Luận văn Luận án Trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản - Pháp luật và thực tiễn

1. Lý do chọn đề tài Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự tồn tại và phát triển của đời sống con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, của dân tộc và nhân loại, sự biến đổi một số thành phần môi trường sẽ gây tác động đáng kể đối với các hệ sinh thái. Vì vậy, vấn đề bảo vệ môi trường luôn là một trong những nhiệm vụ trọng yếu và cấp bách của mỗi quốc gia nhất là ở các quốc gia đang phát triển. Như chúng ta đã biết, hiện nay hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam đang rất phát triển. Hoạt động này đã mang lại thu nhập đáng kể cho người khai thác, đồng thời tạo hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, phải thừa nhận thực tế là bấy lâu con người chỉ chú trọng phát triển kinh tế hơn là quan tâm đến bảo vệ môi trường. Do đó, hoạt động khai thác khoáng sản hiện và đang gây ô nhiễm môi trường và ngày càng nghiêm trọng hơn. Để bảo vệ môi trường, Đảng và Nhà nước ta có những chủ trương, biện pháp giải quyết các vấn đề môi trường như là nghị quyết 41-NQ-TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước Và ngày 29 tháng 11 năm 2005 Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ môi trường 2005, trong đó tại điều 44 quy định trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản. Quy định này nhằm ngăn ngừa, hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, công tác bảo vệ môi trường trong thời gian qua bên cạnh một số kết quả đạt được vẫn còn đó những hạn chế chưa khắc phục do việc am hiểu và chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản còn hạn chế. Bên cạnh đó là trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong vấn đề thực thi pháp luật còn nhiều bất cập. Xuất phát từ tầm quan trọng của môi trường và nhiệm vụ mà Đảng đề ra trong quá trình cộng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước như đã nêu trên, người viết đã chọn nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản – Pháp luật và thực tiễn”, nhằm phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản có hiệu quả và thực hiện nhiệm vụ đã đề ra. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu pháp luật Việt nam về bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản với mục đích là nhằm nâng cao hiểu biết về những chính sách và pháp luật mà Nhà nước ta đã đề ra nhằm phục vụ hiệu quả công tác bảo vệ môi trường. Tiếp đến là tìm hiểu vấn đề thực thi pháp luật của các tổ chức, cá nhân có đạt được những kết quả khả quan hay không. Mục đích cuối cùng của quá trình nghiên cứu là trang bị cho mình những kiến thức hữu ích trrong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Đồng thời, với vốn hiểu biết của mình, từ đó có một số đề xuất đóng góp nhằm phục vụ cho công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam. 3. Phạm vi nghiên cứu Đề tài này được nghiên cứu trong phạm vi pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trong nội dung đề tài nghiên cứu của mình người viết chủ yếu đề cập đến một số loại khoáng sản như than, bauxite và cát trong quá trình khai thác ở một số nơi. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, người viết sử dụng các phương pháp: phân tích luật viết, phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách, báo cùng với phương pháp phân tích, tổng hợp. Đồng thời vận dụng những tư tưởng chỉ đạo của Đảng trên tinh thần các Nghị quyết qua các kỳ đại hội, cụ thể là Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước để làm phương hướng đề xuất những kiến nghị phù hợp với tình hình xã hội và yêu cầu bảo vệ môi trường ở nước ta. 5. Cấu trúc của đề tài Để thuận tiện cho việc theo dõi, nghiên cứu cũng như tránh bỏ sót những vấn đề quan trọng cần đề cập, người viết phân chia luận văn làm ba chương, bao gồm: Chương 1. Những lý luận cơ bản về môi trường và hoạt động khai thác khoáng sản Chương 2. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản Qua đây người viết xin gởi lời cảm ơn chân thành đến toàn thể quý thầy cô Khoa Luật, trường Đại học Cần Thơ đặc biệt là thầy Kim Oanh Na – người đã tận tình hướng dẫn cho người viết hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được của đề tài vẫn còn những thiếu sót nhất định do người viết còn hạn chế về trình độ, khả năng và điều kiện nghiên cứu chưa thuận lợi. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô cùng bạn đọc!

doc41 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2122 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Luận án Trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản - Pháp luật và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu, phân tích tổng hợp phức tạp, đòi hỏi chuyên gia kinh nghiệm, tốn kém về thời gian, kinh phí. Vì vậy đối với các dự án phát triển việc ĐTM đầy đủ chỉ tiến hành đối với các dự án phát triển quan trọng, còn đối với các dự án ít quan trọng hơn thì không được quan tâm đúng mức. Sau khi báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt thì chủ dự án có trách nhiệm báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi thực hiện dự án về nội dung quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; niêm yết công khai địa điểm thực hiện dự án về các loại chất thải, cộng nghệ xử lý, thông số tiêu chuẩn về chất thải các giải pháp bảo vệ môi trường để cộng đồng dân cư biết, kiểm tra, giám sát; thực hiện đúng, đầy đủ các nội dung bảo vệ môi trường nêu trong báo cáo đánh giá tác động môi trường và các yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động; thông báo cho cơ quan phê duyệt báo cáo tác động môi trường để kiểm tra, xác nhận việc đã thực hiện các nội dung của báo cáo và yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; chỉ được đưa công trình vào sử dụng sau khi đã được cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, xác nhận việc thực hiện đầy đủ yêu cầu quy định trên (theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật bảo vệ môi trường năm 2005 và khoản 11 mục III Thông tư 05/2008/TT-BTNMT). 2.1.2 Tuân thủ các quy định về lập và thưc hiện các nội dung trong cam kết bảo vệ môi trường Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng không thuộc đối tượng lập báo cáo đánh giá tác động môi trường có trách nhiệm lập bản cam kết bảo vệ môi trường để đăng ký với Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã được ủy quyền xem xét, xác nhận. Theo tinh thần của Điều 24 Luật bảo vệ môi trường và Nghị định 21/2008/NĐ-CP thì các dự án hoạt động khai thác khoáng sản sau đây phải lập bản cam kết bảo vệ môi trường (CKBVMT): - Dự án khai thác khoáng sản (trên đất liền) làm vật liệu xây dựng có công suất khai thác dưới 50.000m3/năm. - Dự án khai thác khoáng sản làm vật liệu san lấp mặt bằng có công suất khai thác dưới 100.000m3/năm. - Dự án khai thác, nạo vét tận thu khoáng sản lòng sông làm vật liệu xây dựng có công suất khai thác dưới 50.000m3/năm. - Dự án khai thác khoáng sản rắn (không sử dụng hóa chất) có khối lượng mỏ (bao gồm khoáng sản và đất đá thải) dưới 100.000m3/năm. Cấu trúc và yêu cầu về nội dung của bản cam kết bảo vệ môi trường phải bảo đảm theo đúng quy định Phục lục 24 Cấu trúc và yêu cầu về nội dung của bản cam kết bảo vệ môi trường (Ban hành kèm theo thông tư số 05/2008/TT-BTNMT ngày 8 tháng 12 năm 2008 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường) , bao gồm các nội dung chính sau: + Thông tin chung: Tên Dự án; tên cơ quan, doanh nghiệp Chủ dự án; địa chỉ liên hệ của cơ quan, doanh nghiệp Chủ dự án; người đứng đầu cơ quan, doanh nghiệp Chủ dự án; phương tiện liên lạc với cơ quan, doanh nghiệp Chủ dự án; + Địa điểm thực hiện dự án; + Quy mô sản xuất, kinh doanh; + Nhu cầu nguyên, nhiên liệu sử dụng; + Các tác động môi trường: Các loại chất thải phát sinh; các tác động khác; + Biện pháp giảm thiểu tác động tiêu cực: Xử lý chất thải; giảm thiểu các tác động khác; + Các công trình xử lý môi trường, chương trình giám sát môi trường: Các công trình xử lý môi trường; chương trình giám sát môi trường; + Cam kết thực hiện. Chủ dự án có trách nhiệm gửi hồ sơ đăng ký bản cam kết bảo vệ môi trường đến Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) nơi có dự án hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn thuộc huyện (sau đây gọi chung là cấp xã) được ủy quyền để đăng ký và cấp giấy xác nhận. Thời điểm đăng ký bản cam kết bảo vệ môi trường là trước khi xin cấp giấy phép khai thác khoáng sản. Sau khi bản cam kết bảo vệ môi trường đã được xác nhận thì tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản có trách nhiệm thực hiện đúng và đầy đủ các nội dung đã ghi trong bản cảm kết bảo vệ môi trường. 2.1.3 Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải sử dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu thân thiện với môi trường Một trong những đặc điểm của hoạt động khai thác khoáng sản là thường gây ảnh hưởng rất lớn tới môi trường và sức khỏe của người lao động cũng như người dân vùng lân cận. Vì vậy, để bảo vệ môi trường và sức khỏe con người cũng như đảm bảo hoạt động khai thác khoáng sản được thực hiện có hiệu quả, an toàn, tiết kiệm thì mọi tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản phải sử dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu phù hợp, thân thiện với môi trường. Theo khoản 1 Điều 16 Luật khoáng sản 1996 có hiệu thi hành 01/9/1996 thì: “Tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản phải sử dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu và thực hiện các quy định khác của Luật bảo vệ môi trường để hạn chế tối đa tác động xấu đến các thành phần môi trường; thực hiện việc phục hồi môi trường, môi sinh và đất đai sau khi kết thúc từng giai đoạn hoặc toàn bộ hoạt động khoáng sản”. Vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành công nghiệp khai khoáng đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025”. Theo đề án này, ngành khai khoáng ưu tiên lựa chọn thiết bị, công nghệ mới theo hướng sản xuất sạch với các tiêu chí cao, ít tiêu hao nguyên, nhiên liệu, an toàn và thân thiện với môi trường sinh thái; áp dụng ngay từ đầu công nghệ hiện đại, có trình độ cơ giới hóa và tự động hóa cao đối với các mỏ mới xây dựng có quy mô lớn. Khoa học và công nghệ trở thành lực lượng quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm an toàn lao động và bảo vệ môi trường. Trong công nghệ khai thác lộ thiên, phấn đấu đến năm 2015 đạt trình độ cơ giới hóa các công đoạn sản xuất ngang tầm của khu vực và đến 2025 đạt trình độ thế giới, công nghệ thông tin được áp dụng phổ biến trong quản lý sản xuất kinh doanh, quản trị tài nguyên ở những mỏ lớn, tiến tới giảm tới tối đa lao động phổ thông ở những mỏ nhỏ và vừa; trong công nghệ khai thác hầm lò, phấn đấu áp dụng cơ giới hóa đồng bộ, chấm dứt tình trạng khai thác thủ công... (Quyết định số 159/2008/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án “Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành công nghiệp khai khoáng đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025”). Trong thời gian qua tình trạng chảy máu tài nguyên do công nghệ khai thác lạc hậu diễn ra khá phổ biến. Vì lợi ích cục bộ, trước mắt, các cơ sở khai thác ngại đầu tư công nghệ, thiết bị tiên tiến, các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu sử dụng thủ công, lợi dụng nhân công rẻ để kiếm lợi cao, không quan tâm đến các chỉ tiêu kỹ thuật, đã làm thất thoát một khối lượng lớn tài nguyên trong hoạt động này. Theo kết quả của Viện Tư vấn phát triển, tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác còn rất cao như khai thác than hầm lò tổn thất là 40 – 60%, khai thác apatit 26 – 43%, quặng kim loại 15 – 30%... Thiết nghĩ đã đến lúc các nhà quản lý của nước ta cần xiết chặt về vấn đề cấp giấy phép hoạt động khai thác, kiểm tra năng lực khai thác khoáng sản của các tổ chức, cá nhân. Bên cạnh đó cần có một số chính sách lớn như: Khuyến kích các doanh nghiệp có năng lực vốn, thiết bị đầu tư vào lĩnh vực khoáng sản; hỗ trợ vốn để các tổ chức, cá nhân cải tiến công nghê, kĩ thuật; tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút nguồn lực Khoa học và công nghệ từ bên ngoài… Có như vậy mới khắc phục được tình trạng chảy máu tài nguyên nói chung và tài nguyên khoáng sản trong khai thác nói riêng. 2.1.4 Thực hiện các quy định về quản lý chất thải 2.1.4.1 Quản lý nước thải Hoạt động khai thác khoáng sản, nước được sử dụng với khối lượng lớn cho hầu hết các công đoạn sản xuất, đồng thời lượng nước thải ra môi trường làm ảnh hưởng đến nguồn nước xung quanh khu vực khai thác cũng đáng kể. Do đó chủ thể tiến hành hành khai thác khoáng sản phải tuân thủ các quy định về quản lý nước thải, thu gom và xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường. Tiêu chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường (Khoản 5 điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2005). Một khi chuẩn mực hoặc giới hạn các tác nhân gây ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn thì ở đó có thể xem là bị ô nhiễm mặc dù chưa có bằng chứng về tác hại của các chất gây ô nhiễm. Tiêu chuẩn môi trường được quy định cụ thể cho từng vùng và không giống nhau ở mọi nơi, mọi mục đích sử dụng. Tiêu chuẩn môi trường xác định các mục tiêu môi trường và đặt ra các giới hạn số lượng hay nồng độ cho phép của các chất được thải vào khí quyển, nước, đất hay được phép tồn tại trong các sản phẩm tiêu dùng. Theo Nghị định số 149/2004/NĐ-CP ngày 27/7/2004 quy định về việc cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước thì chủ thể khai thác khoáng sản phải tiến hành lập hồ sơ xin cấp phép xả nước thải vào nguồn nước và nộp hồ sơ tại cơ quan tiếp nhận hồ sơ là Cục Quản lý tài nguyên nước thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm tiếp nhận và quản lý hồ sơ, giấy phép do Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp hoặc Sở Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm tiếp nhận và quản lý hồ sơ giấy phép do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp. Hồ sơ bao gồm: - Đơn đề nghị cấp giấy phép; - Kết quả phân tích chất lượng nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải theo quy định của Nhà nước tại thời điểm xin cấp phép; - Quy định vùng bảo hộ vệ sinh (nếu có) do cơ quan có thẩm quyền quy định tại nơi dự kiến xả nước thải; - Đề án xả nước thải vào nguồn nước, kèm theo quy trình vận hành hệ thống xử lý nước thải; trường hợp đang xả nước thải vào nguồn nước thì phải có báo cáo hiện trạng xả nước thải, kèm theo kết quả phân tích thành phần nước thải và giấy xác nhận đã nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải; - Bản đồ vị trí khu vực xả nước thải vào nguồn nước tỷ lệ 1/10.000; - Báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt đối với trường hợp phải đánh giá tác động môi trường theo quy định của pháp luật; - Bản sao có công chứng giấy chứng nhận, hoặc giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai tại nơi đặt công trình xả nước thải. Trường hợp đất nơi đặt công trình xả nước thải không thuộc quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân xin phép thì phải có văn bản thoả thuận cho sử dụng đất giữa tổ chức, cá nhân xả nước thải với tổ chức, cá nhân đang có quyền sử dụng đất, được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận. 2.1.4.2 Quản lý chất thải rắn Khối lượng chất thải rắn (đất, đá) xuất hiện trong khai thác khoáng sản là rất lớn, loại chất thải này sau một thời gian không được xử lý sẽ gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái, ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng đến đời sống cư dân cũng như động, thực vật trong khu vực. Để nhằm hạn chế ảnh hưởng đến môi trường từ các chất thải nói chung và chất thải rắn trong khai thác khoáng sản nói riêng, ngày 09 tháng 4 năm 2007 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2007/NĐ-CP về quản lý chất thải rắn. Theo Nghị định này, thì loại chất thải trong hoạt động khai thác khoáng sản được gọi là chất thải công nghiệp; chủ nguồn thải có trách nhiệm thu gom, phân loại tại nguồn nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chất thải. 2.1.5 Nghĩa vụ nộp thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường của chủ thể khai thác khoáng sản Hiện nay, hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam diễn ra với quy mô và tốc độ ngày càng lớn, nhanh, đồng nghĩa với trữ lượng khoáng sản của nước ta ngày càng cạn kiệt và mức độ ô nhiễm môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản gây ra càng thêm trầm trọng. Chính vì vậy, để quản lý có hiệu quả việc khai thác khoáng sản và bảo vệ môi trường, Nhà nước đã quy định các nghĩa vụ mà tổ chức, cá nhân khi tiến hành khai thác khoáng sản phải tuân theo, trong đó có các nghĩa vụ về tài chính. Tác giả xin đề cập đến các nghĩa vụ tài chính có tác động mạnh đến các tổ chức, cá nhân khi được phép khai thác khoáng sản là: thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường. - Thuế tài nguyên Thuế tài nguyên là loại thuế thu vào hành vi khai thác tài nguyên thiên nhiên của tổ chức, cá nhân. Hành vi khai thác tài nguyên thiên nhiên là sự kiện pháp lý làm phát sinh thuế tài nguyên (không phải hành vi sử dụng tài nguyên thiên nhiên). Thuế tài nguyên là một trong những nguồn thu chung của ngân sách nhà nước để dùng cho các hoạt động điều tiết xã hội khác nhau, trong đó có hoạt động bảo vệ môi trường. Trước đây việc thu thuế tài nguyên dựa trên Pháp lệnh Thuế tài nguyên năm 1998 và Pháp lệnh số 07/2008/PL-UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung Điều 6 Pháp lệnh Thuế tài nguyên năm 1998. Hiện nay việc thu thuế tài nguyên dựa trên cơ sở pháp lý là Luật Thuế tài nguyên năm 2009 có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 7 năm 2010. Một số quy định của Luật Thuế tài nguyên năm 2009 như sau: Thứ nhất về đối tượng chịu thuế tài nguyên phần lớn là tài nguyên khoáng sản, như: khoáng sản kim loại, khoáng sản không kim loại, dầu thô, khí than, khí thiên nhiên, nước nóng thiên nhiên và nước khoáng. Thứ hai, quy định về thuế suất Biểu thuế suất thuế tài nguyên năm 2009 . Có thể nói, thuế suất được xem như là “linh hồn” của một sắc thuế. Việc xác định mức thuế suất như thế nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến số tiền nộp thuế của các chủ thể khai thác tài nguyên thiên nhiên nói chung cũng như các chủ thể khai thác khoáng sản nói riêng. Khắc phục điểm hạn chế của hai Pháp lệnh Thuế tài nguyên trước, biểu thuế suất trong Luật Thuế tài nguyên đã được thu hẹp lại biên độ bằng việc tăng mức sàn và hạ mức trần. Việc điều chỉnh này hướng tới hầu hết tài nguyên thuộc nhóm khoáng sản kim loại và một số tài nguyên quý hiếm khác. Chúng đều có mức thuế suất sàn tăng vì đây là những tài nguyên không thể tái tạo, có giá trị lớn. Việc xác định biểu thuế suất này vẫn nhằm đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước, đồng thời góp phần nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên quốc gia từ phía các chủ thể tiến hành khai thác. Thứ ba, giá tính thuế. Giá tính thuế tài nguyên được quy định rõ hơn trong Luật Thuế tài nguyên năm 2009 theo hướng “là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên của tổ chức, cá nhân khai thác chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng” (Khoản 1 Điều 6) chứ không chung chung như quy định tại Điều 5 Pháp lệnh Thuế tài nguyên năm 1998 là “tại nơi khai thác”. Quy định “tại nơi khai thác” theo Pháp lệnh năm 1998 là tại tỉnh, huyện hay xã là vấn đề gây nhiều tranh cãi trong quá trình thực hiện. Đối với trường hợp tài nguyên khai thác chưa có giá bán thì Khoản 2 Điều 6 Luật Thuế tài nguyên đưa ra nguyên tắc xác định giá bán cụ thể như sau: - Giá bán thực tế trên thị trường khu vực của đơn vị sản phẩm tài nguyên cùng loại nhưng không thấp hơn giá tính thuế do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định. Tác giả cho rằng, quy định này nhằm giúp khống chế mức giá sàn của loại tài nguyên không được thấp hơn đơn giá do Nhà nước quy định nhằm tránh trường hợp kê khai giá quá thấp để trốn thuế. - Đối với tài nguyên khai thác chứa nhiều chất khác nhau thì giá tính thuế xác định theo giá bán đơn vị của từng chất và hàm lượng của từng chất trong tài nguyên khai thác nhưng không thấp hơn giá tính thuế do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định. Tuy nhiên, theo tôi, trên thực tế, việc xác định hàm lượng riêng của từng chất trong tài nguyên rất phức tạp và đòi hỏi phải thông qua quy trình kỹ thuật và phải có chi phí để xác định. Trong khi đó, cơ sở vật chất, điều kiện kỹ thuật cũng như nguồn nhân lực của cơ quan quản lý nhà nước là cơ quan thuế và cơ quan tài nguyên - môi trường để thực hiện việc phân tích, xác định hàm lượng chưa đảm bảo thì e rằng, tính khả thi của quy định này sẽ không cao. - Phí bảo vệ môi trường Hoạt động khai thác khoáng là hoạt động vừa tác động tiếp đến nguồn tài nguyên khoáng sản vì làm suy giảm trữ lượng tài nguyên vừa ảnh hưởng trực tiếp nặng nề đến đất, nước, môi sinh, môi trường tại khu vực diễn ra hoạt động khai thác khoáng sản. Đây chính là hoạt động làm phát sinh các tác động xấu đối với môi trường. Chính vì vậy, chủ thể tiến hành khai thác khoáng sản trở thành đối tượng nộp phí bảo vệ môi trường theo điều 113 Luật Bảo vệ môi trường 2005: “Tổ chức, cá nhân xả thải ra môi trường hoặc có hoạt động làm phát sinh nguồn tác động xấu đối với môi trường phải nộp phí bảo vệ môi trường”. Nhằm thể chế hóa quy định trên, Chính phủ ban hành Nghị định số 63/2008/NĐ-CP ngày 13/5/2008 về phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản, Nghị định số 82/2008/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 63/2008/NĐ-CP và Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 67/2008/TT-BTC ngày 21/7/2008 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 63/2008/NĐ-CP của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản, Thông tư số 238/2009/TT-BTC ngày 21/12/2009 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 82/2009/NĐ-CP. Liên quan đến phí tài nguyên có những vấn đề sau: Thứ nhất, đối tượng chịu phí. Theo Khoản 1 Điều 1 Nghị định 82/2009/NĐ-CP thì, đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản là: đá, fenspat, sỏi, cát, đất, than, nước khoáng thiên nhiên, sa khoáng than (ilemenit), các loại khoáng sản kim loại, quặng apatit, dầu thô và khí thiên nhiên, khí than và các loại khoáng sản khác. Với quy định này, đối tượng chịu phí đã được mở rộng hơn so với quy định tại Nghị định số 137/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/11/2005 phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản (văn bản này đã được thay thế bởi Nghị định 63/2008/NĐ-CP). Có thể nói, việc mở rộng đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản như vậy đã bao quát hết các loại khoáng sản đang được phép khai thác ở Việt Nam. Điều đó sẽ tạo sự công bằng đối với tất cả các chủ thể tiến hành khai thác khoáng sản vì họ đều phải thực hiện nghĩa vụ nộp phí tài nguyên. Thứ hai, cách tính để thu phí. Theo Phần 1 Thông tư số 67/2008/TT-BTC của Bộ Tài chính, cách tính để thu phí được quy định  đơn giản, dễ dàng cho chủ thể tiến hành khai thác khoáng sản có thể tự mình tính được số tiền phí phải nộp, cụ thể là: số phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản phải nộp trong kỳ nộp phí được tính dựa vào số lượng từng loại khoáng sản khai thác (theo đơn vị tính là tấn hoặc m3) nhân với mức thu tương ứng. Tuy nhiên, trong cách tính này có mấy vấn đề sau cần làm rõ: - Mức thu phí đối với các loại quặng khoáng sản kim loại khác (trong đó có quặng khoáng sản vàng) là quá thấp, không đủ trang trải chi phí cho việc khắc phục hậu quả môi trường do hoạt động khai thác vàng, chưa thể hiện sự công bằng, hợp lý so với mức thu các loại khoáng sản kim loại khác. Theo Nghị định 63/2008/NĐ-CP mức thu phí đối với loại này là 10.000 đồng/tấn. Với mức thu phí như vậy là không hợp lý, vì khai thác quặng vàng có khả năng gây ô nhiễm và độc hại cao hơn các loại khoáng sản khác. - Có sự không tương đồng về đơn vị tính đối với đá làm vật liệu xây dựng thông thường trong các văn bản pháp luật. Theo Điều 5 Luật Thuế tài nguyên thì chỉ có đối với nước khoáng thiên nhiên, nước nóng thiên nhiên, nước thiên nhiên dùng cho mục đích công nghiệp thì sản lượng tài nguyên tính thuế được xác định bằng mét khối (m3) hoặc lít (l) và trên thực tế áp dụng tại các cơ quan thuế thì đơn vị tính đối với đá làm vật liệu xây dựng thông thường là tấn nhưng tại Điều 2 Nghị định 63/2008/NĐ-CP lại quy định đơn vị tính là m3. Sự không tương đồng này gây khó khăn cho chủ thể tiến hành khai thác khoáng sản trong việc kê khai thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường, đồng thời cũng gây khó khăn cho cơ quan thuế trong việc xác định mức thu thuế và phí, Vì vậy, cần phải rà soát lại các văn bản pháp luật có liên quan về vấn đề này để thống nhất đơn vị tính đối với loại tài nguyên là đá xây dựng. - Trong trường hợp khoáng sản khai thác phải qua sàn tuyển, chế biến trước khi bán ra, căn cứ điều kiện thực tế khai thác và công nghệ chế biến khoáng sản trên địa bàn để quy định tỷ lệ quy đổi từ số lượng khoáng sản thành phẩm tiêu thụ ra số lượng khoáng sản nguyên khai để làm căn cứ tính phí bảo vệ môi trường đối với từng loại khoáng sản cho phù hợp. Tuy nhiên, tỷ lệ quy đổi như thế nào thì pháp luật  lại chưa quy định về mặt nguyên tắc, điều này sẽ dẫn đến tình trạng mỗi địa phương làm một cách khác nhau, không có sự thống nhất trên phạm vi cả nước. Nó cũng dẫn đến tình trạng do không biết cách tính tỷ lệ quy đổi; từ đó để đơn giản hóa việc tính phí, cơ quan thuế nhiều nơi sẽ thực hiện việc ấn định sản lượng từng loại khoáng sản khai thác; và như vậy sẽ không xác định chính xác số phí phải thu, hoặc là thất thu tiền phí hoặc là thu vượt mức. Vì vậy, Bộ Tài chính cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn cách tính tỷ lệ quy đổi. * Phân biệt nghĩa vụ nộp thuế tài nguyên với nghĩa vụ nộp phí bảo vệ môi trường của chủ thể khai thác khoáng sản Việc áp dụng thuế và phí trong bảo vệ môi trường là những hình thức thể hiện của nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Thuế và phí đều là những nguồn thu phải nộp vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản là hai loại nghĩa vụ khác nhau mà chúng ta cần phải phân biệt: Thứ nhất, đặc điểm của thuế và phí không giống nhau.Thuế là khoản thu của ngân sách nhà nước, không mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp, còn phí lại mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp. Có nghĩa là chủ thể đóng thuế không nhận lại một lợi ích trực tiếp từ phía Nhà nước và không được hoàn lại một giá trị lợi ích nào đó tương xứng với số tiền thuế mà họ đã nộp. Thuế tài nguyên cũng mang đặc điểm này như các loại thuế khác. Trong khi đó, theo quy định tại Điều 2 của Pháp lệnh phí và lệ phí năm 2001 thì “phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ…”. Như vậy, việc đóng phí của các tổ chức, cá nhân chỉ phải thực hiện khi họ nhận được sự cung ứng một dịch vụ từ một chủ thể khác. Tiền phí sẽ tương ứng với tính chất, mức độ của dịch vụ được cung ứng. Phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản mà các tổ chức, cá nhân khi được phép khai thác phải nộp thực chất là số tiền họ phải đóng cho Nhà nước để nhận lấy sự cung cấp dịch vụ từ phía Nhà nước, đó là những hoạt động nhằm bảo vệ và đầu tư cho môi trường tại địa phương nơi diễn ra hoạt động khai thác khoáng sản mà đáng lẽ ra những hoạt động này phải do chính các chủ thể khai thác khoáng sản phải thực hiện, nhưng Nhà nước đã đứng ra thực hiện thay cho họ. Thứ hai, về chức năng, thuế tài nguyên là một trong những nguồn thu chung của ngân sách nhà nước để dùng cho các hoạt động điều tiết xã hội khác nhau, trong đó có hoạt động bảo vệ môi trường. Còn phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản là nguồn thu ngân sách địa phương hưởng 100% để hỗ trợ cho công tác bảo vệ và đầu tư cho môi trường tại địa phương nơi có hoạt động khai thác khoáng sản. Phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản là nguồn tài chính được sử dụng với mục đích nhằm bù đắp những thiệt hại, tổn thất và các tác động xấu do hoạt động khai thác khoáng sản gây ra cho môi trường tại khu vực diễn ra hoạt động này. Thứ ba, mặc dù hành vi khai thác khoáng sản của tổ chức, cá nhân là sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ nộp thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường theo Nghị định 63/2008/NĐ-CP, nhưng cơ sở xác lập nghĩa vụ nộp thuế tài nguyên dựa vào hành vi khai thác khoáng sản là vì tài nguyên khoáng sản là tài sản của quốc gia, nên bất kỳ chủ thể nào khi được Nhà nước trao quyền tác động vào nó thông qua hành vi khai thác thì phải có nghĩa vụ đối với Nhà nước, đó chính là thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Trong khi đó, phí bảo vệ môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản dựa trên những tác động tiêu cực ảnh hưởng đến môi trường xung quanh tại khu vực diễn ra hoạt động khai thác, nên các chủ thể tiến hành khai thác khoáng sản phải có nghĩa vụ phục hồi lại môi trường cho cộng đồng. Tóm lại, đối với các tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản là họ được Nhà nước trao quyền tác động vào môi trường thông qua hành vi khai thác khoáng sản vì lợi ích riêng, trong khi hậu quả về môi trường mà cụ thể là sự cạn kiệt nguồn tài nguyên khoáng sản cũng như sự ô nhiễm môi trường từ hoạt động khai thác gây ra thì cộng đồng xã hội phải gánh lấy; vì vậy, các chủ thể này phải có nghĩa vụ đối với Nhà nước, với cộng đồng là điều tất yếu. Và cũng chỉ có những khoản tiền phải đóng thông qua thuế, phí như vậy mới tác động đến ý thức bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường từ các tổ chức, cá nhân một cách mạnh mẽ vì nếu không muốn nộp tiền nhiều cho Nhà nước thì các chủ thể khai thác phải gìn giữ môi trường trong quá trình khai thác hay khai thác hợp lý, tiết kiệm tài nguyên khoáng sản. Tuy nhiên, trên thực tế, việc thu thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường liên quan đến hoạt động khai thác khoáng sản còn nhiều vấn đề bất cập. Cho đến nay, còn nhiều địa phương chưa triển khai việc thu phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản như TP.Hồ Chí Minh, Hà Nội. Việc thu thuế tài nguyên bị thất thu ở nhiều nơi do sự buông lỏng  trong công tác quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước, sự thiếu phối hợp giữa cơ quan quản lý chuyên môn trong lĩnh vực khoáng sản với cơ quan thuế. Thực trạng này cần nhanh chóng khắc phục thì mới phát huy được hiệu quả trong việc thực hiện nghĩa vụ tài chính của các chủ thể khai thác khoáng sản, qua đó nâng cao trách nhiệm bảo vệ môi trường và tài nguyên khoáng sản của tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản ThS. Phan Thỵ Tường Vi, Khoa Luật, Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh . 2.1.6 Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải lập các dự án cải tạo, phục hồi môi trường Theo quy định của pháp luật thì tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải lập dự án cải tạo, phục hồi môi trường bao gồm : + Tổ chức, cá nhân có dự án đầu tư khai thác khoáng sản mới; dự án đầu tư nâng công suất hoặc mở rộng diện tích, độ sâu khai thác khoáng sản; + Tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản đã có Báo cáo đánh giá tác động môi trường/Bản cam kết bảo vệ môi trường/Bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường/Đề án bảo vệ môi trường được phê duyệt/xác nhận nhưng chưa có Dự án cải tạo, phục hồi môi trường được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và chưa thực hiện ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường; + Tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản nhưng chưa có Đề án bảo vệ môi trường được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt/xác nhận và chưa thực hiện ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường. Ngoài ra, tổ chức, cá nhân có dự án đầu tư xây dựng công trình, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép tiến hành khai thác khoáng sản ở khu vực dự án đó không phải ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường. Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản thuộc đối tượng phải lập dự án cải tạo môi trường tự mình hoặc thuê tổ chức tư vấn có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật lập dự án cải tạo phục hồi môi trường trình cơ quan có thẩm quyền tổ chức thẩm định, phê duyệt. Dự án cải tạo, phục hồi môi trường phải có cấu trúc và nội dung theo quy định, bao gồm các nội dung chính sau: - Khái quát chung về dự án: Thông tin chung; Cơ sở để lập Dự án cải tạo, phục hồi môi trường; vị trí địa lý; mục tiêu của Dự án cải tạo, phục hồi môi trường. - Đặc điểm công tác khai thác khoáng sản: Khái quát chung về khu vực khai thác khoáng sản; phương pháp khai thác; hiện trạng môi trường; tác động đến môi trường. - Phương án cải tạo, phục hồi môi trường: Lựa chọn phương án cải tạo, phục hồi môi trường; nội dung cải tạo, phục hồi môi trường. - Tổ chức quản lý và giám sát môi trường: Chương trình quản lý; chương trình giám sát môi trường. - Dự toán chi phí cải tạo, phục hồi môi trường: Dự toán chi phí cải tạo, phục hồi môi trường; tính toán khoản tiền ký quỹ và thời điểm ký quỹ; đơn vị nhận ký quỹ. - Cam kết thực hiện và kết luận: Cam kết của tổ chức, cá nhân; kết luận. Tổ chức, cá nhân có dự án đầu tư khai thác khoáng sản mới; dự án đầu tư nâng công suất hoặc mở rộng diện tích, độ sâu khai thác khoáng sản lập dự án cải tạo, phục hồi môi trường và nộp Dự án cải tạo, phục hồi môi trường kèm theo hồ sơ đề nghị thẩm định, phê duyệt/xác nhận Báo cáo đánh giá tác động môi trường/Bản cam kết bảo vệ môi trường. Văn bản đề nghị thẩm định, phê duyệt/ xác nhận Báo cáo đánh giá tác động môi trường/Bản cam kết bảo vệ môi trường phải bổ sung thêm nội dung đề nghị thẩm định, phê duyệt Dự án cải tạo, phục hồi môi trường. Tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản đã có Báo cáo đánh giá tác động môi trường/Bản cam kết bảo vệ môi trường/Bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường/Đề án bảo vệ môi trường được phê duyệt/xác nhận nhưng chưa có Dự án cải tạo, phục hồi môi trường được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và chưa thực hiện ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường phải lập hồ sơ đề nghị thẩm định, phê duyệt Dự án cải tạo, phục hồi môi trường. Hồ sơ gồm: Văn bản đề nghị thẩm định, phê duyệt Dự án cải tạo, phục hồi môi trường được lập theo mẫu quy định và 07 (bảy) thuyết minh Dự án cải tạo, phục hồi môi trường kèm theo các bản vẽ liên quan (nếu có). Tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản nhưng chưa có Đề án bảo vệ môi trường được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt/xác nhận và chưa thực hiện ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường không phải lập hồ sơ riêng, chỉ nộp Dự án cải tạo, phục hồi môi trường kèm theo hồ sơ đề nghị phê duyệt/xác nhận Đề án bảo vệ môi trường. Văn bản đề nghị thẩm định, phê duyệt/xác nhận Đề án bảo vệ môi trường phải bổ sung thêm nội dung đề nghị thẩm định, phê duyệt Dự án cải tạo, phục hồi môi trường. 2.1.7 Trách nhiệm ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản Khai thác khoáng sản là một trong những hoạt động kinh tế góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội và tăng trưởng GDP. Tuy nhiên hoạt động này cũng gây nhiều tác động tới môi trường. Các tác động chính có thể kể tới đó là: Chấn động do nổ mìn, bụi, tiếng ồn tại hầu hết các công đoạn sản xuất, ảnh hưởng tới môi trường nước, đất… Do vậy, bên cạnh các loại thuế, phí về môi trường, Điều 114 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã quy đinh: Các tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên thiên phải thực hiện việc ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường. Ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường là việc các tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản ký gửi một khoản tiền nhất định, theo một thời hạn nhất định, vào Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam hoặc Quỹ bảo vệ môi trường địa phương (sau đây gọi chung là Quỹ bảo vệ môi trường) nhằm mục đích bảo đảm tài chính cho việc cải tạo, phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản. Ký quỹ phục hồi môi trường là một công cụ kinh tế cần thiết trong quản lý quản lý tài nguyên môi trường, đóng vai trò tác động trực tiếp đến việc thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường ngay sau khi thác khoáng sản của tổ chức, cá nhân. Trước đây, việc ký quỹ cải tạo phục hồi môi trường được thực hiện theo thông tư liên tịch số 126/1999/TTLT-BTC-BCN-BKHCNMT ngày 22/10/1999 của Bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường. Hiện nay cơ chế ký quỹ cải tạo phục hồi môi trường được quy định tại Quyết định số 71/QĐ-TTg ngày 29/5/2008 của Thủ tướng Chính phủ về ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản và Nghị định số 160/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản. Mới đây, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 134/2009/TT-BTNMT ngày 31/12/2009 quy định về lập, phê duyệt, kiểm tra, xác nhận dự án cải tạo, phục hồi môi trường và ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản. Theo quy định, các tổ chức, cá nhân khi hoạt động khai thác khoáng sản phải lập dự án cải tạo, phục môi trường sau khai thác (trong đó số tiền ký quỹ đã được cụ thể hóa và dự toán chi tiết theo phương án phục môi trường) và tiến hành ký quỹ tại Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam hay Quỹ Bảo vệ môi trường của địa phương nơi có mỏ khai thác (thay vì thông qua ngân hàng như trước đây); mức tiền ký quỹ phụ thuộc vào quy mô khai thác, tác động xấu đối với môi trường, chi phí cần thiết để cải tạo, phục hồi môi trường sau khai thác, đồng thời số tiền ký quỹ sẽ được tính lãi suất như đối với số tiền ký quỹ gửi không kỳ hạn. Trường hợp tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản trả lại hoặc bị thu hồi giấy phép khai thác khoáng sản, nếu khoảng tiền ký quỹ đã ký quỹ lớn hơn số tiền thực tế dùng cho cải tạo, phục hồi môi trường thì khoản chênh lệch này sẽ được trả lại cho các tổ chức, cá nhân đã ký quỹ, việc hoàn trả chỉ được thực hiện sau khi có xác nhận đã hoàn thành việc cải tạo, phục hồi môi trường; nếu khoản tiền đã ký quỹ nhỏ hơn số tiền thực tế dùng cho cải tạo, phục hồi môi trường, thì tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải nộp bổ sung khoản chênh lệch cho đủ vào Quỹ Bảo vệ môi trường nơi đã ký. Trong thời hạn 5 năm kể từ hoàn thành việc cải tạo, phục hồi môi trường, tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải tiếp tục chịu trách nhiệm về trách nhiệm của dự án cải tạo, phục hồi môi trường; trong trường hợp xảy ra sự cố môi trường tại nơi đã tiến hành cải tạo phục hồi môi trường, tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm đầu tư khắc phục sự cố. Tổ chức, cá nhân không thực hiện việc ký quỹ phải bị đình chỉ hoạt động hoặc thu hồi giấy phép khai thác khoáng sản theo quy định của pháp luật về khoáng; bị xử phạt vi phạm hành chính và chịu trách nhiệm khắc phục các hậu quả gây ra đối với môi trường theo quy định của pháp luật. 2.2 Trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức, cá nhân có hành vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản trong hệ thống pháp luật Việt Nam Trách nhiệm pháp lý của tổ chức, cá nhân có những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản được hiểu là chế tài mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường hoạt động khai khai thác khoáng sản. Hay nói cách khác, việc áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật về môi trường hoạt động khai thác khoáng sản chính là những biện pháp bảo đảm tính cưỡng chế của pháp luật đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật môi trường hoạt động khai thác khoáng sản. Vi phạm pháp luật môi trường hoạt động khai thác khoáng sản là các hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể thực hiện hoạt động khai thác khoáng sản gây ra, xâm phạm các quan hệ xã hội được pháp luật môi trường bảo vệ và thường gây hậu ô nhiễm, suy thoái môi trường. Để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức, cá nhân có hành vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản phải xác định cấu thành vi phạm pháp luật, bao gồm: mặt khách quan, chủ quan, chủ thể và khách thể. Những yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật này sẽ được làm rõ khi nghiên cứu trách nhiệm pháp lý cụ thể. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, đối với mỗi loại vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản có loại trách nhiệm pháp lý tương ứng, đó là: 2.2.1 Trách nhiệm hành chính Cơ sở pháp lý của xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản là pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, Nghị định số 150/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 7 năm 2004 quy đinh về xử phạt hành chính trong lĩnh vực khoáng sản, Nghị định số 77/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 5 năm 2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 150/2005/NĐ-CP và Nghị định số 117/2009/NĐ-CP quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Đây là những văn bản pháp luật quan trọng quy định những vấn đề có tính chất chung nhất trong xử lý vi phạm hành chính, cũng như những vấn đề có liên quan đến nguyên tắc, hình thức, biện pháp, thủ tục thẩm quyền…về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường nói chung, và lĩnh vực khoáng sản nói riêng. Về nguyên tắc trách nhiệm pháp lý hành chính được áp dụng khi tổ chức, cá nhân vi phạm gây hậu quả lớn xong chưa đến mức xử lý hình sự. Hình thức phạt hành chính chủ yếu là phạt tiền và các hình thức phạt bổ sung khác, tùy theo mức độ môi trường bị xâm phạm mà số tiền và các hình thức xử phạt cũng khác nhau. Nghị định số 150/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 7 năm 2004 quy đinh về xử phạt hành chính trong lĩnh vực khoáng sản quy đinh: Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, tổ chức, cá nhân vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt sau: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền. Mức phạt tiền cụ thể đối với hành vi vi phạm quy định về khai thác khoáng sản được quy định tại khoản 3 điều 1 của Nghị định số 77/2007/NĐ-CP. Xem khoản 3 điều 1 của Nghị định số 77/2007/NĐ-CP Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm hành chính trong lĩnh vực khoáng sản, tổ chức, cá nhân vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung sau: + Tước giấy phép (có thời hạn và không thời hạn); + Tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính. Ngoài ra các tổ chức, cá nhân còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả sau: Buộc khôi phục lại hiện trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra; Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng; Buộc báo cáo kết quả điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản và hoạt động khoáng sản cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Buộc san lấp công trình; thực hiện đầy đủ yêu cầu bảo vệ tài nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường theo quy định; Buộc đăng ký với cơ quan có thẩm quyền về kế hoạch điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản và hoạt động khoáng sản; Buộc thanh toán tiền sử dụng số liệu, thông tin của Nhà nước về kết quả khảo sát; thăm dò khoáng sản; Buộc lập thiết kế mỏ, bổ nhiệm giám đốc điều hàn mỏ theo quy định. Nói tóm lại, những quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực vi phạm pháp luật về môi trường là công cụ đắc lực nhất trong giai đoạn hiện nay, được cơ quan nhà nước sử dụng nhiều nhất để giải quyết các vụ việc về môi trường. Nó đã cụ thể quá gần như hoàn toàn những việc cần làm đối với mỗi tổ chức, cá nhân khi vi phạm pháp luật môi trường. 2.2.2 Trách nhiệm dân sự Nếu như những quy định về trách nhiệm hành chính của tổ chức, cá nhân là đình chỉ hoạt động, buộc tháo dỡ công trình, xử lý ô nhiễm thì khắc phục ở trách nhiệm dân sự lại theo một hướng khác. Người nào có hành vi phá hoại, gây tổn hại đến môi trường, không tuân theo những quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có sự cố môi trường, không thực hiện các quy định về đánh giá tác động môi trường, quy phạm các quy định của pháp luật môi trường gây thiệt hại cho tổ chức hay cộng đồng sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự. Trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được áp dụng đối với các chủ thể chủ yếu dưới hình thức bồi thường thiệt hại. Như vậy, ngoài trách nhiệm phải khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm còn phải khắc phục hậu quả theo quy định của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, nếu gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường. Khoản 5 điều 4 Luật bảo vệ môi trường năm 2005 quy định: “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật”. Việc bồi thường thiệt hại về vật chất do hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường gây ra được tiến hành theo nguyên tắc thỏa thuận giữa bên có hành vi gây thiệt với bên bị thiệt hại. Điều 624 Bộ luật dân sự quy định: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi”. Điều 623 Bộ luật dân sự quy định: “Khi sử dụng, bảo quản, từ bỏ tài sản của mình, chủ sở hữu phải tuân theo các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; nếu làm ô nhiễm môi trường thì phải chấm dứt hành vi gây ô nhiễm, thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại”. Ở đây cơ quan tư pháp mà cụ thể là tòa án nhân dân sẽ xét xử vụ án dân sự khi đã có vi phạm pháp luật về môi trường thuộc trách nhiệm dân sự nhằm xử phạt những trường hợp xâm pham răng đe, giáo dục ý thức người dân tuân thủ pháp luật về môi trường, góp phần bảo vệ kỹ cương pháp luật. Các quy định này đã giải quyết được vấn đề môi trường khi tổ chức, cá nhân có hành vi gây ô nhiễm môi trường, đồng thời gây thiệt hại về vật chất cho người khác. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa giải quyết được một số vấn đề đặt ra hiện nay. Đó là: Trách nhiệm bồi thường được xác định đối với thiệt hại trực tiếp hay cả gián tiếp? Bồi thường thiệt hại có bao gồm cả chi phí khắc phục, phục hồi môi trường không? Các quy định bồi thường thiệt hại mới chỉ quy định trách nhiệm bồi thường đối với những thiệt hại mà hành vi gây ô nhiễm gây ra. Không phải tất cả những hành vi có ảnh hưởng xấu đến môi trường gây thiệt hại cho người khác đều là hành vi gây ô nhiễm môi trường còn phải chính đương sự “vi phạm tiêu chuẩn môi trường”Giáo trình Luật môi trường, Đại học luật Hà Nội, 2006 Bên cạnh đó thì việc xác định trách nhiệm dân sự đối với pháp nhân cũng không phải dễ. Không phải một vụ vi phạm môi trường nào xảy ra cũng có thể yêu cầu pháp nhân bồi thường, mà muốn bồi thường thì phải xác định được mức độ vi phạm của pháp nhân đó nhất là đối với những vụ việc ô nhiễm lớn xảy ra trên phạm vi rộng, trên khu vực có nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động. Đây là vấn đề vô cùng khó khăn đối với công tác xác định mức độ gây ô nhiễm của những cơ sở này. Mà theo quy định của pháp luật thì một khi không chứng minh được mức độ lỗi của các tổ chức, cá nhân gây thiệt hại thì không thể yêu cầu họ bồi thường thiệt. Do vậy trên thực tế vấn đề bồi thường này chỉ được giải quyết chủ yếu dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên mà không căn cứ vào mức độ lỗi của tổ chức pháp nhân. 2.2.3 Trách nhiệm hình sự Từ thực tiễn áp dụng pháp luật, Bộ luật hình sự cho thấy một số hành vi vi phạm pháp luật phát triển đang rất nguy hiểm cho xã hội, có nơi có lúc diễn ra nghiêm trong, trong đó có lĩnh vực về bảo vệ môi trường. Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời gian qua cũng cho thấy các tội phạm có tổ chức có chiều hướng gia tăng đòi hỏi phải được quy định trong Bộ luật hình sự với những chế tài nghiêm khắc. Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất áp dụng đối với cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây hậu quả nghiêm trọng. Nhận thức được tầm quan trọng và mức độ nguy hiểm của các tội phạm môi trường nên những nhà làm luật đã sớm cụ thể hóa các tội phạm môi trường thành một chương. Chương XVII Bộ luật hình sự 1999 quy định các tội phạm về môi trường (từ Điều 182 đến Điều 191). Tuy nhiên, từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1999 đến nay, việc khởi tố các hành vi phạm tội trong lĩnh vực môi trường rất ít. Chỉ có hai tội phạm thường bị truy cứu là: tội hủy hại rừng (Điều 189) và tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã, quý hiếm (Điều 190). Thực tế này cho thấy, chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến các tội phạm về môi trường. Gần đây, Cơ quan Cảnh sát môi trường đã được thành lập. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 19/6/2009 đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Chương các tội phạm về môi trường để phù hợp với thực tế xã hội. Hy vọng việc xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực môi trường nói chung và các tội phạm về môi trường nói riêng sẽ có chuyển biến tích cực. * So sánh Bộ luật hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2010 Bộ luật hình sự 1999 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự - Quy định 3 tội độc lập: Tội gây ô nhiễm không khí (Điều 182), tội gây ô nhiễm nguồn nước (Điều 183), tội gây ô nhiễm đất (Điều 184). Mặt khác, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội phạm về môi trường chỉ có 10 điều luật (từ Điều 182 đến Điều 191), ít hơn 3 điều so với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự - Điều 185. Tội nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế thải hoặc các chất không bảo đảm tiêu chuẩn bảo vệ môi trường: Chủ thể là người nào nhập khẩu hoặc cho phép nhập khẩu các đối tượng nói trên và nếu vi phạm có thể áp dụng mức phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng. - Điều 190. Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm: nếu người nào vi phạm có thể phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Ngoài ra còn có hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 2 triệu đến 20 triệu đồng. - Điều 191. Tội vi phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đối với khu bảo tồn thiên nhiên: Điều luật được áp dụng nếu người nào đã bị xử phạt hành chính mà còn gây hậu quả nghiêm trọng thì có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng và mức phạt tiền bổ sung là từ 2 triệu đồng đến 20 triệu đồng. - Hợp nhất 3 tội gây ô nhiễm (không khí, nguồn nước và đất – Điều 182, 183, 184 Bộ luật hình sự 1999) thành một gây ô nhiễm môi trường (Điều 182), đồng thời quy định cấu thành cơ bản linh hoạt hơn một bước để có thể vận dụng xử lý được trên thực tế. Ngoài ra Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự còn bổ sung thêm 3 tội mới liên quan đến tội phạm. Đó là: Điều 182a. Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại; Điều 182b. Tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố và Điều 191b.Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại. - Điều 185. Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam: Chủ thể là người nào lợi dụng việc nhập khẩu các đối tượng tương tự như Điều 185 Bộ luật hình sự 1999 nếu vi phạm thì hình phạt tiền tăng rất cao: từ 200 triệu đồng đến 1 tỷ đồng. - Điều 190. Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ: hình phạt tiền áp dụng cho điều luật tăng gấp 10 lần so với hình phạt tiền Điều 190 Bộ luật hình sự 1999 và cải tạo không giam giữ tăng hơn một năm so với điều luật nói trên. Hình phạt bổ sung cuang tăng hơn là từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng. - Điều 191. Tội Vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên: Điều luật được áp dụng nếu người nào vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên gây hậu quả nghiêm trọng mà không cần đã bị xử phạt hành chính trước đó và hình phạt tiền được áp dụng là từ 50 triệu đồng đến 500 triệu đồng. Mặt khác, hình tiền bổ sung là từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng. Mặc dù Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự từ ngày 01/01/2010 mới có hiệu lực thi hành, nhưng qua thực tiễn những năm qua cho thấy vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập chưa được sửa đổi, bổ sung năm 2009 vừa qua. Đó là các vấn đề sau: - Một số hành vi bị nghiêm cấm trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 (Điều 7) vẫn chưa được bổ sung trong lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 2009 như: hành vi gây tiếng ồn, độ rung vượt tiêu chuẩn cho phép; sinh sống ở khu vực được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định là khu vực cấm do mức độ nguy hiểm về môi trường đối với sức khỏe và tính mạng con người; hành vi cản trở hoạt động bảo vệ môi trường... - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự quy định chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân vi phạm pháp luật hình sự mà chưa quy định đối với pháp nhân. Vì vậy, đây là lỗ hổng lớn của pháp luật cần phải sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản Bộ luật Hình sự, trong đó phải thiết lập chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân nhằm xử lý về mặt hình sự các hành vi vi phạm của các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. - Quy định tội phạm môi trường có 3 mức độ là “gây hậu quả nghiêm trọng” “gây hậu quả rất nghiêm trọng” và “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Qua 10 năm thực hiện Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự, chúng ta vẫn chưa có văn bản hướng dẫn về vấn đề này. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải hướng dẫn, quy định cụ thể về những dấu hiệu này, đồng thời quy định đối với một số loại tội phạm chỉ cần thực hiện hành vi phạm tội có cấu thành hình thức là đã truy cứu trách nhiệm hình sự, hậu quả (nếu có) chỉ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bộ luật hình sự ở một số nước trên thế giới như Singapo, Ôxtrâylia cũng quy định theo hướng này TS. Phạm Văn Lợi, Viện trưởng viện khoa học quản lý môi trường, Tổng cục môi trường . THỰC TIỄN VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN 3.1 Tình hình chung về dự án khai thác Bauxite ở tĩnh Đắk Nông

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_van_chuong_1_8__037.doc
Tài liệu liên quan