Luận văn Một số biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu chè sang thị trường Nga của Tổng công ty chè Việt Nam

Tổng công ty chè Việt Nam là đơn vị chủ đạo, bậc đàn anh của ngành chè Việt Nam, trong những năm qua đã rất nỗ lực trong triển khai xúc tiến thượng mại, khảo sát tìm kiếm thị trường mới và tham gia các hội trợ, triển lãm quốc tế để giới thiệu và quảng bá sản phẩm. Thời gian qua, Tổng công ty với thương hiệu VINATEA đã được đăng ký, giới thiệu trên 40 nước và đã được nhiều bạn hàng quốc tế biết đến. Tổng công ty đang triển khai bán sản phẩm có bao bì, nhãn mác hoàn chỉnh sang Nga và bước đầu đã có một số kết quả tốt. Tuy nhiên, việc triển khai còn gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân chủ yếu là do thuế suất của các nước đánh vào chè thành phẩm là rất cao, dẫn đển giá thành tăng lên, giảm sức cạnh tranh của chè Việt Nam, trong khi chi phí quảng cáo lại quá lớn.

doc90 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1455 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu chè sang thị trường Nga của Tổng công ty chè Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thêm việc làm cho người làm chè. Bảng 8: Một số chỉ tiêu chủ yếu của ngành chè. Năm Chỉ tiêu 2000 2005 2010 Tổng diện tích chè cả nước (ha) 81.692 104.000 104.000 Diện tích chè kinh doanh (ha) 70.192 92.500 104.000 Diện tích chè trồng mới (ha) 4.550 2.800 Năng suất bình quân (tấn tươi/ha) 4,230 6,100 7,500 Sản lượng búp tươi (tấn) 297.000 564.250 780.000 Sản lượng chè khô (tấn) 66.000 125.000 173.000 Sản lượng xuất khẩu (tấn) 42.000 78.000 120.000 Kim ngạch xuất khẩu (Triệu USD) 60 120 220 Nguồn: Tổng công ty chè Việt Nam Mục tiêu chia ra các giai đoạn như sau: * Giai đoạn 2001-2005 Thâm canh 70192 ha chè trồng cũ với 22400 ha, mới đủ vào kinh doanh. Trồng mới thêm 22500 ha chè. Sản lượng chè khô đạt 75,3 đến 108,8 ngàn tấn, trong đó xuất khẩu 48 đến 78 ngàn tấn. Kim ngạch đạt 72 đến 120 triệu USD, doanh thu chè nội tiêu 560 tỷ đồng đến 650 tỷ đồng. Mặt hàng chè bao gồm chè đen OTD (7 mặt hàng) với cơ cấu 75% ba mặt hàng tốt, chè đen CTC (9 mặt hàng) với cơ cấu 70% ba mặt hàng tốt, chè xanh Nhật Bản (4 mặt hàng), chè xanh pouchung Đài Loan và trên 30 mặt hàng chè xanh, ướp hương nội tiêu, chè túi nhúng 6 loại, chè xanh đặc sản từ các vườn chè giống mới dạng ôlong, bán lên men và chè đen đặc biệt cao cấp của vùng Mộc Châu, Tam Đường, chè nước uống nhanh... Các mặt hàng chè khác bao gồm các loại chè thanh nhiệt bồi bổ sức khỏe, chè chữa bệnh... Các sản phẩm khác từ khai thác các tiềm năng của vùng chè như : đậu đỗ, các loại quả, tinh dầu... * Giai đoạn 2006-2010 Thâm canh 104000 ha chè kinh doanh. Chăm sóc 2 năm 6.500 ha chè mới trồng của 2004 và 2005. Sản lượng chè khô đạt 116,1 đến 147,7 ngàn tấn, trong đó xuất khẩu đến 85 đến 110 ngàn tấn. Kim ngạch đạt 136 đến 200 triệu USD, kinh doanh thu chè nội tiêu 775 tỷ đồng đến 1000 tỷ đồng. Mặt hàng chè bao gồm: chè đen OTD (7 mặt hàng ) với cơ cấu 80 % ba mặt hàng tốt, chè đen CCT (9 mặt hàng) với cơ cấu 70% ba mặt hàng tốt, chè xanh Nhật Bản 4 mặt hàng, chè xanh pouchung Đài Loan và trên 30 mặt hàng chè xanh , chè uớp hương nội tiêu, chè túi nhúng 6 loại, chè xanh đặc sản, các vườn chè giống mới dạng ôlong, chè bán lên men, chè bán xuất khẩu và chè đen đặc biệt cao cấp của vùng Mộc Châu, Tam Đường, chè nước uống nhanh. Các mặt hàng chè khác bao gồm: Các loại chè thanh nhiệt bồi bổ sức khoẻ, chữa bệnh... Các sản phẩm khác từ khai thác tiềm năng của vùng chè như: bột khoai na dùng làm nguyên liệu cho mỹ phẩm và dược phẩm đậu đỗ, các loại quả tinh dầu, các sản phẩm đồ hộp khác. 3.Triển vọng xuất khẩu chè của Việt Nam trong thời gian tới 3.1. Đánh giá tiềm năng nhập khẩu chè của thị trường thế giới Theo dự báo của FAO, sản lượng chè khô thế giới sẽ tăng từ 2 triệu tấn năm 1999 lên 2,7 triệu tấn năm 2005 với mức tăng bình quân 2,8%/năm, 3,07 triệu tấn vào năm 2010 với nhịp độ tăng bình quân là 2,6% /năm. Nhu cầu chè tại các nước đang phát triển tăng 3%/năm, các nước phát triển tăng 2,2%/năm. ấn Độ vẫn là nước tiêu thụ chè nhiều nhất với tốc độ tăng 3,2%/năm và chiếm tới 34,1% khối lượng chè tiêu thụ toàn cầu. Các nước thuộc Liên xô cũ tiêu thụ tăng 4,5%/năm và chiếm 9,6% lượng chè tiêu thụ toàn cầu, Pakistan chiếm 5,3%, Vương Quốc Anh chiếm 4,3%. Hiện nay, những nước nhập khẩu chè lớn nhất thế giới là Mỹ, Anh, Pakistan, Nga. Những nước này nhập khẩu chè chiếm 50% lượng chè thế giới. Trong khi nhu cầu tiêu thụ chè của các nước này có xu hướng gia tăng, nhưng sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng. Vì vậy, đây là điều kiện thuận lợi cho các nước sản xuất và xuất khẩu chè thực hiện các biện pháp để tăng lượng chè xuất khẩu cho các quốc gia này. 3.2. Triển vọng xuất khẩu chè của Tổng công ty chè Việt Nam Nhu cầu chè trên thế giới có xu hướng tăng lên tạo cơ hội cho Tổng công ty. Đặc biệt từ khi Nga áp dụng thuế nhập khẩu đối với ấn Độ, chè của ấn Độ vào Nga giảm, đây là điều kiện thuận lợi cho Tổng công ty thúc đẩy xúc tiến hoạt động xuất khẩu vào thị trường Nga. Kế hoạch phát triển chè của Tổng công ty trong 2 năm tới như sau: Bảng 9: Kế hoạch sản xuất chè đen và chè xanh xuất khẩu của Tổng công ty chè Việt Nam . Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2004 Năm 2005 Chè xanh Tấn 1.800 1.800 Chè đen Tấn 28.097 29.888 Nguồn: Tổng công ty chè Việt Nam Hơn nữa, do áp lực của tự do hoá thương mại đối với các hàng rào thuế quan, triển vọng nhập khẩu chè ở các thị trường tiềm năng sẽ tăng mạnh trong thời gian tới. Sản xuất chè của Việt Nam sẽ đạt nhiều tiến bộ trong việc tăng năng suất và hiệu quả chế biến nhờ đầu tư các thiết bị tiên tiến, nhập khẩu giống mới, qua đó làm tăng lợi thế cạnh tranh của sản phẩm chè trên thị trường quốc tế. Những năm tới Châu á, Châu Âu cũng đang có triển vọng tiêu thụ chè rất lớn. dự báo về nhu cầu tiêu thụ chè khả quan trong thời gian tới là điều kiện thuận lợi để Tổng công ty chè Việt Nam phát triển sản xuất và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, không ngừng tìm ra cho mình hướng đi hiệu quả nhất để ngành chè phát triển bền vững, áp dụng các biện pháp tập trung nâng cao chất lượng chè, bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh, đa dạng hóa sản phẩm phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của các thị trường nhập khẩu... 4. Kế hoạch xuất khẩu chè của Tổng công ty trong thời gian tới Để thực hiện được những chỉ tiêu đề ra, ngành chè Việt Nam (mà cụ thể là Tổng công ty chè Việt Nam ) đã lập kế hoạch thực hiện các chương trình sau: - Giữ vững thị trường hiện có, mở rộng các thị trường mới bằng việc sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm chè có chất lượng cao và giá thành hợp lý, hấp dẫn người tiêu dùng. - Năm 2005 phấn đấu có được 30% số diện tích chè được trồng (dặm và mới) bằng giống chè có chất lượng cao để cải tiến giống chè xuất khẩu của Việt Nam. Tổng diện tích vườn ươm giống phải đạt 102 ha để đủ giống trồng 5000 ha/năm. - Thực hiện chương trình cải tạo đất và giữ ẩm cho chè. - Thực hiện chương trình chế tạo thiết bị chế biến chè trong nước. - Triển khai chương trình đa dạng hóa sản phẩm tổng hợp có chè. - Thực hiện chương trình khai thác sản phẩm từ đất chè. - Thực hiện chương trình đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng cho sự phát triển của ngành chè. Thực hiện chương trình xây dựng vùng chè cao sản. Xây dựng hai vùng chè cao sản ở Mộc Châu-Sơn Lan và Tam Đường - Lai Châu với quy mô mỗi vùng khoảng 3.000 ha và vùng Mường Lay là vùng cổ chưa khai thác và có nhiều tiềm năng phát triển tập trung ở đây khoảng 10.000-15.000 ha chè để sản xuất ra các loại chè có chất lượng cao và chè hữu cơ để cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu. - Thực hiện chương trình tổ chức và bố trí lại sản xuất: Theo chủ trương của Nhà nước, từ nay đến năm 2005 phải tiến hành cổ phần hóa tất cả các công ty chè. Do vậy, Tổng công ty chè Việt Nam phải bố trí sắp xếp lại theo hướng cổ phần hóa tất cả các đơn vị thành viên. Theo hướng này, các thành viên sau khi cổ phần hoá sẽ hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Tổng công ty chủ yếu là khâu thị trường, đảm bảo các dịch vụ về giống, định hướng phát triển, chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc tế. Để tăng thị phần của mình trên thị trường thế giới, Tổng công ty đã dự kiến khối lượng xuất khẩu chè vào các thị trường thế giới được thể hiện qua bảng số liệu 10 như sau: Bảng 10: Kế hoạch thị trường của Tổng công ty chè Việt Nam giai đoạn 2004-2010 Đơn vị: Tấn Năm Các thị trường Thực tế 2003 Kế hoạch 2004 Kế hoạch 2005 Kế hoạch 2010 Đài Loan 13920 16000 18000 22000 Pakistan 13500 14000 15000 18000 Nga 3400 4500 5000 10000 Nhật Bản 2500 3300 4450 6500 Đức 2200 3600 4650 6000 Irắc 1804 3000 5000 8000 Các nước khác 1000 1200 2000 6000 Malaysia 555 650 800 1500 ấn Độ 450 650 700 900 Mỹ 350 450 500 800 Trung Quốc 200 250 300 700 Singapo 92 250 300 800 Nguồn: Hiệp hội chè Việt Nam Những năm trở lại đây, thị trường xuất khẩu chủ yếu của Tổng công ty là khu vực Trung Đông, Nga, và một số thị trường Đông Âu đang khôi phục. Đặc biệt từ sau khi xảy ra chiến tranh Irăc, khối lượng xuất khẩu chè của Tổng công ty vào thị trường này giảm, chi phí vận chuyển tăng..., tuy nhiên, nếu xét chung về toàn ngành chè thì sản lượng xuất khẩu vẫn tăng. Một trong những mục tiêu quan trọng hiện nay của Tổng công ty là quay lại khôi phục thị trường truyền thống của Tổng công ty, đặc biệt là thị trường Nga đây là hướng đi đúng đắn cho ngành chè, tuy nhiên để khôi phục còn là một bài toán khó cho Tổng công ty và toàn ngành chè Việt Nam. II. Một số biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè sang thị trường Nga của Tổng công ty chè Việt Nam trong thời gian tới A/Về phía công ty 1. Các giải pháp về đẩy mạnh hoạt động marketting và làm tốt công tác thị trường 1.1 Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường Mặc dù là một trong những quốc gia có tiềm năng về hoạt động xuất khẩu chè, nhưng chè Việt Nam chỉ chiếm một thị phần khiêm tốn trên thị trường thế giới. Trong thời gian qua, Tổng công ty đã xác định thị trường Nga là một trong những thị trường truyền thống của Tổng công ty, đây là thị trường nhập khẩu chè của thế giới với khối lượng lớn, và nhu cầu của thị trường tương đối ổn định. Tuy sản lượng xuất khẩu chè của Tổng công ty trong thời gian qua chưa cao, nhưng đây là thị trường tiềm năng, vì vậy trong thời gian tới Tổng công ty cần nghiên cứu kỹ thị trường này để xâm nhập. Để có thể nâng cao được khả năng cạnh tranh trên thị trường, thì nghiên cứu thị trường là yêu cầu bắt buộc vì đây là khâu nghiên cứu khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường. Thông qua nghiên cứu thị trường, Tổng công ty nắm bắt được những thông tin về tổng cung, tổng cầu, giá chè, chính sách xuất nhập khẩu của Chính phủ Nga về chè… từ đó Tổng công ty có kế hoạch cho sản phẩm của mình. Công tác này cũng gắn liền với việc nghiên cứu và phân tích đối thủ cạnh tranh của Tổng công ty trên thị trường Nga. Những đối thủ nào, sản phẩm và giá cả ra sao, có đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng hay không? Từ đó, xác định được sức cạnh tranh của Tổng công ty trên thị trường Nga. Khi nghiên cứu thị trường Nga, Tổng công ty cũng cần biết những đặc điểm và quy định của thị trường Nga và cách thức tiếp xúc thương mại vào thị trường này. Song song với việc nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu thị trường Nga còn phải nghiên cứu nhu cầu và yêu cầu của khách hàng trên thị trường này như nghiên cứu và phân tích khách hàng về các mặt: sở thích, thu nhập, lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, tập quán thói quen... tại thị trường Nga. Qua việc nghiên cứu khách hàng, Tổng công ty có thể đưa ra sản phẩm phù hợp với từng nhóm khách hàng góp phần nâng cao sức cạnh tranh của công ty trên thị trường này. Vấn đề thu thập thông tin là rất cần thiết cho Tổng công ty trong quá trình hoạt động kinh doanh, vì vậy việc xây dựng văn phòng đại diện tại thị Nga được coi là trọng điểm. Đến nay, Tổng công ty đã có văn phòng giao dịch tại Liên bang Nga, đây là cơ sở quan trọng cho Tổng công ty không những trong công tác nghiên cứu thị trường mà còn phục vụ cho các hoạt động khác như hoạt động marketting, hoạt động sau bán hàng... Qua đây, ta có thể thấy được tầm quan trọng của công tác nghiên cứu thị trường của Tổng công ty, thông qua công tác này không những nâng cao được sức cạnh tranh của Tổng công ty trên thị trường Nga, hơn nữa đây còn là cơ sở để công ty thực hiện tốt hoạt động marketting tại thị trường Nga. 1.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động marketing Hoạt động marketing có tác động không nhỏ đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa nói chung và hàng xuất khẩu nói riêng. Mục tiêu cuối cùng của hoạt động marketing là đem đến cho người tiêu dùng cái mà họ cần chứ không phải cái mà mình có. Vậy Tổng công ty cần phải đề ra các chiến lược marketing cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu sang thị trường Nga trong thời gian tới. Chiến lược marketing bao gồm có các chiến lược đó là: chiến lược sản phẩm, chiến lược gía, chiến lược phân phối và chiến lược xúc tiến bán hàng. Tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà Tổng công ty thực hiện bốn chiến lược đó ở những mức độ khác nhau. - Về chiến lược phân phối và chiến lược sản phẩm: Trước đây, hàng xuất khẩu của Tổng công ty sang thị trường Nga chủ yếu bán qua các nhà trung gian môi giới, điều này làm cho Tổng công ty mất đi một khoản lợi nhuận mà đáng lẽ ra phải được hưởng từ các nhà trung gian. Những năm trở lại đây, đặc biệt từ sau khi Tổng công ty thành lập phòng giao dịch tại Nga, thì hàng hóa xuất khẩu bắt đầu xuất trực tiếp cho người tiêu dùng Nga, nhưng số lượng xuất khẩu còn hạn chế. Mặc dù nhãn hiệu chè của Tổng công ty những năm gần đây đã được đổi mới, các bao bì, mẫu mã đã có nhiều tiến bộ như nhãn hiệu chè Tùng Lộc, các loại chè xanh, chè đen của nhà máy chè Kim Anh... song so với nhãn hiệu chè của các đối thủ cạnh tranh như Lipton, Dimah... thì nhãn hiệu của Tổng công ty không thể cạnh tranh được. Vì vậy, để tăng sản lượng xuất khẩu sang thị trường Nga, Tổng công ty cần phải liên tục đổi mới mẫu mã, bao bì sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm, xác định những loại sản phẩm nào phù hợp với thị trường Nga. - Về chiến lược giá: Hiện nay giá chè xuất khẩu của Tổng công ty phụ thuộc rất nhiều vào giá chè của thế giới. Nên Tổng công ty cần tổ chức việc nghiên cứu giá một cách kỹ lưỡng để tránh tình trạng khi giá chè trên thế giới giảm đi thì chè của ta bắt đầu xuất ra thị trường. Khi giá cao ta không chủ động trong ký kết các hợp đồng hay không có hàng xuất khẩu. Nếu Tổng công ty làm tốt công tác dự đoán giá sẽ tránh được thiệt hại và rủi ro. Ngoài ra, để có thể dự đoán chính xác về gía trên thị trường thế giới thì các thông tin về thị trường và đối thủ cạnh tranh là rất cần thiết cho Tổng công ty đưa ra quyết định hợp lý cho chiến lược kinh doanh của mình. Một vấn đề cũng hết sức quan trọng trong chiến lược gía, để thu hút khách hàng đó là Tổng công ty cần có những chính sách giá ưu đãi cho những khách hàng truyền thống. - Về chiến lược xúc tiến bán hàng: Theo nhận định của Tham tấn Thương mại Việt Nam tại Liên bang Nga, xuất khẩu chè của Việt Nam sang Nga trong năm 2003 gặp nhiều khó khăn. Ngoài những nguyên nhân chung của tình hình xuất khẩu còn do tình hình kinh doanh không mấy sáng sủa của cộng đồng người Việt Nam tại Nga-kênh phân phối chính của hàng hóa Việt Nam. Tuy nhiên Liên bang Nga là thị trường tiềm năng và đầy triển vọng. Vì thế, dù đang trong thời kỳ “lạnh nhạt”, các doanh nghiệp Việt Nam không thể tính chuyện “li dị” với thị trường Nga được. Để “hâm nóng” quan hệ hợp tác kinh doanh Tổng công ty cần có chiến lược cụ thể để chinh phục trở lại thị trường này. Trước mắt, Tổng công ty cần phối hợp với các Thương vụ Việt Nam tại Nga để dành lại thị phần, thúc đẩy việc xúc tiến thượng mại qua nhiều hình thức như: Tích cực tham gia các hội trợ, triển lãm giới thiệu, quảng bá sản phẩm chè Việt Nam ở thị trường Nga, xây dựng các trang web về chè... Trong thời gian tới, Tổng công ty cần quan tâm đến khâu quảng cáo, để khách hàng có sự hiểu biết và nhận thức tốt về sản phẩm chè của Tổng công ty. Quảng cáo sẽ giúp cho việc thực hiện khác biệt hoá sản phẩm của công ty với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. Có thể áp dụng một số phương tiện quảng cáo như: + Sử dụng các phương thức bán hàng: quảng cáo và các hoạt động xúc tiến thượng mại như: Tivi, đài, tranh ảnh và tờ rơi có mặt khắp các nơi ở Nga. Hầu như các hãng quảng cáo nổi tiếng trên thế giới đều có mặt tại Nga. Vì vậy Tổng công ty sử dụng các phương tiện quảng cáo sao cho khách hàng cảm thấy hấp dẫn, li kỳ và cảm giác muốn mua sản phẩm của công ty. + Sử dụng phương tiện quảng cáo bằng ấn phẩm: Hiện nay, có rất nhiều cơ hội để tiếp cận khách hàng thông qua phương tiện quảng cáo bằng ấn phẩm ở Nga, đất nước có nhiều nhà xuất bản lớn chuyên về in quảng cáo và báo thương mại hàng ngày bằng tiếng Nga đã tạo ra những cơ hội tốt cho việc tiếp thị. ở những khu vực có người việt sinh sống cũng có các ấn phẩm báo chí bằng tiếng Việt phục vụ cộng đồng người Việt tại Nga và các nước Đông Âu lân cận. + Triển lãm thương mại: Đây là một trong những cách tốt nhất cho một công ty ra nhập vào thị trường Nga, dễ dàng tiếp xúc với khách hàng và những nhà phân phối. Tổng công ty nên tham gia triển lãm tại các cuộc triển lãm thương mại của Nga. Đây là cơ hội trao đổi thông tin, nắm bắt chào hàng và ký kết hợp đồng. + Tiếp thị trực tiếp và thương mại điện tử: ở những thành phố của Nga, hình thức tiếp thị qua điện thoại và fax để giao dịch với khách hàng rất phổ biến nhưng không được hiệu quả lắm. Ngược lại, việc tiếp thị trực tiếp bao giờ cũng mang lại hiệu qủa hơn, ngoài ra có thể áp dụng các kênh tiếp thị khác như: Catalog, thương mại điện tử, e-mail... + Dịch vụ hậu mãi: Dịch vụ hậu mãi tốt, chỉ bảo tận tình và hỗ trợ khách hàng là ưu thế của các Tổng công ty khi ra nhập vào thị trường Nga. Ngoài ra, Tổng công ty còn tranh thủ thu thập thông tin, tiếp xúc với các đối tác, bạn hàng, đối thủ cạnh tranh để đưa ra phương án kinh doanh phù hợp. 2. Xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh trong xuất khẩu chè. Để có thể duy trì hoạt động kinh doanh của Tổng công ty trên thị trường nào đó, Tổng công ty cần có một chiến lược và kế hoạch lâu dài, dựa trên nguồn thông tin thu thập được và thực trạng hoạt động của Tổng công ty trong thời gian qua. Thực tế cho thấy, những năm vừa qua tuy Tổng công ty đã có những bước phát triển đáng kể, nhưng kế hoạch đề ra của Tổng công ty chưa đạt được như mong muốn. Vì vậy, trong thời gian tới Tổng công ty cần xây dựng chiến lược và kế hoạch một cách hiệu quả hơn. Nhu cầu tiêu thụ chè ở Nga có xu hướng tăng lên trong thời gian tới, nhưng một thực tế cho thấy thị hiếu người tiều dùng Nga đã thay đổi rất nhiều, trong khi hàng Việt Nam lại tỏ ra quá “chậm thay đổi. Chính vì thế, khi xây dựng chiến lược xuất khẩu không nên tập trung vào một mặt hàng mà phải chú ý đa dạng các loại chè, có mẫu mã, kiểu dáng, hương vị riêng... Mặt khác, Tổng công ty cần có chiến lược đa dạng hoá các thị trường khác như: các nước Đông Âu và Trung Đông, Balan, và nối lại dần thị trường ở Irăc... Một chiến lược kinh doanh được kết hợp các yếu tố của môi trường bên trong và môi trường bên ngoài Tổng công ty, đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường, thì chiến lược kinh doanh đó sẽ mang lại hiệu quả kinh doanh cao cho Tổng công ty. 3. Nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu Trong số những ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam, chè được đánh giá là ngành có tiềm năng. Nhưng vấn đề làm thế nào để nâng cao được khả năng cạnh tranh của sản phẩm chè là điều quan trọng để giúp cho ngành chè vượt qua khó khăn hiện tại và phát triển vững chắc. Trên thế giới có 20 nước xuất khẩu chè. Chè Việt Nam phải cạnh tranh với 19 nước trong khi đó chè Việt Nam chất lượng chưa thật tốt, giá thành còn cao, chưa có những thương hiệu hấp dẫn. Do đó, chè Việt Nam chưa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường quốc tế nói chung và thị trường Nga nói riêng.Vấn đề hội nhập kinh tế đặt ra cho Tổng công ty chè Việt Nam sự lựa chọn duy nhất là phải nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tích cực tìm kiếm thị trường để tiêu thụ sản phẩm với giả cả hợp lý. Do vậy, đòi hỏi công ty phải tìm mọi cách nâng cao chất lượng và hạ giá thành chè thành phẩm. Để nâng cao chất lượng của chè xuất khẩu phải: - Quản lý tốt chất lượng chè xuất khẩu: Yêu cầu đầu tiên của bất kỳ sản phẩm nào cũng phải là chất lượng. Nếu sản phẩm xuất khẩu thì chất lượng lại phải đặt ở mức cao nhất. Chè không nằm ngoài quy luật đó. Nói đến chất lượng chè, phải đề cập vào hai khâu quan trọng nhất là nguyên liệu và công nghệ chế biến. Khâu nguyên liệu bao gồm 4 công đoạn khép kín: Giống- chăm sóc- thu hái- bảo quản. Nhìn chung, tuy đã được nhập nối nhưng giống chè vẫn còn ít và chưa có nhiều giống tốt. Việc chăm sóc cũng chưa được đầu tư đúng mức, trong khi đó lại khai thác quá mức dẫn đến đất đai bị bạc màu và rửa trôi. Khi giá chè lên cao thì nông dân trồng chè còn tính chuyện đầu tư đủ, nhưng khi giá chè xuống thấp thì nông dân không chú trọng đầu tư. Vấn đề nâng cao chất lượng giống là việc làm cần thiết nhưng phải làm lâu dài, không thể một sớm một chiều. Ngoài những biện pháp đưa những giống mới vào khảo nghiệm, cần khai thác triệt để các vườn chè hiện có. Muốn vậy, phải tập trung chăm sóc để cây chè sinh trưởng phát triển tốt, cho chất lượng đảm bảo, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Về nhà máy chế biến: Đa số nhà máy chế biến đưa vào sử dụng khá lâu, và việc kiểm tra giám sát từng khâu, từng công đoạn chưa được tự động hoá bao nhiêu, do vậy còn mang tính chủ quan, có thể có những sai sót. Việc xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế không chỉ đối mặt với thói quen, tập quán quản lý lâu nay mà còn gặp khó khăn rất nhiều trong việc cải tạo, trang bị mới cơ sở vật chất để đủ điều kiện xây dựng hệ thống quản lý chất lượng. Vì vậy, bên cạnh đầu tư vào các nhà máy chế biến, Tổng công ty cũng cần sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước để hiện đại hoá máy móc thiết bị của các nhà máy chế biến. Bên cạnh những vấn đề về giống và nhà máy chế biến thì các vấn đề lưu kho bảo quản là rất cần thiết. Vì chè là một loại sản phẩm rất dễ bị tác động bởi môi trường, nên không để nơi nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp, dễ phân huỷ và làm biến đổi hình dạng và chất lượng của chè. Ngoài ra các vấn đề khác như bao bì đóng gói, lựa chọn hợp lý bao bì đóng gói sẽ giúp cho chất lượng sản phẩm được đảm bảo, cần phải quan tâm đến thời hạn sử dụng an toàn của chè. Để nâng cao chất lượng sản phẩm chè xuất khẩu, ngoài sự cố gắng của công ty trong việc đưa ra các biện pháp đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, tăng tính đa dạng của sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, xây dựng củng cố thương hiệu… cũng rất cần hỗ trợ của Nhà nước, để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu chè được thuận lợi hơn. Ngành sản xuất chè là một ngành đặc thù so với những cây công nghiệp lâu năm khác, bởi khâu thiết bị và công nghệ chế biến quyết định tới 40%-50% chất lượng và giá trị thu nhập trong ngành chè. Ngành nông nghiệp, đặc biệt là ngành chè đang gặp phải khó khăn là chi phí cho vật tư hoá chất đầu vào ngày càng tăng, trong khi đó chất lượng gia tăng năng suất lao động chậm hơn, làm cho người lao động trong lĩnh vực này thua thiệt hơn so với các ngành kinh tế khác. Để khắc phục tình trạng trên, ngành chè cần thúc đẩy chuyển đổi theo hướng nông nghiệp hữu cơ bằng cách tạo ra những nguồn hữu cơ cho đồi chè, thuỷ lợi hoá, đầu tư thâm canh cao, tạo môi trường sinh thái cân bằng, phát triển bền vững. Công tác giống phải xuất phát từ định hướng của thị trường, dựa vào nhu cầu xuất khẩu cần bao nhiêu chè xanh, chè đen, yêu cầu về chất lượng, ngoại hình như thế nào, từ đó có quy hoạch, kế hoạch về cơ cấu giống, diện tích trồng mới... Quản lý quy trình: Chất lượng- thị trường- sản xuất- hiệu quả sao cho gắn bó như trong một cơ thể sống. Trước hết phải định lượng được tiêu chuẩn chất lượng chè được phép đưa ra thị trường. Có một tổ chức đủ quyền hạn và năng lực kiểm tra thường xuyên, định kỳ và xử lý việc vi phạm tiêu chuẩn ban hành theo chế tài đã quy định của Nhà nước theo quyết định 80 về liên kết 4 nhà. 4. Những giải pháp ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chế biến và thiết lập hệ thống bảo quản Nhu cầu về chè trên thế giới có xu hướng tăng lên, nhưng xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu về chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm ngày càng khắt khe hơn. Ngày nay thị hiếu người tiêu dùng Nga cũng khắt khe không kém gì các nước Tây Bắc, Âu, Mỹ, Nhật Bản… Chè là sản phẩm có đặc trưng khác so với các sản phẩm khác là nó có nguồn gốc hữu cơ. Do đặc tính sinh học, các sản phẩm chè cũng giống như các sản phẩm nông nghiệp khác được bầy bán trên thị trường với kích thước và kiểu dáng tự nhiên, trong khi nhu cầu của khách hàng đòi hỏi ngày càng cao về sự tiện dụng và tính đa dạng của sản phẩm. Hơn nữa, chè sau khi thu hái về còn tươi, nếu không bảo quản ngay sẽ mất đi phẩm chất thơm ngon vốn có của chè. Vì vậy, chế biến đúng kỹ thuật và bảo quản tốt là nhân tố cơ bản để tránh làm mất đi phẩm chất của chè trước khi bán. Mặc dù trong thời gian vừa qua ngành chè đã có những biện pháp tích cực trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đồng thời liên kết với các cơ quan trong nước như Viện quy hoạch, Viện công nghệ sinh học… để nghiên cứu cải tiến, đổi mới công nghệ, công nghệ chế biến vẫn còn lạc hậu, nếu xét trên phạm vi toàn thế giới thì sản phẩm chè của ta chưa có tên tuổi. Vì vậy, ngành chè nói chung và Tổng công ty nói riêng cần phải nghiên cứu ứng dụng công nghệ, thiết bị mới, bổ xung và hoàn thiện quy trình công nghệ chế biến hiện có. Hiện nay, chè Việt Nam được chế biến theo hai phương pháp công nghệ là orthodox và ctc, đây là công nghệ cũ của Liên xô đã bộc lộ những hạn chế vì vậy cần được nâng cấp, sữa chữa và bổ sung. Những hạng mục thiết bị cần được đầu tư đó là: + Bổ xung dàn héo tự nhiên, hiện đại hoá các bộ phận của máy vò, hiện đại hoá các phòng lên men, trang bị hệ thống lên men liên tục và làm mát lá chè theo kiểu của Nhật, thay bộ phận phun ẩm bằng phun sương. Hiện đại hóa khâu hút bụi, xây dựng các kho bảo quản... + Tổng công ty nên đầu tư, nâng cấp cải tạo các cơ sở chế biến công nghiệp, xây dựng thêm các nhà máy chế biến với công nghệ hiện đại, tiến tiến. Do đặc tính của hàng nông sản là theo mùa vụ, vì vậy công tác dự trữ là rất quan trọng, đặc biệt cho nguồn xuất khẩu ổn định trên thị trường. Vì vậy, Tổng công ty cần xây dựng chiến lược dự trữ thường xuyên theo mùa vụ cụ thể. + Đối với vùng sâu, vùng xa Tổng công ty nên đầu tư xây dựng nhà máy chế biến, với công nghệ thiết bị phù hợp sao cho sản phẩm tạo ra có thể xuất khẩu. Còn đối với những vùng có địa bàn phức tạp, xa cơ sở chế biến công nghiệp, nên đầu tư công nghệ máy sao, máy vò cỡ nhỏ để phục vụ nội tiêu và cung cấp cho các nhà máy đấu trộn và tinh chế. Phương pháp công nghệ và quy trình chế biến bảo quản có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng chè xuất khẩu, và đây chính là một trong những phương pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của Tổng công ty, và từng bước khẳng định vị thế của Tổng công ty trên thị trường thế giới. 5. Tăng cường liên doanh với các đơn vị chân hàng để tăng cường tính ổn định của nguồn hàng xuất khẩu Trong bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào, việc lựa chọn nguồn hàng tốt sẽ đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường, đảm bảo đúng thời gian giao hàng theo hợp đồng. Lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu chè chỉ có hiệu quả khi Tổng công ty có các biện pháp cân đối, đồng bộ từ khâu thu mua đến các khâu thực hiện hợp đồng, giao hàng và thanh toán. Trong đó, khâu mua hàng là khâu đầu tiên và rất quan trọng, không những quyết định hoạt động kinh doanh của Tổng công ty mà còn đảm bảo các khâu tiếp theo diễn ra liên tục và ăn khớp nhau. Hiện nay, nguồn chè của Tổng công ty chủ yếu từ các đơn vị của Tổng công ty từ các tỉnh miền núi phía Bắc và miền Trung. Vấn đề đặt ra cho Tổng công ty là để đảm bảo ổn định nguồn hàng xuất khẩu, bên cạnh quan hệ với các đơn vị chân hàng quen, cần phải mở rộng quan hệ chân hàng với các tỉnh khác để mở rộng hơn nữa nguồn hàng cho Tổng công ty. Tổng công ty cần có những đợt đi thực tế xuống các tỉnh để tìm hiểu đầu mối thu gom, từ đó có kế hoạch cụ thể. Để thực hiện tốt các công tác trên, Tổng công ty cần thực hiện các biện pháp sau: - Không ngừng tăng cường mối quan hệ lâu dài với các chân hàng quen bằng cách: Bên cạnh việc đảm bảo lợi ích cho cả hai bên, cần duy trì việc mua hàng thường xuyên ở các chân hàng này. - Đối với các đơn vị thuộc Tổng công ty, cần có chế độ thưởng phạt, không ngừng hiện đại hoá máy móc thiết bị..., như vậy nguồn hàng xuất khẩu luôn được đảm bảo và ổn định. - Đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh, việc cung cấp lượng hàng xuất khẩu ổn định là điều kiện thuận lợi cho các đối tác và bạn làm ăn tin tưởng, tham gia liên doanh với Tổng công ty. Cho nên, việc tạo ra nguồn hàng ổn định lâu dài là mục tiêu kế hoạch của Tổng công ty trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu. 6. Giải pháp đa dạng hoá sản phẩm Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, xu hướng đa dạng hoá sản phẩm càng trở nên quan trọng. Tổng công ty cần tăng thêm chủng loại để đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng, đồng thời những chủng loại sản phẩm đó có thể thay thế được một số sản phẩm đồ uống khác. Trong khi nhu cầu về sản phẩm chè của thị trường ngày một đa dạng, nhưng chủng loại chè của Tổng công ty còn hạn chế. Vì vậy, trong thời gian tới Tổng công ty cần áp dụng các biện pháp để đa dạng hoá sản phẩm của mình theo nhiều hướng khác nhau như: - Duy trì các mặt hàng xuất khẩu hiện có, đồng thời đưa thêm vào chè những hương vị mới, đặc biệt. Trước hết với các loại chè túi nhúng, chè hoà tan, chè bột... có thể chưa cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài. tuy nhiên Tổng công ty cũng có thể nghiên cứu và tổ chức sản xuất các loại chè ướp hương hoa quả, chè đóng hộp, bánh chè… các loại chè thuốc như chè thanh nhiệt, chè dưỡng thọ cho người già hoặc các loại chè thảo mộc khác. Đồng thời nghiên cứu các loại chè nước uống nhanh, nước hoa quả đóng túi hoặc đóng hộp các loại... với yêu cầu phải tiện lợi và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hiện đại. Bên cạnh đó, Tổng công ty cũng cần nghiên cứu mẫu mã, bao bì, nhãn hiệu hàng hoá phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người nước ngoài. - Đa dạng hoá sản phẩm, một trong những biện pháp là cải tiến sản phẩm dựa trên sản phẩm cũ. Để tạo ra được sản phẩm mới cần có nhiều thời gian và tiền của. Tuy nhiên để rút ngắn thời gian và xúc tiến đưa sản phẩm mới ra thị trường cần thông qua việc thay đổi bao bì hoặc tên gọi sản phẩm, kèm theo các hình thức khuyến mại sản phẩm đó ở thị trường trong và ngoài nước. Bằng cách này, Tổng công ty không những xúc tiến nhanh quá trình bán hàng mà uy tín của nó sẽ được nâng lên. Tổng công ty cần có đội ngũ chuyên làm công tác thiết kế bao gói sản phẩm sao cho sản phẩm có sức thuyết phục hơn, tạo giá trị thẩm mỹ cho sản phẩm. Khi đó sản phẩm của Tổng công ty có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm khác trên thị trường quốc tế. 7. Các biện pháp xây dựng và phát triển thương hiệu chè Việt Nam Việc xây dựng một biểu tượng tốt đẹp về hàng hoá trong con mắt khách hàng là vấn đề khó khăn đối với mọi doanh nghiệp và nó đòi hỏi phải có thời gian dài. Một trong những hoạt động hữu hiệu để xây dựng là tiến hành quảng cáo trên các thông tin đại chúng, tiếp thị chào hàng thông qua hội trợ, triển lãm... Một trong những mục tiêu để phát triển ngành chè Việt Nam là khôi phục thị trường truyền thống Nga, nhưng khó khăn chủ yếu hiện nay ở thị trường Nga là vấn đề thương hiệu. Chính vì chưa có thương hiệu, chè Việt Nam chỉ được xuất dưới dạng nguyên liệu. Vì vậy, một mặt Tổng công ty cần có những chính sách hợp lý lựa chọn sản phẩm để xây dựng thương hiệu. Mặt khác, Tổng công ty cần có sự hỗ trợ và khuyến khích của Nhà nước trong việc đầu tư ra nước ngoài, bởi chi phí quảng cáo ở thị trường nước ngoài là khá tốn kém, vượt ra ngoài khả năng của Tổng công ty. 8. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên Yếu tố con người có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm và giảm được chi phí sản xuất một cách hợp lý. Ngành chè cần tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ tại cơ sở. Đặc biệt khi tình hình thế giời ngày càng biến động và phức tạp, đòi hỏi người làm công tác phát triển thị trường phải linh hoạt, tinh thông nghiệp vụ, biết ngoại ngữ và hiểu biết chuyên ngành nghề. Vì vậy, phải không ngừng nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên, đồng thời có những chính sách thoả đáng như khen thưởng để khuyến khích và tạo tâm lý phấn khởi kích thích sự nhiệt tình của họ trong công việc. 9. Đa dạng hoá nguồn huy động vốn Để phục vụ cho định hướng phát triển chè đến năm 2010, nhu cầu về vốn là rất lớn, không thể chỉ trông chờ vào một nguồn duy nhất. Trong thời gian tới, ngành chè cần tập trung đầu tư vốn để phát triển công nghệ, xúc tiến thượng mại, quảng bá sản phẩm chè Việt Nam. Do vậy cần phải đa dạng hoá và huy động vốn từ nhiều nguồn trong nước như : vốn từ ngân sách nhà nước đầu tư cho xây dựng các công trình thuỷ lợi như thâm canh cây trồng; nghiên cứu khoa học công nghệ khuyến nông, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới về cây chè, nhập khẩu các giống mới, thay thế các giống chè năng suất thấp… Ngoài ra đề nghị Nhà nước áp dụng chính sách cho vay ưu đãi và linh hoạt. Có nhiều doanh nghiệp có triển vọng xuất khẩu nhưng thường xuyên bị thiếu vốn, gây ảnh hưởng không ít đến quá trình sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, Chính phủ cần khuyến khích các ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp vay vốn từ đầu tư, xây dựng và cải tạo các nhà máy chế biến trong thời gian dài với một thời gian ra hạn với lãi suất ưu đãi để các doanh nghiệp có thời gian bù đắp chi phí và lợi nhuận. 10. Khuyến khích thành lập công ty liên doanh hoặc 100% vốn của Việt Nam tại những nước có nhu cầu tiêu thụ chè lớn Việc thúc đẩy liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài là biện pháp hữu hiệu giúp cho công ty nâng cao được nguồn vốn và ứng dụng các dây truyền công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các nước phát triển. Việc thành lập chi nhánh của Tổng công ty tại Liên bang Nga là điều kiện thuận lợi xúc tiến hoạt động kinh doanh của Tổng công ty trên thị trường Nga. Việc thành lập công ty liên doanh hoặc công ty 100% vốn tại các nước có nhu cầu tiêu thụ chè lớn để trực tiếp bán và thành lập các kênh phân phối lâu dài như mô hình mà Tổng công ty đã áp dụng tại Nga. Với biện pháp này, mặc dù phải đầu tư với lượng vốn lớn cho việc xây dựng nhà xưởng đóng gói sản phẩm, đồng thời phải đáp ứng các yêu cầu cuả các nước sở tại để hoàn tất thủ tục pháp lý nhưng doanh nghiệp sẽ thu được lợi ích đáng kể vì được tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng, được hưởng ưu đãi thuế... và nhất là sản phẩm sản xuất ra sẽ dễ dàng được người tiêu dùng chấp nhận, do việc nghiên cứu để nắm bắt thị hiếu người tiêu dùng được thực hiện thường xuyên và triệt để hơn. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, không có một quốc gia nào có thể đóng cửa mà có thể phồn vinh được. Liên doanh liên kết sẽ cho phép Tổng công ty phát huy được những lợi thế của mình, tận dụng tối đa nội lực bên trong của Tổng công ty. B/ Một số kiến nghị về chế độ chính sách của Nhà nước 1. Quy hoạch phát triển vùng chè Việc quy hoạch vườn chè một cách hợp lý là rất cần thiết bởi vì: nguồn chè ổn định, phong phú đa dạng là tiền đề cho xuất khẩu chè đi vào ổn định và có lợi hơn. Khi công tác quy hoạch vùng chè được thực hiện, các khâu thu mua bảo quản diễn ra nhanh hơn, thuận lợi hơn, hiệu qủa hơn, giảm bớt được chi phí trung gian. Việc quy hoạch vùng chè phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và sinh thái tạo nên những vùng nguyên liệu lớn, tạo điều kiện cho Tổng công ty đầu tư theo chiều sâu để tăng năng suất và chất lượng của chè, tạo ra nguồn hàng hoá lớn có khả năng cạnh tranh đặc biệt là nguồn sản phẩm cho xuất khẩu. Theo báo cáo của Hiệp hội chè Việt Nam do sự bùng nổ về số lượng nhà máy chế biến không theo quy hoạch dẫn tới sự thiếu chủ động và tranh nhau vùng nguyên liệu. Bên cạnh đó một số nhà máy mới tuy quy mô khá lớn, nhưng thiết bị đầu tư ở mức thấp, thậm chí nhiều loại thiết bị được chế tạo theo kiểu sao chép lại kém chất lượng. Đây chính là nguyên nhân làm cho chất lượng chè xuất khẩu của Việt Nam không đồng đều. Do đó các công ty nước ngoài nhập chè của nước ta dưới dạng sơ chế rồi về cho thêm nguyên liệu, cải tiến mẫu mã ... trước khi bán ra thị trường. Vì vậy Nhà nước cần cân đối các vùng nguyên liệu, định hướng những diện tích đất phù hợp để trồng chè và có chính sách thu mua, bao tiêu sẩn phẩm hợp lý nhằm gắn quyền lợi của người sẩn xuất với xuất khẩu. Chính phủ cũng cần có biện pháp mạnh đối với những nhà máy không có đủ điều kiện về công nghệ, thiết bị phải nâng cấp, hoặc ngừng sản xuất, đóng cửa. Đồng thời việc lựa chọn một số lượng nhất định những đầu mối xuất khẩu, vừa giữ ổn định nguồn hàng vừa tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý tốt chất lượng sản phẩm, tránh tình trạng quá nhiều doanh nghiệp tham gia xuất khẩu một cách tràn lan và tự phát. Mặc dù đã huy động nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng vẫn thiếu vốn làm cho Tổng công ty khó thực hiện, quy hoạch vùng chè trọng điểm. Vì vậy, Nhà nước mà trực tiếp là Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cần tạo điều kiện cho Tổng công ty có thể bố trí, quy hoạch các vùng chè, đặc biệt cho xuất khẩu. Để hình thành các vùng chè tập trung, Chính phủ cần hình thành nên các doanh nghiệp chuyên làm nhiệm vụ khai hoang, trồng mới, chăm sóc... Nhà nước có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp này như cho vay vốn theo các dự án, như vậy sẽ đảm bảo được nguồn nguyên liệu, đảm bảo được chất lượng chè đồng đều. Đặc biệt hiện nay, các vùng sản xuất chè phần lớn nằm ở các vùng xa xôi, cơ sở hạ tầng thấp kém... vì vậy, Nhà nước cần có chính sách đầu tư tăng cơ sở hạ tầng mà trước mắt cần tăng hệ thống giao thông, điện, phục vụ cho công việc sản xuất và đời sống của người làm chè, cải thiện đời sống cho người làm chè. 2. Chính sách đối ngoại Trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới, chính trị và kinh tế là vấn đề tồn tại song song, quan hệ chính trị tốt sẽ thúc đẩy quan hệ thương mại giữa các quốc gia, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Vì vậy, Nhà nước cần có một số chính sách như: - Nhà nước tích cực tham gia vào các diễn đàn khu vực và thế giới. - Tăng cường mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước Việt Nam và Liên bang Nga. Thể hiện bằng việc ký kết các hiệp định kinh tế- thương mại, tiến tới xây dựng hiệp định mậu dịch tự do. Tạo được khuôn khổ pháp lý với thị trường Nga để hoạt động xuất khẩu được thuận lợi và được hưởng ưu đãi. - Thực hiện các công ước quốc tế và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, tuân thủ các tiêu chuẩn của quốc tế về chất lượng khi tham gia hoạt động xuất khẩu. 3. Chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất chè 3.1. Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài Do nguồn vốn của Tổng công ty có hạn, trong khi có rất nhiều lĩnh vực Tổng công ty cần vốn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh như đầu tư mới máy móc, giống..., nên Tổng công ty phải đi vay vốn từ ngân hàng với lãi suất rất cao. Do đó, vốn đầu tư nước ngoài là biện pháp hữu hiệu để gia tăng chè xuất khẩu vào các thị trường thế giới, trong đó thị trường Nga là một trong các thị trường mục tiêu mà Tổng công ty đang hướng tới. Vì vậy, Nhà nước cần có mối quan hệ tốt với các nước trong khu vực và trên thế giới để thu hút nguồn vốn đầu tư vào các doanh nghiệp trong nước, nhờ có nguồn vốn này mà từ khâu sản xuất- chế biến- vận chuyển và bảo quản cho đến khâu tiêu thụ được thực hiện một cách đồng bộ và liên tục, tạo ra được những sản phẩm hoàn chỉnh và có khả năng cạnh tranh được trên thị trường Nga. 3.2. Chính sách vốn đầu tư và lãi suất vay Do các vùng sản xuất nguyên liệu và các nhà máy chế biến ở vùng trung du và miền núi phía bắc, cơ sở hạ tầng khá phức tạp. Vì vậy, cần xây dựng các cơ sở hạ tầng quan trọng và cần thiết cho việc phát triển các vùng chè rộng lớn, xây dựng hệ thống giao thông, thuỷ lợi, hệ thống điện... Tuy nhiên, nguồn vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng này có thể từ Tổng công ty, nguồn vốn của Nhà nước hoặc nguồn vốn có được do phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm. Vì vậy, Nhà nước cần có những biện pháp để xúc tiến hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty. Hơn nữa, khi công trình xây dựng cơ bản hoàn thành cần giao cho các cơ quan có thẩm quyền quyết định quản lý. Các cơ quan này có nhiệm vụ khai thác công trình qua đơn vị sản xuất hoặc thu lệ phí để nâng cấp, tu bổ các công trình. Mặt khác, do chè là loại cây dài ngày, nên Nhà nước cần có chính sách cho vay dài hạn, khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng diện tích trồng chè. Nhưng Nhà nước cho doanh nghiệp vay phải bảo toàn được vốn, nghĩa là phải có thế chấp. Trong khi tài sản của những người kinh doanh sản phẩm chè là những đồi chè, vì vậy Nhà nước cần phải thống nhất trong việc định giá đồi chè. 3.3. Chính sách thuế nông nghiệp - Nhà nước nên có chính sách bảo hộ cho người làm chè khi giá chè trên thị trường thế giới giảm mạnh, gây thiệt hại cho người làm chè. Nhà nước nên thu thuế theo hạng đất và theo sự biến động của giá cả trên thị trường. - Nhà nước cần có chính sách miễn giảm cho người làm chè, và chính sách miễn giảm này chỉ áp dụng cho vùng đất trống, đồi núi trọc đang được khuyến khích mở rộng để kinh doanh sản phẩm chè xuất khẩu, cụ thể là chỉ áp dụng thuế từ 3 -5 năm. 3.4. Thành lập quỹ bình ổn giá Nhà nước cần cho phép ngành chè thành lập quỹ bình ổn giá để ổn định giá mua chè tươi cho nhân dân và dự phòng một lượng chè xuất khẩu hợp lý, nhằm giữ giá chè xuất khẩu. 3.5. Chính sách trợ cấp xuất khẩu Trợ cấp xuất khẩu là một hình thức khuyến khích xuất khẩu bằng cách dành sự ưu đãi về mặt tài chính cho nhà xuất khẩu thông qua trợ cấp trực tiếp hay gián tiếp khi họ đã bán được hàng ra nước ngoài. Mục đích của việc trợ cấp là nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm chè trên thị trường thế giới, từ đó có phương hướng gia tăng lượng hàng chè xuất khẩu sang thị trường Nga. Theo quyết định số 151/TTg ngày 12-04-1993 của TTCP, Nhà nước thành lập “Quỹ bình ổn giá cả” nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp chủ động tham gia vào thị trường. Nhà nước cần hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng để thúc đẩy Tổng công ty tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất khẩu lúc chính vụ. Tuy nhiên, Nhà nước cần phải có chính sách chống giá xuống thấp gây thiệt hại cho người sản xuất, đây là việc làm vừa có lợi cho nhà sản xuất vừa có lợi cho nhà kinh doanh xuất khẩu chè. Vì vậy, Nhà nước nên tiếp tục trợ giá xuất khẩu, để tăng cường hoạt động xuất khẩu sang thị trường Nga và không ngừng nâng cao hiệu quả xuất khẩu trên thị trường này. 4. Tổ chức tốt hệ thống thông tin Do tình hình kinh tế, chính trị trên thị trường thế giới luôn biến động, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu chè cuả Tổng công ty. Vì vậy Tổng công ty cần tăng cường vai trò của các Tham tấn thương mại tại các thị trường khác nhau, trong đó có thị trường Nga. Thông qua các tham tấn thương mại tại Nga, hệ thống thông tin sẽ được thu thập đầy đủ và kịp thời, giúp cho Tổng công ty đề ra các kế hoạch về kinh doanh xuất khẩu chè trong thời gian tới. 5. Chính sách về quản lý tổ chức xuất khẩu chè Hiện nay, việc quản lý chất lượng chè xuất khẩu chưa có tổ chức nào đứng ra chụi trách nhiệm trước Nhà nước, do vậy cần thống nhất quản lý ngành chè về chất lượng chè xuất khẩu. Việc nhà nước tổ chức quản lý chè xuất khẩu vừa tránh được sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, vừa tránh được sự lũng đoạn thị trường. Do chè là một loại hàng hoá đặc thù, vì vậy vừa đa dạng hóa phát triển kinh doanh chè, vừa tập trung xuất khẩu vào những đầu mối lớn. Như vậy, Nhà nước sẽ kiểm soát được các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, nếu không rất khó kiểm soát được bởi các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu một cách tràn lan, hoạt động không hiệu quả, chất lượng chè xuất khẩu không đồng đều… Do vậy, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cần tổ chức lại ngành chè như sau: + Giao việc phát triển và phục vụ thị trường nội tiêu cho các tỉnh và địa phương. + Các nguồn hàng xuất khẩu được giao cho các doanh nghiệp Trung ương, với các nhà máy quy mô lớn, hiện đại, đảm bảo cho sản phẩm xuất khẩu chất lượng cao. + Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các đơn vị tư nhân hoạt động bên ngoài hiệp hội chè Việt Nam, tham gia vào hiệp hội để dễ dàng thống nhất giá và chất lượng hàng xuất khẩu. Đồng thời kết hợp với các cơ quan giám định thị trường để chè xuất khẩu đáp ứng đủ quy định về tiêu chuẩn chè xuất khẩu. 6. Thưởng xuất khẩu Để khuyến khích Tổng công ty xúc tiến hoạt động xuất khẩu sang thị trường Nga, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống, tăng thu nhập cho người lao động, tăng thu nhập cho ngân sách quốc gia, Nhà nước nên quy định mức thưởng xuất khẩu đối với công ty. Vấn đề thưởng xuất khẩu được ban hành theo Quyết định số 02/2002/QĐ-BTM ngày 02-01-2002 của Bộ trưởng Bộ thương mại. Đây là chế độ khuyến khích lớn cho Tổng công ty nói riêng và cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất khẩu nói chung. 7. Một số vấn đề về chế độ chính sách Đi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp hoạt động mất đi sự năng động, sáng tạo, tự chủ… hoạt động của doanh nghiệp trì trệ. Nhưng từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đã không ngừng tích luỹ kinh nghiệm, áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ, năng động, sáng tạo, tham gia vào liên doanh liên kết với các đối tác trong khu vực và trên thế giới. Sự đổi khác này một phần do Nhà nước đã có những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, trong quá trình đề ra và thực hiện chính sách, cũng còn nhiều vấn đề cần phải được xem xét và tìm phương pháp giải quyết nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của Nhà nước trong việc quản lý kinh tế thị trường và nâng cao chất lượng và hiệu qủa của các chính sách. Để phát triển ngành chè, một số chính sách cần được hoàn thiện như: - Đề nghị miễn thuế sử dụng đất đối với người trồng chè: vì chè là loại cây trồng lâu năm, lại trồng ở những nơi xa xôi hẻo lánh, vùng dân tộc ít người, trồng chè còn để phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chống sói mòn... Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách giảm thuế cho người trồng chè. Không những thế giá chè trên thị trường thế giới luôn biến động, khi giá tụt giảm gây thiệt hại cho người trồng chè. Cho nên Nhà nước cần có chính sách bảo hộ cho người trồng chè không chuyển sang cây trồng khác. - Chính sách đối với các thiết bị dùng cho sản xuất chế biến chè: Các chính sách khuyến nông gắn liền với các chính sách về ứng dụng khoa học công nghệ kỹ thuật…, hơn nữa để hiện đại hoá ngành chè, tạo chất lượng chè xuất khẩu tốt, gía thành hạ, cần có chính sách miễn thuế nhập khẩu vật tư thiết bị trong một số năm để ngành chè có thêm vốn đầu tư cho phát triển. - Chính sách đối với con người: + Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. + Đối với các doanh nghiệp chè: Đầu tư về giáo dục y tế, phụ cấp khu vực... + Thành lập quỹ bình ổn giá để bảo vệ người làm chè. + Đề nghị Nhà nước cấp hỗ trợ vốn để thành lập quỹ xuất khẩu. + Nhà nước tham gia các diễn đàn quốc tế và khu vực, tăng cường liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài để thúc đẩy xuất khẩu, được hưởng các chế độ ưu đãi... Kết luận Tổng công ty chè Việt Nam là đơn vị chủ đạo, bậc đàn anh của ngành chè Việt Nam, trong những năm qua đã rất nỗ lực trong triển khai xúc tiến thượng mại, khảo sát tìm kiếm thị trường mới và tham gia các hội trợ, triển lãm quốc tế để giới thiệu và quảng bá sản phẩm. Thời gian qua, Tổng công ty với thương hiệu VINATEA đã được đăng ký, giới thiệu trên 40 nước và đã được nhiều bạn hàng quốc tế biết đến. Tổng công ty đang triển khai bán sản phẩm có bao bì, nhãn mác hoàn chỉnh sang Nga và bước đầu đã có một số kết quả tốt. Tuy nhiên, việc triển khai còn gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân chủ yếu là do thuế suất của các nước đánh vào chè thành phẩm là rất cao, dẫn đển giá thành tăng lên, giảm sức cạnh tranh của chè Việt Nam, trong khi chi phí quảng cáo lại quá lớn... Để tăng thị phần của Tổng công ty trên thị trường Nga, Nhà nước đã cho phép Tổng công ty thành lập công ty 100% vốn tại Liên bang Nga, xây dựng các kênh phân phối trực tiếp để tiêu thụ sản phẩm. Ngành chè Việt Nam đã đạt được những thành quả như hiện nay không những nhờ vào công sức và vốn của chính mình mà còn nhờ vào chương trình hỗ trợ của Chính phủ bao gồm: giúp đỡ điều tra thị trường, tham gia hội trợ thực phẩm, quảng bá thương hiệu, tham gia liên hoan chè... thời gian tới Tổng công ty có chiến lược phát triển thị trường Nga với nhiều mặt hàng đa dạng. Tuy nhiên, năm 2003 xuất khẩu chè Việt Nam sang Nga gặp nhiều khó khăn về chất lượng, kinh phí, thương hiệu... Vì vậy, để chè Việt Nam có chỗ đứng trên thị trường Nga, Tổng công ty cần áp dụng các biện pháp một cách đồng bộ như: nâng cao chất lượng sản phẩm, hoàn chỉnh bao bì mẫu mã, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm chè Việt Nam, xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm, hạ gía thành và có các chính sách ưu đãi... Tài liệu tham khảo Nguyễn Thị Hường (Chủ biên)- Giáo trình Kinh Doanh quốc tế_NXB Thống kê Hà Nội- 2001. Nguyễn Cao Văn ( Biên soạn)- Giáo trình Marketing quốc tế _NXB Giáo dục Hà Nội- 1999. Giáo trình kinh tế Nông nghiệp_NXB Thống kê Hà Nội- 2002. Giáo trình Marketing Nông nghiệp_NXB Thống kê Hà Nội- 2001. Các tài liệu báo cáo của Tổng công ty chè Việt Nam. Tạp chí người làm chè năm 2003, 2004. Tạp chí thương mại năm 2003. Chè Việt Nam chưa có chỗ đứng ở Nga 26/7/2003: Nga- Thị trường nhập khẩu đầy tiềm năng của Việt Nam: Tăng ngân sách cho chè: Sẽ có quỹ bảo hiểm xuất khẩu chè và sàn giao dịch chè : 8 giải pháp phát triển thị trường chè Việt Nam, thị trường mới cho sản phẩm chè và mở rộng thị trường chè tại Nga và Mỹ: Xây dựng thương hiệu cho chè Việt Nam, xuất khẩu là hướng phát triển bền vững của ngành chè, quảng bá sản phẩm chè và dự báo xuất khẩu chè Việt Nam trong thời gian tới: Hội thi chất lượng chè Việt Nam năm 2003 và 21 sản phẩm chè Việt Nam được trao huy chương vàng, 3/12/2003: Thị phần chè Việt Nam còn nhỏ: Chè Việt Nam có cơ tràn sang Nga và đầu tư sản xuất kinh doanh chè tại Nga: Chè Việt Nam trên thị trường Nga: Cần nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm chè Việt Nam: Nâng cao chất lượng chè xuất khẩu: Lối nào cho xuất khẩu chè Việt Nam: Con đường đưa hàng vào thị trường Nga và cần có trung tâm xúc tiến thương mại tại Nga: Nga tăng thuế nhập khẩu chè gói: 18/2/2003: Xuất khẩu- hướng phát triển bền vững của ngành chè, 5/6/2002: Việt nam đứng thứ 8 về xuất khẩu chè trên thế giới, 6/6/2002: Mốt số tài liệu khác: + Hội nhập để tăng trưởng và xuất khẩu. + Không nên coi việc trồng chè như một trào lưu. + Doanh nghiệp nên biết khi làm ăn với thị trường Nga. + Diễn biến thị trường chè thế giới. + Định hướng, giải pháp phát triển sản xuất chè đến năm 2010. + Đưa hương vị chè Việt Nam ra thế giới. + Chè Việt Nam cần có quy hoạch giống tốt và thương hiệu. + Liên kết 4 nhà để nâng cao chất lượng chè. +Cần có chính sách bảo hộ của Nhà nước. + Cơ hội cho sản phẩm, dịch vụ Việt Nam xâm nhập vào thị trường Nga. + Nhà máy chế biến vênh vùng nguyên liệu . +Ngành chè vẫn vướng bài toán thị trường. … Từ trang web: Và: Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33945.doc
Tài liệu liên quan