Luận văn Hoàn thiện và phát triển hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Tây

Lời mở đầu 1. Tính tất yếu của việc hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3. Mục đích và phương pháp nghiên cứu 4. Kết cấu củachuyên đề Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng 1.1.1. Sự ra đời của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng là khách tất yếu khách quan 1.1.2. Quá trình phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng 1.2. Bản chất và đặc điểm của bảo lãnh Ngân hàng 1.2.1. Khái niệm bảo lãnh- bảo lãnh Ngân hàng 1.2.2 . Đặc điểm của bảo lãnh Ngân hàng 1.2.3. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng 1.3 Vai trò của bảo lãnh ngân hàng 1.3.1. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng đối với doanh nghiệp 1.3.2. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng với ngân hàng 1.3.3. Vai trò của bảo lãnh đối với nền kinh tế 1.4. Nội dung nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng 1.4.1. Các loại bảo lãnh ngân hàng 1.4.3. Rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng 1.5.1.Hoạt động bảo lãnh Ngân hàng ở một số quốc gia trên thế giới 1.5.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ TÂY 2.1. Vài nét về tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Hà Tây 2.2. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Tây 2.2.1. Giới thiệu chung về NHĐT&PTHT 2.2.2. Vài nét về tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHĐT&PTHT 2.3.1. Tình hình thực hiện quy trình nghiệp vụ bảo lãnh tại chi nhánh NHĐT&PTHT 2.3.2. Đánh giá chung về tình hình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tại NHĐT& PTHT Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ TÂY 3.1. Định hướng kế hoạch kinh doanh của chi nhánh đến năm 2005 3.2. Định hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh của NHĐT&PTHT 3.3. Các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại NHĐT&PTHT 3.3.1. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án 3.3.2. Mở rộng thêm đối tượng khách hàng được bảo lãnh 3.3.3. Đổi mới cơ chế chính sách khách hàng 3.3.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Ngân hàng 3.3.5. ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh 3.4. Một số kiến nghị 3.4.1. Kiến nghị với Chính phủ và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền 3.4.2. Kiến nghị với NHNNVN 3.3.3. Kiến nghị đối với NHĐT&PTVN KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc92 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1440 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện và phát triển hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng từ đó có nhận định đúng về những kết quả đã đạt được của Ngân hàng cũng như những khó khăn vướng mắc còn tồn tại chúng ta hãy xem xét những mặt sau đây: * Tình hình thực hiện các hoạt động bảo lãnh: Bảng 4: Doanh số của các loại bảo lãnh tại NHĐT&PTHT Đơn vị : Triệu đồng Loại bảo lãnh 2000 2001 2002 Số tiền % Số tiền % Số tiền % BL dự thầu 62.239 23,227 84.249 20,21 93.723 17,61 BL thực hiện HĐ 79.867 29,86 91.421 19,53 115.788 21,75 BL tiền ứng trước 47.312 17,69 69.497 16,67 96.412 18,11 BL bảo hành công trình 59.526 22,26 65.345 15,67 73.280 13,77 BL thanh toán 18.518 6,92 116.451 27,93 153.139 28,77 Tổng số 267.462 100,00 416.963 100,00 532.342 100,00 (Nguồn: Phòng Kế toán NHĐT& PTHT cung cấp) BIỂU 3: TỶ TRỌNG CÁC LOẠI BẢO LÃNH NĂM 2002 Về bảo lãnh dự thầu. Đây là loại bảo lãnh chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng doanh số bảo lãnh (23,37% năm 2000, 20,21% năm 2001, 17,61% năm 2002). Mực dù về số tuyệt đối doanh số bảo lãnh có tăng lên nhưng xét về tỷ lệ phần trăm của bảo lãnh dự thầu trên tổng doanh số bảo lãnh lại không tăng lên là do tổng doanh số các loại bảo lãnh tăng lên rất nhanh qua các năm. Bảo lãnh dự thầu chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng doanh số bảo lãnh là hoàn toàn phù hợp vì NHĐT&PTHT là ngân hàng phục vụ chủ yếu cho nhu cầu đầu tư và phát triển trong đó khách hàng phục vụ chủ yếu và thường xuyên là các tổng công ty và các công ty phục vụ trong lĩnh vực xây lắp. Khi muốn tham gia bất cứ dự án đầu tư nào thì các công ty đều phải đăng ký dự thầu mà theo qui chế đấu thầu do Chính phủ ban hành kèm theo nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 trong hồ sơ đăng ký dự thầu bắt buộc phải có bảo lãnh dự thầu của bên thứ ba có uy tín đứng ra bảo đảm. Trong thời gian qua Chi nhánh đã thực hiện tương đối tốt loại hình bảo lãnh này tạo điều kiện cho khách hàng tham gia đấu thầu, không để một rủi ro phải thanh toán nào phải xảy ra. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Loại bảo lãnh này cũng chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng doanh số bảo lãnh. Năm 2000 doanh số BLTHHĐ là 79.876 trđ chiếm 29.86% tổng doanh số bảo lãnh; năm 2001 doanh số BLTHHĐ là 91.421 trđ chiếm 19.53% tổng doanh số bảo lãnh; năm 2002 doanh số BLTHHĐ là 115.788 trđ chiếm 21.75% trên tổng doanh số bảo lãnh. Số tiền trong bảo lãnh thực hiện hợp đồng có giá trị từ 10% - 15% giá trị hợp đồng lớn hơn nhiều so với số tiền trong bảo lãnh dự thầu. Thời gian thực hiện hợp đồng thường dài nên độ rủi ro của loại bảo lãnh này thường lớn hơn. Loại bảo lãnh này khá thông dụng nên nó chiếm doanh số gần lớn nhất trong tổng doanh số bảo lãnh tại chi nhánh qua các năm. Do số tiền trong bảo lãnh lớn hơn trong khi các doanh nghiệp xây lắp lại có số vốn tự do ít, chủ yếu hoạt động bằng vốn vay nên với loại bảo lãnh này doanh nghiệp thường xin tín chấp hoặc kết hợp với thế chấp tài sản. Tại NHĐT&PTHT bảo lãnh thực hiện hợp đồng thường được áp dụng chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng nhằm ràng buộc nhà đầu tư phải thực hiện đúng các cam kết đã ký trong hợp đồng với chủ đầu tư. Còn trong lĩnh vực thương mại thì loại bảo lãnh này cũng có nhưng số lượng rất hạn chế. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là loại bảo lãnh phát sinh thường xuyên và có tiềm năng phát triển, do vậy Ngân hàng cần chú trọng khai thác loại hình bảo lãnh này hơn nữa. Bảo lãnh tiền ứng trước: Trong hợp đồng xây dựng để hỗ trợ vốn thi công cho nhà thầu, chủ thầu thường ứng trước cho họ một khoản tiền. Để đảm bảo khoản tiền này được nhà thầu sử dụng đúng mục đích, chủ thầu yêu cầu bên thực hiện (nhà thầu) phải có thư bảo lãnh tiền ứng trước của Ngân hàng. Loại bảo lãnh này phát sinh ít hơn bảo lãnh thực hiện hợp đồng do có thể chủ thầu không yêu cầu thư bảo lãnh, thay vào đó họ giữ lại một khoản chưa thanh toán để đảm bảo nhà thầu không vi phạm hợp đồng. Nhìn chung doanh số bảo lãnh tiền ứng trước qua các năm có tăng dần nhưng tỷ trọng của bảo lãnh tiền ứng trước trên tổng doanh số bảo lãnh qua các năm không biến động nhiều. Năm 2000 doanh số bảo lãnh tiền ứng trước là 43.312 trđ chiếm 17.69% tổng doanh số bảo lãnh; năm 2001 doanh số bảo lãnh tiền ứng trước là 69.479 trđ chiếm 16.67% tổng doanh số bảo lãnh; năm 2002 doanh số bảo lãnh tiền ứng trước là lớn nhất trong 3 năm : 96.412 trđ chiếm 18.11% tổng doanh số bảo lãnh. Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm: Loại bảo lãnh này ở Chi nhánh áp dụng chỉ là bảo lãnh bảo hành chất lượng công trình vì khách hàng chủ yếu của NTĐT&PT chủ yếu là các công ty trong lĩnh vực xây lắp, ngoài ra chưa có loại bảo lãnh đảm bảo chất lượng hàng hoá, máy móc thiết bị… Bảo lãnh bảo hành công trình chiếm một tỷ lệ nhỏ hơn so với các loại hình bảo lãnh khác do một số công trình có bảo lãnh thực hiện hợp đồng đến khi hết thời hạn bảo hành công trình, do vậy chủ đầu tư không yêu cầu nhà thầu phải thực hiện bảo lãnh bảo đảm công trình hoặc có thể khi bàn giao công trình, chủ đầu tư không thanh toán hết toàn bộ tiền cho nhà thầu mà giữ lại một phần để bảo hành công trình khi hết thời gian bảo hành mới thanh toán nốt. Bảo lãnh thanh toán: Năm 2000 doanh số bảo lãnh thanh toán chưa nhiều (18.518 trđ chiểm tỷ trọng 6.92% trên tổng doanh số bảo lãnh) do nhu cầu của khách hàng phát sinh còn ít. Bước sang năm 2001, 2002 doanh số bảo lãnh của loại hình này đã tăng do khách hàng của Ngân hàng tăng lên, phạm vi họat động sản xuất kinh doanh của khách hàng cũng được mở rộng do vậy nhu cầu phải có bảo lãnh thanh toán trong các hợp đồng của khách hàng ngày một tăng. Bảo lãnh thanh toán được áp dụng trong cả lĩnh vực xây lắp và thương mại nhưng trong lĩnh vực thương mại thì bảo lãnh được sử dụng cũng nhằm mục đích hỗ trợ cho lĩnh vực xâp lắp ví dụ trong các hợp đồng mua xi măng, cát, đá, sỏi… bên bán cũng đòi hỏi bên mua phải có bảo lãnh thanh toán do Ngân hàng phát hành. Năm 2001 doanh số bảo lãnh thanh toán tăng lên đến 116.451 trđ chiếm tỷ trọng 27.93% trên tổng doanh số bảo lãnh và năm 2002 doanh số loại hình bảo lãnh này là 153.139 trđ, chiếm tỷ trọng 28.77% so với tổng doanh số bảo lãnh. Nhìn chung loại bảo lãnh này cũng rất có tiềm năng phát triển. Trong chủ trương chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước, mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trong hoạt động kinh doanh. Nhưng một khó khăn trong việc tiếp cận của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong quan hệ tín dụng với ngân hàng lại xuất phát từ chính bản thân các doanh nghiệp này. Khu vực kinh tế tư nhân vốn luôn bị coi là những khách hàng nhỏ, hoạt động kinh doanh không ổn định, vốn tự có thấp (trừ một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Mặt khác trong thời gian vừa qua, một số các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn gian lận dẫn tới đổ vỡ, phá sản gây hậu quả nặng nề, Ngân hàng chính là người phải lãnh chịu. Điều này xảy ra trong khoảng thời gian tương đối dài gây ra sự mất lòng tin của ngân hàng đối với đối tượng khách hàng này. Vì vậy Ngân hàng vẫn còn “ngại” thực hiện bảo lãnh với đối tượng ngân hàng này. * Về phí bảo lãnh: Phí bảo lãnh là một khoản tiền khách hàng phải trả cho ngân hàng khi ngân hàng cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho họ. Trong điều kiện hiện nay, khi các ngân hàng cùng tiến hành đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ thì sự khác biệt về sản phẩm không còn rõ rệt nữa. Khi đó, sự khác nhau về biểu phí các dịch vụ nói chung và phí bảo lãnh nói riêng là một yếu tố có thể khai thác để nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng. Sau đây là bảng phí thu từ hoạt động bảo lãnh và từ hoạt động dịch vụ nói chung của NHĐT&PTHT qua các năm 2000, 2001, 2002. Nhìn chung phí thu từ hoạt động dịch vụ của NHĐT&PTHT ngày càng tăng lên về số tuyệt đối qua các năm. Năm 2000 phí thu từ hoạt động bảo lãnh là 597 trđ, đến năm 2001 đã tăng lên 987 trđ. Tuy nhiên tỷ trọng phí thu từ bảo lãnh trên tổng phí thu từ các hoạt động dịch vụ lại chưa tăng. Năm 2000 tỷ trọng phí thu từ bảo lãnh trên tổng phí thu từ dịch vụ là lớn nhất: 48.93%. Sang năm 2001 và 2002 mặc dù phí thu từ hoạt động bảo lãnh có tăng nhưng với tốc độ chậm hơn tốc độ tăng của tổng phí nên tỷ trọng có phần giảm đi. Qua những đánh giá ở phần trên ta thấy mặc dù doanh số bảo lãnh của NHĐT&PTHT liên tục tăng qua các năm song tỷ lệ này so với các ngân hàng trong cùng hệ thống vẫn còn chưa cao đòi hỏi trong thời gian tới chi nhánh cần có những biện pháp tích cực để đạt được kết quả cao hơn nữa. Nhìn chung, qua hơn 7 năm thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh NHĐT&PTHT đã tỏ rõ vai trò chức năng tích cực của mình đối với việc phát triển kinh tế địa phương cũng như với việc phát triển nền kinh tế đất nước. Một mặt, nghiệp vụ này có tác dụng mạnh mẽ cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mặt khác thúc đẩy các hoạt động nghiệp vụ khác cùng phát triển như nghiệp vụ thanh toán trong nước và quốc tế, nghiệp vụ tín dụng… Chất lượng nghiệp vụ cũng đã không ngừng được nâng cao. Nhờ có sự nỗ lực phấn đấu học hỏi không ngừng và sự thận trọng trong công việc của các cán bộ nên từ khi thực hiện đến nay, ngân hàng chưa bao giờ phải trả thay hoặc phải cho vay bắt buộc đối với bất kỳ một khách hàng được bảo lãnh nào. Vì thế uy tín của Ngân hàng cũng ngày càng được nâng cao. 2.3.2. Đánh giá chung về tình hình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tại NHĐT& PTHT. + Những mặt tích cực Bảo lãnh ngân hàng là nghiệp vụ ngân hàng hiện đại tuy mới được đưa vào áp dụng tại chi nhánh ngân hàng ĐT và PTHT chưa lâu (từ năm 1995) song đã có những kết quả đáng khích lệ. Mặc dù thực hiện chưa lâu song Ban giám đốc chi nhánh đã có những cố gắng nhất định trong việc tiếp cận từng bước phát triển nghiệp vụ bảo lãnh một cách vững chắc, ngày càng thích nghi với cơ chế thị trường và phát huy vai trò tích cực với các chủ thể kinh tế cùng như với các hoạt động nghiệp vụ khác của ngân hàng. Điều này được thể hiện qua các thành tích như sau: Doanh số bảo lãnh qua các năm không ngừng tăng lên, các khách hàng có nhu cầu bảo lãnh tại ngân hàng ngày càng tăng. Mặc dù NHĐT&PTHT chưa thực hiện được tất cả các loại hình bảo lãnh song với các loại hình bảo lãnh mà Ngân hàng đã cung cấp cungd đủ đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp trong địa bàn và những vùng lân cận. Song song với việc gia tăng doanh số các loại bảo lãnh thì chất lượng của nghiệp vụ này cũng được chú trọng. Điều này được thể hiện ở kết quả là từ khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, ngân hàng chưa phải trả thay khách hàng một khoản nào. Trong quá trình thực hiện bảo lãnh cho khách hàng, Chi nhánh thường xuyên theo dõi đôn đốc khách hàng thực hiện các nghĩa vụ trong hợp đồng đã ký kết, đồng thời hỗ trợ về vốn cho khách hàng khi có nhu cầu và tạo điều kiện cho khách hàng thực hiện các dịch vụ thanh toán, mua bán ngoại tệ, chuyển tiền… một cách dễ dàng. Bên cạnh đó một số khách hàng được chi nhánh bảo lãnh phải ký quỹ một khoản tiền tạo cho Ngân hàng một khoản vố huy động với chi phí thấp làm tăng thêm nguồn vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của chi nhánh. Từ khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, bằng uy tín của mình, chi nhánh đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tham gia dự thầu, đấu thầu trong nước thông qua các hình thức bảo lãnh dự thầu bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán… đã góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập của doanh nghiệp, đồng thời góp vào thu nhập cho chi nhánh. Hoà chung với xu thế hội nhập với khu vực và thế giới của toàn bộ nền kinh tế, ngành ngân hàng nói chung và NHĐT&PTHT nói riêng đang có những bước chuyển mình tích cực. Trong thời gian tới, chi nhánh NHĐT&PTHT đã có những phát triển đúng đắn phù hợp với chính sách của Đảng và nhà nước, trên cơ sở đó không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng quy trình nghiệp vụ, công nghệ tin học Ngân hàng, thanh toán quốc tế…nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh những thành tích đã đạt được trong hoạt động bảo lãnh của chi nhánh NHĐT&PTHT vẫn còn có những mặt còn tồn tại cần xem xét và đưa ra những giải pháp để giảm bớt những hạn chế này nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo lãnh. Dưới đây là những khó khăn, tồn tại trong hoạt động bảo lãnh tại NHĐT&PTHT. - Các qui định pháp lý điều chỉnh nghiệp vụ bảo lãnh còn chưa hoàn chỉnh và đồng bộ Khi thực thi các nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng nói riêng và các hoạt động ngân hàng nói chung các ngân hàng đều phải tuân thủ sự điều chỉnh của Luật như Luật các tổ chức tín dụng, Luật NHNN… và các văn bản dưới luật do Chính phủ và Thống Đốc NHNN ban hành. Môi trường pháp lý có ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh. Hành lang pháp lý thuận lợi sẽ có tác dụng thúc đẩy nghiệp vụ bảo lãnh phát triển. Bên cạnh đó, các văn bản qui chế về bảo lãnh không còn có tính chuẩn mực và thường xuyên được sửa chữa, bổ xung gây khó khăn cho việc thực hiện các hoạt động bảo lãnh. Hơn nữa, các văn bản sửa đổi thường có độ trễ của nó, tức là các vướng mắc nảy sinh và tồn tại trong một thời gian dài nhất định rồi mới được điều chỉnh. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay đang trong quá trình đổi mới, phát triển, hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ và chưa có tính ổn định nên các cơ chế, chính sách quản lý vận hành nền kinh tế cuãng thường xuyên thay đổi. Trong tình hình chung như vậy, việc hoạch định các chính sách, thể lệ hay chế độ thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh hiện nay còn chưa bám sát thực tế và chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của các ngân hàng thương mại và khách hàng có nhu cầu bảo lãnh cũng không là một ngoại lệ. - Thông tin cho hoạt động bảo lãnh chưa đầy đủ. Theo quy định của NHNN tất cả các tổ chức tín dụng phải đưa lên mạng CIC tất cả các món vay và bảo lãnh của khách hàng có giá trị vượt quá hoặc bằng mức quy định. Hiện nay, mức quy định là 50 triệu các khách hàng này là các tổ chức kinh tế được phép vay và xin bảo lãnh tại nhiều Ngân hàng khác nhau. Thông qua việc truy cập thông tin trên mạng CIC các Ngân hàng có thể biết về tình hình vay nợ của khách hàng. Tuy nhiên hiện nay các Ngân hàng không thực hiện do một số lý do về vấn đề kỹ thuật hoặc chính sách khách hàng. Ngoài những khó khăn trên, NHĐT&PTHT còn gặp phải một số khó khăn như: Thị trường hoạt động không rộng lớn trong khi các NHTM khác trên cùng địa bàn cũng có các chính sách cạnh tranh hết sức mạnh mẽ, nhiều khách hàng cũng chưa hiểu rõ về các hoạt động dịch vụ của Ngân hàng nên việc thực hiện còn hạn chế do đó cũng ảnh hưởng đến nghiệp vụ bảo lãnh. * Những tồn tại trong hoạt động bảo lãnh tại NHĐT&PTHT. Mặc dù trong quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, NHĐT&PTHT đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ song so với một số Ngân hàng trong cùng hệ thống thì nghiệp vụ này vẫn chưa thực sự phát triển và còn nhiều tồn tại cần khắc phục. - Chưa đa dạng hoá các hình thức bảo lãnh. Hiện nay ở chi nhánh mới dừng lại ở việc thực hiện một số loại bảo lãnh thông dụng như: Bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh hàng thanh toán, bảo lãnh bảo hành công trình. Bên cạnh đó chi nhánh bắt đầu thực hiện bảo lãnh đối ứng nhưng số liệu còn rất hạn chế. Ngoài ra những loại hình bảo lãnh khác như bảo lãnh vay vốn nước ngoài, bảo lãnh trả chậm, bảo lãnh chất lượng hàng hoá, bảo lãnh hoàn thuế chưa được nghiên cứu đưa vào áp dụng. Về hình thức bảo lãnh do Ngân hàng phát hành theo hướng dẫn của Tổng Giám đốc NHĐT&PT có thể là phát hành thư bảo lãnh, mở L/C trả chậm hoặc ký bảo lãnh trên hối phiếu hoặc giấy nhận nợ nhưng hiện nay ở NHĐT&PTHT mới chỉ thực hiện hình thức phát hành thư bảo lãnh là chủ yếu, đồng thời bảo lãnh mới chỉ được sử dụng theo từng món hoặc theo hạn mức, chưa có loại hình bảo lãnh gián tiếp bảo lãnh hoàn thuế. - Cơ cấu khách hàng bảo lãnh còn mất cân đối. Qua phân tích thực trạng ở trên ta thấy rõ sự mất cân đối về cơ cấu khách hàng bảo lãnh, đó là tình trạng khách hàng là các doanh nghiệp quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn, trong khi đó thành phần khách hàng ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng nhỏ gần như không đáng kể. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh được bảo lãnh ở đây chủ yếu là các công ty TNHH và công ty cổ phần. - Công tác tư vấn cho khách hàng chưa được chú trọng. Công tác tư vấn cho khách hàng tại chi nhánh mới chỉ dừng lại ở mức độ hướng dẫn cho khách hàng về quy chế, quy định, thể lệ chưa đưa ra được những góp ý những thông tin hữu ích giúp doanh nghiệp có những quyết định bảo lãnh đúng đắn. - Khâu theo dõi, quản lý món bảo lãnh chưa hết hiệu lực còn gặp khó khăn. Theo đúng yêu cầu, Ngân hàng cần theo dõi đôn đốc người được bảo lãnh thực hiện đúng các cam kết với người yêu cầu bảo lãnh trong khi món bảo lãnh chưa hết hiệu lực. Nhưng hầu hết các công trình dự án khách hàng của Ngân hàng đều ở khá xa và rải rác ở nhiều nơi, vì vậy Ngân hàng gặp khó khăn trong việc theo dõi tiến độ thực hiện công trình. Việc này chủ yếu dựa vào sự trung thực và uy tín của khách hàng. - Việc khai thác thông tin và ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh còn hạn chế. Nền kinh tế đang trong tiến trình hội nhập và phát triển, xu thế quốc tế hoá ngày càng gia tăng, sự cạnh tranh trong nội bộ nền kinh tế và các quốc gia trên thế giới hết sức gay gắt. Nền khoa học kỹ thuật và công nghệ thế giới phát triển như vũ bão làm cho sự cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp cũng như của Ngân hàng trong nền kinh tế càng trở nên quyết liệt. Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh tế tổng hợp gắn liền với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để hoạt động đạt hiệu quả và giảm thiểu rủi ro thì cần thiết phải có hệ thống thông tin kinh tế, thông tin thị trường đầy đủ, kịp thời và một hệ thống công nghệ hiện đại. Việc ứng dụng công nghệ thông tin và hoạt động ngân hàng nói chung và nghiệp vụ bảo lãnh nói riêng là giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh của Ngân hàng. Hiện nay ở chi nhánh mới chỉ áp dụng công nghệ tin học chủ yếu vào công tác thanh toán, kế toán. Còn các công tác khác chưa được chú trọng hoặc không đồng bộ nên thông tin thu thập chưa cập nhật. Vì vậy, mạng lưới cung cấp các thông tin về khoa học công nghệ chuyên ngành và thông tin về thị trường là chưa có. Do vậy khi thẩm định tình hình thực tế của khách hàng có yêu cầu bảo lãnh cán bộ thực hiện thường chỉ dựa vào phương án, báo cáo tính toán của khách hàng dẫn đến khi tính toán hiệu quả không sát được giá cả, định mức kinh tế nên có thể đưa ra các quyết định không chính xác. Chi nhánh đã thực hiện nối mạng giữa bộ phận kế toán và bộ phận tín dụng nhưng chưa làm điều này với nghiệp vụ bảo lãnh do đó việc đối chiếu cập nhật giữa các khâu không nhanh gọn, khớp đúng và mất nhiều thời gian cho cả khách hàng và Ngân hàng. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH 3.1 Định hướng kế hoạch kinh doanh của chi nhánh đến năm 2005. * Định hướng chung. Thực hiện văn bản số 3391/CV- KHPT.1 ngày 02/11/2002 về việc hướng dẫn xây dựng kế hoạch 3 năm 2003-2005 của NHĐT& PT Việt Nam. Trên những kết quả đã đạt được từ năm 2000-2002 nêu trên, với những thuận lợi và thách thức mới sau Đại hội Đảng IX, khi nước ta thực hiện hội nhập AFTA và khi hiệp định thương mại Việt Mỹ thực hiện với quyết tâm cao chi nhánh xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh cơ bản sau: + Các chỉ tiêu bình quân : Tăng trưởng tài sản 25% Tăng trưởng tín dụng 30% Tăng trưởng huy động vốn 22% Tăng trưởng lợi nhuận trước thuế 10,15% Tỷ lệ nợ quá hạn chung nhỏ hơn hoặc bằng 2% 3.2. Định hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh của NHĐT&PTHT. 1- Với nhu cầu về vốn đầu tư phát triển của nền kinh tế ngày càng tăng, nghiệp vụ bảo lãnh trong những năm tới đặc biệt là loại hình bảo lãnh trong đầu tư xây dựng cơ bản còn nhiều khả năng phát triển. Cùng với phương hướng và mục tiêu phát triển chung của toàn ngành NHĐT&PTHT xác định nghiệp vụ bảo lãnh là một dịch vụ hỗ trợ quan trọng cần được phát triển nhằm tạo điều kiện mở rộng hoạt động tín dụng, hoạt động thanh toán, đồng thời làm tăng nguồn thu và thay đổi cơ cấu của ngân hàng theo hướng tỷ trọng thu dịch vụ ngày càng cao trong tổng thu của ngân hàng làm tăng sức mạnh cạnh tranh và bảo đảm an toàn trong kinh doanh. 2- Phục vụ tốt nhu cầu đầu tư trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Xem xét và lựa chọn những dự án có nhu cầu được bảo lãnh vay vốn, trên cơ sở xác định các điều kiện đảm bảo an toàn và có khả năng trả nợ và phù hợp với cơ cấu tín dụng của ngành. 3- Mở rộng hoạt động, loại hình bảo lãnh trong xây dựng, phục vụ doanh nghiệp tham gia đấu thầu xây lắp trong nước và quốc tế, cho các công trình lớn và quan trọng của Nhà nước, đảm bảo an toàn và phù hợp với hạn mức tín dụng của doanh nghiệp. 4-Thực hiện tốt chính sách khách hàng, chiến lược Marketing thu hút thêm khách hàng mới, chú trọng đến thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nhằm giảm bớt sự mất cân đối trong việc thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh. 5- Nâng cao kiến thức về nghiệp vụ bảo lãnh cho các cán bộ thực hiện, cử các cán bộ tham gia các lớp tập huấn về nghiệp vụ bảo lãnh do Trung ương mở, căn cứ vào văn bản, chế độ, hướng dẫn mới của NHNN để tiếp tục hoàn chỉnh quy chế hoạt động về nghiệp vụ bảo lãnh. 6- Từng bước hiện đại hóa hoạt động bảo lãnh, tiến hành tin học hóa công nghệ Ngân hàng trong các lĩnh vực hoạt động bao gồm cả nghiệp vụ bảo lãnh nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. 3.3. Các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại NHĐT&PTHT. Mặc dù chưa phải là hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHĐT&PTHT song bảo lãnh cũng đóng góp một phần không nhỏ vào việc hỗ trợ thúc đẩy các nghiệp vụ ngân hàng khác cùng phát triển ( nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài nước…) đồng thời mang lại lợi nhuận cho ngân hàng từ thu phí bảo lãnh, nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường trong nước và quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng và tiềm năng phát triển của loại hình nghiệp vụ này NHĐT&PTHT đã và đang chú trọng đẩy mạnh hoạt động này bên cạnh việc phát triển các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống khác. Để thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh của NHĐT&PTHT theo các phương hướng đã đề ra nhằm góp phần thực hiện tốt chiến lược mở rộng các hoạt động dịch vụ của Ngân hàng đáp ứng các nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng nhằm tăng lợi nhuận, tăng khả năng cạnh tranh và an toàn trong kinh doanh thì việc tất yếu thì phải nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh trong thời gian tới. Vấn đề đặt ra là cần phải có giải pháp thích hợp cả về mặt cơ cấu điều hành của nhà nước thông qua các văn bản, các quy định của NHNN cung như việc tổ chức thực hiện tại NHĐT&PTHT. Mục tiêu của giải pháp là vừa mở rộng hoạt động bảo lãnh cả về chiều rộng và chiều sâu, vừa đảm bảo được yếu tố an toàn của Ngân hàng. Bằng vốn kiến thức ít ỏi của mình em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm hoành thiện nghiệp vụ bảo lãnh tại NHĐT&PTHT như sau: 3.3.1. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án: Không chỉ trong hoạt động tín dụng mà ngay cả trong hoạt động bảo lãnh công tác thẩm định dự án là hết sức quan trọng, là yếu tố quyết định khi đưa ra quyết định bảo lãnh. Mặc dù trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng không chỉ xuất tiền mà còn hạch toán ngoại bảng nhưng khi phải trả thay sẽ bị coi như khoản nợ quá hạn và ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Do đó nâng cao chất lượng thẩm định dự án là giải pháp tối ưu để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro cần được quan tâm đúng mức. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định trong nghiệp vụ bảo lãnh, trước tiên các cán bộ Ngân hàng phải phân tích tình hình tài chính của đơn vị một cách thường xuyên để nắm bắt được năng lực tài chính của doanh nghiệp như các khoản thu chi, khả năng vay, trả, đi sâu phân tích các khoản phải trả, doanh thu, chi phí, thị trường, thị phần, hiệu quả sử dụng vốn…Qua đó, có trể đánh giá một cách tổng quát về tình hình hoạt động chung của khách hàng. 3.3.2. Mở rộng thêm đối tượng khách hàng được bảo lãnh. Như đã đề cập trong phần trước, cơ cấu khách hàng được Ngân hàng bảo lãnh là khá mất cân đối, khách hàng được bảo lãnh chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như công ty TNHH, công ty liên doanh… được bảo lãnh rất ít. Bên cạnh bộ phận các công ty ngoài quốc doanh làm ăn không nghiêm túc gây mất lòng tin với Ngân hàng còn có nhiều công ty làm ăn nghiêm túc, tuân thủ đúng pháp luật và rất có triển vọng phát triển. Đây là một thị trường có tiềm năng tương đối lớn và vẫn còn để ngỏ. Vì vậy, trong thời gian tới Ngân hàng cần nghiên cứu để mở rộng đối tượng khách hàng được bảo lãnh với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh này. 3.3.3. Đổi mới cơ chế chính sách khách hàng. Ngân hàng và khách hàng luôn gắn bó với nhau, mối quan hệ này tồn tại một cách khách quan, luôn bổ sung và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Để phát triển nghiệp vụ bảo lãnh trong điều kiện cơ chế chính sách còn nhiều bất cập chưa được bổ sung đòi hỏi các Ngân hàng phải xây dựng chính sách khách hàng phù hợp để đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp với các hình thức bảo lãnh đa dạng hơn mà vẫn đảm bảo an toàn cho nghiệp vụ bảo lãnh. - Đối với các khách hàng truyền thống và các khách hàng có uy tín. Khách hàng truyền thống là khách hàng gắn bó với Ngân hàng cả về thời gian và nội dung hoạt động, có cả quá trình lịch sử hiện tại và tương lai. Các khách hàng có uy tín là các khách hàng luôn thực hiện tốt chính sách của Đảng và nhà nước, vay trả sòng phẳng và có trách nhiệm với đồng vốn, sử dụng vốn có hiệu quả, chi tiêu đúng chế độ, kinh doanh có lãi. Với các đối tượng khách hàng này nên ưu tiên xem xét nhu cầu bảo lãnh và nên có một chút chính sách phí mềm dẻo, có thể thấp hơn so với mức quy định. Vận động các đơn vị có quan hệ vay vốn ngắn hạn thường xuyên sử dụng các hình thức bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng tại Ngân hàng, hạn chế ký qũy trực tiếp tại các ban quản lý dự án. - Đối với các Tổng công ty lớn (áp dụng bảo lãnh theo hạn mức) Ngân hàng cần nắm bắt nhu cầu bảo lãnh của khách hàng, có thể trình Trung ương cho phép vượt quá hạn mức trong một chừng mực nhất định. Với các tổng công ty có đủ đảm bảo cho hạn mức chi nhánh nên cho phép các công ty thành viên được bảo lãnh bằng hình thức tín chấp. Cách làm này có lợi cho cả Ngân hàng và khách hàng. - Với các khách hàng mới cũng nên xem xét để không phải tất cả các khách hàng đều phải ký qũy 100% nhưng cũng không bỏ qua khâu thẩm định tài chính. Nếu bảo đảm, có thể cho phép khách hàng ký quỹ thấp hơn và kết hợp với thế chấp tài sản. - Vì đặc điểm của Tổng công ty là có nhu cầu bảo lãnh và có các giao dịch kinh tế lớn nên nếu để mất khách hàng cũng là mất rất nhiều cho Ngân hàng vì chi phí giữ khách hàng bao giờ cũng nhỏ hơn chi phí tìm kiếm khách hàng mới. Do vậy, Ngân hàng cần có chính sách khách hàng mềm dẻo. Mối quan hệ giữa khách hàng và Ngân hàng luôn gắn bó và tác động qua lại với nhau. Để tạo dựng tốt mối quan hệ này đóng góp vào việc xây dựng chính sách khách hàng hợp lý cần thực hiện tốt các giải pháp sau: - Thường xuyên tổ chức hội nghị khách hàng, thu thập lắng nghe ý kiến của khách hàng. Ngân hàng có thể tổng kết ý kiến của khách hàng về: + Những việc làm được và chưa được của cả hai phía. + Những ưu, nhược điểm của sản phẩm Ngân hàng, những vướng mắc về thủ tục, phí và chất lượng phục vụ của cán bộ Ngân hàng. + Thu thập ý kiến về nhu cầu hiện tại và tương lai của khách hàng, phổ biến chính sách, thể lệ của Ngân hàng trong bảo lãnh. Ngoài ra, Ngân hàng cũng nên tạo mối quan hệ thân thiết gần gũi bằng các cuộc viếng thăm thực tế của lãnh đạo Ngân hàng với khách hàng. Đồng thời cũng luôn gắn bó và quan tâm sâu sát tới doanh nghiệp để khi khách hàng có vướng mắc phát sinh Ngân hàng có thể kịp thời tháo gỡ. Luôn nêu cao tinh thần coi trọng khách hàng trong cán bộ công nhân viên, xác định khách hàng là bạn hàng, không có khách hàng không có Ngân hàng. Giáo dục cán bộ không ngừng giữ vững và phát huy phong cách giao dịch tận tình, chu đáo để giữ tín nhiệm với khách hàng. Bên cạnh đó phải tiếp cận và làm việc với khách hàng mới để nắm bắt nhu cầu bảo lãnh và đề xuất các khung hạn mức, các điều kiện đảm bảo an toàn đáp ứng kịp thời cho các nhu cầu của doanh nghiệp. Ngoài ra, Ngân hàng cần tranh thủ sự giới thiệu của khách hàng qua các thương vụ cho vay để nắm bắt nhu cầu của bạn hàng là đối tác của khách hàng, từ đó giới thiệu và cung cấp dịch vụ bảo lãnh. 3.3.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Ngân hàng. Con người là nhân tố quyết định tới thành công của mọi hoạt động kinh tế xã hội. Mục tiêu của công tác đào tạo cán bộ là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ Ngân hàng có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức và năng lực nghề nghiệ về nghiệp vụ ngân hàng, áp dụng được công nghệ hiện đại và có trình độ ngoại ngữ”. Đây là công tác trọng tâm của Ngân hàng vì đội ngũ cán bộ công nhân viên của Ngân hàng không những đại diện cho hình ảnh của Ngân hàng mà còn góp phần đắc lực trong việc nâng cao vị thế tăng khả năng cạnh tranh cho Ngân hàng. Trong thời gian tới, để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cần chú trọng đến những vấn đề sau: Bên cạnh việc tuyển chọn cán bộ có năng lực, được đào tạo bài bản cần tăng cường bồi dưỡng chuyên môn cho các cán bộ phần hành. Các cán bộ bảo lãnh không chỉ phải nắm vững nghiệp vụ tín dụng mà còn phải có các kiến thức thanh toán, kế toán, pháp luật, ngoại ngữ…Muốn vậy Ngân hàng cần có chính sách luân chuyển cán bộ, nghĩa là phải gửi họ vào thực tập tại các phòng nghiệp vụ có liên quan, tham dự các khóa đào tạo chuyên sâu trong và ngoài nước, hoặc tổ chức các hội thi, các cuộc thảo luận tại trụ sở để qua đó bổ sung kiến thức, tạo bầu không khí thi đua sôi nổi, đoàn kết trong Ngân hàng. Mặt khác, Ngân hàng cũng cần các cán bộ có kiến thức về các ngành kỹ thuật có liên quan đến các dự án nói chung và dự án bảo lãnh nói riêng. Vì vậy, NHĐT&PTHT có thể tuyển cử nhân của một số ngành kỹ thuật khác kết hợp với bồi dưỡng nghiệp vụ Ngân hàng. Cách làm này hiệu quả hơn việc đào tạo từ đầu về các ngành kỹ thuật khác cho các cán bộ Ngân hàng. Tuy nhiên, việc tuyển chọn cán bộ từ các ngành kỹ thuật phải có trọng tâm, trọng điểm. Ngoài ra, Ngân hàng cũng nên quan tâm đến việc đào tạo lại kiến thức cho cán bộ lâu năm và phổ biến rộng rãi kinh nghiệm kinh doanh cho cán bộ trẻ mới bước vào công tác. Tuyển chọn và sử dụng cán bộ là nội dung quan trọng trong việc thực hiện tiêu chuẩn hóa và trẻ hóa cán bộ. Muốn vậy, cần thực hiện cơ chế thi tuyển một cách khách quan, khoa học, công bằng, công khai để thu hút được nhân tài. Kinh nghiệm từ các nước trên thế giới cho thấy, hình thức tài trợ cho sinh viên từ các cơ sở đào tạo như các trường địa học, viện nghiên cứu…đã góp phần mang lại cho Ngân hàng các cán bộ giỏi về nghiệp vụ, ngoại ngữ, vi tính. Bên cạnh đó, việc sử dụng cán bộ phải hợp lý phù hợp với tính chất công việc, trình độ năng lực, tính cách, phẩm chất, điều kiện, sở thích, nguyện vọng của mỗi người để phát huy được hết khả năng của mỗi người. Mạnh dạn sử dụng các cán bộ trẻ có năng lực vì đây là đội ngũ nhanh nhạy và có đầu óc sáng tạo. Ngân hàng cũng cần có chính sách thưởng phạt thích hợp: biểu dương, khen ngợi kịp thời gương lao động tốt, có sáng kiến hoặc thành tích cao trong công việc đồng thời kỷ luật nghiêm khắc những cá nhân có những hành vi làm ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động cũng như uy tín cả Ngân hàng. Cuối cùng, phải luôn đề cao việc giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ cũng như phẩm chất đạo đức nghề nghiệp trung thực, liêm khiết trong cán bộ công nhân viên Ngân hàng. Có như vậy trong bất kỳ hoàn cảnh nào họ cũng làm chủ được bản thân không bị chi phối bởi các mối quan hệ cá nhân và lợi ích vật chất mà làm phương hại đến lợi ích chung của tập thể. Tóm lại, xây dựng đội ngũ cán bộ Ngân hàng tinh thông về nghiệp vụ, hiểu biết về pháp luật, có trình độ ngoại ngữ, tin học và có đạo đức kinh doanh sẽ đem đến cho Ngân hàng những khách hàng chân chính, làm ăn thực thụ, qua đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. 3.3.5. ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh: Như chúng ta đã biết, hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh tế tổng hợp gắn liền với mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Để hoạt động hiệu quả và giảm thiểu mọi rủi ro thì cần thiết phải có một hệ thống thông tin kinh tế, thông tin thị trường đầy đủ và một hệ thống công nghệ hiện đại. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng là giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh cho Ngân hàng. Để thực hiện được điều này, Ngân hàng cần chú trọng đến những vấn đề sau: - Hoàn thiện quy trình bảo lãnh, xây dựng trang Web cung cấp các thông tin quảng cáo trên mạng Internet. - Nâng cấp hệ thống máy vi tính cũ và trang bị thêm một số trang thiết bị hiện đại, hệ thống thông tin liên lạc giữa các phòng ban. Chi nhánh đã thực hiện việc nối mạng nội bộ giữa bộ phận kế toán và bộ phận tín dụng, trong thời gian tới cần nghiên cứu để áp dụng việc này với bộ phận bảo lãnh để việc đối chiếu, kiểm soát được nhanh chóng, dễ dàng. Ngoài nối mạng nội bộ giữa các phòng ban nên chú trọng đến việc nối mạng giữa các Ngân hàng cũng như nối mạng quốc tế để nâng cao hiệu quả công tác thu thập thông tin và học hỏi kinh nghiệm nước ngoài. - Chú trọng đầu tư phần mềm để nâng cao hiệu quả khai thác thông tin, không ngừng nâng cao trình độ tin học của cán bộ nghiệp vụ có năng lực tiếp nhận và sử dụng thành thạo những phương tiện mới nhất đặc biệt lag những phương tiện có tính công nghệ cao. - Có chính sách thu hút các kỹ sư tin học. Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng nhằm khuyến khích đội ngũ cán bộ tác nghiệp trong Ngân hàng đầu tư thời gian và trí tuệ cho việc nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo, phát triển các công nghệ mới. Kịp thời khen thưởng và biểu dương những cá nhân, nhóm có sáng kiến kinh nghiệm trong lĩnh vực phát triển phần mềm, đưa ra công nghệ mới… Ngoài ra, cần xây dựng mối quan hệ gắn bó với các công ty, các tổ chức tin học chuyên nghiệp có uy tín để tận dụng sự tư vấn, hỗ trợ trong quá trình phát triển ứng dụng công nghệ cao vào lĩnh vực hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng. 3.4. Một số kiến nghị. 3.4.1. Kiến nghị với Chính phủ và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền: * Hoàn thiện môi trường pháp lý: Tất cả các tổ chức kinh tế, các định chế tài chính, các Ngân hàng, các doanh nghiệp…khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Pháp luật càng chặt chẽ thì càng ít gây phát sinh tranh chấp, gian lận, lừa đảo. Hiện nay, chưa có một luật nào có các quy định đầy đủ về hoạt động bảo lãnh Ngân hàng, mới chỉ có văn bản có giá trị pháp lý cao nhất quy định về nghiệp vụ bảo lãnh nói chung là Bộ luật dân sự. Hoạt động Ngân hàng được tiến hành dưới sự bảo lãnh nói chung của NHNN qua các văn bản pháp quy và văn bản dưới luật do NHNN ban hành và hướng dẫn thực hiện. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản này vẫn chưa mang tính chuẩn mực, có những khía cạnh của bảo lãnh chưa được quy định trong khi đó một số quy định khác lại quá chặt chẽ. Mặt khác các văn bản này lại thường xuyên bị sửa đổi, gây khó khăn trong việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của các Ngân hàng đôi khi còn gây thiệt hại cho Ngân hàng. Trong thời gian tới, đối với nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng, Chính phủ cần nghiên cứu về quy chế, nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng nước ngoài cộng với kinh nghiệm thực hiện bảo lãnh của các NHTM trong thời gian qua để đưa ra một hệ thống văn bản pháp quy đồng bộ để điều chỉnh hoạt động bảo lãnh Ngân hàng bao gồm các luật bảo lãnh, luật cầm cố, thế chấp tài sản. Việc ban hành một hệ thống văn bản pháp quy đồng bộ điều chỉnh hoạt động bảo lãnh Ngân hàng sẽ đảm bảo sự thống nhất giữa các ngành trong quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, ngoài ra nó còn tạo ra căn cứ dẫn chiếu thống nhất cho các Ngân hàng khi tiến hành các giao dịch ngoại thương. Bên cạnh đó, vấn đề tài sản thế chấp cũng là một vấn đề còn nhiều khúc mắc với các ngân hàng trong quá trình thực hiện hoạt động bảo lãnh. Trong khi chưa đưa ra được một đạo luật thống nhất về thế chấp, cầm cố tài sản, Chính phủ cần ban hành các văn bản dưới luật quy định chi tiết về sở hữu tài sản của doanh nghiệp, cần nêu rõ loại tài sản được dùng để thế chấp khi đề nghị Ngân hàng bảo lãnh với từng loại hình doanh nghiệp: từ nguồn ngân sách Nhà nước cấp hay doanh nghiệp tự bỏ vốn đầu tư. Ngoài ra cần có những văn bản hướng dẫn về thủ tục phát mại tài sản khi doanh nghiệp không hoàn trả được tiền Ngân hàng bảo lãnh đã trả thay, quy định những người có thẩm quyền quyết định việc phát mại tài sản của doanh nghiệp nhà nước… Mặt khác, hiện nay chúng ta chưa có một cơ quan chuyên trách chịu trách nhiệm cấp chứng thư tài sản và quản lý quá trình chuyển dịch sở hữu tài sản. Chính vì vậy, nhiều trường hợp Ngân hàng rất khó xác định được chính xác chủ sở hữu của tài sản đó hoặc phải lấy chứng nhận của cơ quan nào về nguồn gốc tài sản thế chấp, cầm cố trong khi đây lại là vấn đề then chốt để xác định sở hữu Nhà nước, tư nhân hay của một nhóm thành viên tham gia vào sản xuất kinh doanh, xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ kinh tế. Hiện nay vấn đề này được quy định rải rác trên các văn bản pháp luật khác nhau, chưa được quy định tại một văn bản thống nhất. Hơn nữa pháp luật cho phép các doanh nghiệp thế chấp giá trị quyền sử dụng đất nhưng lại ràng buộc bằng điều kiện gắn với tài sản thuộc sở hữu của mình, điều này khó áp dụng với doanh nghiệp nhà nước. Việc tiến hành phát mại tài sản của doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn vì tổng cục quản lý vốn và tài sản chỉ chứng nghiệm tài sản này “thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp” mà không chấp nhận cho doanh nghiệp sử dụng tài sản này để thế chấp. Vì vậy nếu có rủi ro xẩy ra, Ngân hàng sẽ khó khăn trong việc thu hồi vốn. Vì vậy trong thời gian tới, các cơ quan hữu quan cần nghiên cứu để có các biện pháp giải quyết những vấn đề trên theo hướng sau: - Nhà nước cần sớm ban hành những văn bản quy định cụ thể việc đang ký sở hữu và cấp giấy chứng nhận sở hữu nhà xưởng, thiết bị, quyền sử dụng đất và công trình trên đất cho các tổ chức kinh tế. Ngoài ra cũng nên đơn giản hóa tối đa các thủ tục hành chính, pháp lý như thủ tục phát mại tài sản, giải quyết chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho người mua lại tài sản tạo điều kiện cho việc mua bán chuyển nhượng tài sản được dễ dàng, thuận lợi. Bên cạnh đó, để tiến hành hoạt động bảo lãnh được thuận lợi cần có sự hỗ trợ của một số Bộ, Ngành có liên quan. Cụ thể: - Bộ Tài chính cần tổ chức thực hiện tốt việc kiểm tra bắt buộc các doanh nghiệp tiến hành hạch toán theo pháp lệnh hạch toán kế toán thống kê, đảm bảo số liệu chính xác, trung thực và kịp thời nhằm giúp các Ngân hàng có được các thông tin tài chính, việc phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh được chính xác… - Bộ Tư pháp cần có những hướng dẫn về các mẫu giấy tờ công chứng trong hoạt động bảo lãnh đồng thời nghiên cứu để đưa ra mức phí công chứng hợp lý (hiện nay phí công chứng còn tương đối cao gây khó khăn cho Ngân hàng và khách hàng). - Mặt khác Bộ Tư pháp cần nâng cao hiệu quả của cơ quan chuyên môn giải quyết việc bán tài sản là Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản. Hiện nay, mới có hai Trung tâm được thành lập tại Hà Nội song hoạt động của các Trung tâm này còn rất hạn chế, chưa thực sự phát huy tác dụng như mong muốn. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các Trung tâm này sẽ góp phần giảm bớt chi phí và thời gian của các NHTM và làm tăng hiệu quả của việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố. *Ổn định môi trường kinh doanh: Hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng nằm trong môi trường kinh doanh chung của các chủ thể kinh tế, do đó chịu ảnh hưởng rất lớn của sự vận hành của nền kinh tế. Để hoạt động bảo lãnh nói riêng và hoạt động Ngân hàng nói chung có hiệu quả thì Nhà nước cần hoàn thiện môi trường hoạt động ở tầm vĩ mô của hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện để hệ thống ngân hàng khẳng định được vị trí trung tâm của mình trong nền kinh tế. Cụ thể là: Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện cơ chế thị trường theo định hướng XHCN với hệ thống đồng bộ các chính sách tài chính tiền tệ, chính sách phát triển kinh tế ngành, địa phương, chính sách xã hội, chính sách phát triển thị trường vốn và thị trường tiền tệ, từng bước hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán…Qua đó tăng nguồn vốn cho đầu tư phát triển làm cơ sở cho các doanh nghiệp trong việc tham gia vào thực hiện các dự án hay hợp đồng kinh doanh lớn. Qua đó mới tạo điều kiện để hoạt động bảo lãnh phát triển. Thực hiện việc công khai hóa thông tin và kiểm toán bắt buộc với các doanh nghiệp để lành mạnh hóa hoạt động kinh doanh, đảm bảo cho các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc có hiệu quả, có khả năng thực hiện các hợp đồng đã ký kết. Từng bước hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán, việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển loại hình bảo lãnh của các Ngân hàng. Thông qua thị trường này, ngân hàng có thể sớm đưa ra các loại hình bảo lãnh mới phù hợp với yêu cầu thực tế như bảo lãnh hối phiếu trung, dài hạn, các chứng từ có giá… Ngoài ra cần có những biện pháp để tạo ra một “sân chơi” bình đẳng cho các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế ngoài quốc doanh, tạo điều kiện để thành phần kinh tế này tiếp cận và sử dụng dịch vụ bảo lãnh Ngân hàng và các dịch vụ Ngân hàng khác vì đây cũng là thị trường tiềm năng rất lớn của ngân hàng. Bên cạnh đó, nhà nước cần chú trọng các chính sách kinh tế đối ngoại, thực hiện chính sách mở cửa và hợp tác kinh tế với nước ngoài, thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế thông qua các chính sách ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài. Cải cách các chính sách, chế độ về nhập khẩu, chính sách thuế quan…để đảm bảo công bằng và cạnh tranh lành mạnh. 3.4.2. Kiến nghị với NHNNVN. - Song song với việc củng cố hoàn thiện các loại hình bảo lãnh truyền thống bằng cách cải tiến thủ tục cho gọn nhẹ mà vẫn an toàn, hiệu quả, NHNN cần nghiên cứu và ban hành các văn bản hướng dẫn các NHTM trong việc đưa các hình thức bảo lãnh mới vào sử dụng. Hiện nay, ở nước ta có nhiều loại hình bảo lãnh rất có tiềm năng mà chưa được đưa vào thực hiện tại các Ngân hàng. Ví dụ bảo lãnh hoàn thuế, bảo lãnh vận đơn, bảo lãnh phát hành chứng khoán, bảo lãnh hối phiếu, bảo lãnh vay vốn nước ngoài…đặc biệt là hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán vì trong điều kiện thị trường chứng khoán của chúng ta mới đi vào hoạt động còn non trẻ, uy tín của các doanh nghiệp còn chưa cao thì hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của ngân hàng là hết sức cần thiết. - Chi nhánh NHNN trên địa bàn các tỉnh, thành phố cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động bảo lãnh của các tổ chức tín dụng để phòng ngừa và xử lý các sai phạm trong quá trình thực hiện đồng thời tổng hợp báo cáo đầy đủ và kịp thời về tình hình bảo lãnh và những vướng mắc của các TCTD về NHNN theo quy định. - Ngoài ra, NHNNVN cần củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng CIC nhằm cung cấp thông tin, số liệu kịp thời đáp ứng yêu cầu của các NHTM. Muốn vậy cần có những biện pháp mạnh mẽ để buộc tất cả các NHTM chưa thực hiện phải cung cấp đầy đủ các thông tin, số liệu theo yêu cầu cho Trung tâm CIC của NHNNVN theo quy định của NHNNVN. 3.3.3. Kiến nghị đối với NHĐT&PTVN. NHĐT&PTHT chịu sự chỉ đạo và quản lý trực tiếp của NHĐT&PTVN do đó để phát huy hết tiềm năng và hiệu quả của hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh, NHĐT&PTVN cần nghiên cứu một số vấn đề sau: - Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, kiểm tra, kiểm toán nội bộ thực hiện thường xuyên công tác này từ Trung ương đến các chi nhánh cơ sở để kịp thời phát hiện và xử lý các sai sót nhằm đảm bảo chất lượng hoạt động của các Ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng. Thông qua hoạt động kiểm tra nên thực hiện việc tuyên truyền giới thiệu những chi nhánh làm tốt, phổ biến những kinh nghiệm hay, cảnh cáo những biểu hiện lệch lạc, nguy cơ rủi ro cao…để nâng cao chất lượng của nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng. Để thực hiện tốt công tác này cần kiện toàn lại đội ngũ cán bộ kiểm tra, kiểm toán trong toàn hệ thống Ngân hàng. - NHĐT&PTVN cần thường xuyên tạo điều kiện để NHĐT&PTHT mở rộng quan hệ hợp tác với các Ngân hàng khác tham gia đồng bảo lãnh cho một dự án hoặc khách hàng lớn với giá trị bảo lãnh lớn và thời hạn bảo lãnh kéo dài. Việc này giúp Ngân hàng phân tán được rủi ro khi tham gia nghiệp vụ bảo lãnh do có sự kết hợp thế mạnh, khả năng và kinh nghiệm của nhiều ngân hàng khác nhau. - Bên cạnh đó, NHĐT&PTVN cần thường xuyên mở các khóa tập huấn và bồi dưỡng nghiệp vụ bảo lãnh cho từng cán bộ tín dụng để nâng cao kiến thức chuyên môn. Theo hướng này, NHĐT&PTVN cần kết hợp chặt chẽ giữa phương thức đào tạo ngắn hạn và phương thức đào tạo dài hạn ở trong nước kết hợp vơí nước ngoài, tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm, mời các chuyên gia của nước ngoài và các tổ chức quốc tế để cùng trao đổi học hỏi kinh nghiệm để cùng đưa ra các giải pháp cho nghiệp vụ bảo lãnh để nghiệp vụ này ngày càng hoàn thiện hơn. KẾT LUẬN Nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng là một trong những loại hình dịch vụ của ngân hàng, nằm trong hoạt động kinh doanh chung của ngân hàng. Bảo lãnh ngân hàng có vai trò hết sức to lớn không chỉ đối với bản thân Ngân hàng thực hiện mà với cả các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận một cách khách quan thì hoạt động bảo lãnh của hệ thống Ngân hàng nói chung và của NHĐT&PTHT nói riêng mặc dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ song vẫn chưa tương xứng với vai trò và tiềm năng của nó, chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế, đòi hỏi càng ngày càng phải được hoàn thiện và phát triển hơn nữa. Về mặt lý luận, chuyên đề tập trung vào làm rõ vấn đề cơ bản về hoạt động bảo lãnh: sự cần thiết của hoạt động bảo lãnh ngân hàng, chức năng vai trò của bảo lãnh ngân hàng, các loại bảo lãnh ngân hàng, kinh nghiệm bảo lãnh của một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Về mặt thực tiễn, chuyên đề đã phân tích và đánh giá được những thành tựu đạt được và những khó khăn tồn tại trong hoạt động bảo lãnh của NHĐT&PTHT` đồng thời chỉ ra nguyên nhân của các tồn tại trên. Với mục tiêu hoàn thiện và phát triển hơn nữa nghiệp vụ bảo lãnh của NHĐT&PTHT nói riêng và hệ thống NHTM nói chung, chuyên đề đã đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, tồn tại và đưa hoạt động bảo lãnh vào hoạt động theo đúng quỹ đạo. Do trình độ cũng như nhận thức của bản thân còn hạn chế nên chuyên đề không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp chỉ bảo của thày cô giáo và các cán chuyên môn để em có điều kiện bổ sung và hoàn thiện chuyên đề hơn nữa. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ******* Luật Ngân hàng, luật các tổ chức tín dụng. Luật doanh nghiệp Nhà nước ngày 20 /04 /1998. Bộ luật dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1995. Tín dụng Ngân hàng-GS -TS. Hồ Diệu- NXB thống kê năm 2000. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính - FREDRICS. MISKIN. Nghị định số 42 /CP ngày 16/7/1996 của Thủ tướng chính phủ ban hành kèm theo điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng. Nghị định số 43/CP ngày 16/7/1996 của Thủ tướng chính phủ ban hành kèm theo quy chế đấu thầu. Quyết định 283/QĐ- NHNN 14 ngày 25/8/2000 về quy chế nghiệp vụ bảo lãnh của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Quyết định 2348 ngày 4/9/2001 về hướng dẫn quy chế bảo lãnh kèm theo quyết định 283/ 2000-QĐ-NHNN của Thống đốc NHNHVN. Quyết định số 112/2003/QĐ- NHNN do Thống đốc NHNN ban hành về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế bảo lãnh Ngân hàng ban hành kèm quyết định 283/2000/QĐ-NHNN 14 ngày 25/8/2000. Quy trình bảo lãnh của hệ thống Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam năm 2001. Tạp chí đầu tư và phát triển. Tạp chí Ngân hàng các số năm 2000, 2001, 2002. Tạp chí thị trường tài chính – thị trường tiền tệ. MỤC LỤC Lời mở đầu 1. Tính tất yếu của việc hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3. Mục đích và phương pháp nghiên cứu 4. Kết cấu củachuyên đề Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng 1.1.1. Sự ra đời của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng là khách tất yếu khách quan 1.1.2. Quá trình phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng 1.2. Bản chất và đặc điểm của bảo lãnh Ngân hàng 1.2.1. Khái niệm bảo lãnh- bảo lãnh Ngân hàng 1.2.2 . Đặc điểm của bảo lãnh Ngân hàng 1.2.3. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng 1.3 Vai trò của bảo lãnh ngân hàng 1.3.1. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng đối với doanh nghiệp 1.3.2. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng với ngân hàng 1.3.3. Vai trò của bảo lãnh đối với nền kinh tế 1.4. Nội dung nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng 1.4.1. Các loại bảo lãnh ngân hàng 1.4.3. Rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng 1.5.1.Hoạt động bảo lãnh Ngân hàng ở một số quốc gia trên thế giới 1.5.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ TÂY 2.1. Vài nét về tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Hà Tây 2.2. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Tây 2.2.1. Giới thiệu chung về NHĐT&PTHT 2.2.2. Vài nét về tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHĐT&PTHT 2.3.1. Tình hình thực hiện quy trình nghiệp vụ bảo lãnh tại chi nhánh NHĐT&PTHT 2.3.2. Đánh giá chung về tình hình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tại NHĐT& PTHT Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ TÂY 3.1. Định hướng kế hoạch kinh doanh của chi nhánh đến năm 2005 3.2. Định hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh của NHĐT&PTHT 3.3. Các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại NHĐT&PTHT 3.3.1. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án 3.3.2. Mở rộng thêm đối tượng khách hàng được bảo lãnh 3.3.3. Đổi mới cơ chế chính sách khách hàng 3.3.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Ngân hàng 3.3.5. ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh 3.4. Một số kiến nghị 3.4.1. Kiến nghị với Chính phủ và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền 3.4.2. Kiến nghị với NHNNVN 3.3.3. Kiến nghị đối với NHĐT&PTVN KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNganHang 25.doc
Tài liệu liên quan