Luận văn Hoàn thiện và mở rộng hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTMQD nói chung, tín dụng XNK và TTQT nói riêng là vấn đề bức thiết và phức tạp hiện nay. Với mong muốn tìm hiểu, đề xuất những giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng và TTQT góp phần đẩy mạnh hoạt động XNK trong giai đoạn tới của Việt Nam, nội dung luận văn đã tập trung làm rõ các nội dung sau : Một là : Khái quát hoá những vấn đề lý luận về kinh doanh XNK và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động XNK; đặc điểm của NHTM và vai trò của nó đối với hoạt động XNK. Trên cơ sở phân tích rõ các khái niệm, căn cứ lý luận về tín dụng và các hình thức của nó trong nền KTTT, các hình thức tín dụng tài trợ XNK, luận văn đã tập trung làm rõ vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động XNK. Cùng với vấn đề này luận văn đồng thời đã phân tích làm rõ những khái niệm về TTQT và vai trò của nó đối với hoạt động XNK. Hai là : Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng XNK và TTQT của các NHTMQD trên 2 mặt: thành công và tồn tại. Trên cơ sở đó luận văn đã nêu rõ những nguyên nhân gây tồn tại, yếu kém cho hoạt động tín dụng nói chung, tín dụng XNK và TTQT. Ba là : Trình bày và phân tích rõ những định hướng hoạt động tài trợ XNK của các NHTMQD góp phần thúc đẩy hoạt động XNK. Bốn là : Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng XNK và TTQT của các NHTMQD nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển hoạt động XNK. Các giải pháp được chia thành 2 nhóm lớn : - Nhóm giải pháp đổi mới và nâng cao hiệu quả thực thi các cơ chế chính sách kinh tế - tài chính - tiền tệ. - Nhóm giải pháp của hệ thống NHTMQD. Để các giải pháp được thực thi có hiệu quả luận văn cũng đã đề xuất kiến nghị với Nhà nước, chính phủ, ngân hàng nhà nước, các ngành chức năng của chính phủ về việc đổi mới cơ chế chính sách, tạo môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng. Nâng cao hiệu quả tín dụng và TTQT của hệ thống NHTMQD đáp ứng nhu cầu XNK không những là vấn đề đang được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm, vấn đề có tính thời sự trên các diễn đàn quốc tế, mà còn rất bức xúc cho các nhà điều hành hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, với dung lượng nghiên cứu của luận văn cao học chắc chắn rằng luận văn còn nhiều thiếu sót, hạn chế. Tác giả luận văn mong muốn nhận được nhiều ý kiến chỉ dẫn, góp ý của các nhà khoa học là cán bộ giảng dạy trực tiếp, các nhà khoa học, cán bộ quản lý.

doc107 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1233 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện và mở rộng hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội, trong đó tín dụng trung dài hạn duy trì 40% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế; - Cho vay kinh tế nhà nước (quốc doanh) chiếm 35% và cho vay các thành phần kinh tế khác (ngoài quốc doanh) chiếm 65% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. - Mức độ rủi ro : Vốn tự có/Tổng tài sản có 8%. - Chất lượng tín dụng : tỷ lệ nợ quá hạn dưới 4% theo kiểm toán quốc tế. - Khả năng sinh lời (ROE) bình quân đạt 14 - 16%. - Một số ngân hàng mạnh có quy mô vốn tự có đạt 300 - 500 triệu USD vào năm 2005 và đạt 700 - 800 triệu USD vào năm 2010. - Nâng tỷ trọng cán bộ ngân hàng có trình độ đại học từ 36% như hiện nay lên 50% vào năm 2005 và 70% vào năm 2010 {34}. 3.1.2. Định hướng hoạt động tín dụng XNK và TTQT của các NHTMQD giai đoạn tới Đối với hoạt động tín dụng XNK và TTQT, ngoài việc quán triệt các định hướng nêu trên cần phải quán triệt các định hướng chỉ đạo hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung, XNK nói riêng và hoạt động kinh tế đối ngoại của toàn hệ thống ngân hàng. Trong hoạt động huy động vốn, phải coi nguồn vốn nước ngoài là quan trọng nhưng vốn trong nước phải giữ vai trò quyết định. Huy động vốn rất quan trọng nhưng việc sử dụng vốn có hiệu quả mới thực sự là vấn đề quyết định. Hoạt động đối ngoại của ngân hàng Việt Nam phải góp phần cho quá trình tiền tệ hoá mọi hoạt động kinh tế nói chung và thực sự phục vụ tốt cho hoạt động kinh tế đối ngoại của đất nước như hoạt động xuất nhập khẩu, hợp tác và đầu tư nước ngoài, hợp tác và trao đổi quốc tế về khoa học công nghệ... Ngân hàng phải có giải pháp nghiệp vụ để bảo tồn nguồn vốn ngoại tệ của các doanh nghiệp và của nhà nước. Ngân hàng phải đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thế cân bằng giữa hoạt động kinh tế đối ngoại (cân bằng trong cán cân thanh toán quốc tế) và hoạt động kinh tế đối nội (mức toàn dụng lao động và sự ổn định giá cả). Để thực hiện điều này cần xây dựng được những chính sách cần thiết như chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá, chính sách tài khoá và sự phối hợp giữa các chính sách đó {11}. Mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại của hệ thống ngân hàng phải nắm vững tính hai mặt (lợi ích và bất lợi) của quá trình hội nhập để chủ động trong việc phát huy lợi thế và hạn chế phòng ngừa những khả năng bất lợi nhằm xác định những bước đi thích hợp, tính hai mặt này phụ thuộc vào tình hình, điều kiện kinh tế và trình độ phát triển ngân hàng của mỗi quốc gia. Thực tế cho thấy, về lĩnh vực ngân hàng, mỗi quốc gia có những bước đi và lộ trình hội nhập rất khác nhau. Đối với nước ta, hệ thống ngân hàng còn non yếu thì việc đưa ra những bước đi thích hợp là hết sức cần thiết. Trước hết, cần phải hiểu rõ những lợi thế và bất lợi sau : - Những lợi thế chủ yếu : + Mở cửa, hội nhập quốc tế về ngân hàng là việc khơi thông các kênh luân chuyển vốn từ nước ngoài vào thị trường Việt Nam - nơi đang cần nhiều vốn đầu tư, đồng thời góp phần khơi dậy, kích hoạt các nguồn vốn tiềm năng trong nước. Do các ngân hàng trong nước chưa đủ trình độ để khai thác hay do cần một cơ chế hiệu ứng, hội nhập quốc tế cũng tạo điều kiện cho các NHTM Việt Nam, các tập đoàn kinh tế Việt Nam có cơ hội đầu tư ra nước ngoài. + Mở cửa, hội nhập quốc tế về ngân hàng là điều kiện quan trọng để tăng cường sức mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam trên các lĩnh vực như vốn, kinh nghiệm quản lý, điều hành, hiện đại hoá công nghệ và tăng cường các dịch vụ ngân hàng mới. + Mở cửa, hội nhập quốc tế về ngân hàng cũng tạo ra sức ép cạnh tranh cần thiết để cơ cấu lại các NHTM Việt Nam và nâng cao chất lượng hoạt động của cả hệ thống, tạo động lực thúc đẩy quá trình đổi mới, năng động phấn đấu vươn lên xoá bỏ tính trì trệ, ỷ lại của các NHTM Việt Nam. + Mở cửa hội nhập quốc tế về ngân hàng còn góp phần quan trọng vào việc ổn định kinh tế vĩ mô (lạm phát, tỷ giá hối đoái, cán cân thanh toán quốc tế...) nâng cao uy tín của hệ thống ngân hàng Việt Nam trên trường quốc tế. + Mở cửa, hội nhập quốc tế về ngân hàng góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng hiện đại cho một nền kinh tế mở mà hiện nay các ngân hàng Việt Nam chưa đủ sức và năng lực đáp ứng được. Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế với mức tăng trưởng cao cần thiết phải có các ngân hàng đủ mạnh có tầm cỡ quốc tế. - Những bất lợi có thể gặp phải : + Mở cửa, hội nhập quốc tế về ngân hàng là phải chấp nhận cơ chế cạnh tranh khốc liệt. Do vậy, giai đoạn đầu các ngân hàng trong nước có thể bị giảm hoặc mất thị trường và khách hàng. Trong quá trình cạnh tranh cũng có thể xảy ra tình trạng ngày càng xấu đi và đi đến phá sản hoặc bị thôn tính nếu làm ăn kém hiệu quả, không đủ khả năng vươn lên. + Do hạn chế về năng lực và chất lượng dịch vụ ngân hàng, với điểm xuất phát thấp, các NHTM Việt Nam sẽ chịu sức ép cạnh tranh lớn, gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển. + Tàn dư nặng nề của cơ chế hành chính bao cấp cũ đã hạn chế tính năng động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các NHTMQD ở Việt Nam. Điều này tạo một lực cản đối với quá trình phát triển trong môi trường cạnh tranh, là thách thức nghiệt ngã đòi hỏi một quá trình đổi mới kiên quyết không ngừng của từng ngân hàng và toàn ngành, toàn xã hội. + Với mức độ cạnh tranh và rủi ro cao hơn phát sinh từ hội nhập, nền kinh tế đất nước và hệ thống ngân hàng dễ bị tổn thương do tác động từ bên ngoài, nếu hệ thống doanh nghiệp và ngân hàng Việt Nam không đủ mạnh. Nhằm đáp ứng yêu cầu mở rộng hoạt động XNK theo những chỉ tiêu đã xác định cho giai đoạn tới, hoạt động đối ngoại của các NHTMQD cần nhằm vào các mục tiêu sau : - Phục vụ tốt các doanh nghiệp trong nước trong quá trình mở rộng hoạt động kinh tế ra thị trường nước ngoài, trước mắt và chủ yếu là hoạt động XNK. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi ngân hàng phải xác định được định hướng thị trường, ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh mà doanh nghiệp vươn tới để hỗ trợ, tư vấn cho họ về các vấn đề tài chính, cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cần thiết để giúp họ hoạch định và thực hiện chiến lược kinh doanh có hiệu quả. - Đối với các NHTMQD, giai đoạn đầu cần coi trọng việc duy trì và mở rộng thị phần kinh doanh đối ngoại ngay tại thị trường nội địa, cạnh tranh có hiệu quả với các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Bước tiếp theo là cùng các doanh nghiệp mở rộng phạm vi kinh doanh tới các thị trường quốc tế nơi doanh nghiệp phát triển thương mại, hàng hoá XNK và dịch vụ, đầu tư ra bên ngoài. - Học hỏi kinh nghiệm quản lý và công nghệ tiên tiến của ngân hàng nước ngoài để nâng cao trình độ và khả năng hoạt động của hệ thống ngân hàng trong nước, cải tiến chất lượng dịch vụ, mang đến cho khách hàng nhiều tiện ích ngân hàng hiện đại. - Ngân hàng cần làm cầu nối thu hút vốn từ bên ngoài về trong nước phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Đến khi có những điều kiện, môi trường thích hợp cần phải tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư vốn an toàn, sinh lời trên thị trường quốc tế. Để làm tốt việc này cần phải có khả năng lựa chọn thị trường, đối tác sản phẩm đầu tư cùng với trình độ quản lý rủi ro và dự báo rủi ro v.v... Về định hướng thị trường XNK: Trong điều kiện hiện nay khi mà nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng Việt Nam còn nhiều mặt yếu kém thì yếu tố quyết định cho sự thành công của các NHTM trong hoạt động kinh tế đối ngoại là đi theo chân các doanh nghiệp trong nước. Do vậy, cần tìm định hướng thị trường một cách chính xác. Để làm điều đó phải xác định đúng thực trạng và triển vọng hoạt động XNK của Việt Nam giai đoạn tới. Về cơ cấu hàng xuất khẩu : Thực trạng hiện nay ngoài dầu thô Việt Nam chủ yếu tập trung xuất khẩu các mặt hàng nông sản và nguyên liệu, gần đây đã có sự chuyển biến theo hướng tăng các mặt hàng nông sản thực phẩm chế biến và hàng công nghiệp chế biến (với tốc độ tăng khá nhanh) {PL 5, 6}. Về thị trường xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu tập trung XK vào khu vực Châu Á cụ thể là các nước ASEAN, Nhật Bản. Về ngoại tệ trao đổi thì hầu hết các giao dịch thanh toán quốc tế đều tiến hành bằng đồng đô la Mỹ. Đặc điểm nổi bật của hàng hoá xuất khẩu hiện nay của Việt Nam là loại sản phẩm có tỷ trọng lao động cao và dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Từ các đặc điểm nêu trên, nhu cầu XK của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tập trung vào những quốc gia, khu vực mà Việt Nam có được các lợi thế cạnh tranh về nguồn tài nguyên, khí hậu, lao động v.v... Trong tương lai, thị trường Nga và Trung Quốc có khả năng tăng trưởng nhanh. Bởi vì, với thị trường Nga hàng hoá của Việt nam còn có khả năng tiêu thụ được vì có sức cạnh tranh nhất định. Sự sụt giảm xuất khẩu sang thị trường Nga thời gian qua chủ yếu do sự bất ổn về chính trị và những khó khăn trong cơ chế thanh toán qua ngân hàng giữa 2 quốc gia. Thực tế cho thấy triển vọng giải quyết các vấn đề nêu trên rất khả quan, đây chính là điều kiện mở đường cho việc mở rộng xuất khẩu sang thị trường này. Về thị trường Trung Quốc, mặc dù thời gian qua hàng Trung Quốc cạnh tranh gay gắt với hàng hoá Việt Nam, nhưng tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này khá lớn, nhất là sau khi Trung Quốc gia nhập WTO. Các cảng biển của Việt Nam là điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp nằm ở khu vực phía Nam cũng như khu vực nằm sâu trong lục địa của Trung Quốc thực hiện XNK hàng hoá. Đồng thời đây cũng là nơi mà hàng hoá và nguyên liệu của Việt Nam có thể xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Ngoài ra, thị trường Trung đông và Châu Phi cũng là những khu vực mới cần tìm tòi khai thác để xuất khẩu những hàng hoá của Việt Nam phù hợp với nhu cầu của họ. Trong chiến lược phát triển XNK giai đoạn tới của Việt Nam, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu dự kiến có sự chuyển dịch từ nhóm hàng thô sang nhóm hàng chế biến và chế tạo có hàm lượng công nghệ cao hơn. Đồng thời tỷ trọng xuất khẩu dịch vụ sẽ nâng cao. Theo đó, thị trường hàng xuất khẩu của Việt Nam vào khu vực Bắc Mỹ và EU sẽ tăng nhanh. Dự kiến kim ngạch XNK với ASEAN và Trung Quốc chiếm 45 - 50% tổng kim ngạch XNK, EU chiếm 27 - 30%; Hoa Kỳ và Bắc Mỹ chiếm 15 - 20%. Do vậy, ngay từ bây giờ cần định hướng cho hàng hoá Việt Nam khai thác các lợi thế của mình để tìm cách chen chân vào thị trường Mỹ và Bắc Mỹ. Đây là những thị trường tiềm năng, có khả năng tiêu thụ khối lượng lớn, đa dạng về chủng loại và giá cả. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ triển khai mở ra triển vọng to lớn cho quan hệ thương mại giữa 2 quốc gia. Đồng thời, đây cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp hoạt động XNK và các NHTM của Việt Nam tận dụng đẩy mạnh kinh doanh vào các thị trường này. Xét về bản thân hệ thống NHTMVN do chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế về hoạt động ngân hàng nên trong thời gian tới các NHTM VN chưa thể tham gia một cách đầy đủ vào các thị trường có tiêu chuẩn cao trong khu vực cũng như trên thế giới như Singapore, London, New York... Bởi vậy, trong giai đoạn hiện nay các NHTM Việt Nam cần quan tâm củng cố và phát triển quan hệ đại lý với các NHTM có uy tín tại các nước mà Việt Nam có quan hệ thương mại, tăng cường đầu tư để phục vụ đầy đủ và đáp ứng yêu cầu về vốn, TTQT, và các dịch vụ ngân hàng đối ngoại của các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, trước khi hệ thống NHTM Việt Nam có đủ khả năng thành lập chi nhánh và phát triển kinh doanh tiền tệ tại các thị trường tài chính lớn của nước ngoài. Với quy mô sử dụng đồng đô la Mỹ trong thanh toán như hiện nay, việc các NHTM Việt Nam (trước hết là các NHTMQD) hướng hoạt động vào thị trường Mỹ là một trong những yêu cầu cần thiết. Hiện tại, chúng ta vẫn phải thanh toán đồng đô la Mỹ thông qua các ngân hàng Mỹ. Kết quả việc làm này một mặt chúng ta phải tốn một khoản chi phí trả cho các ngân hàng đại lý, mặt khác, còn tiềm ẩn yếu tố bị động trong việc quản lý các tài sản bằng đô la Mỹ. Tuy vậy, để có mặt tại thị trường này là điều hết sức khó khăn đối với các NHTM của Việt Nam, bởi lẽ đây là thị trường tài chính phát triển nhất thế giới. Cần phải xác định thị trường Mỹ là mục tiêu cần hướng tới trong tương lai nhằm mục tiêu phục vụ tốt nhất cho sự phát triển hoạt động XNK và của chính sự phát triển của cácNHTM Việt Nam. Ngoài những yếu tố chủ quan như đã nêu trên, việc phát triển ra thị trường quốc tế còn phụ thuộc nhiều vào các quy định của nước sở tại trong các hoạt động ngân hàng. Do vậy, giai đoạn trước mắt các NHTM của Việt Nam có thể đi theo 2 hướng sau : Một là, đối với các thị trường có trình độ phát triển thấp hoặc ngang bằng Việt Nam, chúng ta có thể thành lập ngay ngân hàng liên doanh hoặc chi nhánh ở nước đó; Hai là, đối với những thị trường có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam thì mục tiêu hiện tại là tập trung vào việc nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm của các đối tác, bước đầu, chỉ nên dừng lại ở mức thành lập văn phòng đại diện. Trên cơ sở tìm hiểu và thiết lập quan hệ ban đầu chúng ta sẽ quyết định lựa chọn những thị trường thích hợp nhất cho việc mở rộng và phát triển với quy mô lớn hơn cho tương lai {31, 39}. Trên cơ sở những định hướng nêu trên, tuỳ theo khả năng, mức độ và điều kiện cụ thể, từng NHTMQD phải xác định cụ thể định hướng mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại của ngân hàng mình, hướng tới mục tiêu không ngừng đổi mới, mở rộng, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động nói chung, hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng nhằm mục tiêu giữ vững và tăng cường uy tín đối với khách hàng nói chung, uy tín đối ngoại nói riêng, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để tranh thủ vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các ngân hàng nước ngoài và các đối tác quốc tế, chuẩn bị mọi điều kiện và các nguồn lực để hội nhập quốc tế thành công. 3.2. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG VÀ TTQT CỦA CÁC NHTMQD 3.2.1. Nhóm giải pháp đổi mới và nâng cao hiệu quả thực thi các cơ chế chính sách tài chính - tiền tệ 3.2.1.1. Về cơ chế chính sách tài chính - tiền tệ Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách tài chính - tiền tệ để tạo hành lang và điều kiện trực tiếp cho điều hành hoạt động tín dụng hiệu quả là vấn đề hết sức cần thiết. Tuy vậy, nội dung, bước đi trong quá trình đổi mới phải tương thích với hoàn cảnh cụ thể của nền kinh tế, đòi hỏi vừa phải đổi mới toàn diện vừa phải tháo gỡ từng khâu gay cấn và phải đồng bộ với cơ chế luật lệ liên quan. Trước mắt cần phải thực hiện tốt quá trình làm lành mạnh hoá tài chính và nâng cao năng lực tài chính của các NHTMQD. Nội dung của giải pháp này nhằm giải quyết 2 vấn đề: xử lý nợ tồn đọng và tăng vốn tự có cho các NHTMQD. Trước hết cần phải xử lý triệt để nợ tồn đọng, làm sạch bảng tổng kết tài sản, phấn đấu giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống dưới 5% tổng dư nợ theo tiêu chuẩn quốc tế, thông qua việc thành lập Ban cơ cấu tài chính các NHTM và các công ty mua bán và xử lý nợ tồn đọng tại các NHTMQD {34, 36}. Trong năm 2002 quá trình xử lý nợ tồn đọng đã thu được kết quả tốt (xử lý được 5.000 tỷ đồng), tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ nợ tồn đọng của các NHTMQD vẫn ở mức khá cao. Số nợ tồn đọng bao gồm nhiều loại với nguồn gốc và đặc điểm khác nhau hết sức phức tạp. Bởi vậy, phải làm tốt khâu phân loại nợ tồn đọng, xem xét đánh giá mức độ, đặc điểm, thời gian nảy sinh nợ và điều kiện khả năng giải quyết thực tế vấn đề nợ tồn đọng để quyết định phương pháp xử lý thích hợp. Thí dụ : với một lượng lớn nợ tồn đọng quá lâu do thiên tai, do chuyển đổi cơ chế, do đầu tư vào những dự án kém hiệu quả mà chính phủ chỉ định cho vay thì từng ngân hàng phải có cơ sở đầy đủ để thuyết trình chính phủ cho xoá nợ. Bởi vì loại nợ này thực tế không còn khả năng thu hồi, cần xem nó là sự rủi ro của chính phủ. Một bộ phận nợ tồn đọng của NHTMQD do nguyên nhân khách hàng lừa đảo, dùng một tài sản để thế chấp vay vốn nhiều ngân hàng, việc giải quyết giữa các NHTM là rất phức tạp. Bởi vậy, cần có một cơ chế giải quyết của NHNN. Để xử lý tốt vấn đề nợ tồn đọng cần tạo lập môi trường và cơ sở pháp lý rõ ràng bằng cơ chế chính sách từ chính phủ, các ngành hữu quan, NHNN và biện pháp của từng NHTMQD. Căn cứ vào điều kiện cụ thể, mỗi NHTMQD phải có biện pháp thu nợ phù hợp, tích cực bằng mọi hình thức (kể cả xiết nợ) để thu được nợ và giảm nợ quá hạn. Định hướng lâu dài là phần lớn nợ quá hạn khi phát sinh được loại trừ ngay bằng quỹ dự phòng rủi ro. Trước mắt, quỹ dự phòng rủi ro chưa đủ lớn, khoản nợ nào mà ngân hàng có khả năng thu được nhanh (nợ quá hạn do người vay mất khả năng thanh toán tạm thời) thì từng ngân hàng tự thu để giảm nợ quá hạn. Số nợ qúa hạn khác bán nợ cho công ty chuyên trách giải quyết nợ quá hạn để công ty này có biện pháp xử lý. Để thúc đẩy quá trình xử lý nợ tồn đọng cần tạo ra cơ chế ràng buộc và khuyến khích các NHTMQD nhanh chóng xử lý nợ và tài sản tồn đọng, cần phải gắn với việc cấp vốn bổ sung cho các NHTMQD với tiến độ bán tài sản và xử lý nợ. Thực tế trong năm 2002 các NHTMQD đã xử lý được 5.000 tỷ đồng nợ tồn đọng bằng các giải pháp như phát mại tài sản thế chấp, sử dụng quỹ dự phòng rủi ro.... Do đó, tỷ lệ nợ xấu đã giảm đáng kể so với năm trước. Thứ hai - tăng vốn tự có của các NHTMQD. Song song với việc giải quyết nợ xấu, lành mạnh hoá tài chính của NHTMQD là việc tăng cường khả năng về vốn tự có để từng bước phù hợp với chuẩn mực quốc tế và khu vực. Đây là vấn đề hết sức cấp bách đối với các NHTMQD. Bởi lẽ tăng vốn tự có là nhân tố quyết định để tăng năng lực hoạt động của ngân hàng : mở rộng huy động vốn, đầu tư phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và thực hiện tỷ lệ an toàn tối thiểu theo chuẩn mực quốc tế. Theo quy định, mức cho vay đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng. Trong khi đó vốn tự có quy định vừa thấp lại không cấp đủ thì vốn đầu tư cho những dự án lớn, các ngành có khối lượng XNK lớn các NHTMQD không có khả năng đáp ứng. Điều này là một trong những nguyên nhân làm giảm khả năng cạnh tranh của các NHTMQD ngay ở thị trường trong nước. Theo chuẩn mực quốc tế, tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản có phải đạt mức 8% mới là mức an toàn tối thiểu. Theo đó thì số lượng vốn cần được cấp bổ sung cho các NHTMQD là trên 10.000 tỷ đồng. Ước tính, để đảm bảo mức tăng dư nợ bình quân ở mức 18%/năm thì mức vốn tối thiểu của các NHTMQD phải đạt 23.000 tỷ vào thời điểm cuối năm 2003. Vốn tự có của các NHTMQD có thể được bổ sung bằng các nguồn sau : - Chính phủ và Bộ Tài chính cho phép NHTMQD giữ lại phần thu thuế sử dụng vốn để tăng vốn tự có. - Chính phủ cho phép chuyển phần vốn vay từ ngân hàng thế giới (WB) và quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) theo chương trình tái cơ cấu cho các NHTMQD và cho phép các ngân hàng này không phải nộp thuế sử dụng vốn hàng năm để các ngân hàng nhận vốn vay tăng vốn tự có, được sử dụng khoản thuế vốn này hoàn trả khoản vay theo các điều kiện của IMF và WB. - Ổn định mức nộp ngân sách (lấy năm 2000 làm mốc) trong 3 năm để khuyến khích các NHTMQD phấn đấu vượt chỉ tiêu lợi nhuận, cho phép lấy phần vượt để bổ sung vốn tự có. - Khuyến khích các NHTMQD tích cực thu hồi các khoản nợ đã khoanh để bổ sung vốn tự có... Thực tế trong năm 2002 Bộ tài chính và NHNN đã quyết định cấp bổ sung 4.700 tỷ đồng vốn điều lệ cho các NHTMQD bằng trái phiếu đặc biệt của Chính phủ. Trong đó NHNo&PTNT được cấp1.500 tỷ đồng, NH phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long - 200 tỷ đồng, NHNT - 1.000 tỷ đồng, NHĐT&PT - 1.000 tỷ đồng, NHCT - 1.000 tỷ đồng. Đây mới chỉ là đợt đầu cấp bổ sung vốn điều lệ cho các NHTMQD. Bộ tài chính và NHNN sẽ còn tiếp tục xem xét cấp bổ sung vốn điều lệ cho các NH này trong thời gian tới. Thứ ba, cần bổ sung một số công cụ tài chính cho thị trường tiền tệ như thương phiếu, hối phiếu và các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng, vận dụng công cụ lãi suất một cách thực tế hơn. Theo đó chính phủ phải thành lập một quỹ chuyên dùng tại NHNN để thường xuyên bù đắp chênh lệch lãi suất huy động vốn cao hơn bình thường của các NHTMQD nhằm huy động nhiều nguồn vốn trung và dài hạn để cho vay trung và dài hạn với các dự án cần thiết, đặc biệt là các dự án sản xuất kinh doanh xuất khẩu được xác định cần ưu tiên. Thứ tư, thiết lập mạng lưới an toàn cho hoạt động tín dụng ngân hàng thông qua các quỹ như : quỹ dự phòng rủi ro, quỹ bảo hiểm tín dụng, quỹ bảo hiểm tiền gửi và tạo cơ chế vận hành cho các quỹ này hoạt động tốt. Vấn đề này thuộc về sự can thiệp của nhà nước trước hết là NHNN và Bộ tài chính. Đặc biệt đối với quỹ bảo hiểm tín dụng, đây là lưới an toàn thứ 3 trong hoạt động tín dụng ngân hàng, loại hình bảo hiểm này đã xuất hiện trên thế giới từ lâu, trước hết nó cần thiết cho an toàn tín dụng XNK. Trước mắt, chúng ta nên tham gia tích cực bảo hiểm tín dụng quốc tế. 3.2.1.2. Về môi trường pháp lý và cơ sở pháp lý Nhà nước cần tạo ra môi truờng pháp lý thuận lợi và cơ sở pháp lý rõ ràng cho hoạt động của các NHTM, tức là phải bảo đảm đầy đủ các văn bản pháp quy, điều chỉnh cần thiết và có tính hiệu năng cao. Trong điều kiện môi trường kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, việc tạo ra môi trường pháp lý thật thuận lợi cho hoạt động của các NHTM quả thực không dễ. Song, những yếu tố nào, điều kiện nào, phạm vi nào có thể điều chỉnh lại hoặc tạo ra môi trường mới thì cần phải giải quyết kịp thời. Phạm vi môi trường pháp lý và cơ sở pháp lý liên quan đến hoạt động tín dụng và TTQT là rộng lớn. Luận văn chỉ đề cập tới một số điểm trực tiếp nhất nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng và TTQT trong điều kiện hiện nay đó là : vấn đề tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp, nghĩa vụ của người vay và trách nhiệm của người cho vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng, những biện pháp tiếp tục bổ sung và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật đối với hoạt động TTQT. Thứ nhất, cần khẳng định quan hệ tín dụng trên cơ sở hợp đồng tín dụng là quan hệ kinh tế dân sự, do đó nó phải được điều chỉnh bởi Bộ luật cao nhất là Luật dân sự. Các văn bản pháp quy dưới Luật hoặc Luật khác liên quan phải thống nhất với luật dân sự đó. Thứ hai, để tài sản thế chấp trong quan hệ tín dụng đủ pháp lý thì trước hết nó phải đủ pháp lý và pháp lý duy nhất (tức là chỉ một giấy tờ pháp lý). Muốn vậy phải tăng cường hiệu năng của cơ quan cấp quyền sở hữu tài sản. Tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng phải được đăng ký với một tổ chức có nối mạng thông tin phục vụ các tổ chức tín dụng. Thứ ba, đã công nhận quan hệ tín dụng là quan hệ dân sự thì ngân hàng nhận tài sản thế chấp trong quan hệ tín dụng đó phải được quyền sở hữu tài sản thế chấp khi bên thế chấp không thực hiện cam kết tín dụng, nghĩa là, ngân hàng thu tài sản thế chấp vô điều kiện. Thứ tư, tài sản thế chấp mà ngân hàng sở hữu thực chất là bộ phận nguồn vốn của ngân hàng và là vốn “đi vay để cho vay”. Do vậy, ngân hàng phải được khai thác nó, tạo sinh lời, hoặc chuyển hoá nó thành tiền để cho vay. Bởi vậy, phải xem đây là một nghiệp vụ thường xuyên của ngân hàng và được công nhận pháp lý trong hoạt động ngân hàng. Thứ năm, để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động TTQT, Nhà nước và các cơ quan hữu quan cần ban hành luật ngoại hối, luật hối phiếu, luật séc và các văn bản điều chỉnh hoạt động TTQT, cần có những chính sách phù hợp khuyến khích phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Cụ thể là : đa dạng hoá các loại ngoại tệ được phép mua bán trên thị trường, đa dạng hoá hình thức mua bán trên thị trường, cho phép tăng cường đội ngũ những nhà môi giới trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, cho phép một số chi nhánh lớn mở tài khoản ngoại tệ tại nước ngoài. Thứ sáu, việc xử lý những tồn đọng hiện nay của các NHTMQD cần có chính sách nhưng phải có cơ chế pháp lý cần thiết. Bởi vậy, cần tạo cho ngân hàng đủ cơ chế pháp lý. Để đảm bảo tính hiệu năng cao của văn bản pháp quy nên có một văn bản duy nhất, dưới nó là các văn bản hướng dẫn. Cần tránh ra quá nhiều văn bản thực hiện với những nội dung chồng chéo, gây khó khăn cho ngân hàng. 3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng và TTQT của NHTMQD góp phần đẩy mạnh hoạt động XNK 3.2.2.1. Hoàn thiện quy trình tín dụng Hiện nay quy trình tín dụng được xem là quá trình thực hiện các bước: tiếp nhận hồ sơ xin vay, kiểm tra và phán quyết cho vay, kiểm tra và thu nợ khoản vay. Quá trình như vậy là chưa đủ. Một quy trình tín dụng đầy đủ là quá trình bao gồm các bước xử lý của TCTD từ việc tìm ra dự án để cho vay, đến tiếp nhận hồ sơ xin vay, thẩm định và quyết định cho vay, kiểm tra sử dụng vốn vay, đôn đốc và xử lý thu nợ, đánh giá chất lượng khoản vay. Đây là một quy trình bắt buộc đảm bảo cho việc cấp tín dụng của ngân hàng đạt chất lượng và hiệu quả. Việc thực hiện không đầy đủ các bước trong quy trình đó, có thể dẫn đến hiệu quả xấu, trở thành khoản tín dụng tồi ngay sau đó. Bởi vậy, muốn nâng cao hiệu quả tín dụng, thì các NHTMQD phải sớm tiến hành quy trình hoá, cơ chế hoá quy trình tín dụng để bắt buộc từng cơ sở ngân hàng nghiêm túc thực hiện góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. 3.2.2.2. Cải tiến quy trình thẩm định và nâng cao năng lực thẩm định tín dụng các dự án sản xuất kinh doanh XNK Để nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng nói chung, tín dụng XNK nói riêng, vấn đề nâng cao khả năng thẩm định dự án vay vốn phải được xem là yếu tố then chốt. Chỉ có thông qua thẩm định dự án vay vốn, ngân hàng mới đánh giá được thực trạng tài chính và khả năng trả nợ của doanh nghiệp để quyết định cho vay hay không. Thực tế cho thấy, một khoản vay có thể chuyển thành một khoản nợ khó đòi ngay sau khi xét duyệt dự án, nếu cán bộ tín dụng yếu kém, cấp trên buông lỏng quản lý. Đặc biệt là các dự án XNK, vốn hay chứa đựng khả năng rủi ro. Để đảm bảo tính hiệu quả, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải xây dựng dự án trên cơ sở tính khả thi cao, chủ động tìm kiếm các quỹ hỗ trợ để trong quá trình thẩm định dự án, các ngân hàng có thể giảm thấp phần vốn đối ứng của doanh nghiệp khi vay. Mặt khác, các NHTMQD không chỉ đóng vai trò người thẩm định dự án mà còn là người tư vấn cho doanh nghiệp trong việc tìm kiếm dự án đầu tư có hiệu quả. Muốn vậy, đòi hỏi người cán bộ ngân hàng không những phải am hiểu về nghiệp vụ thẩm định dự án mà còn phải có hiểu biết nghiệp vụ đầu tư kinh doanh. Để đáp ứng yêu cầu đó, các NHTMQD phải đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ, tiếp ứng ngay với điều kiện kinh doanh mới trong cơ chế thị trường. Ngoài ra, ngân hàng cần phải nghiên cứu xây dựng một hệ thống chỉ tiêu phân tích dự án cần thiết, phù hợp với cơ chế luật lệ. Mặt khác, để nâng cao tính tự chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định, yêu cầu phải pháp chế hoá cơ chế thẩm định dự án vay vốn, quy định rõ để dễ kiểm tra trách nhiệm từ người thẩm định, người cho vay đến người phán quyết cho vay. Chỉ có thẩm định dự án đầu tư tốt thì ngân hàng cho vay mới phát huy được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và có đầy đủ cơ sở thuyết trình các cấp liên quan trong trường hợp từ chối cho vay, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng XNK, hạn chế đến mức tối thiểu yếu tố chủ quan trong việc thẩm định và xét duyệt cho vay. Để công tác thẩm định dự án vay vốn đổi mới nhanh và có kết quả các NHTMQD cần coi đây là một khâu quan trọng trong thực hiện quy trình cho vay. 3.2.2.3. Mở rộng tín dụng trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Để thực hiện chỉ tiêu tăng trưởng kim ngạch XNK giai đoạn tới đòi hỏi phải mở rộng thị trường xuất khẩu bằng hàng hoá chất lượng cao, khối lượng lớn. Bởi vậy, nhu cầu tất yếu phải có chiến lược đầu tư cho các dự án sản xuất kinh doanh XNK với quy mô ngày càng tăng cùng với việc xây dựng chiến lược phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Để làm điều đó cùng với việc nghiên cứu, lựa chọn lĩnh vực, ngành hàng, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn phải có sự đầu tư đồng bộ về công nghệ sản xuất, chế biến xuất khẩu, nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động v.v... Vì vậy, NHTMQD cần tăng cường hỗ trợ cho các doanh nghiệp XNK vay vốn trung và dài hạn để mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh. Để mở rộng tín dụng trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, trước hết phải mở rộng các dự án đầu tư đáp ứng cơ cấu đầu tư có hiệu quả đảm bảo hoàn vốn vay. Yêu cầu này đòi hỏi các NHTMQD phải thực sự đổi mới quan điểm, chiến lược khách hàng, từ chỗ khách hàng có dự án đầu tư tìm đến ngân hàng thay bằng ngân hàng chủ động tìm đến dự án đầu tư. Hơn thế nữa, ngân hàng phải là người tư vấn tích cực cùng doanh nghiệp XNK tìm ra dự án để đầu tư vốn có hiệu quả. Việc mở rộng tín dụng trung và dài hạn đòi hỏi ngân hàng phải cải tiến nghiệp vụ huy động vốn, mở ra các hình thức huy động vốn hấp dẫn người gửi tiền để thu hút tiền gửi trung và dài hạn. Trong tình hình hiện nay, do chưa có điều kiện tăng nhanh mức huy động vốn dài hạn thì có thể liên tục huy động vốn loại có thời hạn 1 đến 2 năm, lấy nguồn vốn huy động lần sau để thanh toán tiền gửi huy động lần trước. Cùng với huy động vốn trung và dài hạn để cho vay trung và dài hạn, NHTMQD là những ngân hàng có khả năng huy động tiền gửi ngắn hạn tăng lên liên tục, ổn định, do vậy vẫn sử dụng được một tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Tuy nhiên, để đảm bảo khả năng thanh toán, đòi hỏi từng ngân hàng phải làm tốt công tác kế hoạch hoá nguồn vốn và sử dụng vốn đảm bảo khoa học, mặt khác phải giữ uy tín, tuyệt đối tránh tình trạng người gửi tiền ồ ạt đến rút tiền. Việc sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn là việc làm khá nguy hiểm, bởi vậy, NHNN cần phải có quy chế xử lý. 3.2.2.4. Lựa chọn các hình thức tín dụng thích hợp đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Nhằm góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng XNK các NHTMQD cần phải phân loại các doanh nghiệp hoạt động XNK để có chính sách đầu tư thích hợp, có hiệu quả và an toàn. Thí dụ : đối với những doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu quy mô lớn, ngân hàng cần tạo điều kiện cho họ thực hiện các dự án đầu tư theo chiều sâu, đổi mới trang thiết bị, công nghệ, tăng cường cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm mọi cách giảm gía thành để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trên thương trường trong nước và quốc tế. Những trường hợp này, NHTMQD cần có chính sách tín dụng ưu đãi về lãi suất, mức tín dụng, thời hạn tín dụng. Đối với những doanh nghiệp hoạt động XNK thuần tuý, tức là chỉ đóng vai trò trung gian trong quan hệ mua bán thì tuỳ từng dự án cụ thể mà ngân hàng quyết định mức tín dụng XNK cho phù hợp. Đối với những doanh nghiệp hoạt động XNK có quan hệ tín dụng thường xuyên với ngân hàng có thể áp dụng kết hợp phương thức cho vay từng lần với phương pháp cho vay theo hạn mức. Đây là phương thức cho vay vốn lưu động đã phổ biến ở các nước trên thế giới, đảm bảo cho doanh nghiệp luôn đủ vốn trong kinh doanh và ngân hàng luôn có nguồn thu nợ và đây là điều kiện để đảm bảo an toàn tín dụng. Tuy nhiên, để làm được điều đó, yêu cầu NHNN cần nghiên cứu và sửa đổi quy chế tín dụng hiện hành đối với các NHTM. Ngoài ra, có thể áp dụng hình thức tín dụng thuê mua để tăng vốn đầu tư chiều sâu cho doanh nghiệp hoạt động XNK. Tín dụng thuê mua là nghiệp vụ cho thuê tài chính dưới dạng cho thuê tài sản (máy móc, thiết bị) có rất nhiều tiện ích. Với hình thức này, các doanh nghiệp chỉ cần lượng vốn ít để trả tiền thuê mà vẫn có máy móc thiết bị sản xuất kinh doanh. Chính phủ đã có nghị định tạo điều kiện pháp lý cho tín dụng thuê mua hoạt động. Các NHTMQD đều đã lập các công ty cho thuê tài chính để thực hiện nghiệp vụ này, nhưng nhìn chung việc thực hiện còn ít hiệu quả. Đây là hình thức tín dụng quá mới mẻ ở nước ta, tiện ích của nó chưa được phổ cập đối với doanh nghiệp. Bởi vậy, để tín dụng thuê mua phát triển cần đẩy mạnh công tác tiếp thị khách hàng, đồng thời các NHTMQD cần phải xây dựng chiến lược, kế hoạch, bước đi phù hợp. 3.2.2.5. Kết hợp cho vay xuất khẩu với cho vay nhập khẩu Đối với các doanh nghiệp hoạt động XNK, ngoài việc áp dụng các hình thức tín dụng nêu trên, cùng với việc cho vay bằng Việt Nam đồng (VNĐ) đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, ngân hàng còn cho các doanh nghiệp vay nhập khẩu bằng hình thức cho vay ngoại tệ để mở thư tín dụng. Bởi vậy ngân hàng cần kết hợp cho vay xuất khẩu với cho vay nhập khẩu để tăng cường vòng quay của vốn, đảm bảo việc tài trợ cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh XNK đạt hiệu qủa cao. Hình thức cho vay nhập khẩu hàng hoá để tạo vốn sản xuất hàng xuất khẩu là một giải pháp tốt. Ngày nay, trong điều kiện phát triển nền kinh tế hướng vào xuất khẩu, số lượng các doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động XNK ngày càng tăng thì nghiệp vụ gắn nhập khẩu phục vụ xuất khẩu của ngân hàng càng phát huy hiệu quả. Hình thức này góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, đồng thời cũng góp phần phát triển hoạt động XNK. 3.2.2.6. Đồng tài trợ đối với các dự án sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu lớn Hiện nay việc cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho các dự án XNK của các NHTMQD còn nhiều hạn chế như : Hạn mức cho vay chưa cao, phương thức thanh toán chưa thuận tiện nhanh chóng, các hình thức tín dụng tài trợ XNK còn đơn điệu... Bởi vậy, nhiều dự án XNK lớn đều do các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài cấp tín dụng. Với thế mạnh về vốn cùng bề dày kinh nghiệm trên thương trường, các ngân hàng này không bị khống chế bởi hạn mức cho vay một doanh nghiệp ở mức 10% vốn tự có và quỹ dự trữ. Họ sẵn sàng cung cấp cho khách hàng không chỉ đầu vào mà còn tìm đầu ra - tìm thị trường xuất khẩu cho khách hàng. Trong lĩnh vực tín dụng, họ cho các doanh nghiệp vay bằng ngoại tệ mạnh để thu mua hàng xuất khẩu, trong lĩnh vực thanh toán họ sẵn sàng chuyển ngoại tệ phục vụ mua bán từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác. Với quy trình khép kín từ tín dụng đến thanh toán, họ khống chế đường đi của đồng vốn cho vay rất chặt chẽ. Hiện nay, việc thanh toán những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam phần lớn được tiến hành qua các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thí dụ : Thanh toán xuất khẩu gạo với số lượng lớn được thực hiện qua chi nhánh ngân hàng BNP của Pháp, xuất khẩu than chủ yếu qua Citibank của Mỹ và ING bank của Hà Lan, thuỷ hải sản qua chi nhánh ngân hàng BFCE của Pháp, cà phê xuất khẩu thanh toán chủ yếu qua chi nhánh Deutsche Bank của Đức... Do vậy để các NHTMQD Việt Nam vươn lên trong cạnh tranh cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các TCTD nhằm mục đích củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng và tăng khả năng tài chính của các NHTMQD. Đối với những dự án XNK lớn, các NHTMQD nên thực hiện cơ chế đồng tài trợ tuần hoàn giữa các ngân hàng trên cùng một địa bàn, mỗi ngân hàng sẽ thực hiện tài trợ trong một giai đoạn nhất định, đến giai đoạn sau, doanh nghiệp lại vay ngân hàng khác để trả nợ cho ngân hàng trước. Quá trình vay và trả nợ sẽ được tiếp tục cho đến khi hoàn thành dự án. Sử dụng phương pháp cho vay đồng tài trợ này một mặt sẽ giảm thiểu rủi ro của ngân hàng, do có nhiều thành viên tham gia thẩm định tín dụng, có thể vận dụng những kinh nghiệm khác nhau trong hoạt động cho vay. Mặt khác, giúp cho khách hàng có đủ lượng vốn lớn thực hiện dự án, nếu chỉ một ngân hàng thì không đủ khả năng đáp ứng. Để đảm bảo cho quá trình thực hiện phương pháp đồng tài trợ đối với các dự án XNK lớn các ngân hàng cần có sự thống nhất trong quá trình đầu tư, đảm bảo tính đồng bộ, toàn diện, vững chắc và có hiệu quả. 3.2.2.7. Đa dạng hoá và phát triển toàn diện các hình thức thanh toán Xu hướng chung của các ngân hàng hiện nay là phát triển theo định hướng là một ngân hàng đa năng, do đó, đa dạng hoá sản phẩm ngân hàng nói chung và TTQT nói riêng là một tất yếu khách quan. Ngoài những phương thức TTQT truyền thống : chuyển tiền, nhờ thu, tín dụng chứng từ, bảo lãnh ... các NHTMQD cần phải thực hiện thêm nhiều hình thức thanh toán khác như : làm đại lý thanh toán thẻ, thanh toán séc du lịch, đặc biệt là các nghiệp vụ thanh toán hiện đại như : - Các loại séc, các loại thẻ thanh toán phạm vi quốc tế. - Nghiệp vụ FACTORING - nghiệp vụ bao tiêu thanh toán. - Nghiệp vụ FORFAITING - nghiệp vụ mua bán nợ thương mại quốc tế. Ngoài ra, đối với phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, ngân hàng cần áp dụng linh hoạt nhiều loại thư tín dụng, mỗi loại phù hợp với từng điều kiện khác nhau. Bên cạnh đó, đa dạng hoá sản phẩm thanh toán không chỉ đơn thuần là mở rộng số lượng, loại hình thanh toán mà còn phải cân đối cơ cấu các loại hình thanh toán và nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán. Đây cũng là vấn đề quan trọng trong cạnh tranh, do vậy, các NHTMQD cần tìm hiểu nắm bắt nhanh nhạy yêu cầu của khách hàng, tìm biện pháp thực hiện đơn giản, thuận lợi, chính xác, tiết kiệm thời gian và chi phí... trên cơ sở đó, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng nhằm thoả mãn, lôi kéo khách hàng, nâng cao uy tín cho ngân hàng trong cạnh tranh. Trong hoạt động nói chung và TTQT nói riêng cần coi trọng việc tiếp thu học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng khác mà họ có quy trình thanh toán tốt hơn. Thí dụ : quy trình thanh toán “một cửa” hoặc cho phép khách hàng mở L/C, nhận thông báo hay thanh toán L/C tại nhà v.v... 3.2.2.8. Đảm bảo an toàn trong thanh toán quốc tế TTQT là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro, rủi ro cho bên xuất khẩu, rủi ro cho bên nhập khẩu và rủi ro xảy ra ngay cả với ngân hàng. Vì vậy, đảm bảo an toàn trong hoạt động TTQT là một trong những giải pháp không thể thiếu trong việc hoàn thiện và mở rộng hoạt động TTQT. Trong TTQT thường gặp các loại rủi ro được bắt nguồn từ các điều kiện hoàn cảnh khác nhau : Rủi ro về khả năng thanh toán bằng ngoại tệ của ngân hàng; rủi ro trong khâu thanh toán đối với khách hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu, rủi ro về tỷ giá v.v... Ngân hàng cần phải căn cứ vào đặc điểm, điều kiện từng loại rủi ro để có phương án đề phòng và xử lý kịp thời nhằm hạn chế tối thiểu thiệt hại cho khách hàng và ngân hàng. Thí dụ : để giảm thiểu rủi ro về khả năng thanh toán bằng ngoại tệ của ngân hàng cần đẩy mạnh huy động tiền gửi bằng ngoại tệ, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ, xây dựng cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý và mở rộng quan hệ với các ngân hàng đại lý đặc biệt là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhằm tìm kiếm và ký kết các hiệp định tín dụng để có thể nhận được sự tài trợ khi cần thiết. 3.2.2.9. Kết hợp đẩy mạnh hoạt động cho vay tài trợ XNK và hoạt động bảo lãnh trong thanh toán quốc tế Đối với các doanh nghiệp XNK, hoạt động tài trợ của ngân hàng không chỉ đơn giản trong lĩnh vực cấp tín dụng ưu đãi về lãi suất, mức vay thời hạn ... (như đã trình bày ở phần tín dụng), mà sự tài trợ của ngân hàng còn được thể hiện trong hoạt động thanh toán quốc tế. Ngân hàng cấp vốn cho doanh nghiệp XNK để giúp họ có điều kiện thuận lợi về mặt tài chính, tăng cường khả năng cạnh tranh ngoài những yếu tố doanh nghiệp cần phải có như chất lượng, mẫu mã hàng hoá, uy tín cũng như mối quan hệ của doanh nghiệp với các bạn hàng nước ngoài. Đối với những doanh nghiệp mới tham gia hoạt động XNK, hoặc doanh nghiệp có quy mô nhỏ, uy tín với bạn hàng nước ngoài chưa cao thì ngoài nhu cầu về tài chính, doanh nghiệp còn cần tới sự bảo lãnh của ngân hàng để nâng cao uy tín trong hoạt động kinh doanh XNK. Bởi vậy, đẩy mạnh việc kết hợp hoạt động cho vay tài trợ XNK và bảo lãnh là một trong những giải pháp quan trọng nhằm phát triển hoạt động TTQT đồng thời cũng là yếu tố trợ giúp doanh nghiệp hoạt động XNK. Đa dạng hoá hình thức tài trợ XNK là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cùng với hoạt động cho vay, ngân hàng nên mở rộng các nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu cả “có truy đòi” và “miễn truy đòi” nhằm giải phóng vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu, tăng nhanh vòng quay của vốn. Đối với doanh nghiệp nhập khẩu, ngân hàng có thể cấp tín dụng thông qua các hình thức cho vay thanh toán tiền đặt cọc hoặc cho vay trong thời gian nhà nhập khẩu bán hàng hoá cho đến khi thu được tiền. Để nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng phát triển hơn nữa có thể thực hiện nhiều biện pháp phối hợp như : tuỳ theo đối tượng khách hàng, ngân hàng có thể đơn giản hoá điều kiện bảo lãnh. Mức ký quỹ bảo lãnh hoặc giá trị bảo lãnh so với giá trị tài sản thế chấp nên có sự thay đổi linh hoạt. Biểu phí bảo lãnh nên có những ưu đãi đối với các doanh nghiệp xuất khẩu và các đối tượng cần khuyến khích khác. Tóm lại, hoạt động tài trợ XNK và bảo lãnh thanh toán có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng và phát triển hoạt động TTQT của ngân hàng. Khi hai hoạt động này cùng phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc phát triển thêm nhiều dịch vụ bổ trợ cho hoạt động TTQT, giúp cho hoạt động này được hoàn thiện hơn. 3.2.2.10. Đổi mới công nghệ kỹ thuật ngân hàng và con người ngân hàng trong các NHTMQD Vấn đề chất lượng và hiệu quả tín dụng và TTQT không chỉ quyết định bởi môi trường cơ chế, chính sách và quy chế điều hành hoạt động, mà còn quyết định bởi công nghệ kỹ thuật và con người ngân hàng. Đối với hệ thống NHTMQD, nguyên nhân quan trọng của những tồn tại hiện nay là sự yếu kém của cán bộ ngân hàng. Đồng thời, một vấn đề ai cũng nhìn thấy là bước vào giai đoạn phát triển mới, sự an toàn của ngân hàng cần những công cụ mới với kỹ thuật hiện đại. Điều này đang đòi hỏi công nghệ kỹ thuật ngân hàng và con người ngân hàng không được bảo thủ, trì trệ với hiện tại mà phải mạnh mẽ đổi mới để tồn tại. Việc cấp bách hàng đầu phải làm là tăng cường đầu tư công cụ kỹ thuật hiện đại và khẩn trương đào tạo nhân lực. Về con người, cần phải có quan điểm coi cán bộ ngân hàng thực sự là những “nghệ nhân” trong nền kinh tế thị trường. Do đó phải có một cơ chế sàng lọc, tuyển chọn, đào tạo với chính sách và cơ chế kiểm soát minh bạch. Tuy nhiên đây là quá trình phức tạp, khó khăn đòi hỏi tính cách mạng trong tư duy, quan điểm điều hành của các cấp ngân hàng. 3.2.2.11. Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm soát ngân hàng Ngoài việc tự kiểm soát, các NHTMQD phải chịu sự thanh tra, kiểm tra của thanh tra NHNN, của thanh tra nhà nước và của các cơ quan luật pháp. Tuy thế, công cụ kiểm soát nội bộ từng NHTMQD là hết sức quan trọng. Nếu từng ngân hàng làm tốt được công tác kiểm tra khi phát hiện yếu kém có biện pháp khắc phục kịp thời thì sẽ hạn chế được thanh tra, kiểm tra từ bên ngoài, nhờ đó, chất lượng, hiệu quả tín dụng và TTQT của NHTMQD sẽ tốt hơn nhiều. Hiện nay mảng công tác này được các NHTMQD đặc biệt quan tâm nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, cần phải có những biện pháp tích cực mới nâng cao được hiệu quả. Từng ngân hàng phải có quy chế rõ ràng gắn trách nhiệm cá nhân làm công tác kiểm tra với chất lượng kiểm tra; gắn trách nhiệm của đối tượng bị kiểm tra với kết quả kiểm tra bằng những cơ chế xử lý nghiêm túc trong từng ngân hàng. Mặt khác, định kỳ điều chuyển, đổi vị trí giao dịch của cán bộ ngân hàng, đặc biệt cán bộ tín dụng, kế toán. Bên cạnh nâng cao công tác kiểm soát nội bộ đòi hỏi vai trò thanh tra của NHNN phải nâng lên về chất lượng, thực hiện có hiệu quả vai trò quản lý nhà nước của NHNN. Thanh tra của NHNN chủ yếu được thanh tra phòng ngừa, phát hiện để uốn nắn kịp thời. Muốn vậy phải nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng và TTQT tại NHNN. KẾT LUẬN Nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTMQD nói chung, tín dụng XNK và TTQT nói riêng là vấn đề bức thiết và phức tạp hiện nay. Với mong muốn tìm hiểu, đề xuất những giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng và TTQT góp phần đẩy mạnh hoạt động XNK trong giai đoạn tới của Việt Nam, nội dung luận văn đã tập trung làm rõ các nội dung sau : Một là : Khái quát hoá những vấn đề lý luận về kinh doanh XNK và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động XNK; đặc điểm của NHTM và vai trò của nó đối với hoạt động XNK. Trên cơ sở phân tích rõ các khái niệm, căn cứ lý luận về tín dụng và các hình thức của nó trong nền KTTT, các hình thức tín dụng tài trợ XNK, luận văn đã tập trung làm rõ vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động XNK. Cùng với vấn đề này luận văn đồng thời đã phân tích làm rõ những khái niệm về TTQT và vai trò của nó đối với hoạt động XNK. Hai là : Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng XNK và TTQT của các NHTMQD trên 2 mặt: thành công và tồn tại. Trên cơ sở đó luận văn đã nêu rõ những nguyên nhân gây tồn tại, yếu kém cho hoạt động tín dụng nói chung, tín dụng XNK và TTQT. Ba là : Trình bày và phân tích rõ những định hướng hoạt động tài trợ XNK của các NHTMQD góp phần thúc đẩy hoạt động XNK. Bốn là : Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng XNK và TTQT của các NHTMQD nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển hoạt động XNK. Các giải pháp được chia thành 2 nhóm lớn : - Nhóm giải pháp đổi mới và nâng cao hiệu quả thực thi các cơ chế chính sách kinh tế - tài chính - tiền tệ. - Nhóm giải pháp của hệ thống NHTMQD. Để các giải pháp được thực thi có hiệu quả luận văn cũng đã đề xuất kiến nghị với Nhà nước, chính phủ, ngân hàng nhà nước, các ngành chức năng của chính phủ về việc đổi mới cơ chế chính sách, tạo môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng. Nâng cao hiệu quả tín dụng và TTQT của hệ thống NHTMQD đáp ứng nhu cầu XNK không những là vấn đề đang được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm, vấn đề có tính thời sự trên các diễn đàn quốc tế, mà còn rất bức xúc cho các nhà điều hành hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, với dung lượng nghiên cứu của luận văn cao học chắc chắn rằng luận văn còn nhiều thiếu sót, hạn chế. Tác giả luận văn mong muốn nhận được nhiều ý kiến chỉ dẫn, góp ý của các nhà khoa học là cán bộ giảng dạy trực tiếp, các nhà khoa học, cán bộ quản lý. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ ------------- NGUYỄN THỊ VIỆT HÀ HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI QUỐC DOANH VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ HÀ NỘI - 2003 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ ------------- NGUYỄN THỊ VIỆT HÀ HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI QUỐC DOANH VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH : KINH TẾ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA MÃ SỐ : 5.02.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS PHÍ MẠNH HỒNG HÀ NỘI - 2003 CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN NHNN Ngân hàng nhà nước NHTM Ngân hàng thương mại NHTMQD Ngân hàng thương mại quốc doanh (Ngân hàng thương mại nhà nước) TDNH Tín dụng ngân hàng TCTD Tổ chức tín dụng TTQT Thanh toán quốc tế DNNN Doanh nghiệp nhà nước TCT Tổng công ty DN Doanh nghiệp CNH - HĐH Công nghiệp hoá - hiện đại hoá CNXH Chủ nghĩa xã hội SXKD Sản xuất kinh doanh XNK Xuất nhập khẩu TDXK Tín dụng xuất khẩu TDNK Tín dụng nhập khẩu NHNo&PTNH-VN Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam NHNT-VN Ngân hàng ngoại thương Việt Nam NHCT-VN Ngân hàng công thương Việt Nam NHĐT&PT-VN Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ADB Ngân hàng phát triển Châu Á AFTA Hiệp định thương mại tự do ASEAN ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á EU Thị trường chung Châu Âu IMF Quỹ tiền tệ quốc tế WB Ngân hàng thế giới WTO Tổ chức thương mại thế giới TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đại từ điển kinh tế thị trường - Viện Nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa, HN - 1998. 2. Phạm Đăng Bính - Nguyễn Văn Lập, Từ điển kinh tế, Nxb Giáo dục, Hà Nội - 1995. 3. Daved Begg, Stanley Fisher, Kinh tế học (3 tập), Nxb Giáo dục, HN - 1995. 4. KORAI JANOS - Hệ thống XHCN - Chính trị kinh tế học phê phán - Tổng quan kinh tế XHCN, Nxb VHTT, HN - 2002 - Nguyễn Quang A dịch. 5. Nguyễn Đăng Dờn (CB), Hoàng Đức, Trần Huy Hoàng, Trần Xuân Hương, Tiền tệ - Ngân hàng, Nxb TP HCM - 2000. 6. Hoàng Kim : Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính, Nxb Tài Chính, HN - 2001. 7. TS Lê Khoa : Ngân hàng thương mại, chính sách tiền tệ ngân hàng, Nxb TP HCM - 1993. 8. Trịnh Thị Hoa Mai : Giáo trình Kinh tế học tiền tệ - ngân hàng, Nxb Đại học Quốc gia, HN - 1999. 9. PTS Nguyễn Đình Tài : Sử dụng công cụ tài chính - tiền tệ để huy động vốn cho đầu tư phát triển, Nxb Tài Chính, HN - 1997. 10. PTS Nguyễn Đức Thảo, Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, Nxb Mũi Cà Mau - 1995. 11. Phan Quang Tuệ, cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng và hoàn thiện các hoạt động đối ngoại của hệ thống ngân hàng Việt Nam, đề tài khoa học số 95 - 05 - 01 trong kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học ngành ngân hàng 1995 - 1999, Nxb Thống Kê, HN - 1999. 12. Frederic Smishkin, tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Nxb KHKT, HN - 1994. 13. Giáo trình lưu thông tiền tệ tín dụng (Học viện ngân hàng - nội bộ). 14. Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, Nxb Thống Kê, HN - 1999. 15. Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế thị trường, Nxb Thống Kê, HN - 2000. 16. Quản trị Ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính, HN - 2001. 17. Hong Kong bank - Cẩm nang tín dụng, TS Phạm Thái Việt dịch, Nxb KHXH, HN - 1994. 18. Nguyễn Duy Bột, Đinh Xuân Trình, Thương mại quốc tế, XNK và TTQT, Nxb Thống Kê, HN - 1993. 19. Nguyễn Đình Hương - Vũ Đình Bách - Quan hệ thương mại Việt Nam - ASEAN và chính sách XNK của Việt Nam - Nxb CTQG, HN, 1999. 20. Bùi Xuân Lựu, Giáo trình kinh tế đối ngoại, Nxb Giáo dục, Hà Nội - 1994. 21. PTS Nguyễn Đình Tài, cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái và vấn đề kinh tế đối ngoại, Nxb Giáo dục, 1994. 22. Đinh Xuân Trình : Thanh toán quốc tế trong ngoại thương, Nxb Giáo dục và Trường Đại học Ngoại thương, HN - 1996. 23. Nguyễn Xuân Thắng : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và tiến trình hội nhập của Việt Nam, Nxb TK, HN - 1999. 24. Võ Thanh Thu, Kinh tế đối ngoại, Nxb TK, HN - 1994. 25. Lý luận và thực tiễn thương mại quốc tế, Nxb TK, HN - 1994. 26. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, HN - 2001. 27. Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính. 28. Luật ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng. 29. Một số văn bản pháp quy quyết định, quy định chỉ đạo hướng dẫn thực hiện của NHNN và các NHTMQD. 30. Báo cáo thường niên của NHNN và các NHTMQD. 31. 40 năm xây dựng và trưởng thành của NHNN. 32. Báo cáo tổng kết 40 năm hoạt động của NHĐT&PT Việt Nam. 33. Báo cáo kết quả tổng kiểm kê tài sản của DNNN năm 2000 của Bộ Tài chính. 34. Chương trình hành động của ngành ngân hàng thực hiện Nghị quyết Đại hội IX Đảng cộng sản Việt Nam. 35. Đề án tái cơ cấu và chương trình hành động của NHĐT&PT Việt Nam. 36. Đề án xử lý nợ tồn đọng của các NHTM Việt Nam của Thống đốc NHNN Việt Nam trình Thủ tướng Chính phủ. 37. Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương - Báo cáo củng cố, hoàn thiện và phát triển Tổng công ty nhà nước 4/2000. 38. Bộ Kế hoạch đầu tư, Đề án phương hướng, giải pháp điều chỉnh cơ cấu đầu tư của các ngành trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 12/1998. 39. Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển ngành ngân hàng 5 năm 2001 - 2005 - NHNN Việt Nam năm 2000.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37191.doc
Tài liệu liên quan