Luận văn Một số biện pháp nhằm tăng cường công tác quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị tại công ty xây dựng số 1-VINACONCO1

ã Đối với công nhân vận hành máy: với những người trong danh sách biên chế, họ là những người gắn bó lâu dài với Công ty vì vậy cần quan tâm trước hết đến họ. Tổ chức các khoá học ngắn hoặc trung hạn nhằm đào tạo, đào tạo lại với mục đích trang bị thêm kiến thức lý thuyết, nâng cao hơn nữa tay nghề của họ, không nên trao máy cho những người mà yêu cầu đòi hỏi vượt khỏi khả năng, trình độ thực của người công nhân Đối với những công nhân được thuê theo hợp đồng mùa vụ, tại địa bàn thi công công trình cần cho họ tham gia các khoá tập huấn ngắn về quy trình vận hành máy, có sự giám sát của cán bộ kỹ thuật. ã Với cán bộ kỹ thuật cơ giới: họ là những bác sĩ của máy móc, thiết bị. Hiện công ty có đội ngũ kỹ sư cơ khí chưa đủ mạnh để có thể giám sát toàn bộ máy móc, thiết bị của Công ty. Phương hướng trong thời gian tới Công ty có thể tuyển dụng thêm đội ngũ kỹ sư cơ khí; cử cán bộ đi học tại chức đồng thời quan tâm đến công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho đội ngũ kỹ sư hiện có nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ đổi mới. Chính họ sẽ là những người thầy phục vụ cho công tác bồi dưỡng kỹ thuật trong công ty. ã Đối với cán bộ quản lý: cán bộ quản lý phải là người có hiểu biết về khoa học kỹ thuật. Ngoài ra, họ phải am hiểu về kinh tế nhằm quản lý một cách có hiệu quả nhất việc sử dụng máy móc, thiết bị. Do vậy công tác tuyển dụng đầu vào phải đảm bảo các yếu tố này. Bên cạnh đó cần bồi dưỡng kiến thức quản lý, kinh tế cho tất cả đội ngũ kỹ sư trong Công ty, cho các cán bộ kỹ thuật thuộc các phòng, ban, đội kỹ thuật nhằm đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế trong công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị trong Công ty.

doc97 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1579 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp nhằm tăng cường công tác quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị tại công ty xây dựng số 1-VINACONCO1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng có hiệu quả quy chế quản lý máy móc, thiết bị của Công ty. Ban lãnh đạo Công ty đã ban hành một hệ thống văn bản riêng, hướng dẫn xây dựng bộ máy quản lý máy móc, thiết bị từ Công ty cho tới các tổ, đội xây dựng. ở cấp Công ty có phòng kinh tế kỹ thuật, ở các xí nghiệp có các đội kỹ thuật riêng, còn ở các đội xây dựng cũng có các tổ kỹ thuật, có nhiệm vụ đảm nhiệm công tác quản lý kỹ thuật, việc sử dụng ca, kíp, phát hiện nhanh nhất những sai hỏng nhỏ nhằm sửa chữa tại chỗ hoặc báo cáo lên trên với những hỏng hóc lớn đồng thời tiến hành bảo dưỡng tại chỗ theo định kỳ. Nhờ làm tốt khâu này nên đã giảm đáng kể chi phí sửa chữa hàng năm cho Công ty. Công tác tính và trích khấu hao: đây được xem là nội dung rất quan trọng trong công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của Công ty. Do nắm bắt tình trạng kỹ thuật của máy móc, thiết bị tốt, chính xác, công tác tính và trích khấu hao của Công ty luôn đảm bảo tính đúng, tính đủ. Nhờ vậy trong những năm qua, Công ty đã khấu hao một cách hợp lý giá trị máy móc, thiết bị, nhanh chóng khấu hao hết giá trị máy móc, thiết bị đã cũ, lạc hậu đồng thời sử dụng một cách có hiệu quả quỹ khấu hao cho việc mua sắm thêm máy móc, thiết bị, hiện đại hoá công tác thi công cơ giới, phù hợp với điều kiện xây dựng của Việt Nam. Vì vậy quỹ khấu hao của Công ty luôn được sử dụng một cách có hiệu quả nhất. Công tác bảo dưỡng, sửa chữa, bảo quản máy móc, thiết bị ở kho: công tác bảo dưỡng máy móc, thiết bị luôn được công ty đặc biệt coi trọng. Công tác bảo dưỡng định kỳ được giao cho các tổ đội kỹ thuật chuyên môn đảm nhiệm, còn công tác bảo dưỡng thường xuyên do các máy trưởng đảm nhiệm, như việc tra dầu, mỡ, lau chùi… Đối với công tác sửa chữa được quy định chặt chẽ hơn. Đối với các sửa chữa nhỏ phải do các công nhân cơ khí từ bậc 4 trở lên đảm nhiệm, đối với những sửa chữa vừa và lớn phải do các đội kỹ thuật cấp xí nghiệp trở lên đảm nhiệm và phải có sự chỉ đạo của kỹ sư cơ khí. Tất cả công tác bảo dưỡng, sửa chữa định kỳ, sửa chữa đột xuất đều phải được lập biên bản, lưu hồ sơ về tình trạng kỹ thuật trước và sau bảo dưỡng, sửa chữa định kỳ. Tất cả các công tác này đều được áp dụng các hình thức khuyến khích vật chất rõ dàng nên luôn đảm bảo thực hiện tốt, tình trạng kỹ thuật máy móc, thiết bị luôn được cải tiến. Công tác đào tạo nguồn nhân lực cho công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của Công ty: Công ty luôn xác định rằng, yếu tố con người có tốt thì máy móc, thiết bị mới có thể tốt. Do vậy, hàng năm Công ty đều gửi công nhân kỹ thuật đi đào tạo lại, đào tạo bổ sung tại các trường đào tạo kỹ thuật của Tổng Công ty VINACONEX. Công ty cũng luôn chú trọng công tác tuyển dụng đội ngũ kỹ sư trẻ có năng lực, có trình độ chuyên môn khá, giỏi sau đó tiếp tục đào tạo, cho làm quen với môi trường làm việc của Công ty. Nhờ vậy đội ngũ kỹ thuật viên của Công ty luôn phát triển cả về số và chất lượng qua các năm, số lượng các sáng kiến cải tiến kỹ thuật liên tục tăng trong những năm trở lại đây. Trong những năm tới, Công ty vẫn xác định việc đào tạo đội ngũ lao động nói chung, đội ngũ kỹ thuật cơ giới nói riêng là một nhiệm vụ trung tâm, then chốt nhất phục vụ cho công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của Công ty. Bên cạnh những thành tích đã đạt được trên đây, công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của Công ty vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định cần khắc phục trong thời gian tới. 1.2. Những hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị: Trong công tác đổi mới máy móc, thiết bị: ở đây, công tác đổi mới chỉ đề cập đến việc đưa vào những máy móc, thiết bị có tính hiện đại cao, đồng thời loại bỏ những máy móc, thiết bị cũ, lạc hậu. Cho tới nay Công ty vẫn còn đang sử dụng một số loại máy móc, thiết bị đã được trang bị từ lâu, công suất, năng suất lao động không cao nhưng do vẫn còn có khả năng tận dụng được nên Công ty vẫn còn duy trì việc sử dụng chúng. Thực tế nhiều máy móc, thiết bị đã khấu hao hết từ lâu. Việc sử dụng những máy móc, thiết bị này đã làm giảm năng suất chung của toàn Công ty, có sự cản trở nhất định tới công tác đầu tư mua sắm mới máy móc. Trong phần trước ta đã thấy, các hệ số về thanh lý và hệ số đổi mới máy móc, thiết bị của Công ty có thể nói ở mức tương đối cao nhưng trong thực tế vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới của Công ty. Vẫn còn hàng loạt máy móc, thiết bị cần đổi mới, nhất là những loại Máy móc, thiết bị có tính chuyên dụng cao, như cẩu tháp, máy xúc lật… để nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh, đảm bảo đạt điểm kỹ thuật cao trong các bài thầu cũng như đảm bảo khả năng thắng thầu những công trình lớn hơn trong tương lai. Về chế độ báo cáo tình hình quản lý và sử dụng máy móc thiết bị: Do tính chất thi công của các công trình xây dựng, có lúc việc huy động máy móc, thiết bị đòi hỏi nhanh chóng với số lượng lớn, sự điều động máy móc, thiết bị qua lại giữa các công trình có tần suất rất cao nhưng có lúc máy móc, thiết bị lại nằm rỗi. Chính điều này đã gây nên nhiều khó khăn cho công tác quản lý. Xí nghiệp cơ giớ quản lý hầu hết máy móc, thiết bị của Công ty, việc điều chuyển qua lại giữa các xí nghiệp khác nhau nhiều lúc không rõ ràng. Do đó việc lập báo cáo sử dụng máy móc, thiết bị của các xí nghiệp thành viên Công ty nhiều khi không tách bạch, rõ ràng, gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý ca, kíp, thời gian máy… Về chế độ cho thuê máy móc, thiết bị: Như phần trước ta đã thấy, việc sử dụng máy móc, thiết bị theo thời gian của Công ty luôn đạt ở mức thấp do nhu cầu máy của các xí nghiệp với các loại máy khác nhau là không giống nhau và thường ở mức thấp. Bên cạnh đó công tác cho thuê máy móc, thiết bị xây dựng cho các đơn vị bạn, các tổ chức, cá nhân khác là chưa đáng kể. Việc cho thuê máy còn rất hạn chế, chủ yếu là các loại máy ủi (khoảng 20 ca/ năm), máy xúc (khoảng 25 ca/năm), máy chuyển bê tông, máy trộn bê tông… Nếu làm tốt công tác cho thuê máy móc, thiết bị sẽ làm tăng hệ số sử dụng máy, cho phép tận dụng, tránh lãng phí công suất máy đồng thời tăng doanh thu kinh doanh của Công ty, tạo điều kiện khấu hao nhanh giá trị máy móc, thiết bị của Công ty. 2. Những nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại trên đây: Những tồn tại trên đây của Công ty trong thời gian qua là do xuất phát từ hai phía: bên trong và bên ngoài Công ty. Ta có thể phân ra làm hai nhóm nguyên nhân sau: 2.1.Nguyên nhân khách quan: Những nguyên nhân khách quan đã gây nên một số hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng máy móc, thiết bị của Công ty chủ yếu xuất phát từ đặc điểm chung của ngành xây dựng và bối cảnh chung của nền kinh tế đất nước cũng như một số tồn tại trong các chính sách của Nhà nước. Những nguyên nhân có thể kể đến là: Do đặc điểm của ngành xây dựng, các công trình xây dựng công ty thi công trải rộng khắp trên các địa bàn Bắc-Trung-Nam, do vậy mà việc điều chuyển máy móc, thiết bị qua lại giữa các công trình là rất khó khăn và tốn kém; các công trình lại có nhu cầu về máy móc, thiết bị ở các giai đoạn thi công khác nhau lại rất khác nhau, việc điều chuyển qua lại một loại máy ở một công trình đã xảy ra nhiều lần mà việc thuê máy móc, thiết bị tại chỗ nhiều khi không thuận lợi, không có hoặc không đúng chủng loại, mục đích sử dụng của Công trình. Bên cạnh đó yếu tố thời tiết cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới kế hoạch sử dụng máy móc, thiết bị của Công ty. Nhiều khi công trình phải tạm dừng thi công do điều kiện thời tiết không thuận lợi, máy móc, thiết bị phải nằm chờ, đến khi có thể tiếp tục thi công thì công trình khác lại cũng có nhu cầu về đúng loại máy đó. Nguyên nhân này cũng chính là nguyên nhân gây ảnh hưởng tới tiến độ thi công của công trình, làm ảnh hưởng tới khả năng mở rộng cùng một lúc xây dựng nhiều công trình cũng như có ảnh hưởng nhiều tới khả năng tranh thầu của Công ty. Nguyên nhân tiếp theo có ảnh hưởng từ phía nền kinh tế nói chung. Mặc dù đã chuyển sang nền kinh tế thị trường 15 năm nay nhưng nhu cầu về xây dựng của nước ta mới chỉ phát triển trong vài năm trở lại đây. Nhu cầu tuy chưa cao song sự đòi hỏi về chất lượng lại là một tất yếu, mang tính bắt buộc đối với các công trình xây dựng. Do vậy Công ty vẫn phải đầu tư nhiều chủng loại máy móc, thiết bị khác nhau và phải đảm bảo tốt chất lượng của công trình. Vì lý do đó, có nhiều loại máy móc, thiết bị có tính chuyên môn hoá cao sau khi được đầu tư mới chỉ được sử dụng rất ít lần, giá trị đóng góp không nhiều nhưng đã hết thời gian khấu hao. Trong khi đó, nhu cầu thuê máy của các Công ty khác vẫn chưa cao. Từ thực tế đó đã dẫn tới tình hình sử dụng máy móc, thiết bị về mặt thời gian là chưa cao, ảnh hưởng tới khả năng tận dụng công suất máy. Ngoài nguyên nhân xuất phát từ đặc điểm của ngành xây dựng, từ trạng thái của nền kinh tế, còn có nguyên nhân xuất phát từ các chính sách của Nhà nước. Một trong số đó phải kể đến đó là chính sách cho nhập khẩu máy móc, thiết bị xây dựng, chuyển giao công nghệ. Thực tế nhiều ngành cũng đã gặp những khó khăn tương tự như ngành xây dựng trong quá trìng nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất. Đó là khó khăn trong xin phép nhập những thiết bị trong nước chưa sản xuất được hoặc đã sản xuất được nhưng không đảm bảo chất lượng, đã ảnh hưởng không nhỏ tới kế hoạchậm trễ trong thời gian quach hiện đại hoá máy móc, thiết bị. Trong những năm qua, việc mua sắm mới máy móc, thiết bị của Công ty chủ yếu qua việc mua bán lại trong nước hoặc phải qua rất nhiều khâu trung gian… 2.2.Nguyên nhân chủ quan: Bên cạnh nhưng nguyên nhân thuộc về yếu tố khách quan cũng cần phải kể đến một số nguyên nhân chủ quan từ phía nội bộ Công ty. Đó là: Trong khi hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị của Công ty chưa cao do khối lượng công việc chưa nhiều thì công tác tiếp thị, mở rộng thị trường xuống khu vực miền Trung và miền Nam của Công ty chưa đem lại nhiều kết quả như mong đợi, thị trường miền Bắc tuy lớn nhưng có rất nhiều Công ty rất mạnh đang hoạt động, với năng lực, trình độ có khi vượt trội hẳn so với Công ty, mức độ cạnh tranh là rất cao. Do đó nếu chỉ xác định miền Bắc là thị trường duy nhất thì khả năng thắng thầu các công trình lớn của Công ty trong thời gian tới là rất khó khăn, ảnh hưởng lớn tới việc sử dụng hiệu quả máy móc, thiết bị. Bên cạnh đó, việc tìm kiếm thị trường để cho thuê máy vẫn chưa mang lại hiệu quả. Nguyên nhân của vấn đề này một mặt do nhu cầu thuê máy chưa cao mặt khác còn do việc cho thuê máy của Công ty chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà xây dựng cũng như thị trường trong thời gian qua vẫn chưa được quan tâm đúng mức, trong lúc đó nhiều Công ty xây dựng khác coi đây là một giải pháp nhằm tận dụng triệt để công suất máy, cho phép khấu hao nhanh, hợp lý giá trị của máy móc, thiết bị. Trong thời gian qua, việc giao hầu hết máy móc, thiết bị cho xí nghiệp cơ giới quản lý, khai thác đôi khi đã gặp phải những khó khăn trong công tác điều chuyển và quản lý chung việc sử dụng máy móc, thiết bị. Các xí nghiệp nhận điều chuyển từ xí nghiệp cơ giới đôi khi không duy trì công việc báo cáo tình trạng kỹ thuật, sử dụng ca máy một cách đều đặn, thường xuyên khi mà xí nghiệp cơ giới không có điều kiện trực tiếp quản được hầu hết máy móc, thiết bị đã điều chuyển. Điều đó nhiều khi gây nên tình trạng không chính xác trong việc hoạch định nhu cầu máy móc, thiết bị cho toàn Công ty. Một nguyên nhân nữa có thể đã dẫn tới việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới, phục vụ công tác hiện đại hoá máy móc, thiết bị chậm trễ trong thời gian qua đó là tâm lý muốn tận dụng một cách triệt để giá trị sử dụng của máy móc, thiết bị. Mặc dù nhiều máy móc, thiết bị đã khấu hao hết từ lâu, nhưng Công ty đã tiếp tục nâng cấp, cải tiến nên vẫn còn sử dụng được. Công việc này tuy cho phép tận dụng tối đa giá trị máy móc, thiết bị, tiết kiệm nguồn lực nhưng lại gây nên tâm lý chậm đổi mới, về lâu dài chắc chắn sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới năng lực thi công cũng như năng suất chung của toàn Công ty. Trên đây là những nguyên nhân cơ bản nhất mà trong quá trình thực tập tại Công ty xây dựng số1 em đã rút ra được. Đó cũng là những cản trở chủ yếu trong việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của Công ty trong thời gian qua. Chính vì vậy, muốn nâng cao công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của Công ty không thể không có những giải pháp cần thiết nhằm loại bỏ hoặc giảm thiểu sự ảnh hưởng những nguyên nhân kể trên. * * * Phần III Một số biện pháp nhằm tăng cường công tác quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị ở công ty xây dựng số 1. Với truyền thống 30 năm xây dựng và trưởng thành, Công ty xây dựng số 1-thuộc Tổng Công ty VINACONEX, luôn nỗ lực phấn đấu vươn lên khẳng định mình trên thị trường xây dựng trong nước. Điều đó được khẳng định bằng chất lượng, tiến độ thi công của những công trình có quy mô hàng trăm tỷ đồng mà Công ty đã trúng thầu xây dựng trong những năm qua. Công ty luôn cố gắng phấn đấu hoàn thành và vượt mức kế hoạch mà Bộ xây dựng, Tổng Công ty VINACONEX đã giao; đã được tặng nhiều giải thưởng cao quý, nhiều giải thưởng vàng cho chất lượng các công trình do Công ty thi công do Chính phủ, Bộ xây dựng trao tặng. Công ty cũng luôn khẳng định chữ tín của mình đối với bạn hàng, các đối tác làm ăn… Tuy nhiên vẫn không thể loại bỏ những hạn chế trong quá trình sản xuất kinh doanh. Những yếu tố này, như trên đã đề cập, nó xuất phát từ hai phía, phía Công ty và các yếu tố bên ngoài (yếu tố chủ quan và khách quan). Đây là những hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới nhằm nâng cao hơn nữa hiệu qủa kinh doanh cuả Công ty. Riêng trong lĩnh vực quản lý và sử dụng máy móc, thiết bị, em xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của Công ty trong thời gian tới như sau: 1. Biện pháp 1: Bố trí hệ thống máy móc, thiết bị một cách hợp lý: 1.1. Cở sở lý luận của vấn đề: Việc bố trí hệ thống máy móc, thiết bị một cách hợp lý sẽ cho phép kết hợp chặt chẽ giữa sức lao động và tư liệu sản xuất cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ sản xuất của Công ty, quy mô sản xuất và công nghệ sản xuất đã xác định nhằm tạo ra một hiệu quả sản xuất cao nhất. Đây cũng chính là một nội dung quan trọng trong công tác tổ chức sản xuất. Việc bố trí máy móc, thiết bị được coi là hợp lý khi nó đảm bảo được tính cân đối: cân đối trong quan hệ tỷ lệ giữa công suất máy móc, thiết bị, khả năng lao động, số, chất lượng của nguyên vật liệu đưa vào, tức là đảm bảo tính cân đối giữa ba yếu tố của quá trình sản xuất. Tính cân đối còn thể hiện ở sự cân đối giữa ba bộ phận sản xuất: bộ phận sản xuất chính, bộ phận sản xuất phù trợ, bộ phận sản xuất phụ và phục vụ sản xuất. Khi tính cân đối này được đảm bảo sẽ tận dụng được công suất Máy móc, thiết bị một cách hiệu quả; thứ hai là đảm bảo tính nhịp nhàng: là khả năng duy trì trạng thái, sức sản xuất của máy móc, thiết bị thể hiện qua việc tạo ra một khối lượng sản phẩm như nhau trong cùng một lượng thời gian; thứ ba là đảm bảo tính liên tục: thể hiện ở khả năng làm việc liên tục, không có sự gián đoạn hoạt động của máy. Như vậy rõ ràng việc bố trí máy móc, thiết bị một cách hợp lý sẽ khắc phục được tình trạng gián đoạn của máy do lúc thì thiếu, lúc thì thừa máy ở các đội xây dựng , lúc thì hoạt động thong thả cầm chừng, khi thì vội vã, khẩn trương gây lãng phí về sức người, sức của. 1.2. Cơ sở thực tiễn: Hiện nay, Công ty đang gặp rất nhiều khó khăn trong khâu điều chuyển máy móc, thiết bị giữa các xí nghiệp, giữa các đội xây dựng sao cho có hiệu quả cao nhất. Do việc đồng loạt thi công nhiều hạng mục công trình cũng như nhu cầu máy giữa các xí nghiệp khác nhau nhiều khi bị trùng lặp. Nếu điều chuyển máy móc, thiết bị tới xí nghiệp này thì công trình của xí nghiệp kia lại phải chờ máy, ảnh hưởng tới tiến độ thi công trong khi việc thuê máy tại chỗ nhiều khi gặp khó khăn. Nhiều công trình có tính chất quan trọng hơn nhưng lại ở xa hơn so với công trình cũng đang có nhu cầu máy nhưng có tính chất ít quan trọng hơn và ở gần địa điểm đặt máy hơn, việc chuyển máy tới công trình này trước sẽ có hiệu quả cao hơn trong giảm chi phí vận chuyển máy nhưng thiệt hại do công trình ở xa mang lại có thể lớn hơn nhiều nếu không đáp ứng máy kịp thời. Như vậy là phải cân nhắc rất kỹ trước khi quyết định nhưng không phải là không giải quyết được nếu có sự tính toán từ trước. Cũng chính vì còn nhiều bất cập trong công tác quản lý và sử dụng máy móc, thiết bị mà nhiều khi Công ty không tận dụng được ưu thế giảm chi phí máy trong cạnh tranh do máy móc, thiết bị có địa điểm tập kết gần công trình, việc điều chuyển qua lại đã làm tăng chi phí, làm chậm tiến độ. Đó cũng chính là lý do làm cho hiệu quả quản lý và sử dụng máy móc thiết bị về thời gian là chưa cao, số ngày hoạt động trong tháng thường chỉ đạt 20 đến 23 ngày, công suất máy chưa được tận dụng một cách tối đa, thường chỉ đạt 50-75% công suất máy thậm chí dưới 50%, có loại. Chính vì vậy việc bố trí máy móc, thiết bị một cách hợp lý hơn là một đòi hỏi bức thiết đối với Công ty. 1.3. Cách thức tiến hành: Việc bố trí máy móc, thiết bị một cách hợp lý trước hết thuộc trách nhiệm của xí nghiệp cơ giới, nơi quản lý hầu hết máy móc, thiết bị xây dựng của Công ty. Xí nhgiệp cần phải xây dựng một bản kế hoạch về máy móc, thiết bị xây dựng của các xí nghiệp, của các đội xây dựng , ít nhất trước một tháng về: chủng loại máy, số lượng, thời gian máy, địa điểm tập kết hiện tại của các loại máy móc, thiết bị… trên cơ sở đó đưa ra kế hoạch điều chuyển qua lại giữa các công trình sao cho tối ưu nhất. Các xí nghiệp, các đội xây dựng cũng có thể căn cứ vào bản kế hoạch này của xí nghiệp cơ giới để xây dựng kế hoạch máy cho xí nghiệp mình, tạo thế chủ động trong thi công. Các xí nghiệp cũng phải có trách nhiệm thông báo kế hoạch của mình cho xí nghiệp cơ giới để tổng hợp kế hoạch nhu cầu trong toàn Công ty. Về địa điểm tập kết máy, không nhất thiết các máy móc, thiết bị do xí nghiệp cơ giới quản lý phải tập kết đúng địa điểm tập kết của xí nghiệp mà cần hết sức linh động trên cơ sở nắm bắt tốt thị trường cho thuê máy nơi công trình thi công. Địa điểm tập kết máy, nếu có thể, ưu tiên đặt xa trung tâm mặc dù hiện tại có thể công trình ở đó là chưa có nhu cầu ngay nhưng sẽ được huy động trong nay mai. Đối với những công trình đặt ở nơi có nhiều công trình xây dựng đang thi công của các Công ty khác có thể cân nhắc, xem xét mặt thiệt-hơn để có thể ưu tiên cho thuê máy của đơn vị bạn khi việc thuê máy là có lợi hơn, không nhất thiết phải điều chuyển máy của Công ty tới. Ta có thể mô hình hoá cách bố trí này như sau: Xí Nghiệp Cơ Giới XNXD Số 1 XNXD Số 2 XNXD Số 5 Xnxd số 4 Xnxd số 3 Sơ đồ 5: Bố trí hệ thống MM.TB theo mối quan hệ trực tiếp Hiện nay, việc điều chuyển máy của Công ty vẫn mang nặng tính định mức cấp phát cho các xí nghiệp, chưa thực sự trao quyền chủ động cho các xí nghiệp. Nên chăng công ty nên trao quyền độc lập hơn trong kế hoạch nhu cầu máy của các xí nghiệp này. Công ty nên áp dụng chế độ thuê máy trên cơ sở hạch toán độc lập giữa các xí nghiệp thành viên và Công ty. Qua đó sẽ tạo thế chủ động hơn trong công tác sử dụng Máy móc, thiết bị. Các xí nghiệp sẽ xây dựng kế hoạch máy trên cơ sở nhu cầu thực tế của xí nghiệp mình do phải cân nhắc tới hiệu quả chi phí máy. Tất nhiên việc ưu tiên trong thuê máy cho các xí nghiệp trong Công ty vẫn được ưu tiên, trên cơ sở lợi ích kinh tế nhằm vừa tận dụng được công suất máy của Công ty vừa nâng cao hiệu quả kinh tế trong thi công. 1.4. Dự kiến hiệu quả mang lại: Nếu đảm bảo thực hiện tốt việc bố trí máy móc, thiết bị như trên đây sẽ cho phép Công ty nâng cao hơn nữa hiệu quả trong công tác điều chuyển qua lại máy móc, thiết bị giữa các xí nghiệp. Qua đó vừa cho phép công ty tận dụng được tối đa công suất máy vừa cho phép các xí nghiệp chủ động trong tạo nguồn máy móc, thiết bị cho mình, tăng tính liên tục, giảm thời gian ngừng việc do thiếu máy, đảm bảo tiến độ bàn giao công trình cho chủ đầu tư, tạo uy tín và lòng tin trong quan hệ với khách hàng. Về mặt chi phí cho công tác điều chuyển, ta có thể hình dung hiệu quả mang lại như trong bảng sau: (Biểu bên) Tuy chi phí cho việc điều chuyển qua lại giữa các công trình chỉ giảm khoảng gần 20 triệu đồng khi thực hiện biện pháp này nhưng hiệu quả mang lại từ việc giảm thời gian gián đoạn thi công các công trình có thể lên đến hèng trăm triệu thậm chí cả tỷ đồng, củng cố thêm uy tín cho công ty... 2. Biện pháp 2: Nâng cao hệ số thời gian làm việc của máy móc, thiết bị: 2.1. Cơ sở lý luận: Khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong quá trình sản xuất phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có thời gian hoạt động của máy móc, thiết bị. Khối lượng sản phẩm tạo ra tỷ lệ thuận với thời gian máy hoạt động. Do đó sử dụng tốt thời gian làm việc của máy có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Hệ số này còn phản ánh trình độ sử dụng máy móc, thiết bị của mỗi Doanh nghiệp. Thông qua đó ta có thể thấy được khả năng huy động công suất máy cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Hệ số thời gian làm việc của máy móc, thiết bị bao gồm hai loại. Một là hệ số thời gian theo chế độ, được đo bằng thời gian làm việc thực tế (bao gồm cả thời gian chuẩn bị cho máy làm việc) chia cho thời gian làm việc theo chế độ của máy móc, thiết bị (là thời gian theo chế độ quy định). Loại hệ số này cho biết tình hình sử dụng thời gian máy theo chế độ. Thường thì có sự khác nhau về giá trị của hệ số này trong các ngành khác nhau, trong ngành xây dựng luôn thấp hơn trong các ngành sản xuất khác, đồng thời cũng có sự khác nhau giữa các loại máy móc, thiết bị trong cùng ngành xây dựng. Thứ hai là hệ số sử dụng thời gian làm việc thực tế, được đo bằng thời gian làm việc có ích của máy móc, thiết bị chia cho thời gian làm việc thực tế. Hệ số này phản ánh trình độ sử dụng thời gian thực tế của máy móc, thiết bị bằng việc tạo ra những chính phẩm. Trong các Doanh nghiệp, nếu hệ số này càng cao, thể hiện trình độ sử dụng máy móc, thiết bị về mặt thời gian sẽ càng cao. Hai loại hệ số này có mối quan hệ chặt chẽ với kết quả kinh doanh của Doanh nghiệp. 2.2.Cơ sở thực tiễn: Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, tình hình sử dụng máy móc, thiết bị về mặt thời gian ở Công ty là chưa cao, nhất là hệ số sử dụng thời gian chế độ. Nguyên nhân của vấn đề một phần do yếu tố khách quan, trong ngành xây dựng cũng có những khó khăn chung, tuy nhiên một phần tồn tại xuất phát từ phía Công ty. Trong năm 2001, hệ số sử dụng thời gian chế độ máy móc, thiết bị của Công ty đạt mức chung là 0,25, trong số đó cũng có những loại máy móc, thiết bị có hệ số này tương đối cao, như: ôtô tự đổ (Hcđ=0,56), ôtô vận tải thường (Hcđ=0,575) nhưng những loại máy móc, thiết bị có tính chuyên dụng cao thì hệ số này đạt rất thấp như: xe tải chuyên dụng (Hcđ=0,178), máy đóng cọc (Hcđ=0,165), lý do là các máy này chỉ được dùng trong rất ít loại công trình hoặc chỉ trong một công đoạn nào đó của quá trình thi công công trình. Vì lẽ đó, việc nâng cao hơn nữa các hệ số này là một yêu cầu đặt ra cho Công ty. Tuy nhiên đó là một bài toán khó, không dễ gì đi tìm lời giải cho Công ty xây dựng số1 nói riêng cũng như cho các Công ty khác trong toàn ngành xây dựng nói chung. Do tầm quan trọng của vấn đề, em xin đưa ra vài hướng nhằm nâng cao hơn nữa các hệ số này như sau: 2.3.Phương thức tiến hành: Thực tế trong thời gian qua, các hệ số này chưa cao là do máy móc, thiết bị của Công ty chưa có đủ việc làm. Đây là yếu tố chịu nhiều ràng buộc như: khả năng vốn, đội ngũ lao động, nhu cầu xây dựng…nhưng khả năng tăng cao hơn nữa các hệ số này trên thực tế là vẫn có thể thực hiện được. Để thực hiện được điều này, phương án quan trọng và có khả năng nhất là làm tốt hơn nữa khả năng tiếp thị, mở rộng thị trường của Công ty mặc dù việc đầu tư lớn cho nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty là một tất yếu. Nhưng việc mở rộng thị trường sẽ tạo ra nhiều hơn khối lượng công việc, Công ty sẽ có điều kiện phát huy hết công suất máy máy móc, thiết bị. Như trên đã nói, hiện nay thị trường của Công ty chủ yếu tập trung ở khu vực miền Bắc mà thị phần chủ yếu là các tỉnh, thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng…), những nơi có nhu cầu xây dựng lớn nhưng lại phải đương đầu với nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh hơn Công ty. điều này ảnh hưởng nhiều tới khả năng trúng những gói thầu lớn. Vì vậy, Công ty vẫn nên coi nhiệm vụ mở rộng thị trường xuống phía Nam và các vùng lân cận là nhiệm vụ quan trọng. Bên cạnh những nhiệm vụ trên, việc mở rộng thị trường thuê máy móc, thiết bị cũng là một giải pháp hiệu quả để tận dụng công suất máy móc, thiết bị, hạn chế việc thừa công suất một cách lãng phí. Hiện Công ty chỉ mới huy động một phần nhỏ công suất máy cho các nhu cầu xây dựng của các xí nghiệp thuộc Công ty (khoảng 22% thời gian định mức), việc cho thuê máy hiện nay cũng chỉ chiếm một phần rất nhỏ công suất máy. Do đó đi đôi với việc mở rộng thị trường xây dựng của Công ty, việc mở rộng thị trường thuê máy của Công ty cũng sẽ góp một phần không nhỏ trong nâng cao hệ số sử dụng máy móc, thiết bị. Một giải pháp được đề cập ở phần trước cũng là một giải pháp hữu hiệu cho việc nâng cao hơn nữa hệ số này, đó là bố trí lại hợp lý máy móc, thiết bị. Nó sẽ tạo điều kiện sử dụng máy một cách đều đặn, tránh tình trạng có lúc không huy động đủ công suất máy, có lúc lại thiếu việc cho máy, ảnh hưởng tới thời gian hoạt động có ích của máy móc, thiết bị. 2.4.Dự kiến hiệu quả mang lại: Đây tuy là một biện pháp không hề rễ ràng đối với bất cứ Công ty nào nhưng nó là một giải pháp tất yếu nếu Công ty muốn tồn tại và phát triển. Nếu làm tốt công tác này, hiệu quả mang lại sẽ bao trùm lên toàn bộ mục tiêu chung của Công ty, bởi lẽ máy móc, thiết bị là một lực lượng sản xuất quan trọng và chủ yếu của Công ty. Các hệ số sử dụng máy móc, thiết bị cao sẽ gián tiếp phản ánh hiệu quả sử dụng nguồn vốn cố định của Công ty. Hiện nay, bình quân số ngày làm việc chung của máy móc, thiết bị của Công ty mới chỉ đạt khoảng 20 đến 23 ngày/tháng, hệ số sử dụng thời gian thực tế của máy móc, thiết bị là 0,88, nếu biện pháp này được thực hiện sẽ có khả năng mở rộng quy mô khối lượng công việc, nâng số ngày làm việc của máy lên 25 đến 27 ngày/tháng, đồng thời giảm thời gian máy hoạt động không tải, nâng hệ số thực tế lên trên 0,9. Các con số này sẽ có ảnh hưởng tích cực đến số doanh thu của Công ty. 3.Biện pháp 3: Hoàn thiện công tác bảo dưỡng, sửa chữa dự phòng theo kế hoạch: Có thể nói công tác bảo dưỡng, sửa chữa dự phòng theo kế hoạch ở Công ty xây dựng số 1 là một thế mạnh trong những năm trở lại đây. Tuy nhiên, do tầm quan trọng to lớn của nó đối với những Doanh nghiệp xây dựng nên em xin đưa ra một vài ý kiến hoàn thiện hơn nữa công tác này ở Công ty xây dựng số 1. 3.1.Cơ sở lý luận: Chế độ sửa chữa dự phòng theo kế hoạch là tổng hợp các biện pháp kỹ thuật, tổ chức, phục vụ bảo dưỡng, kiểm tra và sửa chữa. Những biện pháp đó được tiến hành theo kế hoạch nhằm giảm hao mòn, ngăn ngừa sự cố, đảm bảo sự hoạt động bình thường của máy móc, thiết bị. Máy móc, thiết bị chiếm vị trí quan trọng trong tổng năng lực sản xuất của Doanh nghiệp, ảnh hưởng lớn đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm đầu ra, đến yêu cầu của việc tổ chức cân đối, tính nhịp nhàng và tính liên tục. Xét về mặt vốn cố định, giá trị của máy móc, thiết bị chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn cố định của Doanh nghiệp. Công tác bảo dưỡng, sửa chữa dự phòng theo kế hoạch góp phần làm giảm hao mòn vô hình, kéo dài tuổi thọ của máy móc, thiết bị khi Doanh nghiệp chưa có điều kiện đầu tư mua sắm mới. Vì vậy làm tốt công tác này chính là góp phần chung vào việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn sản xuất kinh doanh của Công ty. Mỗi máy móc, thiết bị đôi khi là những mắt xích quan trọng, nhất là các dây chuyền sản xuất hiện đại, tính chuyên môn hoá cao, nếu một bộ phận máy móc, thiết bị hỏng sẽ kéo theo sự ngừng trệ của cả dây chuyền sản xuất và cả quá trình sản xuất. Việc bảo dưỡng, sửa chữa định kỳ theo kế hoạch thường không gây ảnh hưởng tới lịch trình sản xuất bởi vì công việc này đã được xác định từ trước, nội dung bảo dưỡng, sửa chữa cũng đã được lên kế hoạch từ trước. Do đó sẽ giảm tối đa việc ngừng máy có ảnh hưởng tới quá trình sản xuất. Công tác này cũng bao gồm việc kiểm tra trường xuyên, do đó cũng phát hiện một cách kịp thời những sai hỏng nhỏ nhất, tiến hành sửa chữa tại chỗ, tránh tình trạng phát sinh thành những hỏng hóc lớn, phải di chuyển, sửa chữa lớn vì ngừng máy cũng như chi phí cho sửa chữa, ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh chung của Công ty. 3.2.Cơ sở thực tiễn: Mặc dù công tác bảo dưỡng, sửa chữa đã được xây dựng thành bản quy chế nội bộ, phổ biến rộng rãi trong toàn thể Công ty và mang lại nhiều kết quả tốt nhưng do việc điều chuyển máy móc, thiết bị mang nhiều tính đột xuất, kế hoạch chưa thực sự rõ ràng nên việc kiểm tra tình trạng kỹ thuật máy móc, thiết bị tại chỗ, công tác bảo dưỡng tại chỗ của Công ty chưa thực sự được tiến hành như kế hoạch đã đề ra. Do đó số máy móc, thiết bị được tiến hành sửa chữa lớn và vừa của Công ty vẫn ở mức cao. Hàng năm việc sửa chữa lớn và vừa của Công ty cũng đã lên tới hàng chục lượt, chi phí cho loại sửa chữa này có khi lên tới hàng trăm triệu đồng, gây lãng phí không nhỏ về sức người, sức của cho Công ty. Cũng trong thời gian qua, do việc bố trí máy móc, thiết bị chưa thực sự hợp lý nên việc điều chuyển qua lại nhiều lần máy móc, thiết bị giữa các xí nghiệp đã có ảnh hưởng nhiều tới chất lượng máy móc, thiết bị, công tác bảo dưỡng, sửa chữa tại chỗ chưa được các xí nghiệp phát huy hết tinh thần trách nhiệm của mình, việc báo cáo định kỳ về tình trạng máy móc, thiết bị cho Công ty chưa được tuân thủ theo đúng quy chế. Vì vậy việc nắm tình hình ở cấp Công ty là chưa sát thực tế, các kế hoạch về nhu cầu, nội dung sửa chữa, công tác chuẩn bị nhân công, kỹ thuật cho sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ chưa đáp ứng yêu cầu, nhiều trường hợp phát sinh ngoài dự kiến đã xảy ra. Do vậy công tác này ở Công ty xây dựng số 1 cần phải được tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới. 3.3.Phương thức tiến hành: Để khắc phục những hạn chế nêu trên, trong thời gian tới, Công ty nên thực hiện theo các nội dung sau: Tăng cường hơn nữa trách nhiệm của các bộ phận có liên quan. Như phần trên đã đề cập, Công ty nên áp dụng chế độ thuê và cho thuê máy móc, thiết bị đối với các xí nghiệp trên cơ sở hạch toán độc lập chi phí ca máy đồng thời áp dụng nghiêm ngặt chế độ thưởng phạt đối với các đơn vị và cá nhân có liên quan. Các xí nghiệp này phải tuân thủ nguyên tắc chế độ lập biên bản về tình trạng máy móc, thiết bị trước khi nhận bàn giao và trạng thái kỹ thuật định kỳ trong thời gian sử dụng máy đồng thời nếu trong thời gian đó diễn ra việc sửa chữa, bảo dưỡng theo kế hoạch đã xác định, xí nghiệp phải có trách nhiệm tiến hành cùng với các nhân viên kỹ thuật chuyên môn của xí nghiệp cơ giới và Công ty. Tình trạng kỹ thuật máy cũng phải được lập biên bản và lưu lại trong hồ sơ kỹ thuật khi điều chuyển máy đi. Tăng cường công tác chuẩn bị trước khi sửa chữa: chuẩn bị về thiết kế, về công nghệ, về máy móc, thiết bị cho việc sửa chữa. Việc chuẩn bị chỉ đạt hiệu quả cao khi nắm rõ hồ sơ kỹ thuật của máy móc, thiết bị. Ngược lại, công tác chuẩn bị tốt sẽ đảm bảo quá trình bảo dưỡng, sửa chữa diễn ra đúng kế hoạch, nhanh chóng đưa máy móc, thiết bị trở lại sản xuất. Thực hiện phương pháp sửa chữa nhanh: cố gắng bố trí thời gian sửa chữa nằm ngoài thời gian sản xuất, áp dụng phương pháp sửa chữa tiên tiến như: thay cả bộ phận, cả cụm máy cũ cần sửa chữa bằng cả bộ phận, cả cụm máy mới. Như vậy vẫn có thể đảm bảo trong thời gian sửa chữa, máy vẫn có thể hoạt động bình thường. áp dụng phương pháp sửa chữa xen kẽ: trong cùng một lúc có thể tiến hành sửa chữa nhiều loại máy móc, thiết bị nhưng đảm bảo vẫn có loại máy móc, thiết bị đó đang hoạt động. Theo cách này, sẽ không làm gián đoạn việc thi công công trình vì thiếu chủng loại máy móc, thiết bị, cho phép quá trình hoạt động vẫn được tiến hành bình thường, liên tục. 3.4. Hiệu quả dự kiến: Nhờ phân cấp rõ ràng đối với từng loại sửa chữa, bảo dưỡng sẽ phát hiện kịp thời sự cố. Những sửa chữa tại chỗ sẽ làm giảm hỏng hóc lớn, dẫn đến phải đại tu, gây nhiều lãng phí. Tăng cường hơn nữa công tác bảo dưỡng, sửa chữa máy móc, thiết bị sẽ có tác dụng kéo dài tuổi thọ, tăng cường khả năng đóng góp của máy móc, thiết bị, giảm hao mòn vô hình, góp phần vào việc sử dụng vốn có hiệu quả. Nó cũng tăng cường tính liên tục trong quá trình thi công các công trình, đảm bảo việc thi công, bàn giao công trình đúng tiến độ. Ta có thể dự kiến kết quả mang lại do việc thực hiện biện pháp này mang lại qua bảng sau: Biểu 18: Tình hình sửa chữa đột xuất máy móc thiết bị và hiệu quả dự kiến sau khi thực hiện biện pháp. SốTT Nội dung Sửa chữa đột xuất 2001 Hiệu quả dự kiến SC vừa-nhỏ (lượt) SC lớn (lượt) Tổng CP (1000đ) SC vừa-nhỏ (lượt) SC lớn (lượt) Tổng CP (1000đ) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Cơ quan Cty. XNXD số 1. XNXD số 2. XNXD số 3. XNXD số 4. XNXD số 5. XN cơ giới. Đội XD 102. Đội XD 104. Đội XD 105. Đội XD 108. Đội điện nước. 14 2 3 2 3 1 32 2 3 1 2 3 2 0 0 1 0 1 18 0 0 0 1 0 45.450 1.800 2.100 12.500 2.700 8.600 97.600 2.200 3.150 1.700 7.800 3.700 17 1 1 2 2 2 35 0 1 0 1 1 1 0 0 0 0 0 12 0 0 0 0 0 30.000 1.000 1.000 600 2.000 3.000 63.000 0 1.000 0 1.000 1.000 Cộng: 68 23 189.300 53 13 108.000 Tuy việc thực hiện giải pháp này chỉ làm giảm 80 triệu cho chi phí sửa chữa đột xuất nhưng sẽ có tác dụng lớn trong việc hạn chế tối đa thời gian ngừng máy để sửa chữa, tăng khả năng hoạt động liên tục của máy, đẩy mạnh tiến độ thi công các công trình... 4.Biện pháp 4: Tiếp tục đầu tư cải tiến, nâng cao năng lực của máy móc, thiết bị : Trước sự đòi hỏi ngày cang cao của thị trường xây dựng , công tác đầu tư cải tiến, mua sắm mới, thay thế máy móc, thiết bị cũ, lạc hậu là đòi hỏi thường xuyên, liên tục nhằm nâng cao năng lực thi công các công trình của công ty. Công ty xây dựng số 1 cũng không nằm ngoài những đòi hỏi đó. 4.1.Cơ sở lý luận: Máy móc, thiết bị là tư liệu lao động quan trọng, là cơ sở vật chất kỹ thuật của mỗi Doanh nghiệp. Nó thể hiện năng lực sản xuất, quyết định đến chủng loại sản phẩm đầu ra và quy mô kinh doanh của Doanh nghiệp. Do vậy trong các Doanh nghiệp sản xuất và xây dựng, trước mỗi quá trình sản xuất việc đầu tư, trang bị máy móc, thiết bị là một đòi hỏi trước tiên. Việc sử dụng các loại máy móc, thiết bị lại bị hao mòn dần theo thời gian, bao gồm cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Trong quá trình sản xuất, qua mỗi chu kỳ, một phần giá trị của máy móc, thiết bị đã chuyển dần vào giá trị của sản phẩm, và giá trị này sẽ chuyển hết khi máy móc, thiết bị được khấu hao hết. Bên cạnh đó với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật đã làm cho máy móc, thiết bị ngày càng nhanh chóng lạc hậu, mất dần những ưu thế của các giá trị vô hình trong máy móc, thiết bị. Mặc dù do đặc thù của ngành xây dựng, việc áp dụng công nghệ mới vào sản xuất gặp nhiều khó khăn hơn so với cấc ngành khác nhưng không phải ở tất cả các khâu. Có những công đoạn chủ yếu đòi hỏi lao động thủ công chân tay nhưng cũng có những loại công việc chỉ có máy móc, thiết bị mới có thể đảm nhận hoặc thực hiện với năng suất cao hơn rất nhiều. Do đó khi áp dụng tiến bộ mới trong các khâu này sẽ làm tăng năng suất chung của cả Công ty. 4.2.Cơ sở thực tiễn: Thực tế ở Công ty xây dựng số 1 cho thấy, việc đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị là một hướng đi đúng. Trong những năm qua Công ty luôn chú trọng công tác này nhưng như ta đã thấy, mặc dù hệ số đổi mới máy móc, thiết bị là tương đối cao nhưng tỷ trọng máy móc, thiết bị hiện đại trong đó vẫn còn hết sức khiêm tốn. Hầu hết máy móc, thiết bị có giá trị lớn đều là những máy móc, thiết bị đã qua sử dụng hoặc máy “bãi”. Điều này đã gây một số khó khăn trong công tác tính khấu hao của công ty và chưa có đóng góp thực sự nhiều cho công tác hiện đại hoá máy móc, thiết bị, cho trình độ công nghệ chung của Công ty. Mặt khác, sự phát triển chung của ngành kinh tế cũng đang tạo ra những khó khăn cũng như thuận lợi nhất định cho Công ty. Những khó khăn đến từ việc nhu cầ xây dựng ngày càng gia tăng, đòi hỏi Công ty muốn thắng thầu những công trình lớn phải tiếp tục đầu tư, hiện đại hoá năng lực của máy móc, thiết bị. Công việc này đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Tuy nhiên cũng có những thuận lợi do việc mở cửa nền kinh tế mang lại, nhu cầu lớn sẽ cho phép Công ty phát huy hết nguồn lực vốn có; việc chuyển giao công nghệ được tiến hành dễ dàng hơn. Ngoài ra, những thách thức từ phía các đối thủ cạnh tranh trong ngành xây dựng cũng đang đặt ra những yêu cầu bức thiết phải tiếp tục đầu tư, cải tiến năng lực máy móc, thiết bị hiện tại của Công ty. Trên địa bàn Hà Nội, thị trường truyền thống bấy lâu nay của Công ty, đang có những đối thủ cạnh tranh mạnh hơn Công ty rất nhiều. Những Công ty này có truyền thống rất lâu đời, với trang bị hiện đại. Do đó, để đứng vững trong thị trường truyền thống, phát triển những thị trường mới, không có cách nào khác là Công ty phải không ngừng nâng cao năng lực thi công của mình. 4.3. Phương thức tiến hành: Để có thể tiếp tục đầu tư, cải tiến năng lực của máy móc, thiết bị, theo em, Công ty cần phải làm những công việc sau đây: Công việc trước tiên Công ty phải làm là tiến hành phân loại máy móc, thiết bị. Công vệc này có thể dựa trên một cuộc tổng điều tra trong quy mô toàn Công ty nhằm xác định lại một cách chính xác số lượng máy móc, thiết bị hiện có, năng lực thực tế ra sao, trình độ công nghệ đang ở mức nào so với các đối thủ cạnh tranh cũng như so với tốc độ phát triển của ngành mình. Việc phân loại máy móc, thiết bị có thể được tiến hành theo hai cách: phân loại theo chủng loại và phân loại theo công nghệ. Việc phân loại theo chủng loại cho phép xác định được chủng loại máy móc, thiết bị hiện có của Công ty, qua đó đánh giá được tính hợp lý trong cơ cấu để có kế hoạch đầu tư đúng. Phân loại theo trình độ công nghệ cho phép Công ty đánh giá năng lực thực tế của máy móc, thiết bị công ty mình, qua đó có thể so sánh tương quan với các đơn vị khác trong ngành. Dựa trên các số liệu thống kê về tình hình sử dụng máy móc, thiết bị trong thời gian qua để từ đó cân đối lại nhu cầu về máy móc, thiết bị, đánh giá tình hình thừa, thiếu, tình hình lãng phí công suất máy. Để xác định nhu cầu máy móc, thiết bị cho tương lai tới, Công ty cần dựa trên cơ sở nhiệm vụ kế hoạch trung và dài hạn của Công ty nhằm đầu tư đúng phương hướng. Kết quả của công việc này cho phép Công ty đưa ra một cách chính xác nhu cầu về máy móc, thiết bị. Đồng thời trên cơ sở máy móc, thiết bị hiện có sẽ cho phép hoạch định đúng nhu cầu đầu tư, cải tiến năng lực máy móc, thiết bị, tránh hiện tượng đầu tư dàn trải mà hiệu quả mang lại không cao. Việc xác định sẽ mua máy móc, thiết bị của ai, bằng phương thức nào là việc làm cũng không kém phần quan trọng. Công ty nên ưu tiên lựa chọn mua máy móc, thiết bị của những nước có truyền thống, có uy tín trong sản xuất loại thiết bị công ty đang có nhu cầu và đã được sử dụng rộng rãi trong các đơn vị khác trong ngành cũng như coi trọng các trào hàng đến từ các nước đi tiên phong trong việc áp dụng công nghệ mới vào sản xuất như Mỹ,Nhật, Pháp, Đức… Các Doanh nghiệp thường gặp khó khăn trong việc tạo nguồn vốn tài trợ cho kế hoạch đầu tư mới cho máy móc, thiết bị. Nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi là nguồn vốn quan trọng của Công ty nhưng lại chưa đủ lớn để có thể tài trợ cho kế hoạch đổi mới máy móc, thiết bị. Vì vậy nguồn vốn vay ngân hàng dài hạn, nguồn tự tài trợ sẽ là những nguồn quan trọng nhất mà Công ty nên tập trung khai thác. Với nguồn nội bộ, Công ty có thể khai thác từ nguồn quỹ đầu tư phát triển, quỹ khấu hao máy móc, thiết bị. Đặc biệt với những loại máy móc, thiết bị đã cũ, lạc hậu Công ty nên tiến hành khấu hao nhanh, thanh lý nhằm nhanh chóng thu hồi vốn đưa vào nguồn vốn tài trợ cho kế hoạch đầu tư cải tiến máy móc, thiết bị. Sau khi máy móc, thiết bị được đầu tư, mua sắm mới việc quan trọng tiếp theo là nhanh chóng đưa chúng vào khai thác, sử dụng, nhằm mau chóng khấu hao, tận dụng tối đa sự đóng góp của máy . 4.4. Dự kiến kết quả mang lại: Sự đầu tư máy móc, thiết bị đúng hướng sẽ tạo ra cho Công ty có một cơ cấu máy móc, thiết bị hợp lý, tránh tình trạng việc thừa công suất loại máy này nhưng lại thiếu công suất loại máy kia. Sự đầu tư đúng hướng sẽ làm giảm đáng kể hao mòn vô hình máy móc, thiết bị, việc khấu hao máy được hợp lý hơn, có điều kiện giảm giá thành xây dựng của Công ty. Máy móc, thiết bị tốt là một điều kiện quan trọng đảm bảo khả năng thắng thầu các công trình quy mô lớn; đảm bảo tiến độ thi công công trình, tiết kiệm sức người, sức của, thời gian và góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. Trong thời gian tới, công ty nên đầu tư thêm một số loại máy mà hiện nay các loại máy này có với số lượng ít, chưa đủ đảm bảo đáp ứng nhu cầu của công ty. Theo em, công ty nên đầu tư một số loại máy sau cũng như một số kết quả mang lại như trong bảng sau: Bảng 19: Một số loại máy móc thiết bị cần đầu tư và hiệu quả mang lại. Số TT Loại máy cần đầu tư Số lượng Đ/chuyển khi đầu tư (lượt) CP điều chuyển Chi phí (1000đ) Tăng/giảm (1000đ) 1 2 3 4 5 6 7 Máy ủi. ô tô tự đổ. ô tô vận tải thường. Xe tải chuyên dụng Xe bơm bê tông. Máy khoan cọc nhồi. Máy xoa mặt bê tông. 2 3 3 1 1 1 1 10 (-5) 25 (-9) 25 (-9) 6 (-5) 15 (-6) 7 (-5) 15 (-6) 2.100 2.200 2.250 900 1.700 7.500 1.900 -1.105 -1.055 -1.050 -823 -800 -6.450 -950 Cộng: 12 103 (-55) 18.000 -12.233 (Các số âm trong ngoặc thể hiện số lượt điều chuyển máy được giảm xuống khi biện pháp này được thực hiện). 5.Biện pháp 5: Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ người cán bộ quản lý và người công nhân vận hành máy. 5.1.Cơ sở lý luận: Trong các tư liệu lao động thì máy móc, thiết bị được chế tạo gồm nhiều bộ phận phức tạp và không phải lúc nào con người cũng sử dụng một cách thành thạo và sử dụng hết các tính năng tác dụng của nó. Máy móc, thiết bị có nhiệm vụ chuyền dẫn sự tác động của con người vào đối tượng lao động, làm thay đổi hình thái tự nhiên của nó để biến chúng thành những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của con người. Do vậy giữa con người và máy móc, thiết bị có mối quan hệ qua lại nhất định với nhau. Con người chế tạo ra máy móc, thiết bị, làm chủ máy móc và tiêu thụ sản phẩm do chúng tạo ra. Máy móc, thiết bị chỉ có thể tạo ra được những sản phẩm có chất lượng khi chúng được điều khiển bởi con người hiểu biết, có trình độ. Mặt khác, khoa học kỹ thuật phát triển không ngừng với trình độ ngày càng cao, làm cho máy móc, thiết bị ngày càng tinh vi hiện đại hơn và khó khăn hơn trong việc nắm bắt được cách thức vận hành chúng, buộc con người phải không ngừng nâng cao trình độ tay nghề của mình. Vì vậy vấn đề đào tạo nâng cao trình độ quản lý cho người cán bộ và nâng cao kỹ năng vận hành máy cho người công nhân trực tiếp sản xuất có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của Công ty. 5.2.Cơ sở thực tiễn: Mặc dù với kinh nghiệm 30 năm trưởng thành và phát triển, nhưng do nền kinh tế vẫn chưa thực sự vận hành theo quỹ đạo của nền kinh tế thị trường, nhiều tư tương, lề lối làm việc của của một nền kinh tế chậm phát triển còn “ngự trị” trong tâm tưởng của một số cán bộ quản lý, chưa thực sự lấy thước đo hiệu quả làm thước đo cho mọi công việc. Do đó vẫn còn nhiều bất cập trong trong công tác quản. Việc đào tạo một lớp người quản lý mới, đào tạo nguồn nhân lực nhất là đội ngũ lao động kỹ thuật của Công ty vẫn chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả đào tạo chưa cao. Trong cơ chế thị trường, chất lượng và tiến độ thi công các công trình là yếu tố quyết địng tới sự sống còn của Công ty. Máy móc, thiết bị dù có hiện đại đến đâu chăng nữa vẫn cần có sự tác động của con người. Trong những năm qua đã có nhiều lượt cán bộ được đào tạo, đào tạo lại nhưng phần nhiều trong số họ vẫn chưa qua các lớp đào tạo chính quy, cơ bản; việc đào tạo chỉ được tiến hành khi có nhu cầu chứ chưa mang tính chiến lược. Nếu việc đầu tư, hiện đại hóa máy móc, thiết bị diễn ra nhanh chóng thì với đội ngũ lao động hiện tại là chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới. 5.3.Phương thức tiến hành: Đối với công nhân vận hành máy: với những người trong danh sách biên chế, họ là những người gắn bó lâu dài với Công ty vì vậy cần quan tâm trước hết đến họ. Tổ chức các khoá học ngắn hoặc trung hạn nhằm đào tạo, đào tạo lại với mục đích trang bị thêm kiến thức lý thuyết, nâng cao hơn nữa tay nghề của họ, không nên trao máy cho những người mà yêu cầu đòi hỏi vượt khỏi khả năng, trình độ thực của người công nhân… Đối với những công nhân được thuê theo hợp đồng mùa vụ, tại địa bàn thi công công trình cần cho họ tham gia các khoá tập huấn ngắn về quy trình vận hành máy, có sự giám sát của cán bộ kỹ thuật. Với cán bộ kỹ thuật cơ giới: họ là những bác sĩ của máy móc, thiết bị. Hiện công ty có đội ngũ kỹ sư cơ khí chưa đủ mạnh để có thể giám sát toàn bộ máy móc, thiết bị của Công ty. Phương hướng trong thời gian tới Công ty có thể tuyển dụng thêm đội ngũ kỹ sư cơ khí; cử cán bộ đi học tại chức đồng thời quan tâm đến công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho đội ngũ kỹ sư hiện có nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ đổi mới. Chính họ sẽ là những người thầy phục vụ cho công tác bồi dưỡng kỹ thuật trong công ty. Đối với cán bộ quản lý: cán bộ quản lý phải là người có hiểu biết về khoa học kỹ thuật. Ngoài ra, họ phải am hiểu về kinh tế nhằm quản lý một cách có hiệu quả nhất việc sử dụng máy móc, thiết bị. Do vậy công tác tuyển dụng đầu vào phải đảm bảo các yếu tố này. Bên cạnh đó cần bồi dưỡng kiến thức quản lý, kinh tế cho tất cả đội ngũ kỹ sư trong Công ty, cho các cán bộ kỹ thuật thuộc các phòng, ban, đội kỹ thuật nhằm đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế trong công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị trong Công ty. 5.4.Dự kiến kết quả mang lại: Nhân tố con người là nhân tố trung tâm nhất, quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định tới sự thành bại trong kinh doanh của Công ty. Với những biện pháp trên, Công ty sẽ củng cố thêm cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên của Công ty, tạo ra một đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên”, một cơ cấu lao động hợp lý cho phép phát huy cao độ nội lực của mình, có trình độ quản lý và sử dụng máy móc, thiết bị, khai thác tối đa năng lực của máy móc, thiết bị. Chính đội ngũ lao động này sẽ tối đa hoá doanh thu và lợi nhuận của Công ty. Phấn đấu đến năm 2005, 100% công nhân vận hành máy đều đạt trình độ bậc thợ từ bậc 5 trở lên và đều qua các trường đào tạo chuyên ngành. Việc thực hiện tốt biện pháp này sẽ cho những kết quả dự kiến như bảng sau: Biểu 20: Số lượng kỹ sư và CN cơ khí bậc cao hiện tại, phương hướng bổ sung và hiệu quả dự kiến. Số TT Nội dung Năm 2001 Phương hướng KS CN Mức đảm nhiệm CV(%) KS CN Mức đảm nhiệm CV(%) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Cơ quan Cty. XNXD số 1. XNXD số 2. XNXD số 3. XNXD số 4. XNXD số 5. XN cơ giới. Đội XD 102. Đội XD 104. Đội XD 106. Đội XD 108. Đội điện nước. 4 0 0 2 0 0 9 0 1 0 2 1 9 5 4 6 4 4 25 5 5 5 7 6 100 95 93 100 95 93 97 95 100 95 100 99 4 _ _ 2 _ 1 11 _ 1 _ 2 2 9 7 6 6 6 7 28 6 5 7 7 7 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Cộng: 19 85 23 101 * * * kết luận Các ngành công nghiệp sản xuất vật chất là nguồn gốc của sự giàu có trong xã hội. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, sự phát triển của sản xuất đã tạo ra các cuộc cách mạng xã hội, đánh dấu là sự ra đời của các phương thức sản xuất, các chế độ xã hội mà các chế độ xã hội sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chế độ xã hội trước. Các chế độ xã hội này, khẳng định ưu thế của mình bằng năng suất vượt trội hơn các xã hội trước. Ngày nay, máy móc, thiết bị đã trở thành một lực lượng sản xuất chủ yếu nhất trong các Doanh nghiệp công nghiệp và xây dựng. Do đó việc tăng cường công tác quản lý và sử dụng máy móc, thiết bị là một yêu cầu bức thiết đối với các Doanh nghiệp này. Trước những đòi hỏi cấp bách và sự thay đổi nhanh chóng của thị trường xây dựng, Công ty xây dựng số 1 luôn ý thức được rằng, muốn đứng vững và phát triển trên thị trường, cần phải có thực lực về con người và máy móc, thiết bị. Bởi vậy từ khi mới thành lập đến nay, Công ty luôn quan tâm đề công tác phát triển năng lực thi công. Công ty đã có nhiều cố gắng trong đầu tư mua sắm, hiện đại hoá công tác thi công các công trình, làm tốt công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị, đảm bảo cho hoạt động sản xuất được nhịp nhàng, liên tục và đạt hiệu quả cao. Nhưng do mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, quy mô sản xuất kinh doanh chưa thực sự lớn nên hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cũng như trong công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của Công ty vẫn còn nhiều vấn đề cần phải bàn và cần dược hoàn thiện hơn nữa trong thời gian tới. Từ những vấn đề đó, từ tập thể ban lãnh đạo cho đến toàn thể cán bộ công nhân viên Công ty đều thấy được việc tăng cường hơn nữa cho công tác quản lý và sử dụng máy móc, thiết bị sẽ là một động lực quan trọng góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty, quản lý tốt máy móc, thiết bị cũng đồng nghĩa với việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của Công ty. Đề tài này được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu nghiêm túc, khoa học nhằm đưa ra một số giải pháp cho việc giải quyết một số vấn đề còn tồn tại trong công tác quản lý và sử dụng máy móc, thiết bị trong công ty. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế và quản lý công nghiệp, trường ĐHKTQD. 2. Giáo trình Kinh tế và tổ chức sản xuất, trường ĐHKTQD. 3. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp , trường ĐHKTQD 4. Giáo trình Kinh tế xây dựng, trường ĐHKTQD. 5. Giáo trình Quản trị sản xuất và tác nghiệp, ĐHKTQD. 6. Giáo trình Phân tích kinh doanh, ĐHKTQD. 7. Giáo trình Thống kê doanh nghiệp, ĐHKTQD 8. C.Mac, Tư bản, tập 1, quyển I. 9. Tạp chí xây dựng, các số: 5, 7/2000; 5, 6/2001. 10. Tạp chí công nghiệp, các số: 7, 9, 10/2001. 11. Báo cáo tổng kết, báo cáo tài chính... các năm 1998,1999,2000,2001 và kế hoạch năm 2002, Công ty Xây dựng số 1. 12. Quy chế quản lý và sử dụng máy móc thiết bị, Tổng công ty VINACONEX 13. Các tài liệu tham khảo khác... Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29808.doc
Tài liệu liên quan