắc thị trường, tức là có thể bán cổ phần ưu đãi nếu họ muốn, để cổ phiếu có tính chuyển đổi. Điều này có nghĩa là người lao động, nhà đầu tư chiến lược có quyền bán cổ phiếu của mình nếu họ thấy lợi hơn là giữ, là hình thức đầu tư linh hoạt phù hợp với nhu cầu của người lao động... Điều này buộc Ban quản lý doanh nghiệp phải quản lý tốt cũng như cần phải tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cổ đông này. 3.2.1.6. Về trách nhiệm của doanh nghiệp sau cổ phần hóa Theo qui định tại Điều 108 Luật Doanh nghiệp, các công ty chuyển đổi được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty được chuyển đổi. Khoản 2 Điều 8 Nghị định 187/2004/NĐ-CP cũng qui định công ty cổ phần được kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công ty nhà nước trước khi cổ phần hoá và có các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Qui định này gây khó khăn cho các doanh nghiệp CPH vì việc chuyển đổi hình thức hoạt động của DN tư nhân hoàn toàn khác với DNNN CPH. Khi DNNN CPH, hình thức sở hữu thay đổi từ sở hữu nhà nước sang các hình thức sở hữu khác (tập thể, tư nhân...), trong đó nhiều doanh nghiệp không còn vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Vì vậy, vấn đề này cần phải phân biệt làm hai trường hợp: nếu nghĩa vụ, trách nhiệm của công ty nhà nước trước khi CPH đã được tính đến khi xác định giá trị doanh nghiệp thì CTCP có thể kế thừa các nghĩa vụ, trách nhiệm đó. Trường hợp các nghĩa vụ, trách nhiệm chưa được tính đến khi xác định giá trị DN thì CTCP không thể kế thừa. Tức là CTCP không thể kế thừa các trách nhiệm của DNNN trong mọi trường hợp. Đây là vấn đề nhạy cảm, gắn liền với lợi ích và nghĩa vụ của các cổ dông. Nếu qui định không rõ ràng sẽ gây bất lợi cho các cổ đông khi tham gia đầu tư vào DN CPH. 3.2.1.7. Có chính sách hợp lý giữa doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác Cần nghiên cứu và ban hành các chính sách để tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa các DN CPH và các DNNN. Thực hiện việc xóa bỏ các ưu đãi mang tính chất bao cấp đối với DNNN như cho vay chỉ cần tín chấp với phương án được duyệt, cho vay với lãi suất ưu đãi, cho khoanh nợ, xóa nợ, giãn nợ... Mặc dù Nghị định 187/2004/NĐ-CP qui định DN CPH được tiếp tục vay vốn tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất như áp dụng với các DNNN. Tuy nhiên trên thực tế các nhà cung cấp tín dụng đều khống chế mức tín dụng thấp hơn rất nhiều so với trước đây. Các hợp đồng tín dụng đều phải chuyển từ mối quan hệ tín chấp sang thế chấp bằng tài sản bảo đảm. Do đó, cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trên cơ sở ban hành mới hoặc bổ sung sửa đổi một số luật như: Luật Doanh nghiệp, Luật Tín dụng ngân hàng... để từng bước và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn sự khác biệt về đối xử trong hoạt động kinh doanh đối với các loại hình doanh nghiệp, khuyến khích DN nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh. 3.2.1.8. Hoàn thiện qui định pháp luật nhằm thúc đẩy cổ phần hóa gắn với niêm yết trên thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán ở nước ta đã ra đời nhưng còn ít tác động tới chương trình CPH. Trong khi đó, phần lớn các DN CPH nói chung cũng như doanh nghiệp dược CPH nói riêng cũng lại “thờ ơ” với thị trường chứng khoán. Cho đến nay, chưa có doanh nghiệp dược CPH nào tham gia vào thị trường chứng khoán. Để tháo gỡ những vướng mắc từ cả hai phía, cần thực hiện các biện pháp: - Cần có các mức ưu đãi về thuế đối với doanh nghiệp CPH tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán để thúc đẩy việc niêm yết trên thị trường chứng khoán. Việc thu hút được rất ít DN niêm yết là do DN chưa thấy những lợi ích mà TTCK mang lại là hấp dẫn. Mức ưu đãi giảm 50% thuế thu nhập DN trong 2 năm theo qui định hiện hành là không lớn, không đủ hấp dẫn doanh nghiệp. - Có chế tài để CTCP công khai hóa thông tin tài chính, bao gồm nội dung, hình thức công khai cũng như thời gian công khai. Số liệu công khai phải được cơ quan kiểm toán xác nhận. - Thành lập công ty tư vấn đầu tư chứng khoán giúp các công ty và người dân có vốn nhàn rỗi song ít hiểu biết về thị trường chứng khoán cũng có thể tham gia được. - Một trong nhiều nguyên nhân khiến doanh nghiệp dược chưa tham gia vào thị trường chứng khoán là không đủ điều kiện để tham gia, trong đó điều kiện phải có ít nhất 50 cổ đông ngoài doanh nghiệp nắm giữ 20% vốn của doanh nghiệp. Trong khi đó, tỷ lệ phần vốn của Nhà nước trong doanh nghiệp dược là còn khá cao. Vì vậy trong giai đoạn tới, cần có cơ chế giảm dần vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp dược mà Nhà nước không cần thiết phải nắm giữ tỷ lệ cổ phần chi phối hoặc giữ cổ phần lớn. Trước mắt, cần bán toàn bộ phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp dược CPH có vốn dưới 01 tỷ đồng, tiến tới bán toàn bộ phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp dược CPH mà Nhà nước không cần thiết giữ cổ phần. 3.2.2. Hoàn thiện qui định pháp luật thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp dược nhà nước nói riêng 3.2.2.1. Không phân biệt điều kiện kinh doanh thuốc giữa các thành phần kinh tế Đối với các doanh nghiệp dược, cần có qui định thống nhất, bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong việc qui định các điều kiện kinh doanh thuốc. Mặc dù Luật Dược đã được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực kể từ ngày 01/10/2005 trong đó điều chỉnh hoạt động đối với cả DNDNN lẫn các doanh nghiệp dược thuộc các thành phần kinh tế khác theo những qui định chung, thống nhất, nhưng việc thực hiện Luật và đưa Luật vào cuộc sống lại phụ thuộc rất nhiều vào các văn bản hướng dẫn Luật. Vì vậy, Chính phủ, Bộ Y tế cần khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Dược, đặc biệt là về vấn đề điều kiện kinh doanh thuốc để có cơ sở pháp lí thực hiện. Bộ Y tế đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật Dược tại Tờ trình Chính phủ số 7721/TTr-BYT ngày 26/09/2005, nhưng cho đến nay Nghị định này vẫn chưa được ban hành. Bên cạnh đó, Bộ Y tế cần khẩn trương sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản hướng dẫn mà Luật Dược giao như: các bộ tiêu chuẩn thực hành tốt, danh mục và quy chế quản lý các dược liệu có chứa chất độc, chất gây nghiện, chất hướng tâm thần, tiền chất, quy chế đăng ký thuốc, quy chế thử lâm sàng... để có cơ sở pháp lý thực hiện thống nhất trong các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu. Ngoài ra, Bộ Y tế cần sửa đổi, bổ sung một số qui chế điều chỉnh hoạt động kinh doanh thuốc gây nghiện, thuốc hướng tâm thần và tiền chất làm thuốc theo hướng qui định các tiêu chuẩn, điều kiện kinh doanh các mặt hàng thuốc này áp dụng chung cho các doanh nghiệp dược thuộc các thành phần kinh tế. Bất kể là nhà nước hay tư nhân, DN nào đáp ứng được các tiêu chuẩn, điều kiện qui định thì đều được phép kinh doanh thuốc đó, chứ không chỉ dành riêng cho doanh nghiệp dược thuộc khu vực nhà nước được phép kinh doanh mặt hàng thuốc này. 3.2.2.2. Cần sửa đổi Nghị định về thanh tra trong lĩnh vực y tế đối với việc qui định thanh tra hành chính doanh nghiệp dược nhà nước đã cổ phần hóa Trước đây, khi còn là DNNN, thuộc sự quản lý của cơ quan chủ quản, doanh nghiệp chịu sự thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, tổ chức nhân sự, hoạt động kinh doanh và thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan quản lý mình. Tuy nhiên, khi chuyển đổi hình thức sang công ty cổ phần, doanh nghiệp CPH hoạt động như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Vì vậy, thanh tra y tế chỉ có thể thanh tra đối với các hoạt động chuyên môn của doanh nghiệp chứ không thanh tra về tổ chức nội bộ doanh nghiệp cũng như là hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như trước đây. Do đó, cần qui định rõ vấn đề này trong Nghị định về thanh tra trong lĩnh vực y tế. 3.2.2.3. Cần có cơ chế, chính sách để có thể thực hiện được nhiệm vụ xã hội của ngành dược Để có thể thực hiện được nhiệm vụ xã hội của ngành dược sau CPH DNDNN, cần có sự hỗ trợ về cơ chế, chính sách của Nhà nước cho ngành dược. Đó là: - Miễn giảm thuế, cho vay với lãi suất thấp và các ưu đãi khác đối với các doanh nghiệp dược đầu tư trang thiết bị, công nghệ tiên tiến sản xuất nguyên liệu làm thuốc, sản xuất, kinh doanh thuốc thiết yếu nhằm bảo đảm đáp ứng được 60% nhu cầu thuốc trong nước đến 2010; 100% DN sản xuất thuốc thành phẩm đạt tiêu chuẩn GMP của Tổ chức y tế thế giới; 100% cơ sở kiểm nghiệm thuốc đạt GLP của Tổ chức Y tế thế giới; 100% DN nhập khẩu và lưu thông thuốc có qui mô lớn đạt tiêu chuẩn GSP. - Cấp kinh phí cho nhiệm vụ dự trữ lưu thông thuốc theo danh mục thuốc do Bộ trưởng Bộ Y tế qui định và lượng kinh phí theo từng thời kỳ do liên Bộ Tài chính và Y tế thống nhất để phục vụ trong trường hợp có dịch bệnh, thiên tai, bình ổn giá và một số nhiệm vụ công ích khác của ngành dược. - Hỗ trợ về thuốc bằng những hình thức thích hợp cho các đối tượng thuộc diện chính sách, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; - Hạ bớt các tiêu chuẩn, điều kiện kinh doanh thuốc ở các vùng xa, vùng sâu, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, thực trạng đội ngũ cán bộ y tế và nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân trong từng giai đoạn. 3.2.2.4. Xây dựng kịp thời kế hoạch sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp dược nhà nước trong thời gian tới Bộ Y tế và các địa phương mà DNDNN chưa CPH phải xây dựng kế hoạch thực hiện CPH về danh sách các DNDNN sẽ CPH, tiến độ về thời gian, các bước thực hiện và phân công trách nhiệm theo dõi chỉ đạo. Có như vậy mới có thể phần nào khắc phục được tình trạng chậm chễ trong việc tiến hành CPH DNDNN. Phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới DNNN thuộc Bộ Y tế giai đoạn 2003- 2005 đến nay đã đi đến giai đoạn kết thúc. Vì vậy, để có cơ sở cho việc sắp xếp, đổi mới DNDNN trong thời gian tới, Bộ Y tế cần khẩn trương xây dựng Đề án tổng thể sắp xếp DNNN thuộc Bộ Y tế trong giai đoạn tiếp theo. Đối với lĩnh vực dược, cụ thể là: - Từ 2006 - 2007, thực hiện CPH tiếp 03 doanh nghiệp gồm Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 1, Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 5, Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 25. - Sắp xếp các đơn vị hạch toán phụ thuộc của Tổng công ty theo hướng khuyến khích, tạo điều kiện để các đơn vị này lựa chọn phương án CPH nhằm phát huy các tiềm năng của đơn vị; - Chuyển đổi các DNNN thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn sang hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên gồm Công ty Dược phẩrm Trung ương 1, Công ty Dược phẩm Trung ương 2 và Công ty Dược Trung ương 3 Đà Nẵng; - Thành lập Công ty dược có qui mô lớn theo hình thức công ty mẹ - con, trong đó lựa chọn một công ty thành viên độc lập của Tổng công ty làm nòng cốt cùng Văn phòng Tổng công ty hình thành một công ty mẹ, con là các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên và các CTCP có vốn góp chi phối của Nhà nước. Các công ty liên kết là các CTCP có vốn góp của nhà nước (không chi phối) gồm những DN đã CPH và những DN đang và sẽ CPH và các công ty liên kết khác theo sự tự nguyện. Kết luận Cho đến nay, tiến trình CPH DNNN nói chung cũng như CPH DNDNN nói riêng đã đạt được những thành công nhất định, đã khẳng định chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước ta là đúng đắn và là giải pháp quan trọng trong việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN. Đây cũng là một giải pháp rất quan trọng cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả của nền knh tế. Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh việc CPH một cách kiên quyết và dứt khoát, trên cơ sở đó, phát huy tính năng động và thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế, nhằm bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao và ổn định, cải thiện từng bước đời sống nhân dân, thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, quá trình CPH DNNN vẫn còn bộc lộ nhiều thiếu sót, bất cập mà một trong những nguyên nhân của nó là hệ thống pháp luật về CPH DNNN và pháp luật liên quan đến hoạt động của DN sau CPH vẫn chưa được hoàn thiện và còn nhiều vướng mắc khi thực hiện. Do đó có ảnh hưởng nhất định tới tiến trình CPH DNNN. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện qui định pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước từ thực tiễn ngành dược” với mong muốn được đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu chủ trương của Đảng và Nhà nước về CPH DNNN. Trên cơ sở nghiên cứu qui định pháp luật về CPH DNNN và qui định pháp luật điều chỉnh hoạt động của DN sau CPH cũng như thực tiễn áp dụng các qui định pháp luật này trong ngành dược, luận văn đã tìm ra các khó khăn, vướng mắc cần khắc phục và từ đó đề ra một số giải pháp pháp lý nhằm thúc đẩy quá trình CPH DNNN nói chung cũng như DNDNN nói riêng. Các giải pháp này cần được sử dụng kết hợp với nhau một cách hợp lý cùng với sự cố gắng nỗ lực từ phía Nhà nước, các Bộ, ngành, doanh nghiệp, các nhà đầu tư và sự ủng hộ của quần chúng nhân dân. Có như vậy CPH DNNN nói chung và CPH DNDNN nói riêng mới đi đến thành công và đạt được mục tiêu đề ra.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32432.doc
Tài liệu liên quan