Luận văn Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng nông sản tại công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I

Hoàn thiện chính sách thuế: Điều chỉnh thời gian thu thuế và giao nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp hợp lý để nông dân có thời gian lựa chọn thời điểm bán sản phẩm có lợi nhất. Điều chỉnh tỉ lệ thuế để lại cho địa phương để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Miễn thuế nông nghiệp trong một thời gian cần thiết đối với những sản phẩm cần phất triển mở rộng quy mô, để hỗ trợ cho đổi mới công nghệ, nên giảm thuế nhập khẩu đối với trang thiết bị máy móc sản xuất chế biến nông sản. Nghiên cứu các hình thức bảo hiểm cho các loại cây trồng, hình thành quỹ bảo hiểm từng ngành sản phẩm. Trước mắt cần thiết lập quỹ bảo hiểm các nông sản lúa gạo, cà phê, cao su, thịt lợn để can thiệp thị trường khi giá thị trường đột biến xuống dưới giá sàn, trợ giúp sản xuất trong trường hợp đặc biệt khó khăn do thiên tai.

doc84 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1377 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng nông sản tại công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
toán: lựa chọn phương thức thanh toán hợp lý, sau khi giao hàng tuỳ từng hợp đồng xuất khẩu mà có phương thức thanh toán riêng. Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp i thường sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ L/C để đảm bảo cho việc thu tiền. Qua nghiên cứu tình hình hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản của Công ty cho thấy, trong suốt quá trình làm công tác xuất khẩu hàng nông sản Công ty đều thực hiện nghiêm túc, đúng hạn, đạt tiêu chuẩn chất lượng cao trên cơ sở hai bên cùng có lợi và đảm bảo uy tín lâu dài. 3. Các biện pháp mà doanh nghiệp đã thực hiện đẩy mạnh xuất khẩu. Ngoài các biện pháp chung đã nêu trong công văn số 963 vào ngày 6-10-2000 Công ty đã thực hiện bổ xung một số biện pháp thực hiện cụ thể sau: Tăng cường công tác tổ chức cán bộ tuyển mới một số cán bộ có trình độ quản lý và chuyên môn đặc biệt trong các lĩnh vực quản lý sản xuất công nghiệp, tin học... Củng cố bộ máy các phòng ban, chi nhánh, xí nghiệp để tăng cường hiệu quả hoạt động chung. Doanh quỹ khoản 50-100 triệu đồng để đào tạo cán bộ đồng thời tăng cường công tác đào tạo tại chỗ. Tiếp tục hoàn tổng hoàn thiện cơ chế quản lý nội bộ nâng cao mọi bước trách nhiệm cá nhân, thực hiện công bằng hợp lý và công khai trong việc giao việc và trả lương, thưởng, xét thi đua khen thưởng có chính sách giải quyết việc làm và thu nhập tối thiểu đảm bảo đời sống. ổn định sản xuất king doanh, tăng cường dân chủ ngay từ các đơn vị. c) Trong lĩnh vực sản xuất Công ty tập trung vào những hướng sau đây: - Nghiên cứu, khảo sát xây dựng dự án đầu tư sản xuất hoặc liên kết sản xuất một số mặt hàng xuất khẩu như chế biến bột gạo, đậu tương, chế biến thuỷ sản. -Xây dựng và triển khai xuất khẩu tự doanh (bán FOB) hàng may mặc mức phấn đấu kim ngạch tối thiểu từ 500.000-1.000.000 USD. Có chính sách đẩy mạnh sản xuất chế biến của xí nghiệp chế biến quế để tăng số lượng và kim nghạch xuất khẩu mặt hàng quế và nông sản, đông thời tăng hiệu quả đầu tư. - Củng cố và tiếp tục hoàn thiện bộ máy quản lý xí nghiệp may, đẩy mạnh hoạt động sản xuất gia công của xí nghiệp này để chuẩn bị điều kiện mở thị trường Mỹ. - Chuyển hướng hoạt động của xí nghiệp lắp ráp xe máy theo cơ chế quản lý mới của nhà nước, coi đây là tố ban đầu để mở rộng sản xuất và kinh doanh dich vụ dựa vào nhu cầu trong nước. Về kinh doanh xuất nhập khẩu: Tập trung các nguồn lực để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có giá trị lớn như hàng nông sản, hàng may mặc, thiếc...Đồng thời phát triển xuất khẩu mặt hàng như công mỹ nghệ, hàng thuỷ sản và các mặt hàng khác. e) Phát triển các hoạt động dịch vụ: các dịch vụ thương mại như xuất nhập khẩu, uỷ thác, tạm nhập tái xuất, đại lý mua bán hàng hoá, giao nhận hàng hoá, cho thuê xe ô tô, kho tàng... Nâng cao chất lượng quản lý bằng cách áp dụng tin học, thực hiện nối mạng nội bộ và lựa chọn nguồn cung cấp dịch vụ thông tin phù hợp để khai thác ưu thế của ngân hàng thương mại điện tử của Công ty. g) Mở rộng hoạt đông xúc tiến thương mại bằng mọi hình thức: Quảng cáo trực tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng, lựa chọn hình thức quảng cáo phù hợp qua mạng tranh thủ sự giúp đỡ của bộ thương mại, phòng thương mại, cơ quan xúc tiến thương mại của nhà nước, mạng lưới sứ quán thương vụ Việt Nam ở nước ngoài và nước ngoài ở Việt Nam tham gia các cộc gặp gỡ tiếp xúc do các cơ quan xúc tiến thương mại trong và ngoài nước tổ chức. Tổ chức các đoàn đi khảo sát và ký kết hợp đồng tham dự hội chợ ngoài nước. Mục tiêu định hướng kà các thị trường EU, ASEAN, Nga, Đông Âu, Hoa Kỳ. Trung Quốc, Trung Đông. Hạch toán chặt chẽ theo hướng triệt để tiết kiệm, đồng thời có biện pháp giảm thiểu chi phí quản lý để dần dần hạ chi phí chung tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Công ty đa kinh doanh. III. Những kết luận về hoạt động xuất khẩu mặt hàng nông sản của Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I. 1. Những thành tích đã đạt được Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I đã có nhiều cố gắng trong lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản và đạt được những thành tích đáng mừng. Công ty đã nắm bắt được tình hình thị trường trong và ngoài nước và đưa ra được những kết luận đúng đắn cho hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty. - Kim ngạch xuất khẩu nông sản luôn tăng qua từng năm cho thấy sự nỗ lực về thị trường, về nguồn lực đã có kết quả. Mặt khác kết quả này cũng do doanh nghiệp biết tranh thủ mọi nguồn lực trong và ngoài nước, sự giúp đỡ của các ngành, các tổ chức có liên quan trong vấn đề tổ chức cũng như giao dịch hàng nông sản. Công tác nghiên cứu thị trường đã được chú trọng nhiều hơn so với trước đây. Doanh nghiệp đã ngày càng bám sát nhu cầu của thị trường trong xuất khẩu nông sản. Từ nắm vững được nhu cầu của khách hàng doanh nghiệp đã chủ động hơn trong việc khai thác tìm kiếm nguồn hàng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chất lượng các mặt hàng nông sản. - Quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng được Công ty thực hiện với tiến độ nhanh chóng, đảm bảo thực hiện những điều kiện đã giao kết trong hợp đồng góp phần củng cố uy tín của Công ty. -Trong quá trình xuất khẩu hàng nông sản Công ty luôn tuân thủ những quy định của nhà nước chấp hành nghiêm chỉnh các thủ tục xuất nhập khẩu và luôn hoàn thành các nghĩa vụ về thuế đối với nhà nước. -Việc tăng khối lượng giá trị xuất khẩu nông sản trong những năm qua đống góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Mặt khác việc tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản cũng đóng góp chung vào việc thúc đẩy sản xuất tiêu thụ và xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam nói chung. -Uy tín và mặt hàng của Công ty dần dần hình thành và bước tới có chỗ đứng trên trường quốc tế. Đã thu hút được nhiều quốc gia ký kết hợp đồng xuất khẩu với giá trị lớn. 2. Mặt còn tồn tại và nguyên nhân. Bên cạnh những thành tích đã đạt được kể trên Công ty hiện nay cũng đang phải đối mặt với những thách thức và không dễ gì vượt qua. -Về công tác nghiên cứu thị trường như đã nói trên trong những năm gần đây Công ty đã chú trọng nhiều hơn trong vấn đề nghiên cứu thị trường nhưng phải khẳng định rằng với cơ cấu tổ chức hiện nay thì việc nghiên cứu thị trường và hoạt động Marketing của Công ty sẽ khó đạt được kết quả như mong muốn. Hiện nay doanh nghiệp vẫn chưa thành lập phòng Marketing để chuyên đảm nhận công tác nghiên cứu thị trường và đề xuất các phương án Marketing. Việc chú trọng đầu tư hơn cho công tác nghiên cứu thị trường bằng cách thành lập phòng Marketing là một việc làm rất cần thiết lúc này. - Về cơ cấu tổ chức các phòng nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu cũng chưa thực sự hợp lí. Các phòng nghiệp vụ 5 và 7 tuy đều xuất khẩu các mặt hàng nông sản nhưng đều là những phòng xuất nhập khẩu tổng hợp.Việc cùng một mặt hàng cùng một thị trường mà có các phòng nghiệp vụ khác nhau tham gia xuất khẩu dẫn đến việc thiếu thống nhất trong chỉ đạo sẽ làm giảm hiệu quả kinh doanh. -Về vấn đề nhân lực: Tuy Công ty có thế mạnh về truyền thống và kinh nghiệm nhưng trước những yêu cầu mới cần bất cập về ngoại ngữ và tin học. Mặt khác Công ty đang thiếu những cán bộ quản lý giỏi ở những lĩnh vực hoạt động mới mở ra. Từ thực tế này, Công ty cần phải có quy chế tổ chức, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ hiện thời song song với việc tuyển dụng mới cán bộ trẻ, có kiến thức phù hợp với nhu cầu mới, tạo sức bật chung cho Công ty. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại nhất là tin học vẫn còn hạn chế. Công ty có thể thực hiên tốt hơn các thông tin dữ liệu nếu vi tính hoá toàn bộ mạng lưới hành chính doanh nghiệp. -Trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản, Công ty cũng đang phải đối mặt với vấn đề cạnh tranh ngày càng gay gắt. Nghị địng 57/ CP đã mở rộng tối đa quyền trực tiếp xuất khẩu cho mọi doanh nghiệp làm cho số lượng hàng hoá uỷ thác, xuất khẩu qua Công ty giảm nhiều trong những năm vừa qua. Bên cạnh đó ngày càng có nhiều doanh nghiệp xuất khẩu nông sản với quy mô nhỏ, cơ cấu tổ chức linh hoạt ứng biến nhanh nhạy với các biến động của thị trường đang là mối đe doạ đối với hoạt động kinh doanh của Công ty. Việc tranh mua tranh bán đã làm giá hàng xuất khẩu trong nước giảm trong khi đòi hỏi chất lượng ngày một cao. - Ngoài ra Công ty vẫn còn đang phải giải quyết những vấn đề nan giải khác như: vấn đề tập trung vốn cho xuất khẩu nông sản, vấn đề thực hiện tốt công tác tạo nguồn, vấn đề tăng cường đầu tư công nghệ trong lĩnh vực chế biến, bảo quản… CHƯƠNG III Phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty Chiến lược phát triển hàng nông sản trong thời gian tới. Tiềm năng sản xuất hàng nông sản của Việt Nam. Về sản xuất hàng nông sản, Việt Nam có tiềm năng khá lớn. Nếu như được đầu tư một cách đồng bộ, hợp lý, lâu dài sẽ hứa hẹn trở thành một trung tâm sản xuất nông sản lớn, tiềm năng này thể hiện ở: Về đất đai: Tiềm năng đất nông nghiệp của cả nước là 10- 11, 157 triệu ha, trong đó khoảng gần 8 triệu ha cây trồng hàng năm ( riêng trồng lúa khoảng 5,4 triệu ha ) và 2,3 triệu ha trồng cây lâu năm. Hiện nay Việt Nam mới chỉ sử dụng hết 65% quỹ đất nông nghiệp trong đó đất trồng cây hàng năm là 5,6 triệu ha trồng cây lâu năm là 86 vạn ha, ngoài ra 33 vạn ha đồng cỏ tự nhiên và 17 ha mặt nước. Số đất có thể mở rộng thêm phần lớn là đất dốc đã bị xói mòn, thoái hoá. Diện tích ở vùng miền núi Bắc Bộ chiếm khoảng 45% tổng diện tích vùng tây nguyên khoảng 76% và vùng đồng bằng Bắc Bộ khoảng 34%. Diện tích đất này nếu được đầu tư cải tạo thì rất thuận lợi cho phát triển trồng các cây công nghiệp dài ngày như cao su, cà phê, hạt tiêu... song nó đòi hỏi cần có một sự đầu tư lớn và phải sau một thời gian tương đối mới cần có thể sử dụng được. Trong khi đó ở hai vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long diện tích đất đưa vào sử dụng khá cao, lần lượt chiếm 93% và 82% tổng quỹ đất nhưng tình trạng thâm canh trong nông nghiệp vẫn còn lạc hậu, hệ thống thuỷ lợi còn yếu kém, hệ số sử dụng đất mới đạt trung bình 1,4 lần/năm. Bởi vậy nếu được đầu tư mạnh, phát triển sản xuất theo chiều sâu nhằm khai thác được lợi thế của các vùng đồng bằng trù phú thì sẽ trở thành những trung tâm sản xuất lúa gạo lớn. Chất lượng đất ở Việt Nam có tầng dầy, kết cấu tơi xốp, chất dinh dưỡng cung cấp cây trồng khá cao nhất là phù sa, đất xám, chủng loại đất cũng rất phong phú với 64 loại thuộc 14 nhóm. Những điều kiện này kết hợp với nguồn nhiệt ẩm dồi dào sẽ là cơ sở tốt để phát triển nhiều loại cây trồng, thâm canh tăng vụ nếu chúng ta biết khai thác khoa học, hợp lý. Về khí hậu. Khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng khá sâu của chế độ gió mùa Châu á. Khí hậu Việt Nam có tính đa dạng, phân biệt rõ ràng từ Bắc vào Nam, với một mùa đông lạnh ở miền Bắc, khí hậu kiểu Nam á ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Đây chính là điều kiện thuận lợi để Việt Nam đa dạng hoá các loại cây trồng nông sản. Thêm vào đó, tiềm năng nhiệt ẩm và gió khá dồi dào, phân bổ tương đối đồng đều trong nước. Với số giờ nắng cao, cường độ bức xạ lớn, tài nguyên nhiệt nước ta được xếp vào loại giầu. Với độ ẩm tương đối trong năm cao hơn 80%, lượng mưa lớn ( trung bình từ 1800 tới 2000mm/năm). Kết hợp với nguồn nhiệt giầu có, đây là điều kiện thuận lợi đối với một số loại cây trồng như lúa nước, cà phê, cao su, chè. Về nhân lực. Với dân số hơn 77 triệu người, cơ cấu dân cư trẻ và có hơn 80% dân số sống bằng sản phẩm nông nghiệp. Có thể nói nguồn cho nông nghiệp là rất dồi dào. Bên cạnh đó, người Việt Nam có đặc điểm là cần cù, thông minh, sáng tạo, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học công nghệ, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp. Đây là thuận lợi lớn cho Việt Nam để vươn lên một nền sản xuất nông nghiệp tiên tiến, tạo nguồn nông sản dồi dào cho tiêu dùng và xuất khẩu . Các chính sách của Nhà Nước. Ngoài những yếu tố thuận lợi trên, với quan điểm của Đảng và Nhà Nước, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu chính vì vậy nên việc sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản cũng được chú trọng. Quan tâm việc ưu đãi đầu tư trong nước và ngoài nước vào lĩnh vực sản xuất nông sản nhất là đối với cây trồng lâu năm như cà phê, cao su đã tạo được động lực mới cho sự phát triển ngành này. Việc đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp cùng tạo ra bước đột phá. Với tiềm năng to lớn của mình, triển vọng về sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam trong những năm tới là rất sáng sủa . Vấn đề đặt ra là làm thế nào để khai thác tiềm năng đó một cách tốt nhất để giải quyết vững chắc và ổn định lương thực phẩm cho toàn xã hội, đảm bảo nguyên liệu cho công nghiệp tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu các loại nông sản và nông sản chế biến tạo nên tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân. Để giải quyết vấn đề này nhiệm vụ đặt ra không phải chỉ do một Bộ, ngành nào mà đòi hỏi phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các Bộ, các ngành và các thành phần kinh tế... Hướng chiến lược của Việt Nam nhằm phát triển mặt hàng nông sản. Thấy được tầm quan trọng của việc xuất khẩu hàng nông sản nên Đảng và Nhà Nước đã đưa ra những chủ trương, chính sách kinh tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản như: - Nhà Nước có chủ trương khuyến khích xuất khẩu hàng có hàm lượng tinh lớn hay nói cách khác xuất khẩu hàng hoá từ nguyên liệu thô sang hàng hoá chế biến có chứa hàm lượng kỹ thuật cao, có giá trị lớn, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Do vậy, doanh nghiệp làm xuất nhập khẩu cần tranh thủ mọi nguồn vốn, đầu tư xây dựng cơ bản, trang thiết bị máy móc hiện đại dây truyền công nghệ phù hợp để tạo ra những sản phẩm tốt có giá trị cao để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. - Đối với thị trường xuất khẩu ta chủ trương lấy thị trường EU, Braxin, Mêxico, NHật Bản, Singapore, ấn Độ, ASEAN, Trung Quốc, Mỹ làm thị trường chính, tiến hành hợp tác liên doanh với các Công ty nước ngoài về sản xuất , chế biến hàng nông sản, để có hàng chất lượng cao, mẫu mã phong phú. Từ đó, Công ty học hỏi thêm được kinh nghiệm kinh doanh tiếp thu được những công nghệ tiên tiến. - Nhà nước cùng các doanh nghiệp tham gia vào việc tìm kiếm thị trường nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu, đồng thời Nhà Nước cũng khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào lĩnh vực sản xuất, chế biến hàng nông sản. Các doanh nghiệp này phát triển sẽ thu hút nhiều lao động, giải quyết việc làm đáng kể cho người lao động, góp phần cùng Nhà Nước giải quyết nạn thất nghiệp. Từ những định hướng chính trên, mục tiêu của Nhà Nước ta là tăng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản từ 5 tỉ USD/năm hiện nay và khoảng 15 tỉ USD vào năm 2010. Như vậy, kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng ít nhất không dưới 30%. Vấn đề lúc này là phương thức huy động vốn, trên cơ sở phát huy hết khả năng của tất cả các thành phần kinh tế bằng nhiều hình thức, kết hợp với các nhà đầu tư trong và ngoài nước để xây dựng nền nông nghiệp và chế biến thực phẩm Việt Nam có trình độ công nghệ hiện đại ngang tầm với các nước trong khu vực, phù hợp với chủ trương kết hợp công nghiệp hoá, hiên đại hoá đất nước của Đảng và Nhà Nước. 3. Mục tiêu và phương hướng hoạt động kinh doanh của Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I năm 2002. Năm 2001 Công ty đẵ phấn đấu để thực hiện kỳ kế hoạch mới (2001-2005) tuy nhiên kế hoạch trong thời gian dài nên Công ty cần phải từng bước phấn đấu để đạt được các mục tiêu đề ra. Vì vậy mục tiêu cho năm 2002 là: Kim ngạch xuất nhập khẩu : 70 triệu USD. Trong đó: Kim ngạch xuất khẩu : 35 triệu USD Kim ngạch nhập khẩu : 38 triệu USD Tổng doanh thu: 700 tỉ đồng. các khoản nộp ngân sách: 72,301 tỉ đồng. Lợi nhuận: 6 tỉ đồng. Năm 2002 Công ty vẫn tập trung các nguồn lực để đẩy mạnh các mặt hàng có giá trị lớn, các mặt hàng Công ty đã đầu tư xây dựng như hàng gia công may mặc, hàng nông sản, lâm sản các loại... đồng thời phát triển xuất khẩu các mặt hàng có tiềm năng như: hàng thủ công mĩ nghệ, hàng thuỷ sản, hàng công nghệ hàng tạm nhập tái xuất và các mặt hàng khác. Khai thác cơ hội để làm hàng nhập khẩu, chú ý nhóm hàng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, tham gia các hình thức kinh doanh mới như dự thầu, liên doanh dự thầu, cung cấp hàng hoá nhập khẩu và hàng trong nước. II . Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng nông sản của công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I. Các biện pháp củng cố và mở rộng thị trường. Thị trường xuất khẩu là một vấn đề quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của Công ty. Trong thời gian qua, việc khai thác các loại thị trường hiện có của Công ty đạt hiệu quả chưa cao, việc thâm nhập vào các thị trường lớn mặc dù đã được thực hiện nhưng với giá trị kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ, các thị trường truyền thống thuộc khối Liên Xô cũ và Đông Âu đã bị mất đi do khủng hoảng về chính trị. Vì vậy việc củng cố và mở rộng thị trường là rất quan trọng đối với Công ty. Để thực hiện tốt Công ty cần thực hiện các công việc sau: 1.1 Tăng cường nghiên cứu thị trường xuất khẩu . Nghiên cứu thị trường xuất khẩu giúp cho Công ty nắm bắt được xu hướng của thị trường, nhu cầu và tình hình cung cấp hàng nông sản thế giới để từ đó có những biện pháp cụ thể để thâm nhập vào thị trường.Thông tin cần có về thị trường hàng nông sản thế giới rất đa dạng và phức tạp. Muốn có thông tin cần thiết, Công ty phải coi việc nghiên cứu thị trường là công việc hàng đầu và tất yếu trong hoạt động kinh doanh của mình. Ngày nay thông tin đã trở thành một nguồn lực bên cạnh các nguồn lực khác, chúng ta muốn hiểu biết về hàng khác phải thông qua tin. Nhu cầu về thông tin ngày càng trở nên cấp bách do thị trường thay đổi về quy mô và phạm vi sự thay đổi về chất của nhu cầu, sự lựa chọn của khách hàng thay đổi, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt với các hình thức cạnh tranh ngày càng đa dạng. Chính vì vậy thu thập và xử lý thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu thị trường. Có nhiều cách mà thông qua đó Công ty có thể có được những thông tin cần thiết về thị trường. Nguồn ghi chép nội bộ Đây là nguồn thông tin về thị trường hết sức chính xác, hơn nữa chi phí lại đơn giản. Tuy nhiên nguồn này chưa cho phép doanh nghiệp có cái nhìn bao quát tổng thể thị trường khu vực và thế giới, Công ty có thể thu thập thông tin từ các báo cáo về đơn đặt hàng, tình hình tiêu thụ, giá cả mức dự trữ Nguồn qua sách báo ấn phẩm Đây là một trong những nguồn mà công ty rất hay sử dụng để thu thập thông tin. Thông qua sách báo, chuyên nghành, tạp chí, các báo cáo của Chính phủ, của Bộ thương mại đặc biệt qua mạng Internet Công ty có thể có những thông tin mới nhất hàng ngày. Công ty cũng cần tham gia hội trợ triển lãm trong nước và các nước trong khu vực nhằm giới thiệu mặt hàng kinh doanh và tìm kiếm những cơ hội kinh doanh mới cho công ty. Tóm lại, Công tác nghiên cứu thị trường là cực ký quan trọng và không thể bỏ qua. Nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế không cho phép doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới mà không trang bị thông tin đầy đủ về thị trường, nếu không chắc chắn sẽ bị bóp ngẹt và rủi ro là điều khó tránh khỏi. Đổi mới phương thức thâm nhập thị trường: từ xuất khẩu gián tiếp sang xuất khẩu trực tiếp. Trong thời gian tới, cùng với việc tích luỹ kinh nghiệm xuất khẩu và nâng cao hơn nữa trình độ năng lực của cán bộ làm marketing xuất khẩu, Công ty cần phải xuất khẩu trực tiếp sản phẩm sang thị trường nước ngoài. Hơn nữa, thay vì xuất khẩu bị động như hiện nay, cũng cần phải xuất khẩu theo quan điểm marketing, tức là xuất từ thị trường và nhu cầu, mong muốn của người tiêu dùng ngoài nước, xây dựng các chính sách Marketing hỗn hợp thích nghi tốt nhất với điều kiện và đặc điểm của từng thị trường quốc gia. Đối với Công ty, từ hình thức xuất khẩu gián tiếp là chủ yếu hiện nay, khả năng bán trực tiếp cho khách hàng là rất khó. Công ty chưa có đủ khả năng thiết lập mạng phân phối riêng hay tiến hành liên doanh với các đối tác nước ngoài. Trong những năm trước mắt, sử dụng các trung gian phân phối của các nước nhập khẩu dường như là giải pháp hợp lý nhất. Xét về khả năng và điều kiện hiện nay, hình thức phân phối gián tiếp vẫn được xem là cách thức chủ yếu không chỉ đối với công ty mà cả đối với các doanh nghiệp khác để thâm nhập vào thị trường nước ngoài. Tuy nhiên bây giờ trên cơ sở mở rộng các quan hệ kinh doanh và tích lũy kinh nghiệm xuất khẩu , Công ty phải từng bước chủ động trong việc tìm kiếm thị trường và tổ chức mạng lưới phân phối ngắn nhất có thể có. Công ty cần có chính sách marketing hỗn hợp phù hợp trên thị trường xuất khẩu. Họat động Marketing ngày càng phát triển và được thực hiện hoàn thiện hơn đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường như hiện nay khi mà có rất nhiều các dơn vị cùng tham gia hoạt động xuất khẩu. Marketing mix được coi là công cụ quan trọng để công ty đạt được những mục tiêu đề ra. Nếu việc áp dụng marketing mix không phù hợp thì không những không mở rộng thị trường mà còn mất thêm cả khách hàng truyền thống. Điều này đòi hỏi công ty phải xây dựng chính sách marketing phù hợp, phải biết kết hợp hài hoà giữa các tham số giá cả, sản phẩm, phân phối xúc tiến một cánh linh hoạt, thích hợp với đặc điểm của mỗi thị trường để đạt được hiệu quả cao với mức chí phí hợp lý nhất mà vẫn lôi kéo được khách hàng từ thị trường đó. Chính sách sản phẩm xuất khẩu Vấn đề đầu tiên, quan trọng nhất là sản phẩm nông sản xuất khẩu phải thích nghi và đáp ứng được nhu cầu của thị trường nưóc ngoài về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng, bao gói của sản phẩm. Chỉ có những sản phẩm xuất khẩu chất lượng cao mới có thể đứng vững trên thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế, Công ty còn khó biết được một cách trực tiếp và chính xác sản phẩm của họ đáp ứng nhu cầu thị trường ở mức độ nào. Vấn đề thứ hai trong chính sách sản phẩm xuất khẩu là Công ty cần thực hiện đa dạng hoá sản phẩm nhằm nâng cao khả năng đáp ứng các cấp độ nhu cầu khác nhau của khách hàng mục tiêu, tận dụng năng lực hiện có và phân tán rủi ro. Vấn đề thứ ba là phát triển sản phẩm mới nhằm tăng cường khả năng nắm bắt các cơ hội thị trường mới để giảm thiểu rủi ro gắn liền với những thay đổi của nhu cầu và thị trường. Vấn đề thứ tư, đối với những sản phẩm xuất khẩu trực tiếp hoặc có chất lượng cao, cố gắng sử dụng nhãn hiệu của người sản xuất kết hợp với nhãn hiệu của nhà nhập khẩu, phân phối. Chiến lược giá cả Hiện nay, Công ty áp dụng giá gia công và xuất khẩu FOB trên cơ sở thoả thuận với khách hàng nước ngoài. Để tránh tình trạng ép giá, cần thiết phải xây dựng một khung giá cho từng loại sản phẩm xuất khẩu trên cơ sở phân tích và nghiên cứu chi phí, giá cả thị trường quốc tế và giá sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. Theo vị thế cạnh tranh hiện nay, công ty có thể duy trì mức giá bán sản phẩm trên cơ sở cải tiến chất lượng nhờ đó tạo ra một quan hệ giá cả- chất lượng cao hơn, có lợi hơn cho khách hàng và do đó nâng cao khả năng cạnh tranh về giá của hàng xuất khẩu của Công ty. Như vậy, chính sách sản phẩm xuất khẩu của công ty trong thời gian tới cần phải vận động theo hướng tăng giá trị của sản phẩm xuất khẩu trên cơ sở giữ vững cạnh tranh về giá. Công ty cần phấn đấu xuất khẩu trực tiếp bán theo giá CIF. Đẩy mạnh truyền tin và xúc tiến hỗn hợp Trong chính sách xúc tiến hỗn hợp các sản phẩm xuất khẩu , cần đặc biệt quan tâm đến quảng cáo và tuyên truyền. Biện pháp khuyến mại bán hàng cá nhân và Marketing trực tiếp có vẻ chưa phù hợp vào giai đoạn phát triển quốc tế hiện nay của Công ty, vì vậy công ty cần mở rộng hơn nữa việc tham gia hội chợ, quảng cáo trên mạng Internet, gửi đơn đặt hàng đến nhà nhập khẩu nước ngoài…tận dụng mọi cơ hội để giới thiệu, khuyếch trương uy tín về sản phẩm của mình. Bên cạnh đó, một vấn đề khác cũng cần được đề cập đến là chọn đúng sản phẩm tham gia, đảm bảo tuân thủ đúng các quy định tham gia…Kết thúc hội chợ, cần phải dành thời gian thích đáng để củng cố các quan hệ đã thiết lập hoặc tiếp tục chào bán sản phẩm…Thư chào hàng tiếp sau hội chợ góp phần quan trọng trong việc đẩm bảo thành công quá trình xúc tiến bán trên thị trường xuất khẩu . 2. Hoàn thiện công tác tạo nguồn. Công tác tạo nguồn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động xuất khẩu. Nguồn hàng tốt đáp ứng kịp thời và chính xác nhu cầu của thị trường, giúp thực hiện đúng thời hạn hợp đồng với chất lượng cao sẽ là nhân tố quyết định đem lại sự thành công trong thương vụ và nâng cao uy tín của doanh nghiệp . để có nguồn hàng tốt, Công ty thực hiện các nhiệm vụ: mở rộng các hình thức tạo nguồn, nâng cao chất lượng sản phẩm và thực hiên tốt khâu bảo quản dự trữ. 2.1 Mở rộng hình thức tạo nguồn. Các hình thức tạo nguồn ở Công ty hiện nay còn nhiều hạn chế. Hình thức chủ yếu Công ty sử dụng là mua từ các đầu mối khác nhau ở các địa phương hoặc thu mua tập trung qua các trung gian. Hình thức này có ưu điểm là nhanh gọn, không phải đầu tư trong thời gian dài, Công ty lại có thể nhanh chóng chuyển đổi mặt hàng kinh doanh. Tuy nhiên, nhược điểm của hình thức này là không chủ động được về chất lượng, chi phí… Công ty cần phải đa dạng hơn nữa các hình thức thu mua, cụ thể: - Tổ chức tốt mạng lưới thu mua hàng nông sản, giảm bớt hình thức thu mua qua trung gian vừa làm tăng giá, vừa khó kiểm soát về chất lượng. - Tăng đầu mối thu mua ở ngay tại vùng nguyên liệu hoặc trực tiếp đặt hàng tại các cơ sở chế biến nông sản để chủ động hơn về chất lượng, giảm chi phí, chủ động về thời gian nhập hàng. - Mở rộng phạm vi thu mua nguyên liệu, thiết lập thêm đại lý mua ở miền trung và miền nam. - Xây dựng thêm các xí nghiệp chế biến nông sản để tăng chất lượng và giảm giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó công ty còn có thể sử dụng các hình thức liên doanh, liên kết với các đơn vị sản xuất và chế biến. 2.2 Đẩy mạnh chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là một yếu tố canh tranh quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu. Chất lượng nông sản phụ thuộc rất nhiều vào khả năng chế biến hay nói đúng hơn là công nghệ chế biến. Trong những năm trước, Công ty thường phải mua hàng nông sản dạng nguyên liệu rồi thuê chế biến, việc này nảy sinh các vấn đề sau: - Chất lượng hàng hoá không đều, không ổn định. đây là điều rất dễ xảy ra khi thuê nhiều đơn vị chế biến mà mỗi đơn vị lại có công nghệ chế biến khác nhau. Điều này gây bất lợi lớn, dễ làm mất uy tín của Công ty đối với các đối tác nước ngoài. - Chi phí chế biến cao làm cho giá thành sản phẩm tăng, lợi nhuận giảm. Mặt khác, nếu tăng giá bán sản phẩm, Công ty sẽ bị mất khách hàng. Chính vì vậy việc xây dựng thêm cơ sở chế biến là rất cần thiết. Hiện nay Công ty đã có một số cơ sở chế biến riêng hoạt động rất hiệu quả như xí nghiệp Quế, xí nghiệp chế biến hạt điều…càng cho thấy hướng đi trên là đúng đắn. Đồng thời với việc đẩy mạnh chế biến, công tác giám định chất lượng đối với nguồn hàng xuất khẩu cần được thực hiện nghiêm ngặt bởi đó là công việc quyết định đến chất lượng hàng hoá. 2.3 Thực hiện tốt công tác dự trữ và bảo quản hàng hoá. Để hàng hoá tốt thực hiện cho xuất khẩu thì không thể không thực hiện tốt công tác dự trữ và bảo quản hàng hoá. Sau khi đưa hàng hoá về đến kho trạm, các tổ kho phải thực hiên tốt các công tác phân loại, bao gói, xếp hàng hoá vào kho và hàng loạt các nghiệp vụ dự trữ và bảo quản khác để giữ gìn chất lượng, số lượng hàng hoá và luôn sẵn sàng xuất hàng một cách nhanh chóng thuận tiện. Trong dự trữ và bảo quản hàng hoá các yêu cầu kỹ thuật của kho chứa hàng rất quan trọng, nhất là đối với hàng nông sản rất dễ bị ẩm mốc, mối mọt, mục nát hàng… Hiện nay ở Công ty có một số kho không đủ yêu cầu cho việc dự trữ hàng nông sản: mái dột, nền ẩm, hệ thống thoát khí không đật yêu cầu, do đó Công ty cần có kế hoạch nâng cấp những kho hàng này bằng cách sửa lại mái, thay đổi, lắp đặt hệ thống mới máy điều hoà nhiệt độ, máy hút ẩm. Bên cạnh đó, Công ty nên yêu cầu các nhân viên của kho phải thường xuyên kiểm tra hàng hoá, kiểm tra các điều kiện về nhiệt độ, độ ẩm phù hợp với đặc tính bảo quản từng loại hàng hoá. Trong công tác dự trữ hàng hoá, cần có kế hoạch dự trữ cụ thể theo từng kỳ hoặc theo thời vụ đối với từng loại mặt hàng. Việc dự trữ đúng, đủ, kịp thời về thời gian cho phép giảm tối đa chi phí bảo quản, tránh việc ứ đọng hàng hoá trong kho gây ra các thiệt hại về kinh tế. Đa dạng hoá các loại hình xuất khẩu . Để đảm bảo 3 mục tiêu: lợi nhuận , vị thế và an toàn, Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I cần phải đa dạng hoá các loại hình kinh doanh xuất khẩu . * Xuất khẩu tự doanh: với hình thức xuất khẩu tự doanh Công ty sẽ tự tìm kiếm giao dịch và thực hiện hợp đồng với bạn hàng. Tăng cường hoạt động tự doanh có nghĩa là công ty phải năng động sáng tạo, chủ động hơn trong các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, đây sẽ phải là loại hình kinh doanh xuất khẩu chủ yếu của Công ty, nó phù hợp với xu thế phất triển tất yếu của nền kinh tế thị trường, phù hợp với chức năng kinh doanh. Muốn có bạn hàng thường xuyên, Công ty cần phải có kế hoạch cụ thể trong nghiệp vụ nghiên cứu thị trường , đàm phán giao dịch, thu hút sự quan tâm khách hàng, củng cố uy tín. Với loại hình xuất khẩu tự doanh Công ty sẽ chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh, tìm kiếm thị trường và điều quan trọng hơn cả là nó khẳng định sức sống của Công ty trong nền kinh tế thị trường tranh mua, tranh bán. * Xuất khẩu uỷ thác: bên cạnh hình thức xuất khẩu tự doanh, Công ty còn có thể tiến hành xuất khẩu uỷ thác cho các đơn vị sản xuất kinh doanh khai thác để thu chi phí dịch vụ uỷ thác. Đối với loại hình kinh doanh xuất khẩu này các khâu nghiệp vụ được rút ngắn lại, Công ty chỉ phải thực hiện các vấn đề kí kết, thực hiện hợp đồng xuất khẩu với bên nước ngoài và làm những thỏa thuận cần thiết với các đơn vị sản xuất trong nước. Loại hình xuất khẩu này đem lại lợi nhuận không cao song tương đối an toàn, ít rủi ro, đặc biệt phù hợp với thời điểm vốn chưa thu hồi kịp. Là một doanh nghiệp thực hiện chức năng xuất khẩu hàng hoá thì việc thực hiện dịch vụ uỷ thác trong xuất khẩu là phù hợp với Công ty và góp phần tăng doanh thu của toàn bộ hoạt động xuất khẩu . * Xuất khẩu đối lưu: xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu cũng là một hình thức xuất khẩu lớn của Công ty. Với chức năng xuất nhập khẩu tổng hợp, Công ty có thể tham gia vào bất cứ lĩnh vực nào miễn là lợi nhuận cao. Với hình thức này, Công ty có thể đáp ứng nhu cầu của phía nước ngoài nếu họ đang tìm kiếm loại hàng hoá nào đó và Công ty sẽ là người tìm kiếm giúp họ. Sau đó hai bên tiến hành trao đổi hàng hoá có giá trị tương đương với nhau. Những hàng hoá nhập về được Công ty đem bán ở các cửa hàng hoạc có thể bán lại cho khách hàng trong nước. Ưu điểm của loại hình này là Công ty sẽ thu được lợi nhuận từ cả 2 khâu xuất khẩu và nhập khẩu, Công ty phải xuất ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá. * Xuất khẩu gia công uỷ thác: hiện nay công ty đang dự kiến tham gia xuất khẩu dưới dạng liên doanh chế biến nông sản gia công và liên doanh với một số Công ty của Nhật Bản, Đài Loan. Trong đó phía Công ty góp một phần nguyên liệu, sức lao động. Còn phía nước ngoài thì cung cấp dây chuyền, máy móc, công nghệ sản phẩm sản xuất sẽ được xuất sang Nhật Bản, Đài Loan hay Singapore. Đây là hình thức có triển vọng, tạo thuận lợi cho Công ty trong việc tìm kiếm thị trường , giảm cạnh tranh với các nước ASEAN. Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu . Trong hoạt động xuất khẩu nông sản, vấn đề cạnh tranh là không thể tránh khỏi. Điều quan trọng là Công ty nên sử dụng những biện pháp nào để tăng sức cạnh tranh hàng hoá của chính mình và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Như đã nói trên chất lượng, giá cả hàng hoá là công cụ chính để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá. Tuy nhiên bên cạnh các nhân tố này, việc đa dạng hoá phương thức kinh doanh cũng là rất quan trọng để tăng khả năng xuất khẩu hàng nông sản của Công ty. Đa dạng hoá phương thức kinh doanh bao gồm: Đa dạng hoá hơn nữa các hình thức xuất khẩu , các mặt hàng nông sản xuất khẩu và đa dạng hoá mối quan hệ kinh doanh. Với tình hình Công ty hiện nay nên trú trọng vào việc đa dạng hoá các mặt hàng. Bên cạnh những mặt hàng nông sản truyền thống như gạo, lạc nhân, cao su, hạt tiêu… Công ty có thể xúc tiến một số mặt hàng khác như chè , ngô, vừng, mây, cói, tơ tằm… là các sản phẩm nông sản khá phổ biến và chất lượng tương đối cao của Việt Nam. Ngoài các giải pháp trên công ty cần có những giải pháp cụ thể trong thời gian tới: * Tăng cường đầu tư cho khâu chế biến Khâu chế biến là khâu quan trọng quyết định đến chất lượng và giá thành của hàng nông sản xuất khẩu . Do vậy để tăng cường công tác chế biến đòi hỏi Công ty phải đầu tư thoả đáng để tập trung để đưa tiến độ kỹ thuật vào khâu sau thu hoạch nhằm giảm tổn thất hao hụt sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm. * Đầu tư thiết bị, đổi mới công nghệ cho khâu sản xuất. * Khâu lưu thông vận chuyển : Đầu tư đóng hoặc nhập khẩu các phương tiện vận chuyển chuyên dùng phương tiện kho lạnh, nâng cấp thiết bị vận chuyển để đảm bảo hàng không bị hư hao, mất mát, đổ vỡ và suy giảm chất lượng trên đường vận chuyển; khôi phục hệ thống vận tải đông lạnh bằng đường biển trên một số luồng quan trọng. Nhà nước cần có chính sách tháo gỡ ách tắc giao thông trên các trục đường vận chuyển hàng ra cảng đảm bảo hàng không bị nằm lâu trên đường vận chuyển, đảm bảo không những về chất lượng hàng hoá mà cả thời hạn giao hàng. Về cam kết thực hiện đúng thời hạn giao hàng với khách hàng nước ngoài, cần tổ chức tốt một số các tác nghiệp cụ thể sau: Ký hợp đồng lâu dài với các cơ sở và người sản xuất, nắm vững và thường xuyên kiểm tra luồng hàng; đa dạng hoá và ổn định nguồn hàng xuất khẩu, tổ chức khâu thu mua kịp thời, tránh tình trạng tàu đã nhập cảng mà vẫn tập trung hàng để xếp và phải chờ hàng, thực hiện chế độ thưởng cho các nhà cung cấp hàng thực hiện tốt cam kết hợp đồng cho xuất khẩu. Khai thác các luồng vận chuyển hợp lý, thuận tiện, thuê các hãng tầu có phương tiện vận tải tốt và có uy tín, tránh tình trạng hàng phải chờ tầu. Cải tiến khâu thủ tục giấy tờ phiền hà, tốn thời gian, để hàng phải chờ lâu vì các khâu thủ tục rườm rà tại các điểm bốc xếp hàng tại cảng. Thông tin kịp thời về tình hình hàng hoá từ khi ký hợp đồng đến khi giao hàng, nhất là các trường hợp bất khả kháng, giữ uy tín với khách hàng về cam kết giao hàng đúng thời hạn đã thoả thuận. * áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000 Một doanh nghiệp muốn đứng vững trong hoạt động kinh doanh thì việc liên tục giảm giá thành và cải tiến chất lượng là điều tấ yếu không thể không quan tâm. Chính vì vậy vấn đề chất lượng ngày nay trên thế giới không chỉ đặt ra ở cấp độ công ty mà còn là mối quan tâm của cả quốc gia. Chất lượng đã và đang trở thành một trong những mục tiêu có tầm chiến lược quan trọng trong các kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế của nhiều nước. Nâng cao chất lượng sản phẩm đối với các doanh nghiệp Việt Nam là một vấn đề có thể nói là sống còn. Khả năng xuất khẩu của Việt Nam có thể cao hơn hiện tại nếu hàng xuất khẩu có hàm lượng chế biến cao hơn. Quan trọng hơn là khi hoàn thành xong chương trình CEPT, khi chính thức là thành viên của WTO, về lý thuyết Việt Nam có cơ hội xuất khẩu hàng lớn hơn nhưng thực tế điều đó không dẽ xẩy ra khi chất lượng hàng hoá của các nước thành vieen, thậm chí trong nước khi đó còn tràn ngập hàng giá rẻ với chất lượng cao, bóp chết các ngành công nghiệp non trẻ trong nước. Làm thế nào để tăng chất lượng sản phẩm mà lại giảm được giá thành ? Cách tốt nhất là áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO được cả thế giới công nhận. Nói cách khác, một doanh nghiệp Việt Nam đạt được tiêu chuẩn ISO 9000 là áp dụng hệ thống quản lý chất lượng toàn diện TQM. Hàng ngàn công ty thành đạt trên thế giới nhờ vào cách làm ăn trung thực, giữ uy tín, không chụp giật đã tạo ra lợi nhuận để phát triển bền vững theo cách quản lý hệ thống theo ISO 9000 và TQM xây dựng và làm theo các quá trình thiết kế nhằm phòng ngừa sự không phù hợp ở tất cả các giai đoạn từ thiết kế đến dịch vụ sau khi bán. Đây là hình thức để các doanh nghiệp Việt Nam tăng sức cạnh tranh sản phẩm của mình trong quá trình hội nhập cùng khu vực và thế giới. Huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi đơn vị sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường được nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các hoạt động kinh tế thì vấn đè vốn cũng phần nào bớt căng thẳng với các doanh nghiệp. Vốn có thể được huy động bằng nhiều hình thức: * Công ty có thể tự bổ sung vốn lưu động và vốn cố định của mình trích từ lợi nhuận hàng năm. Đây phải là nguồn vốn cơ bản của Công ty và tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh cuẩ mỗi năm mà nguồn vốn này có thể thay đổi. Nguồn vốn tự có này thể hiện quy mô của Công ty. Tuy nhiên vì điều kiện thực tế là Công ty kinh doanh trong nhiều lĩnh vực, vốn bị rải rác, trong khi hoạt động xuất khẩu lại yêu cầu một lượng vốn lớn nên ngoài vốn tự có, Công ty phải sử dụng các hình thức khác để huy động vốn. Công ty có thể tiến hành nghiên cứu dự án liên doanh, liên kết với bạn hàng nước ngoài trong những khoảng thời gian nhất định nhằm thu hút nguồn vốn từ bên ngoài vào Công ty. Cùng với chủ trương chung của Nhà nước là kêu gọi, khuyến khích sự đầu tư của các nước phát triển vào Việt Nam thì việc Công ty tiến hành liên doanh liên kết sao cho có lợi cho Công ty mà không ảnh hưởng đến tương lai lâu dài của công ty cũng như lợi ích xã hội mới là điều đáng quan tâm. Ngoài ra, cũng cần phải có những thoả thuận chi tiết về thời hạn liên doanh, tỉ lệ góp vốn, phạm vi hoạt động v.v…Trên cơ sở đã nghiên cứu cụ thể về thực trạng, xu hướng phát triển của Công ty, của đối tác của thị trường nông sản, các chính sách pháp luật của Nhà nước. Có thể nói liên doanh là hình thức huy động vốn tương đối mới nhưng cũng đã phổ biến ở nước ta. Song để đạt hiệu quả cao thì cần phải có sự nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi thực hiện. * Huy động vốn thông qua các tổ chức tài chính tín dụng: Cùng với sự lớn mạnh của cơ chế thị trường là sự hoàn thiện các hệ thống ngân hàng và hoạt động ngân hàng của nước ta. Ngân hàng trở thành nơi tin cậy cho các doanh nghiệp có thể huy động vốn thông qua các hình thức vay ngắn hạn, dài hạn, tín dụng xuất khẩu để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động thương mại quốc tế. Mặc dù có nhiều khó khăn để tiếp cận nguồn vốn này nhưng Công ty cũng phải coi đây là một nguồn quan trọng để khai thác. Hiện nay ngân hàng đã giảm lãi suất cho vay nên rất thuận lợi cho các Công ty vay vốn trực tiếp từ các ngân hàng để thu mua nông sản, chế biến, xuất khẩu. Vốn là vấn đề khó khăn đối với mọi đơn vị kinh doanh nhưng chắc chắn nó không phải là vấn để bế tắc bởi có nhiều cách huy động vốn. Điều quan trọng hơn là làm thế nào để sử dụng những đồng vốn đó một cách có hiệu quả. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thiếu vốn cũng là do việc sử dụng vốn một cách lãng phí, bừa bãi, không tiết kiệm. Công ty cần có những biện pháp tích cực nhằm tăng nhanh vòng quay của vốn tránh ứ động vốn ở khâu này trong khi thiếu vốn ở khâu khác, đó là việc phân phối nguồn vốn hợp lý có kiểm tra, kiểm soát vòng tuần hoàn của vốn và đánh giá mức sinh lợi của mỗi vòng vốn bỏ ra. 5. Nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên. Trình độ cán bộ là một trong những nguồn lực cơ bản của Công ty xuất nhập khẩu thi. Công ty đi lên như hiện nay là nhờ có đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ thông tin về nghề nghiệp, nhiệt tình với hết khả năng và trách nhiệm của mình. Hiện tại lao động gián tiếp của Công ty chỉ có 9% trong tổng số cán bộ công nhân viên, trong đó có tới 90% là đại học và trên đại học. Hàng năm thông qua hệ thống kiểm tra tuyển dụng bổ nhiệm, Công ty có tuyển thêm một số cán bộ trẻ có bằng cấp, có trình độ chuyên môn thực sự am hiểu về nghề nghiệp, về thị trường, có phương pháp đánh giá và tư duy tốt. Tuy nhiên, cho đến nay Công ty vẫn chưa có hình thức nâng cao và bổ xung kiến thức rộng rãi cho cán bộ xuất nhập khẩu vì lý do quá bận công việc. Để đảm bảo cho Công ty có đội ngũ cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng kiến thức ngắn ngày do các giáo sư, tiến sỹ trực tiếp giảng dạy. Ngoài ra, Công ty cũng cần có những chính sách khuyến khích vật chất, tinh thần để động viên các cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu, sử dụng cơ chế khoán có quản lý phần nào cũng khuyến khích được cán bộ công nhân viên tích cực tham gia kinh doanh, tạo sự tương đối công bằng trong thực hiện nghiệp vụ và thu nhập. Công ty vẫn cần tiếp tục hoàn thiện hơn nhất là khâu giao chỉ tiêu và gắn nó vào chương trình đẩy mạnh xuất khẩu. III. Kiến nghị với Nhà nước và bộ chủ quản. Đối với Việt Nam trong tương lai, xuất khẩu nông sản là hoạt động quan trọng nhằm tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế đất nước, nó xứng đáng được đặt lên vị trí ưu tiên trong chính sách và chiến lược kinh tế của nhà nước ta. Nhằm đưa quy mô hoạt động xuất khẩu lên ngang tầm với tiềm năng của đất nước. Điều đó cần có sự lỗ lực lớn từ phía nhà nước và các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu nông sản. Từ đó em mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với nhà nước nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nông sản của doanh nghiệp Việt Nam. 1. Đẩy mạnh sản xuất và chế biến mặt hàng nông sản Việt Nam. Sản xuất chính là khâu tạo ra hàng cho xuất khẩu, nó ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu chất lượng hàng xuất khẩu. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu nông sản thì bên cạnh việc tiếp tục mở rộng diện tích gieo trồng, Việt Nam cần phải đầu tư mạnh cho phát triển sản xuất hàng nông sản theo chiều sâu, từng bước nâng cao chất lượng hàng nông sản. Các biện pháp tiến hành bao gồm: * Tạo nguồn vốn ban đầu cho nông dân: Đây là việc làm hết sức cần thiết vì để mở rộng dược diện tích gieo trồng, thay đổi cơ cấu giống cây trồng, áp dụng những tiến bộ khoa học quản lý vào sản xuất đòi hỏi phải có những chi phí không nhỏ mà nhiều người nông dân vay vốn với lãi xuất ưu đãi diễn ra dàn trải dẫn tới mỗi hộ nông dân chỉ có thể vay một vài trăm ngàn đồng, không đủ đầu tư cho sản xuất. Các hộ nông dân năng động muốn làm ăn lớn đã chấp nhận đi vay vốn tín dụng thông thường lại gặp khó khăn tronh vấn đề thế chấp tài sản. Để khắc phục hạn chế này, thời gian tới nhà nước cần đưa ra những chính sách ưu đãi đối với ngân hàng phục vụ người sản xuất hàng nông sản, khuyến khích các cơ sở chế biến, các nhà kinh doanh nông sản ứng trước vốn để mua nông sản. Bên cạnh đó cũng cần khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực này. * Cải tạo giống cây trồng nhằm nâng cao chất lượng hàng nông sản: Cần ưu tiên đầu tư cao cho lĩnh vực giống, tạo đột phá về năng suất, chất lượng của hàng nông sản nước ta trên thi trường thế giới và khu vực. - ứng dụng sinh học hiện đại và công nghệ sinh học để bảo tồn quỹ đen quốc gia, tạo giống mới có năng suất và chất lượng cao, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. - Đầu tư và hiện đại hoá hệ thống viện nghiên cứu khoa học ở các vùng sinh thái để đảm bảo thực hiện những nhiệm vụ trên và cung cấp giống lúa tốt cho xuất khẩu . - Chính phủ nên có một chương trình trọng điểm về công tác giống để tiến tới đạt mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản, đuổi kịp các nước trong khu vực về giống. * Tổ chức thu mua nông sản cho người nông dân: về khả năng vốn có hạn các điều kiện về kho hàng cất giữ còn hạn chế nên người nông dân phải bán nông sản ngay sau khi thu hoạch, trong khi Nhà nước lại chưa kịp thu mua nông sản cho người dân. Điều này dẫn đến tình trạng tư thương lợi dụng ép giá người nông dân. Để tránh tình trạng này Nhà nước cần chuẩn bị kỹ lưỡng về vốn, kho tàng mạng lưới thu mua,…tạo điều kiện để cho các Công ty vay vốn ngân hàng thu mua nông sản xuất khẩu. 2. Đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu. Trước hết chủ trương đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp là một chủ trương hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà Nước ta trong điều kiện nước ta hiện nay vì một mặt khai thác hết tiềm năng của sản xuất nông nghiệp Việt Nam, tạo cơ sở nguồn hàng nông sản xuất khẩu quy mô lớn và phong phú về chủng loại sản phẩm. Mặt khác do quá trình công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển đang diễn ra mạnh mẽ, tác động mạnh đến thị trường hàng nông sản thế giới theo hướng làm thay đổi lợi thế so sánh trong sản xuất nông nghiệp của các nước để lấp lỗ hổng nhu cầu của thị trường. Để thực hiện giải pháp này, chính phủ cần có thu hoạch tổng thể, lâu dài về phát triển nông nghiệp hàng hoá phù hợp với yêu cầu phát triển đối với từng vùng trong sự hài hoà với các vùng khác, đặc biệt là phù hợp với triển vọng buôn bán của sản phẩm trên thị trường thế giới. đa dạng hoá nông nghiệp đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ với nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ công nghệ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông sản xuất khẩu . Chính phủ cần xây dựng các chính sách làm giảm bớt các rủi ro của thị trường như quy định về giá sàn đối với sản phẩm nông sản, sử dụng ngân sách để can thiệp kịp thời khi giá cả bị sụt xuống dưới mức giá sàn quy định và có trợ giúp ban đầu, xây dựng hình thức bán bảo hiểm cho cây nông sản. Cần phát triển và nâng cao chất lượng thông tin, nhất là các thông tin dự báo triển vọng thị trường chung và dài hạn đối với hàng nông sản. 3. Tăng cường năng lực chế biến hàng xuất khẩu nông sản. * Khuyến khích chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu từ xuất khẩu sản phẩm thô giá trị thấp sang xuất khẩu sản phẩm chế biến sâu có giá trị cao thông qua việc phát triển công nghiệp chế biến, gắn vùng nguyên liệu với công nghiệp chế biến, đánh thuế cao đối với hàng xuất khẩu dạng nguyên liệu thô mà trong nước đã có cơ sở chế biến. * Đầu tư đồng bộ xây dựng mới và nâng cấp thiết bị cho các cơ sở, hệ thống sơ chế, chế biến thành phẩm và kho bảo quản chuyên dùng tại nơi sản xuất và cảng xuất hàng nông sản. * Kêu gọi đầu tư nước ngoài, liên doanh hoặc đầu tư tư nhân, cấp tín dụng trung, dài hạn để đầu tư xây dựng cơ sở chế biến, xuất khẩu sản phẩm chất lượng cao, bao bì đẹp và hấp dẫn. *Thực hiện nghiêm chỉnh khâu kiểm tra chất lượng hàng trước khi giao, đảm bảo hàng xuất đúng yêu cầu đã kí kết trong hợp đồng. * Nghiên cứu chế tạo nhập khẩu, phổ biến các loại máy móc, thiết bị với công nghệ tiên tiến để nâng cao các khâu phơi sấy, bảo quản, chế biến nông sản. 4. Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu Mặc dù nước ta đã có nhiều thành công trong việc xây dựng hệ thống tín dụng nông thôn nhưng mới chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu vay vốn của nông thôn. Nhiều hộ gia đình chưa tiếp cận được nguồn vay của các tổ chức tín dụng chính thức, phải vay ở thị trường không chính thức với lãi suất cao. Bởi vậy hướng tín dụng trong thời gian tới là: * Tăng vốn cho khu vực nông thôn, không phân biệt tín dụng giữa các khu vực kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh để hộ nông dân có thể vay vốn từ các tổ chức tín dụng chính thức. * Đơn giản hoá các thủ tục cho vay, đặc biệt là đối với các hộ nông dân. *Nghiên cứu áp dụng các hình thức tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng nông sản như bảo lãnh tín dụng đối với doanh nghiệp xuất khẩu trong những trường hợp cần thiết, cấp tín dụng bổ sung kịp thời vào thời điểm quan trọng, hợp tác tín dụng giữa các quỹ tín dụng, các ngân hàng, kể cả các thị trường nhập khẩu chủ yếu hàng nông sản Việt Nam. * Nghiên cứu xây dựng và triển khai áp dụng quỹ tài trợ xuất khẩu cho những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu (có phạm vi sản xuất rộng và là nguồn thu nhập chủ yếu của đa số nông dân) bằng các nguồn khác nhau từ ngân sách Nhà Nước và đóng góp của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản. 5. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách về thị trường . Những quy định về xuất nhập khẩu và hàng rào thương mại là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động xuất nhập khẩu. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động xuất khẩu nông sản nói riêng và xuất khẩu hàng hoá dịch vụ nói chung ở nước ta, hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu phải được đổi mới hoàn thiện. Cụ thể là: *Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý đồng bộ: hệ thống các văn bản pháp lý quy định phải đảm bảo được tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích và tạo điều kiện để mọi thành phần kinh tế tham gia tìm kiếm thị trường và xuất khẩu nông sản trên cơ sở giảm bớt các hạn chế đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu về thủ tục thành lập, kinh doanh và giải thể. * Điều chỉnh linh hoạt hạn ngạch xuất khẩu gạo để đảm bảo ổn định nguồn lương thực và giá cả trong nước nhưng không cản trở các doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả cao, từng bước chuyển sang điều hành bằng thuế, có dự trữ để đảm bảo an ninh lương thực thay vì hạn chế thương mại. *Hoàn thiện chính sách thuế: Điều chỉnh thời gian thu thuế và giao nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp hợp lý để nông dân có thời gian lựa chọn thời điểm bán sản phẩm có lợi nhất. Điều chỉnh tỉ lệ thuế để lại cho địa phương để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Miễn thuế nông nghiệp trong một thời gian cần thiết đối với những sản phẩm cần phất triển mở rộng quy mô, để hỗ trợ cho đổi mới công nghệ, nên giảm thuế nhập khẩu đối với trang thiết bị máy móc sản xuất chế biến nông sản. Nghiên cứu các hình thức bảo hiểm cho các loại cây trồng, hình thành quỹ bảo hiểm từng ngành sản phẩm. Trước mắt cần thiết lập quỹ bảo hiểm các nông sản lúa gạo, cà phê, cao su, thịt lợn… để can thiệp thị trường khi giá thị trường đột biến xuống dưới giá sàn, trợ giúp sản xuất trong trường hợp đặc biệt khó khăn do thiên tai. * Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, thị trường các nước ASEAN cũng sẽ bị hạn chế đối với các nông sản xuất khẩu của Việt Nam do cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt Nam và các nước ASEAN khác tương tự nhau, hơn nữa các nông sản xuất khẩu Việt Nam thường là sản phẩm thô ít qua chế biến nên việc cắt giảm thuế theo hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung của các nước này không có tác động lớn đến khối lượng xuất khẩu các nông sản của Việt Nam trong tương lai. Bởi vậy một mặt tiếp tục duy trì thị trường các nước ASEAN (chủ yếu là sản phẩm ngũ cốc), mặt khác mở rộng xuất khẩu cả về số lượng và trị giá sang thị trường các nước Châu á khác như Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Nhật Bản. Ngoài ra tiếp tục tháo gỡ vướng mắc để khôi phục thị trường Nga và Đông Âu vì đây là thị trường có dung lượng trao đổi lớn và yêu cầu chất lượng sản phẩm không khắt khe, đồng thời xâm nhập sâu vào thị trường mới như EU và Mĩ. * Chuẩn bị lộ trình tham gia tự do hoá thương mại theo cam kết với AFTA, APEC và WTO. Khai thác hiệu quả các cơ hội thị trường quốc tế, đồng thời bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34264.doc
Tài liệu liên quan