Luận văn Môi trường đầu tư với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

Lời nói đầu Trong những năm qua sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa ( DNNVV) có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân: huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển, có ý nghĩa then chốt trong quá trình giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội như xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển đồng đều giữa các khu vực trong cả nước Bên cạnh đó chúng ta đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới do đó phải biết tận dụng các các lợi thế so sánh, chính các DNNVV là cơ hội để sử dụng tốt các lợi thế này Tuy nhiên đặc điểm chung của các DNNVV ở tất cả các nước, nhất là trong giai đoạn mới hình thành và phát triển là còn thiếu tiềm lực về vốn, công nghệ, kĩ năng quản lý non kém, khả năng cạnh tranh trên thị trường yếu kém. Trong thời gian qua Chính phủ đã tiến hành nhiều cải tổ, đổi mới để cải thiện môi trường đầu tư, trợ giúp DNNVV phát triển. Tuy vậy môi trường đầu tư ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập : Hệ thống Pháp luật chưa đầy đủ và đồng bộ, thủ tục đầu tư còn phức tạp, gây phiền hà cho các nhà đầu tư, cơ sở hạ tầng yếu kém Với việc nhìn nhận và đánh giá môi trường đầu tư, trong đó DNNVV hoạt động, là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển của DNNVV, em đã chọn đề tài “Môi trường đầu tư với sự phát triển của DNNVV Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp của mình. Nội dung chính của luận văn bao gồm ba phần chính sau: Chương 1: Môi trường đầu tư nhân tố quan trọng cho sự phát triển DNNVV ở Việt Nam Chương2 : Thực trạng môi trường đầu tư ở Việt Nam đối với sự phát triển của DNNVV Chương 3: Một số giải pháp cải thiện môi trường đầu tư phát triển ở Việt Nam Mục lục Lời nói đầu 1 Chương 1 : Môi trường đầu tư, nhân tố quan trọng cho sự phát triển các DNNVV ở Việt Nam 3 I.Doanh nghiệp nhỏ vừa trong sự phát triển kinh tế xã hội 3 1.Khái niệm 3 2.1. Về điểm mạnh 3 2.2.Về các điểm yếu 4 3.Vai trò đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở các nước đang phát triển 5 4. Điều kiện để phát triển DNNVV ở Việt Nam 6 4.1 Điều kiện khách quan 6 4.2 Điều kiện chủ quan 8 II. Môi trường đầu tư 9 1.Khái niệm 9 2.Các yếu tố cơ bản của môi trường đầu tư. 9 2.1.Các yếu tố tự nhiên và kinh tế 9 2.2.Môi trường chính trị xã hội 11 2.3.Hệ thống pháp luật 12 2.4. Các chính sách kinh tế 13 2.5.Hệ thống ngân hàng tài chính. 15 2.6. Tình hình phát triển kinh tế 15 Chương 2: Thực trạng môi trường đầu tư ở Việt Nam đối với sự phát triển của DNNVV 18 I. Thực trạng môi trường đầu tư ở Việt Nam đối với sự phát triển của DNNVV 18 1.Vị trí địa lý và nguồn tài nguyên thiên nhiên 18 2. Môi trường chính trị xã hội 19 3. Về khuôn khổ pháp lý cho hoạt động đầu tư 20 3.1.Luật Doanh nghiệp 1999 20 3.2.Chính sách tài chính. 21 3.2.1.Chính sách thuế 22 3.2.2.Chính sách tài chính công 23 3.2.3 Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước. 23 3.3.Các chính sách hỗ trợ DNNVV 27 4. Môi trường kinh tế vĩ mô 28 5. Kết cấu hạ tầng cho thu hút đầu tư 29 6. Các nguồn lực đầu vào 32 6. 1. Vốn 32 6.2 Mặt bằng sản xuất kinh doanh 38 6.3.Công nghệ 41 6.3.1 Tình trạng công nghệ của các DNNVV 41 6.3.2. Đầu tư cho khoa học công nghệ của nhà nước 43 6.4 Nguồn nhân lực 45 6.4.1 Thực trạng của lực lượng lao động 45 6.4.2 Thực trạng của các chủ DNNVV 46 7.Các yếu tố đầu ra 47 II. Kết quả và hiệu quả của môi trường đầu tư với sự phát triển của DNNVV 50 1.Kết quả 50 1.1 Về số lượng doanh nghiệp 50 1.2.Vốn đầu tư thực hiện và quy mô vốn đầu tư trung bình 51 1.3.Vốn đầu tư theo ngành 53 1.4. Số lao động của DNVVV tăng 54 1.5 Phân bố DNNVV theo vùng 55 2. Hiệu quả 56 2.1. Đóng góp vào kết quả hoạt động kinh tế, góp phần làm tăng GDP 56 2. 2. Tạo việc làm và thu nhập cho người lao động 57 2 3. Thu hút FDI 58 2.4 Đóng góp vào hoạt động xuất khẩu 59 3. Những tồn tại yếu kém trong phát triển DNNV 60 3.1 Về lao động 60 3.2 Về nguồn vốn và địa điểm kinh doanh 60 3.3 Khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường xuất khẩu 62 3.4 Khó đổi mới công nghệ. 62 3.5 Nguyên nhân yếu kém 63 Chương 3: Một số giải pháp cải thiện môi trường đầu tư phát triển DNNVV 64 I .Các quan điểm và định hướng chính trong phát triển DNNVV 2006-2010 64 1. Các quan điểm trong việc xây dựng chính sách phát triển DNNVV 64 1.1 Chủ động phát huy nội lực đồng thời thu hút đầu tư nước ngoài để đóng góp vào quá trình CNH-HĐH đất nước. 65 1.2 Thực sự đối xử bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế 65 1.3 Hạn chế sự can thiệp thường xuyên trực tiếp của nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 66 1.4 Tạo điều kiện tối đa cho mọi công dân phát huy ý kiến và hình thành thực hiện ý tưởng kinh doanh 66 1.5 Tăng cường giúp đỡ các DN thông qua các biện pháp như tư vấn, thông tin, đơn giản hoá thủ tục hành chính 66 1.6 Nới lỏng những quy định hành chính hạn chế việc gia nhập thị trường của các DN 67 2. Định hướng chính trong việc phát triển DNNVV 67 II.Các giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư phát triển DNNVV 68 1.Khẳng định vai trò của DNNVV trong nền kinh tế 68 2. Chính sách khuyến khích đầu tư và huy động vốn. 69 3. Chính sách tín dụng- ngân hàng 70 4. Chính sách thuế 73 5. Mặt bằng sản xuất kinh doanh 74 6. Chính sách thương mại 75 7. Đào tạo nguồn nhân lực 77 8. Công nghệ 77 Kết luận 79 Tài liệu tham khảo 80

docx84 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1385 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Môi trường đầu tư với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có đặc thù riêng hoặc điều kiện thuận lợi thì đầu tư của DNNVV trong nước xuất hiện ở tất cả các vùng với nhiều hoàn cảnh khác nhau, ngay cả ở những địa phương tập trung được nhiều vốn đầu tư nước ngoài thì trong những năm gần đây vốn đầu tư thực hiện của khu vực tư nhân trong nước cũng lớn hơn và thực tế cho thấy rằng với đại đa số các tỉnh thì thu hút đầu tư tư nhân trong nước dễ dàng hơn so với đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư của các DNNVV đã đóng vai trò quan trọng là nguồn vốn đầu tư phát triển chủ yếu đối với kinh tế địa phương. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp này ở thành phố Hồ Chí Minh năm 2004 là 39%, cao hơn tỷ trọng vốn đầu tư của DNNN và ngân sách nhà nước gộp lại. Tuy nhiên đầu tư của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các địa phương khác nhau là không giống nhau. Có thể thấy rằng các DNNVV chủ yếu được tập trung ở những vùng có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi, ở những đô thị lớn. Điều đó được thể hiện qua bảng sau: Bảng 15: Phân bố DNNVV theo vùng và lãnh thổ Các vùng 2002 2005 Chênh lệch Số lượng Tỉ trọng (%) Số lượng Tỉ trọng (%) Số lượng % Đồng bằng sông Hồng 110.841 29 135.144 23,9 24303 21,9 Vùng núi phía Bắc 38.221 10 72.862 12,9 34641 90,6 Bắc Trung Bộ 49.687 13 83166 14,7 33488 67,4 Nam Trung Bộ 30576 8 41809 7,4 11233 36,7 Tây Nguyên 15288 4 37913 6,7 22625 140 Đông Nam Bộ 64.975 17 95850 16,9 30875 47,5 Đồng bằng sông Cửu Long 72.620 19 98392 17,5 25772 35,4 Nguồn : Bộ kế hoạch đầu tư 2. Hiệu quả Thực tế trong những năm qua sự phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng của các DNNVV đã góp phần quan trọng vào mục tiêu tăng trưởng cũng như vào ngân sách, tạo việc làm, tăng thu nhập cá nhân, góp phần quan trọng trong việc huy động nguồn vốn đầu tư vào phát triển kinh tế xã hội. 2.1. Đóng góp vào kết quả hoạt động kinh tế, góp phần làm tăng GDP Với sự phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, DNNVV đã đóng góp đáng kể vào sản lượng quốc gia cũng như nguồn thu ngân sách cả ở Trung ương và địa phương. Hiện tại các DNNVV đóng góp khoảng 26% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ và 64% tổng lượng chuyển hàng hoá. Bên cạnh đó tổng doanh thu, doanh thu bình quân cơ sở và theo bình quân nhân công và lao động đã tăng liên tục qua các năm từ tổng doanh thu là 491.727tỷ đồng đã tăng lên 1.092.974 tỷ đồng năm 2004; doanh thu bình quân cở sở đã tăng từ 2,5 tỷ đồng năm 2000 lên 4,12 tỷ đồng năm 2004.Mặt khác doanh thu bình quân đầu người của DNNVV tăng liên tục qua các năm và cao hơn so với doanh thu của doanh nghiệp lớn ( năm 2004 doanh thu bình quân đầu người của doanh nghiệp lớn là 0,187 tỷ đồng trong khi của DNNVV là 0,393 tỷ đồng Bảng 16: Doanh thu của DNNVV Đơn vị : tỷ đồng Năm 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng doanh thu 491.727 639425 792.664 911.563 1.092.974 Doanh thu bình quân 1 cơ sở 2,5 2,69 3,12 3,59 4,12 Doanh thu bình quân 1 lao động 0,187 0,205 0,297 0,341 0,393 Nguồn : Kết quả tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính sự nghiệp Tổng cục thống kê Trong năm 2004 mức thuế và phí đóng bình quân đầu người của doanh nghiệp nhỏ là 13 triệu đồng, của doanh nghiệp vừa là 57 triệu đồng trong khi đó mức đóng bình quân đầu người của Doanh nghiệp lớn là 16 triệu đồng. BẢNG 17: Thuế và các khoản phí nộp ngân sách nhà nước của các DNNVV Đơn vị : Tỷ đồng Năm 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng số 5700 8600 12000 20000 28000 Bình quân 1 cơ sở 0,412 0,597 0,772 0,887 1,021 Bình quân 1 lao động 0,01 0,013 0,016 0,018 0,021 Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư Như vậy đóng góp của DNNVV vào ngân sách nhà nước ngày càng tăng, năm 2004 đạt 28000 tỷ đồng, năm 2003 nộp ngân sách nhà nước 20000 tỷ đồng và tăng 66,7% so với năm trước 2001. So với ngân sách trung ương thì đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân,chủ yếu là DNNVV trong nguồn thu của ngân sách lớn hơn nhiều. Ví dụ ở thành phố Hồ Chí Minh kinh tế tư nhân đóng góp trong tổng thu ngân sách địa phương là khoảng 15%, Tiền Giang là khoảng 24%, Quảng Nam 22%,Bình Định 33%... 2. 2. Tạo việc làm và thu nhập cho người lao động Nước ta hàng năm có khoảng 1,4-1,5 triệu người tham gia vào thị trường lao động, ngoài ra còn có một số lượng lớn lao động từ khu vực nông nghiệp chuyển sang lĩnh vực phi nông nghiệp. Do vậy mà nhu cầu tạo ra việc làm đang là một áp lực mạnh mẽ đối với Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương. Theo ước tính thì DNNVV tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, khoảng 25-26% lực lượng lao động cả nước. Ngoài ra khu vực hộ kinh doanh cá thể mỗi năm tăng thêm từ 12-15 vạn cơ sở, thu hút thêm gần 40 vạn lao động với mức thu nhập bình quân từ 350-500 ngàn đồng mỗi tháng.Trong các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và siêu nhỏ thì tỷ suất đầu tư trung bình cho một chỗ làm là 65-170 triệu đồng,trong khi đó đối với doanh nghiệp lớn thì số tương ứng là 285 triệu đồng. Với suất đầu tư bình quân chung như vậy thì trong những năm qua DNN là nơi chủ yếu thu hút lao động mới hàng năm và số lao động dư thừa do sắp xếp lại DNNN hay cải cách hành chính, góp phần ổn định và tăng thu nhập cho người lao động. Kết quả là tổng số lao động làm việc trong DNNVV đã lên đến gần 6,5 triệu người, đóng góp tích cực vào ổn định xã hội nâng cao nhận thức của người lao động ở nông thôn. Bên cạnh đó Tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp còn cho thấy các doanh nghiệp có quy mô vừa có mức lương bình quân cao nhất tính vào thời điểm năm 2004. Điều này là phù hợp khi mà theo điều tra thì đây cũng là nhóm doanh nghiệp có mức năng suất lao động cao nhất Bảng 18: Lương trả cho người lao động Năm Đơn vị 2001 2002 2003 2004 Tổng số Tỷ đồng 25.616 29.458 33.877 38.959 Lương bình quân 1 lao động Triệu đồng 10,257 11,79 13,56 15,6 Nguồn : Bộ kế hoạch đầu tư 2 3. Thu hút FDI Mối liên kết giữa các DNNVV và các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã bước đầu được hình thành và phát triển trong thời gian vừa qua.Các DNNVV đã có quan hệ với các doanh nghiệp lớn trong việc cung ứng cung cấp nguyên vật liệu, thực hiện thầu phụ, dần hình thành mạng lưới công nghiệp bổ trợ và đặc biệt là tạo ra mạng lưới vệ tinh phân phối sản phẩm. Các doanh nghiệp lớn đảm bảo vững chắc cho các DNNVV về thị trường, tài chính, công nghệ, tiêu chuẩn kĩ thuật và kinh nghiệm quản lý. Ngược lại các DNNVV đảm bảo cho các doanh nghiệp lớn về công nghiệp bổ trợ và mạng lưới tiêu thụ rộng khắp cả nước. Một ví dụ điển hình về công nghiệp bảo trợ, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm rộng khắp cả nước là tập đoàn Unilever, hiện đã thiết lập mạng lưới với khoảng 500 DNNVV, nhờ có các DNNVV này mà Unilever nội địa hoá được các nguyên liệu đầu vào, góp phần Việt Nam hoá các sản phẩm của mình và dần chiếm lĩnh thị trường Việt Nam. Ngược lại nhờ sự giúp đỡ về kĩ năng, công nghệ và một phần vốn từ Unilever mà các DNNVV này ngày càng phát triển thêm. 2.4 Đóng góp vào hoạt động xuất khẩu Với chính sách mở rộng và khuyến khích thương mại quốc tế tạo điều kiện cho mọi thành phần tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, DNNVV đã nămg động đầu tư vào các ngành nghề có lợi thế, chủ động tìm kiếm và khai thác thị trường quốc tế qua đó góp phần tích cực tăng kim ngạch xuất khẩu, thu ngoại tệ cho đất nước. Theo một điều tra gần đây, năm 2004, thì trong số 1400 DNNVV kĩnh vực sản xuất chế biến có ít hơn 100 lao động chỉ có khoảng 3% số doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, và 22% doanh nghiệp loại này có trên 100 lao động tham gia vào các hoạt động xuất khẩu trực tiếp. Tỉ lệ các doanh nghiệp tham gia trực tiếp hay gián tiếp vàp hoạt động xuất khẩu được đánh giá đạt khoảng 17%. Tính đến hết ngày 31/10/2004 số lượng DNNVV tham gia kinh doanh xuất khẩu chiếm 80,6%, nhập khẩu chiếm 84,2 tổng số doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu trên thế giới. Bảng 19: Tình hình giá trị xuất khẩu của DNNVV Chỉ tiêu Đơn vị 2001 2002 2003 2004 2005 Giá trị xuất khẩu 1000USD 1.403.405 1.903.860 2.419.665 2.950.331 3.776.423 Tốc độ phát triển liên hoàn % 100 111 127 122 128 Nguồn : Theo báo cáo của tỉnh, thành phố Với giá trị xuất khẩu tăng nhanh qua các năm như trên DNNVV đang đóng vai trò là nguồn thu ngoại tệ tích cực cho đất nước. Điều đáng ghi nhận ở đây đó là DNNVV khu vực tư nhân đã vươn lên dẫn đầu về xuất khẩu thuỷ sản với 740 triệu đôla, chiếm 39% tổng kim ngạch mặt hàng này; hạt điều với 141 triệu đôla, chiếm 42% tổng kim ngạch mặt hàng này. Tuy nhiên hiện nay DNNVV trong các ngành hàng trên đều thực hiện xuất khẩu thông qua các doanh nghiệp lớn, tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp của DNNVV rất thấp, chủ yếu ở ngành hàng thủ công mỹ nghệ. 3. Những tồn tại yếu kém trong phát triển DNNV 3.1 Về lao động Nhìn chung lao động trong các DNNVV ít được đào tạo một cách bài bản mà chủ yếu qua những phương pháp truyền nghề, trình độ văn hoá thấp, đặc biệt là số lao động trong các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ. Qua số liệu điều tra về DNNVV của MPDF năm 1999 cho thấy 74,8% số lao động trong các DNNVV chưa học hết lớp 10, chỉ có 5,3% lao động ở khu vực ngoài quốc doanh có trình độ đại học,trong đó chủ yếu tập trung vào các công ty trách nhiệm hữu hạn và các công ty cổ phần( hơn 80%). Bên cạnh đó lao động trong các DNNVV thường ít được đào tạo và nâng cao tay nghề dẫn đến chất lượng sản phẩm kém,năng suất lao động thấp. Về chủ doanh nghiệp thì do hầu hết các DNNVV mới được thành lập nên chủ doanh nghiệp chưa được đào tạo kinh doanh bài bản trong nền kinh tế thị trường. Cũng theo kết quả điều tra của MPDF năm 1999 thì trong số các chủ doanh nghiệp tư nhân ngoài quốc doanh thì có 42,7% là những người đã từng là cán bộ,công nhân viên nhà nước đứng ra lập nghiệp. Trên 60% số chủ doanh nghiệp có độ tuổi trên 40 và chỉ có 31,2% số chủ doanh nghiệp có trình độ từ cao đẳng trở lên. Do vậy vấn đề năng lực và kinh nghiệm quản lý theo tinh thần nghiệp chủ là rất thiếu trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay. Trình độ người lao động trong các DNNVV kém, bản thân các DNNVV khó giữ được nhân viên giỏi vì hầu hết lao động trong các DNNVV là những người mới ra trường thiếu kinh nghiệm hoặc từ nông thôn lên tìm việc làm.Họ sẵn sàng nhận mức lương thấp trong thời gian đầu chỉ để có việc làm, họ chỉ coi DNNVV như là nơi dừng chân và là bước đệm để rèn luyện kĩ năng và kinh nghiệm trước khi tìm được việc làm ở công ty lớn. Trong khi đó thì chính sách quản lý nguồn nhân lực của các DNNVV lại rất thụ động và thiếu sức hấp dẫn, mang tính ngắn hạn và thời vụ,làm cho DNNVV càng gặp khó khăn hơn trong việc tuyển chọn và giữ nhân viên tốt làm việc cho DN trong thời gian dài. 3.2 Về nguồn vốn và địa điểm kinh doanh So với các doanh nghiệp quốc doanh thì các DNNVV gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức vì cả lý do khách quan lẫn chủ quan. Về bản thân doanh nghiệp thì hầu hết các chủ doanh nghiệp chưa có thói quen vay vốn ngân hàng để kinh doanh mà thường huy động vốn ban đầu từ các nguồn phi chính thức. Các chủ doanh nghiệp cho rằng vay vốn từ nguồn này đơn giản hơn từ ngân hàng do họ không cần phải thế chấp và không cần phải vượt qua hệ thống hành chính cồng kềnh của các ngân hàng. Ngoài một số rất ít các doanh nghiệp tiếp cận được với các dự án hỗ trợ vốn của nước ngoài dưới dạng thuê mua tài chính thì hầu hết doanh nghiệp tư nhân rất khó tiếp cận được với các nguồn vốn hỗ trợ của nước ngoài và vốn ưu đãi của nhà nước. Nhìn chung hiện nay các DNNVV vẫn đang gặp phải rất nhiều khó khăn về vốn do thị trường vốn và thị trường thuê mua tài chính ở Việt Nam chưa thật sự phát triển đúng với yêu cầu của nền kinh tế. Hầu hết các DNNVV không thể huy động được vốn đầu tư dài hạn từ các ngân hàng mà họ phải huy động từ nguồn phi chính thức với số vốn rất hạn chế. Như vậy có thể thấy rằng các DNNVV đã hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thế cạnh tranh không tương xứng với các DNNN. Trên thực tế các DNNVV hoạt động trên nguồn vốn tự có và tăng vốn chủ yếu bằng cách gọi vốn trích từ lợi nhuận không chia,vay từ nguồn phi chính thức đã ảnh hưởng đến khả năng sinh lãi của các doanh nghiệp, mặt khác do cơ chế vay của ngân hàng các doanh nghiệp khó tiếp cận được với các khoản vay dài hạn do đó sử dụng vốn không đúng mục đích như vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn và hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh đó do không đủ vốn để đầu tư cho công nghệ và trang thiết bị hiện đại dẫn đến tiêu hao nhiều nguyên liệu, giá thành cao, sức cạnh tranh yếu,giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Đa số các doanh nghiệp đều cho rằng họ rất khó vượt qua được các yêu cầu về vốn và địa điểm kinh doanh khi thành lập doanh nghiệp. Khác với các DNNN được cấp vốn và địa điểm kinh doanh các DNNVV tư nhân phải tự tìm kiếm địa điểm kinh doanh cho mình trong điều kiện giá đất rất cao. Bản thân các DNNVV vẫn quen với cách suy nghĩ là muốn có văn phòng và trụ sở công ty ở trung tâm thành phố đông đúc dân cư. Nhiều doanh nghiệp thì dùng luôn nhà mình làm văn phòng giao dịch trong thành phố còn mở xưởng ở các vùng lân cận, vì thế mà mặt bằng sản xuất thiếu ổn định và phân tán gây tốn kém cho DNNVV khi bản thân số vốn của họ còn khiêm tốn. 3.3 Khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường xuất khẩu Hầu hết các DNNVV hiện nay chủ yếu sản xuất hàng hóa bán trên thị trường trong nước là chủ yếu. Theo Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn thì các doanh nghiệp sản xuất thủ công nghiệp ở nông thôn sản xuất để cung cấp cho thị trường trong nước 98,7% số lượng hàng sản xuất ra và xuất khẩu qua uỷ thác 1,3% số lượng hàng hoá được sản xuất. Bên cạnh đó các doanh nghiệp công nghiệp khác lại chủ yếu tập trung sản xuất 1 số mặt hàng tiêu dùng thu hút nhiều lao động như may mặc và giày da. Theo số liệu điều tra của VCCI thì 51% DNNVV làm hàng gia công theo các đơn đặt hàng của nước ngoài được cấp theo quota chứ chưa tìm kiếm được thị trường của riêng mình. Do vậy mà DNNVV bị lệ thuộc và bị động đối với sự thay đổi của thị trường. Bên cạnh đó do một thời gian dài áp dụng quy chế là chỉ những doanh nghiệp có vốn từ 200.000USD trở lên mới được xuất khẩu trực tiếp nên phần lớn các DNNVV đặc biệt là các DNNVV tư nhân phải xuất khẩu uỷ thác qua các công ty nhà nước, mặc dù quy định này tới nay đã được bãi bỏ tuy nhiên hầu hết các DNNVV vẫn thiếu thông tin về nhiều mặt, thiếu kĩ năng cải tiến mẫu mã, việc xuất khẩu uỷ thác đã làm tăng chi phí sản xuất của các DNNVV sản xuất hàng xuất khẩu. Khó khăn trong hoạt động xuất nhập khẩu đã hạn chế khả năng phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng của DNNVV. Hiện nay các DNNVV đã dễ dàng xin được giấy phép xuất nhập khẩu nhưng lại gặp khó khăn khác trong tiếp cận thị trường cũng như cạnh tranh về giá cả và chất lượng trên thị trường quốc tế. 3.4 Khó đổi mới công nghệ. Theo đánh giá của Bộ khoa học công nghệ và môi trường thì thiết bị công nghệ trong doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam rất lạc hậu chỉ trừ một số ít các doanh nghiệp mới thành lập còn đa số sử dụng công nghệ lạc hậu tới 20-50 năm so với các nước trong khu vực. Năng lực khoa học công nghệ hạn chế vì thế sản phẩm làm ra có năng suất thấp giá thành cao và khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu ở thành phố Hồ Chí Minh thì tỷ lệ đổi mới máy móc thiết bị trong các doanh nghiệp công nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh- thành phố công nghiệp lớn nhất cả nước cũng chỉ mới đạt ở mức ở mức 10%/năm tính theo vốn đầu tư. Như vậy phải mất 10 năm mới đổi mới được máy móc thiết bị. Trong khi đó nhiều sản phẩm có chu kì sống rất ngắn như các sản phẩm viễn thông và thực phẩm. Ngoài sự yếu kém về công nghệ, các DNNVV rất khó liên doanh được với nước ngoài do chưa được thực hiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất và do khó khăn trong việc cấp đất để kinh doanh và góp vốn vào liên doanh. Điều này đã hạn chế khả năng tiếp cận VĐT nước ngoài, trong khi nguồn vốn trong nước còn hạn chế thì đây không chỉ gây thiệt hại cho DNNVV mà còn cho cả nền kinh tế. 3.5 Nguyên nhân yếu kém Về nhận thức : Mặc dù Đảng và nhà nước đã khẳng định chính sách nhất quán trong phát triển kinh tế nhiều thành phần nhưng trong quá trình thực hiện vẫn có sự phân biệt đối xử trong một số cơ quan quản lý nhà nước giữa doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.DNNVV, chủ yếu thuọc thành phần kinh tế tư nhân, còn bị phân biệt đối xử trong các quan hệ giao dịch về mặt bằng sản xuất kinh doanh, vay vốn tiếp cận thông tin thị trường… Về thể chế chính sách : Hệ thống pháp luật và môi trường đầu tư đang được xây dựng và hoàn thiện để phù hợp với tình hình mới, phù hợp với xu thế và bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay, cơ chế chính sách chưa ổn định, còn nhiều thay đổi, văn bản pháp quy còn nhiều điểm chồng chéo, đôi khi thiếu rõ ràng, tính hiệu lực chưa cao làm cho DNNVV gặp khó khăn khi tìm hiểu, vận dụng và chấp hành. Do vậy mà trong thời gian tới Chính phủ cần tích cực cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện cho DNNVV phát triển, nhất là tạo ra sân chơi bình đẳng cho DNNVV. Chương 3: Một số giải pháp cải thiện môi trường đầu tư phát triển DNNVV I .Các quan điểm và định hướng chính trong phát triển DNNVV 2006-2010 1. Các quan điểm trong việc xây dựng chính sách phát triển DNNVV Hầu hết các quốc gia đều có những chương trình khuyến khích phát triển DNNVV, quan điểm xây dựng các chương trình ở các nước này là khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện mỗi nước. Trong tình hình Việt Nam hiện nay, khi ngân sách nhà nước còn eo hẹp, nguồn lực trong dân vẫn còn tiềm ẩn, chưa được khai thác thì quan điểm chính cho các chính sách khuyến khích phát triển là tiếp tục khuyến khích cho các nguồn lực, sử dụng chủ yếu là những biện pháp phi tài trợ. Quan điểm này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải đổi mới tư duy một cách cơ bản, đòi hỏi phải nhanh chóng thực hiện những bước đi quyết định trong cải cách hành chính và trong cải cách khu vực kinh tế Nhà nước. Quá trình chuyển dịch cơ cấu công nghiệp ở nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới và khu vực sẽ phải được tiến hành theo hai hướng : xây dựng nền đại công nghiệp với những tổ hợp, tập đoàn công nghiệp lớn, có tầm cỡ quốc gia, khu vực và thế giới. Đồng thời mở rộng, phát triển và hiện đại hoá các xí nghiệp công nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Hai hướng này có mối quan hệ gắn bó với nhau và hỗ trợ nhau cùng phát triển tạo thành sự phân công lao động xã hội hợp lý và có hiệu quả đối với sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. Kinh nghiệm quốc tế đã chỉ ra rằng trong quá trình công nghiệp hóa đất nước, sự tồn tại và phát triển DNNVV là sự bổ sung cho doanh nghiệp lớn vì khi tiến hành công nghiệp hoá đất nước đều có chung xuất phát điểm là nền sản xuất nhỏ. Quy mô nhỏ là người bạn đồng hành tất yếu ngay cả đối với cả những nước có nền công nghiệp phát triển bởi lẽ DNNVV có những ưu điểm mà những doanh nghiệp lớn không có được. Phát triển quy mô nhỏ và vừa gắn với phát triển nông lâm ngư nghiệp và xây dựng nông thôn mới tạo thành cơ cấu sản xuất xã hội hợp lý trên từng địa bàn lãnh thỗ là vấn đề mà Đảng và Nhà nước quan tâm phát triển. Dưới đây là những quan điểm cụ thể trong xây dựng chính sách phát triển DNNVV. 1.1 Chủ động phát huy nội lực đồng thời thu hút đầu tư nước ngoài để đóng góp vào quá trình CNH-HĐH đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường duy nhất để đưa dân tộc ta tới phồn vinh hạnh phúc. Vốn đầu tư là tiền đề quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá nước nhà. Trong xu thế hội nhập và mở cửa làm bạn bè với tất cả các dân tộc, nguồn vốn đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ của nước ngoài sẽ giúp nước ta rút ngắn thời gian phát triển. Tuy vậy, việc chủ động huy động nguồn vốn trong nước luôn có một ý nghĩa quan trọng và quyết định cho sự phát triển đất nước, đặc biệt trong tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động không lường trước được. Khuyến khích phát triển DNNVV, đặc biệt là DNNVV ngoài quốc doanh chính là một trong những chính sách quan trọng trong phát huy nội lực. Bởi nguồn vốn trong dân tiềm ẩn là rất lớn, nếu huy động được mọi nguồn trong dân vào đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thì không những thu hút được một nguồn vốn nhàn rỗi lớn trong dân cư mà còn tạo được cho người dân có thói quen kinh doanh và làm được điều này sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta phát triển theo hướng năng động hơn. 1.2 Thực sự đối xử bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế Mặc dù đã được chính thức thừa nhận là một thành phần cấu thành trong nền kinh tế, nhưng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vẫn bị đối xử bất bình đẳng trong nhiều lĩnh vực. Điều này không chỉ thể hiện trong nội dung các chính sách mà còn thể hiện thông qua cả hành vi của một số cán bộ công chức có liên quan. Việc đối xử thực sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế sẽ là một nguồn động viên khuyến khích vô cùng to lớn đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và chắc chắn sẽ góp phần không nhỏ cho sự phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực kinh tế xã hội ở Việt Nam. 1.3 Hạn chế sự can thiệp thường xuyên trực tiếp của nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Không có nền kinh tế nào không có sự can thiệp của nhà nứơc, song sự can thiệp thường xuyên và trực tiếp của nhà nước vào nền kinh tế sẽ hạn chế những ảnh hưởng tích cực của cơ chế thị trường, dẫn đến xuất hiện nguy cơ phân bổ vốn vào những nơi thiếu hiệu quả. Ngoài ra, khi chính sách thường xuyên thay đổi cũng gây khó khăn cho việc lập kế hoạch kinh doanh và làm cho các nhà đầu tư lo ngại, không hướng tới mục tiêu dài hạn mà chủ yếu là kinh doanh ngắn hạn, ảnh hưởng đến tính bền vững của nền kinh tế.Sự can thiệp trực tiếp của nhà nước sẽ bóp méo tương quan cạnh tranh trên thị trường, ảnh hưởng đến hiệu quả của sự phân bố nguồn lực trong xã hội. Không những vậy, sự can thiệp một cách thường xuyên của nhà nước vào các công việc kinh doanh của doanh nghiệp sẽ dẫn đến doanh nghiệp khó có thể chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình. 1.4 Tạo điều kiện tối đa cho mọi công dân phát huy ý kiến và hình thành thực hiện ý tưởng kinh doanh Mỗi thành viên trong xã hội đều có thể là một chủ thể trong nền kinh tế. Sự linh hoạt, tính hiệu quả, khả năng cạnh tranh của toàn nền kinh tế lệ thuộc vào chính những chủ thể này. Tạo điều kiện tối đa cho mọi công dân phát huy sáng kiến, hình thành và thực hiện ý tưởng kinh doanh sẽ là tiền đề tốt nhất cho việc nâng cao tính hiệu quả, linh hoạt và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế .Nghị quyết TW5 (khoá IX) nhấn mạnh “tạo lập môi trường thuận lợi về thể chất và tâm lý xã hội cho sự phát triển của kinh tế tư nhân”. 1.5 Tăng cường giúp đỡ các DN thông qua các biện pháp như tư vấn, thông tin, đơn giản hoá thủ tục hành chính… Mặc dù vốn là yếu tố không thể thiếu đối với một nhà kinh doanh, song hiện nay các doanh nghiệp không chỉ gặp khó khăn về vốn. Đơn giản hoá các thủ tục hành chính không những tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm chi phí giao dịch mà còn tạo ra bầu không khí mới trong kinh doanh, củng cố lòng tin của doanh nhân đối với chính sách đường lối của Nhà nước. Việc ban hành và thực hiện Luật Doanh nghiệp trong thời gian qua là một minh chứng rõ ràng cho luận điểm này. Bên cạnh đó, vai trò của thông tin, tư vấn ngày càng quan trọng hơn đối với hoạt động của doanh nghiệp. Chính những hoạt động này cần ít kinh phí nhưng lại có thể đưa lại cho doanh nghiệp nhiều cơ hội kinh doanh cũng như tăng tính hiệu quả của doanh nghiệp. 1.6 Nới lỏng những quy định hành chính hạn chế việc gia nhập thị trường của các DN Kinh doanh là quyền của mỗi công dân. Việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh thông qua thực hiện Luật Doanh nghiệp trong thời gian qua đã làm cho thị trường sôi động hẳn lên: số doanh nghiệp mới đăng ký thành lập đã tăng gấp 2-3 lần, xuất hiện bầu không khí hồ hởi, phấn khởi từ các nhà đầu tư. Việc nới lỏng các quy định thành lập doanh nghiệp không những đã cởi trói cho nhiều nhà đầu tư mà còn hỗ trợ đắc lực cho quá trình cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam. 2. Định hướng chính trong việc phát triển DNNVV Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung của đất nước hướng đến năm 2010 các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam cần được định hướng phát triển như sau: Khai thác thế mạnh (về tài nguyên, về lực lượng lao động…) nhằm phát triển quy mô doanh nghiệp Xây dựng hệ thống doanh nghiệp nhiều tầng quy mô, trong đó quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu với phương châm “hiện đại, đa dạng, linh hoạt”. Đây là một trong những điểm cơ bản của Nhà nước Việt Nam trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước những năm tới. Trong điều kiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam còn thấp, lao động còn dư thừa, vốn còn hạn chế thì sự định hướng ban đầu vào quy mô vừa và nhỏ là cần thiết, tất yếu. Với phương châm “hiện đại, đa dạng, linh hoạt” các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ được khuyến khích và tạo điều kiện phát triển sẽ liên kết với nhau thành một hệ thống doanh nghiệp, hình thành một cơ cấu công nghệ nhiều tầng để tận dụng, khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của từng doanh nghiệp cũng như của từng vùng kinh tế và của đất nước. Các doanh nghiệp với cơ cấu công nghệ nhiều tầng tại các vùng kinh tế của đất nước là những viên gạch thực thể cấu thành nên cơ cấu công nghiệp, cơ cấu công nghệ của đất nước Đồng thời, Đảng và Nhà nước ta cũng đang có kế hoạch hình thành một số tập đoàn kinh tế lớn làm chỗ dựa vững chắc cho những bước phát triển tiếp theo của cơ cấu công nghiệp của đất nước. Sự hình thành này, trong sự liên kết chặt chẽ giữa các loại hình doanh nghiệp và các quy mô sản xuất sẽ đi theo 3 hưóng: + Dựa trên cơ sở những doanh nghiệp lớn hiện có (như xi măng, mía đường, than, điện tử, tin học…) + Dựa trên cơ sở đầu tư mới, kể cả liên doanh với nước ngoài nhằm tạo những sản phẩm mới. + Dựa trên cơ sở phát triển tất yếu của quá trình xã hội sản xuất là tích tụ và tập trung hoá sản xuất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. II.Các giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư phát triển DNNVV 1.Khẳng định vai trò của DNNVV trong nền kinh tế Thực tế trong những năm cải cách đã chứng tỏ rằng, chỉ khi chính sách kinh tế, các quy định của pháp luật được soạn thảo, ban hành và thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện để mọi người phát huy sáng kiến của mình thì những chính sách đó mới thực sự được nhân dân hưởng ứng và phát huy được hiệu lực. Tuy rằng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã được chính thức thừa nhận, song vại trò thực sự của nó vẫn chưa được khẳng định. Nhiều quan niệm vẫn chưa kịp nghiên cứu đổi mới phù hợp với tình hình mới, do vậy nhiều vấn đề còn chưa có câu trả lời thích đáng, ví dụ: đảng viên có được làm kinh tế tư nhân hay không? Thuê công nhân có phải là hành vi bóc lột hay không? Vì vậy, trong xã hội còn có những cách nhìn nhận đánh giá không đúng về nhà kinh doanh. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, điểm mới tạo ra động lực quan trọng trong giai đoạn tới là phải khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân, khuyến khích mọi công dân làm giàu hợp pháp. Nội dung này cần được thể hiện cụ thể trọng Nghị quyết của Đảng, trong chính sách Nhà nước và trong hành vi của từng cán bộ công chức. Bên cạnh những nội dung trong nghị quyết của Đảng, trong các chính sách của Nhà nước, điều quan trọng nhất cần được thực hiện là việc đổi mới tư duy của các cơ quan công quyền là hỗ trợ chứ không phải là cản trở sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Hiện nay, Chính phủ đang khẩn trương xây dựng Nghị quyết khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thông qua Nghị quyết này, vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ đựơc khẳng định rõ ràng hơn. Tuy nhiên cần đưa ra quan điểm chủ đạo là khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh là chính (điều này phù hợp với chủ trương giao, khoán và cho thuê các DNNN). Song song với việc khẳng định vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, cần tăng cường cải cách khu vực DNNN, đặc biệt xác định lại rõ vai trò chủ đạo của DNNN: ở lĩnh vực nào và bằng phương thức gì? Chỉ khi thực hiện được điều này thì các nhà đầu tư tư nhân mới yên tâm kinh doanh, không lo ngại bị chèn ép hoặc đối xử không công bằng Muốn tôn vinh và khuyến khích các nhà doanh nghiệp thì trước hết phải thay đổi cơ bản cách nhìn nhận đánh giá về họ, đặc biệt trên các phương tiện thông tin đại chúng, bởi bản chất của đa số các nhà kinh doanh không phải là lừa đảo, là bóc lột mà chính họ là người đã góp phần tích cực mang lại của cải vật chất và sự phồn vinh trong xã hội 2. Chính sách khuyến khích đầu tư và huy động vốn. Luật doanh nghiệp mới đã khắc phục các nhược điểm của luật công ty cũ bằng việc quy định một cơ cấu vốn mềm dẻo hơn đối với các công ty trong đó có DNNVV. Tuy nhiên để tạo điều kiện khuyến khích các DNNVV hơn nữa trong việc huy động vốn đầu tư thì chính phủ cần có các cơ chế rõ ràng cho phép các DNNVV phát hành các hạng và các loại cổ phiếu chứng khoán, cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu thường có thể chuyển đổi trong các điều kiện có thể khi cần thiết. Có như vậy các DNNVV mới thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu chứng khoán khi thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển. Bên cạnh đó chính phủ cũng cần xem xét cho phép các DNNVV bán một tỷ lệ % cổ phiếu tối thiểu của họ ( có thể là 30% ) cho các nhà đầu tư nước ngoài khi thấy lợi mà không cần xin phép chính phủ trước. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV tiếp cận với các nguồn vốn nước ngoài. Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước trước đây cũng đưa ra điều khoản cho phép bán cổ phiếu của công ty trong nước cho các nhà đầu tư nước ngoài nhưng phải có sự chấp thuận của thủ tướng chính phủ trong trường hợp cụ thể. Quy định này đã gây ra rất nhiều phiền phức hạn chế tính năng động của các DNNVV trong việc huy động vốn và nhiều khi làm mất cơ hội kinh doanh của các DNNVV. Ngoài ra để khuyến khích các DNNVV thu hút vốn đầu tư có hiệu quả chính phủ cần có các cơ chế khuyến khích và cho phép các DNNVV tham gia nhiều hơn vào các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế hiện nay các DNNVV mới tham gia tỷ lệ % rất nhỏ vào các liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài. Trong khi đó nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam chủ yếu dưới hình thức là các DNNVV đặc biệt là các công ty của Đài Loan, các công ty của Nhật và của Hồng Kông. Việc nhiều doanh nghiệp tham gia liên doanh với các công ty nước ngoài sẽ giúp các DNNVV nâng cao năng lực quản lý và nhanh chóng tiếp cận được với thị trường nước ngoài cũng như đổi mới công nghệ thông qua hình thức liên doanh. Đối với chính sách khuyến khích đầu tư chính phủ không nên chỉ khuyến khích các DNNVV đầu tư vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ nhằm thu hồi vốn nhanh mà nên có các chính sách khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu phục vụ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, có như vậy sự phát triển của DNNVV mới thực sự phát huy vai trò của mình trong việc đổi mới cơ cấu nền kinh tế. 3. Chính sách tín dụng- ngân hàng Đây được coi là chính sách trọng tâm cần giải quyết trong thời gian tới. Để nâng cao tác động của chính sách này và thực sự khuyến khích các DNNVV phát triển, nên xem xét các giải pháp sau đây: Nâng cao hiệu quả hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng, giúp DNNVV có thể vay vốn khi gặp khó khăn về tài sản thế chấp. Quỹ bảo lãnh tín dụng có thể bảo lãnh tín dụng cho các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các dự án kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên để quỹ này hoạt động tốt cần có các quy định rõ ràng về trách nhiệm của quỹ đối với cơ quan tín dụng và doanh nghiệp cũng như làm rõ cơ chế quản lý và điều hành quĩ để tránh tình trạng làm nảy sinh một khâu trung gian giữa DNNVV và ngân hàng trong quá trình thực hiện các giao dịch. Để quỹ này vận hành tốt, Chính phủ cần quan tâm đến việc huy động và tìm kiếm các nguồn vốn cho quỹ. Vốn có thể huy động từ nguồn trợ cấp hoặc giúp đỡ của các tổ chức nước ngoài như JBIC, UNDP, WB… - Điều chỉnh chính sách về tài sản thế chấp đối với các khoản vay.Hiện nay nhiều doanh nghiệp không thể vay vốn ngân hàng vì không có tài sản thế chấp. Do đó các ngân hàng đã áp dụng cho các doanh nghiệp dùng các tài sản hình thành từ các khoản vay để làm tài sản thế chấp. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp doanh nghiệp vẫn không thể đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng về tài sản thế chấp. Trong những trường hợp nhất định, ngân hàng có thể đánh giá tiềm năng và giá trị của các dự án kinh doanh tốt để cho vay và cùng với doanh nghiệp giám sát việc kinh doanh để giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Lúc đó ngân hàng sẽ coi bản kế hoạch kinh doanh tốt như một tài sản thế chấp có giá trị thay cho tài sản khác. - Mở rộng hình thức tín dụng thuê mua Mở rộng hình thức tín dụng thuê mua là giải pháp hữu hiệu giúp các doanh nghiệp khắc phục khó khăn về vốn đầu tư để đổi mới công nghệ mở rộng sản xuất kinh doanh. Với hình thức này các ngân hàng thương mại tháo gỡ được tình trạng đóng băng về vốn và đảm bảo an toàn hơn hình thức tài sản thế chấp. Tín dụng thuê mua là loại hình tín dụng trung gian dài hạn, người có nhu cầu vay vốn không nhận tiền mua sắm thiết bị tài sản của mình mà nhận trực tiếp tài sản phù hợp với nhu cầu của mình. Ngưòi thuê mua thanh toán bằng tiền theo phương thức trả dần và sau thời hạn sử dụng nhất định có thể mua lại tài sản đó. Trong điều kiện hiện nay của nước ta, môi trường kinh doanh chưa được ổn định thì các ngân hàng thương mại gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh, việc cho vay trung và dài hạn gặp nhiều khó khăn. Các ngân hàng có khả năng cho vay trung và dài hạn thường đòi hỏi các chủ đầu tư làm ăn có hiệu quả và phải có tài sản thế chấp. Đó là điều kiện mà không phải chủ đầu tư nào cũng có khả năng đáp ứng.Vơí nhiều hình thức tín dụng thuê mua, điều kiện tiên quyết được đặt ra là dự án kinh doanh có hiệu quả, điều kiện tài sản thế chấp được đặt ở hàng thứ vì bản thân hợp đồng thuê mua đã bao hàm nội dung thế chấp.Tuy nhiên để thực hiện hình thức này lại đòi hỏi các ngân hàng phải thoả mãn những điều kiện nhất định mà quan trọng nhất đó là phải am hiểu nhu cầu của doanh nghiệp và phải có nguồn vốn lớn. - Thị trường hoá các khoản nợ Hiện nay các DNNVV chiếm dụng vốn lẫn nhau nhiều khiến cho nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng thiếu vốn giả tạo.Nhiều khi ngân hàng thương mại cũng phải đeo đẳng các khoản nợ đã cho vay mà không có cách gì thu hồi trước ngày đáo hạn hoặc đã quá hạn.Vì thế nhiều nhà kinh tế cho rằng trong nền kinh tế Việt Nam, tín dụng danh nghĩa là ngắn hạn nhưng thực tế sự phát sinh gần như dài hạn và trung hạn.Việc thị trường hoá các khoản nợ thực chất sẽ giúp các DNNVV thoát khỏi tình trạng thiếu vốn do bị chiếm dụng.Thương phiếu sẽ được dùng để ghi giá trị các khoản nợ và đã được coi là một công cụ tín dụng thương mại có tác dụng làm lưu động hoá các khoản nợ ở nhiều nơi trên thế giới.Hầu hết các DNNVV vẫn còn xa lạ với thương phiếu và chưa có thói quen sử dụng nó như là một công cụ thanh toán và vay nợ trong các hoạt động kinh doanh của mình. Thương phiếu thường bao gồm hối phiếu do chủ nợ kí phát và con nợ kí chấp nhận thanh toán và lệnh phiếu do con nợ kí phát. Thương phiếu có tác dụng như một bằng chứng pháp lý về quan hệ tín dụng giữa các thương nhân.Bên cạnh đó nó còn được coi là một công cụ thanh toán trong các hoạt động mua bán hàng trả chậm và là công cụ tín dụng thương mại. Với tờ thương phiếu khi chủ nợ cần thu hồi vốn trước ngày đáo hạn họ có thể bán món nợ này cho ngân hàng thương mại dưới hình thức chiết khấu. Khi ngân hàng thương mại thiếu hụt vốn có thể bán lại món nợ này cho cho ngân hàng khác dưới hình thức chiết khấu. Nhờ đó mà thương phiếu sẽ giúp được các doanh nghiệp cũng như ngân hàng thương mại thiếu hụt vốn triền miên và trong kinh doanh và nhiều DNNVV thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính. Luật thương mại Việt Nam đã ban hành chế định về thương phiếu nhưng đến nay vẫn chưa phát huy được hết chức năng của thương phiếu bởi vẫn còn thiếu một thị trường mua bán nợ. Ngày nay thị trường mua bán nợ trên thế giói đã phát triển mạnh mẽ và kể cả các món nợ cũng được đem ra đấu thầu và đấu giá mua bán trên thị trường này. Nhà nước cũng đã ban hành quy định về mua bán nợ của các tổ chức tín dụng nhưng cần sớm đưa thị trường này và thị trường chứng khoán phát triển để tăng chất lượng tín dụng cho toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh thương phiếu thì việc lưu động hoá các khoản nợ có thể thực hiện qua công cụ thư tín dụng LC. Hiện nay các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp chỉ sử dụng hình thức này khi tiến hành các giao dịch mua bán hàng hoá xuất nhập khẩu. LC cũng có thể áp dụng cho các giao dịch trong nước với các thủ tục đơn giản hơn. Vì vậy chính phủ và các cơ quan chức năng nên nghiên cứu áp dụng phương thức này cho các hoạt động thương mại trong nước. - Bảo đảm cho các DNNVV khu vực tư nhân được đối xử bình đẳng như các loại hình doanh nghiệp khác trong vay vốn ngân hàng. Trong quá trình đưa ra và thực hiện quy định để đảm bảo sự an toàn của nguồn vốn không nên đồng nhất việc chấp hành đúng nguyên tắc với thái độ cửa quyền của cán bộ. 4. Chính sách thuế So với nhiều năm trước đây, hệ thống thuế của Việt Nam đã được cải thiện theo hướng bảo đảm sự công bằng cho các thành phần kinh tế.Tuy nhiên hệ thống thuế của Việt Nam, đặc biệt là thuế VAT hiện nay đang là một thách thức đối với các DNNVV. Thời gian miễn giảm thuế cho các DNNVV vẫn còn quá ngắn so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thuế suất và cách tính vẫn còn còn phức tạp so với trình độ của DNNVV, thuế ít lệ phí nhiều…Để giải quyết những bất cập đó và hoàn thiện hơn nữa chính sách thuế đối với DNNVV cần thực hiện những giải pháp sau: - Chính sách thuế thu nhập công ty cần được đơn giản hoá và loại bỏ dần các trường hợp miễn giảm tiến tới thống nhất hệ thống thuế đối với các loại hình doanh nghiệp. Điều này sẽ xoá bỏ được tình trạng có hàng loạt quy định miễn giảm thuế khác nhau trong các luật khác nhau như luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật đầu tư nước ngoài. Kinh nghiệm của các nước cho thấy rằng việc thực hiện các ưu đãi về thuế là rất phức tạp và tốn kém đối với cả người chịu thuế và cả Chính phủ . Điều này dễ dẫn đến các hiện tượng tiêu cực trong nền kinh tế và tạo ra sự phân biệt đối xử giữa những người nộp thuế từ đó tạo ra cảm giác là thuế không công bằng. Hơn nữa một số nghiên cứu còn cho rằng các ưu đãi về thuế đã không có tác dụng như mong muốn mà đôi khi có tác dụng ngược lại, giảm tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Do vậy mà xu hướng của thế giới hiện nay là loại bỏ dần các chính sách ưu đãi về thuế cho các hoạt động kinh tế cụ thể và tiến tới sử dụng những thuế suất thấp hơn trên mọi lĩnh vực đối với tất cả các doanh nghiệp . Điều này có tác dụng khuyến khích cả đầu tư trong nước lẫn đầu tư nước ngoài. - Cần sớm chuyển từ chế độ thu thuế như hiện nay sang chế độ DNNVV tự kê khai và nộp thuế, làm theo với kiểm toán hàng năm phù hợp với thông lệ quốc tế, đơn giản hoá yêu cầu về sổ sách kế toán và báo cáo tài chính hàng năm đối với các DNNVV. - Hoàn thiện hơn nữa hệ thống thuế giá trị gia tăng đặc biệt là cải tiến chính sách về hoàn thuế giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp nói chung và các DNNVV nói riêng trong toàn bộ nền kinh tế, vì hoàn thuế chậm sẽ dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn của các DNNVV vốn đã rất nhỏ bé và thiếu, gây cản trở công việc kinh doanh của các doanh nghiệp này. Các quy định về thuế suất cần được hoàn thiện hơn nữa đối với người nộp thuế nhờ đó sẽ giảm khả năng vi phạm của cả người nộp thuế và cả cán bộ thu thuế. - Xoá bỏ các hình thức thuế khoán hoặc khoán định mức thu thuế đối với cán bộ thu thuế vì đây là hình thức khiến cán bộ thu thuế dễ dàng áp dụng các định mức thuế cho doanh nghiệp và tăng khả năng trốn thuế của doanh nghiệp - Các chính sách thuế phù hợp với đặc thù và điều kiện của DNNVV và cần dành những ưu đãi để khuyến khích các chủ thể kinh tế hướng theo mục tiêu mà Nhà nước dự định. Những ưu đãi vể thuế phải nằm trong danh mục các ngành nghề được khuyến khích phát triển, hoặc khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc miền núi ít người… 5. Mặt bằng sản xuất kinh doanh Mặt bằng kinh doanh là một trong những khó khăn của DNNVV trong nhiều năm qua. Để giúp DNNV tháo gỡ các khó khăn về vấn đề này, Chính phủ cần chú trọng đến các giải pháp sau: - Có chính sách quy định về hoạt động của các KCN dành riêng cho DNNVV. Hiện nay có một số KCN cho DNNVV ra đời nhưng chính sách về giá cũng như các điều kiện vào KCN áp dụng rất tuỳ tiện và không có hướng dẫn cụ thể nào của Chính phủ. Cần phải xây dựng quy hoạch các KCN rõ ràng và công khai với doanh nghiệp về quy hoach đó. Khi xây dựng các chính sách cho KCN cũng như xây dựng quy hoạch KCN cho DNNVV cần quan tâm các yêu cầu khác nhau của các DNNVV về quy mô và địa điểm kinh doanh. Ví dụ đối với các doanh nghiệp sản xuất gia công sử dụng lao động rẻ và không cần mặt bằng sản xuất rộng có thể bố trí những nơi đông dân cư và phương tiện đi lại…Chính phủ có thể có các biện pháp để kêu gọi doanh nghiệp cùng chung sức xây dựng KCN dưới nhiều hình thức khác nhau như trả tiền thuê đất trước, nhưng nhà nước phải cam kết thực hiện tốt việc giải phóng mặt bằng, tránh lãng phí về thời gian và tiền của của doanh nghiệp. Khi hình thành và xây dựng các KCN tập trung để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước thì phải đảm bảo quan tâm đến các KCN cho DNNVV. Có thể coi đây là một hướng quan trọng nhằm xây dựng một nền kinh tế hiện đại. Việc xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau, có thể do các tổ chức trong nước tự xây dựng và kinh doanh, cũng có thể do các tổ chức trong nước liên kết với các tổ chức kinh tế nước ngoài để xây dựng và kinh doanh. Nhưng giá cho thuê đối với các DNNVV nên là giá ưu đãi và cần có chính sách cụ thể để thu hút DNNVV đến kinh doanh trong KCN. - Tiến tới cho phép khu vực DNNVV tư nhân được hưởng những quyền lợi về sử dụng đất đai như đối với DNNVV hoặc tạo điều kiện cho các DNNVV mở rộng quan hệ liên kết liên doanh và được phép sử dụng mặt bằng kinh doanh của DNNN khi những DNNN này không có nhu cầu sử dụng. - Chính phủ cần xoá bỏ các thủ tục hành chính phiền hà trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chủ sở hữu cũng như đơn giản hoá các thủ tục công chứng và đánh giá trị công trình để đảm bảo quyền lợi của chủ sở hữu. Dựa trên các quy hoạch đã có, Chính phủ nên có các chính sách khuyến khích DNNVV đầu tư sản xuất ở những vùng ngoại ô, tránh sự tập trung quá nhiều doanh nghiệp trong thành phố gây ô nhiễm môi trường. 6. Chính sách thương mại Mặc dù đã có những đổi mới mang tính cơ bản trong chính sách thương mại, nhưng cần tiếp tục cải cách mới có thể đáp ứng được đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những giải pháp cải cách cần hướng đến các điểm sau: - Cần có các chính sách rõ ràng về bảo vệ bản quyền và nhãn hiệu thương mại của các DNNVV. Chống hàng giả, buôn lậu và các hành vi gian lận thương mại gây lũng đoạn thị trường. Đơn giản hoá các thủ tục đăng kí và công nhận bản quyền tác giả hoặc nhãn mác hàng hoá, giảm thời gian chờ đợi và chi phí không cần thiết cho doanh nghiệp, thông tin rõ ràng cho doanh nghiệp về quá trình đăng kí bản quyền và sở hữu công nghiệp. - Có chính sách cụ thể khuyến khích và tạo điều kiện cho các DNNVV tham gia tích cực, có hiệu quả vào hoạt động xuất khẩu. Cụ thể là : + Tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục xuất nhập khẩu cho các DNNVV để họ trực tiếp nghiên cứu, khảo sát thị trường nước ngoài. Coi việc chủ doanh nghiệp khảo sát thị trường nước ngoài cũng giống như cán bộ Nhà nước đi thi hành công vụ. + Cho phép DNNVV sản xuất hàng xuất khẩu được hưởng các chính sách ưu đãi về tín dụng, về thuế quan như DNNN.Hiện nay Bộ thương mại đã áp dụng các hình thức khuyến khích xuất khẩu tuy nhiên đối tượng được khuyến khích vẫn còn rất khiêm tốn đối với các DNNVV vì bản thân DNNVV rất khó tiếp cận được với thị trường nước ngoài nên các hợp đồng xuất khẩu lớn thường rơi vào các doanh nghiệp lớn của nhà nước. Do đó trong thời gian tới Chính phủ cần có những chính sách khuyến khích và hỗ trợ thị trường cho các DNNVV, giúp các DNNVV tham gia vào các chương trình xúc tiến thương mại để giới thiệu sản phẩm ra nước ngoài. + Có chính sách hợp lý trong việc bảo hộ có thời hạn các sản phẩm do DNNVV trong nước sản xuất, góp phần tích cực vào việc chiếm lĩnh thị trường trong nước thay thế hàng xuất khẩu. Thực hiện tốt các chương trình giới thiệu sản phẩm tốt của DNNVV, thông qua các triển lãm về hàng Việt Nam chất lượng cao, qua đó người tiêu dùng hướng tới hàng nội. + Khuyến khích các cá nhân và Việt Kiều tham gia làm đầu mối giới thiệu sản phẩm của các DNNVV ra nước ngoài, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại.Bên cạnh đó coi trọng việc cung cấp thông tin thị trường, giới thiệu thị trường nước ngoài cho các DNNVV có thể mở rộng việc thiết lập các trung tâm tư vấn kinh doanh về thị trường cho các DNNVV. 7. Đào tạo nguồn nhân lực Lực lượng lao động ở Việt Nam đông về số lượng nhưng không mạnh về chất lượng. Hiệu quả lao động thấp làm giảm ưu thế tiền lương rẻ ở Việt Nam. Tỷ lệ lao động phổ thông trong số người tìm việc còn quá cao là một vấn đề khó khăn trong giải quyết việc làm. Vì vậy, cần gắn những biện pháp đào tạo bồi dưỡng nghề nghiệp với chính sách lao động. Nhà nước cần thành lập và khuyến khích thành lập các trung tâm dạy nghề theo yêu cầu của thị trường. Để có thể phát triển một thị trường lao động có chất lượng đáp ứng nhu cầu của người sử dụng lao động thì Nhà nước cần ưu tiên đầu tư cho công tác dạy nghề, muốn vậy cần có các chính sách cụ thể: - Huy động vốn từ các nguồn khác nhau như : huy động vốn từ đóng góp của người học, của người sử dụng lao động, sử dụng nguồn vốn vay hoặc nguồn vốn của các tổ chức quốc tế… - Nhà nước còn cần phải tổ chức tốt khâu quản lý công tác dạy nghề có như vậy thì công tác đào tạo nghề mới có hiệu quả. Bên cạnh việc đào tạo lực lượng lao động thì cũng cần chú trọng đào tạo chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý điều hành doanh nghiệp : - Cần đa dạng các loại hình đào tạo bồi dưỡng theo nhiều hình thức khác nhau để phù hợp với nhu cầu học tập đa dạng của chủ doanh nghiệp và các cán bộ quản lý, điều hành doanh nghiệp nhỏ và vừa - Chương trình nội dung đào tạo phải phù hợp với quản lý kinh doanh trong cơ chế thị trường, các lý thuyết đương đại về quản lý. Mặt khác chương trình phải đảm bảo tính thực tiễn của sản xuất kinh doanh trong nước và hướng vào giải quyết những vấn đề vướng mắc của thực tiễn quản lý, thực tiễn điều kiện thị trường Việt Nam đang có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. 8. Công nghệ Để đẩy mạnh sự phát triển của công nghệ phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì Chính phủ cần có các giải pháp sau: - Chính phủ cần cung cấp các thông tin về công nghệ đến các DNNVV một cách kịp thời để giúp các DNNVV thoát khỏi tình trạng thiếu hiểu biết về thông tin công nghệ dẫn đến dễ dàng nhập hoặc nhận chuyển giao các công nghệ quá lạc hậu biến Việt Nam thành bãi thải công nghiệp cho các nước phát triển. - Chính phủ cần loại bỏ các trở ngại trong chính sách chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam như loại bỏ quy định quá phiền phức khi phê duỵêt các hợp đồng chuyển giao công nghệ của Bộ Khoa học công nghệ và môi trường. - Nhà nước cần cho phép các DNNVV thực hiện khấu hao nhanh tài sản cố định, máy móc thiết bị như một khoản chiết khấu khi xác định thuế lợi tức để khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ và đầu tư vào máy móc thiết bị mới nhằm đẩy nhanh năng lực công nghệ của DNNVV. - Khuyến khích phát triển công nghệ thông tin, giảm chi phí sử dụng thư điện tử, thương mại điện tử nhằm tăng các cơ hội nắm bắt thông tin về thị trường và công nghệ của các DNNVV, giảm hơn nữa cước viễn thông quốc tế với mức độ hợp lý nhằm tăng cường sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam. - Chính phủ cần nghiên cứu nới lỏng các quy định nghiêm ngặt trong việc nhập máy móc thiết bị đã qua sử dụng. Trong các trường hợp nhất định Chính phủ cần cho phép nhập khẩu các thiết bị có đủ điều kiện kĩ thuật để giúp các doanh nghiệp tăng cường sức cạnh tranh và tiết kiệm chi phí mà vẫn không biến đất nước thành nơi chứa các máy móc thiết bị hỏng. Kết luận Chính phủ các nước nói chung và Chính phủ Việt Nam nói riêng có vai trò quan trọng trong việc khuyến khích DNNVV phát triển. Các chính sách của Chính phủ đề ra luôn cố gắng tạo ra một sân chơi bình đẳng cho DNNVV theo hướng cải thiện môi trường đầu tư cho DNNVV . Để có một hệ thống cơ chế và chính sách hợp lý, có hiệu quả cần phải có sự nỗ lực từ hai phía : Chính phủ và DNNVV. Chính phủ có trách nhiệm ban hành cơ chế chính sách và khuôn khổ pháp lý, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, còn doanh nghiệp có trách nhiệm phải tham gia và thực hiện các chính sách trên một cách nghiêm túc. Qua phân tích và đánh giá thực trạng của môi trường đầu tư tại Việt Nam chúng ta thấy rằng nỗ lực cải cách môi trường đầu tư tại Việt Nam trong thời gian qua là rất lớn và đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ, rất nhiều vướng mắc trong hoạt động đầu tư của DNNVV đã từng bước được tháo gỡ.Tuy nhiên môi trường đầu tư còn nhiều rủi ro, chi phí đầu tư cao, hệ thống tài chính ngân hàng chưa hoàn thiện, chính sách thuế, kết cấu hạ tầng chưa phát triển…Để có thể tiếp tục thu hút hơn nưa mọi nguồn lực trong dân phục vụ cho công cuộc CNH-HĐH đất nước, những hạn chế trên chắc chắn phải được giải quyết trong các lần sửa đổi luật đầu tư trong thời gian sắp tới, cụ thể là việc Luật đầu tư chung sẽ có hiệu lực vào tháng 7/2006 sắp tới nhằm làm thông thoáng hơn nữa môi trường đầu tư cho DNNVV. Tài liệu tham khảo Kinh tế đầu tư – PGS.TS . Nguyễn Ngọc Mai- NXB Giáo dục –1998 Kinh tế đầu tư – PGS. TS Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương- NXB Thống kê Giáo trình đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ- TS Nguyễn Hồng Minh Giáo trình Quản trị Doanh nghiệp- Nguyễn Hải Sản- NXB Thống kê Luật khuyến khích đầu tư tròng nước 1994 Luật doanh nghiệp 1999 Tạp chí kinh tế phát triển 2002-2005 Tạp chí kinh tế phát triển 2002-2005 Báo kinh tế đầu tư 2002-2005 Các trang web của Bộ kế hoạch và đầu tư, VCCI, Bộ tài chính, tổng cục thống kê… Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxDT3.docx
Tài liệu liên quan