Luận văn Một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành Thuỷ sản thực hiện chiến lược phát triển thuỷ sản đến năm 2010

Công nghiệp hoá- hiện đại hoá ngành thuỷ sản được gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nhằm thực hiện chiến lược phát triển ngành từ nay đến năm 2010. Việc chuyển mạnh nghề cá tự do sang nghề cá được quản lý thống nhất bằng luật pháp có sự phân cấp cụ thể từ trung ương đến địa phương cùng với quá trình chuyển mạnh cơ cấu ngành theo hướng từ khai thác tài nguyên tự nhiên chủ yếu hiện nay sang khai thác lao động, kỹ thuật công nghệ tiên tiến đáp ứng nhu cầu phát triển thuỷ sản ổn định lâu bền nhấn mạnh vào nuôi trồng thuỷ sản, chế biến và xuất khẩu giai đoạn vừa qua 1991-2002 có những kết quả thành tựu lớn. Để đạt được mục tiêu chiến lược phát triển ngành đến năm 2010, các giải pháp nhằm tác động vào chuyển dịch cơ cấu ngành mang một ý nghĩa quan trọng, đây là một trong những cơ sở để hoàn thành các mục tiêu. Kết quả nghiên cứu của đề tài nhấn mạnh vào việc đưa ra các giải pháp , hệ thống các giải pháp bao gồm : giải pháp vĩ mô và vi mô để tác động trực tiếp và gián tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành thuỷ sản. Kết quả chuyển dịch cơ cấu ngành thuỷ sản giai đoạn 1991-2002 là rất lớn, vai trò của ngành nuôi trồng thuỷ sản được đặt đúng vị trí và tầm quan trọng của nó song tỷ lệ đóng góp vào tổng sản lượng thuỷ sản của cả nước là do ngành khai thác đem lại. Từ đây, nó đặt ra những yêu cầu mới về tốc độ chuyển dịch từ khai thác sang nuôi trồng và sự chuyển dịch trong nội bộ các tiểu ngành, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh

doc86 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1131 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành Thuỷ sản thực hiện chiến lược phát triển thuỷ sản đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hát triển công nghệ mới. An toàn thực phẩm trong chế biến thuỷ sản được chú trọng, các mặt hàng chế biến đã được các thị trường khó tính như Mỹ, EU chấp nhận. Cơ cấu đối tượng nuôi cũng có sự chuyển dịch theo hướng phát triển nuôi các loài thuỷ hải sản có giá trị kinh tế cao. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản ngày càng mở rộng đóng góp một phần không nhỏ vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn (Theo nghị quyết 09 NQ-CP ngày 15/6/2000), nhờ việc chuyển một bộ phần diện tích đất đai đang canh tác nông nghiệp, trồng lúa, làm muối kém hiệu quả- sang nuôi trồng thuỷ sản. Việc đưa thành công kỹ thuật nuôi hải sản trên vùng cát ven biển đã mở ra một tiềm năng và triển vọng mới cho việc phát triển vùng nuôi tôm và các loại hải sản khác theo phương thức công nghiệp, nhất là đối với vùng duyên hải dọc theo bờ biển miền trung. Khả năng này vừa mang lại ý nghĩa đẩy nhanh tốc độ phát triển nuôi tôm, hải sản thâm canh, sử dụng những tài nguyên xưa nay bỏ phí, vừa có ý nghĩa thiết thực trong chiến lược xoá đói, giảm nghèo đồng thời cũng là một giải pháp hữu hiệu nhằm cải tạo và bảo vệ môi trường ven biển. 1.2. Chuyển dịch cơ cấu tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ngành thuỷ sản: Cơ cấu ngành hợp lý là tiền đề để cho ngành tăng trưởng và phát triển. Trong giai đoạn 1991-2002, cơ cấu ngành thuỷ sản từng bước có sự chuyển dịch tích cực, từ chỗ ngành chỉ đơn thuần bao gồm khai thác hải sản là chủ yếu thì bây giờ đã có một cơ cấu hợp lý hơn với sự kết hợp của khai thác- nuôi trồng- chế biến- thương mại thuỷ sản. Cơ cấu ngành ngày càng chuyển dịch theo hướng tích cực đã có tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ngành Thuỷ sản. Bảng 16: GDP ngành thuỷ sản Việt Nam giai đoạn 1991-2002. Đơn vị: tỷ đồng Năm Giá trị gia tăng (GDP)thủy sản Theo giá cố định 1994 Tốc độ tăng trưởng thuỷ sản (%) 1991 4.485 - 1992 4.624 3,1 1993 4.728 2,25 1994 4.864 2,88 1995 5.262 8,18 1996 5.477 4,09 1997 5.530 0,97 1998 5.768 4,3 1999 5.987 3,8 2000 6.680 11,6 2001 7.390 10,6 2002 7.872 6.52 Nguồn: Tổng cục thống kê Tốc độ tăng trưởng của ngành thuỷ sản trong giai đoạn 1991-2002 đạt 5,247%/năm, trong đó giai đoạn 1991- 1995, tốc độ tăng trưởng là 4,07%, giai đoạn 1996- 2000 tốc độ tăng trưởng là 6,23%, tốc độ tăng trưởng năm 2002/2001 đạt 6,52%. Thành tựu đã đạt được đang tạo ra những điều kiện cho ngành thuỷ sản phát triển theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Tuy nhiên cần lưu ý rằng tốc độ tăng trưởng giá trị GDP ngành thuỷ sản chậm dần, do vậy cần có sự chú ý thích đáng trong tăng đầu tư và điều chỉnh cơ cấu đầu tư, xác định bước đi thích hợp để giữ được tốc độ tăng trưởng của ngành một cách bền vững. 2. Những tồn tại trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành thuỷ sản và nguyên nhân. 2.1. Những tồn tại trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành Thuỷ sản giai đoạn 1991-2002. Cơ cấu ngành Thuỷ sản giai đoạn 1991-2002 có nhiều chuyển biến tích cực, tuy nhiên vẫn còn chậm, chưa mạnh, chưa tạo được sự phát triển thực sự cho ngành thuỷ sản: Tốc độ tăng trưởng GDP trong nuôi trồng thuỷ sản và dịch vụ thủy sản còn thấp. Sản lượng từ khai thác vẫn chiếm tỷ trọng lớn (Năm 2002, sản lượng từ khai thác chiếm 64,5% tổng sản lượng thuỷ sản) dẫn đến tỷ trọng GDP của nuôi trồng và dịch vụ thuỷ sản chưa ở mức cao (Năm 2002, GDP nuôi trồng thuỷ sản chiếm 54,24%, GDP dịch vụ chiếm 5,68%). Cho đến nay, vẫn còn khoảng 72,3% số lao động tập trung vào ngành khai thác hải sản, trong đó chủ yếu là khai thác hải sản gần bờ. Chuyển dịch cơ cấu giữa khai thác gần bờ và khai thác xa bờ được chú trọng nhưng hiệu quả chưa cao, sản lượng khai thác xa bờ chiếm tỷ trọng nhỏ, mới chỉ chiếm chưa đầy 30%. Trong nuôi trồng thuỷ sản, nuôi nước mặn mới chỉ là bước đầu, cơ cấu đối tượng nuôi phụ thuộc chính vào nhu cầu của thị trường, vấn đề về giống và thức ăn công nghiệp hiện chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Hệ thống cơ sở chế biến về khâu phân bố còn chưa hợp lý nếu xét trên đơn vị lãnh thổ của một vùng, một địa phương. Công nghệ chế biến nói chung vẫn ở mức thấp, nguyên liệu qua chế biến mới chỉ chiếm 62%. Sự tăng trưởng quá mức, tự phát và thiếu ổn định ở một số lĩnh vực: Trong khai thác hải sản, từ 1995 trở về trước chúng ta đầu tư quá lớn vào khai thác gần bờ về số lượng tàu thuyền, ngư cụ đánh bắt, cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ đánh bắt... Hậu quả của nó đã nhìn thấy được nguồn lợi hải sản gần bờ cạn kiệt, môi trường khai thác ảnh hưởng nghiêm trọng. Do đầu tư quá lớn vào tàu thuyền nhỏ nên khả năng chuyển dịch sang đánh bắt xa bờ gặp nhiều khó khăn: Tàu thuyền nhỏ không đủ điều kiện đánh bắt xa bờ, thời hạn sử dụng vẫn còn, nguồn lợi gần bờ cạn kiệt không còn chỗ để đánh bắt... dẫn đến hiệu quả đầu tư lãng phí. Từ năm 1997 phong trào vươn ra khơi đánh bắt được đẩy mạnh. Nhà nước và ngư dân cùng đầu tư nâng cấp và đóng mới tàu thuyền đủ khả năng đánh bắt xa bờ( Loại công xuất từ 90 CV trở lên). Nhưng gặp khó khăn trong quá trình chuyển dịch đó là việc thu hồi vốn vay đánh bắt xa bờ. Trong giai đoạn 1997- 2002, tính tổng cộng cả hai nguồn vốn 339 và 985 ngư dân vay nhà nước 2.898,305 tỷ đồng sau 5 năm mới thu hồi được 1.521,186 tỷ đồng, còn thiếu 1.337,119 tỷ đồng. Riêng nguồn vốn 985 vay 1.552 tỷ đống mới thu hồi được 399 tỷ đồng, còn thiếu 1.153 tỷ chiếm 83,7% tổng số nợ từ hai nguồn vốn. Tồn tại về sự tăng trưởng quá mức, tự phát, thiếu ổn định xảy ra đặc biệt trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản. Tình trạng “đổ xô” đầu tư vào nuôi trồng thuỷ sản, tự chuyển dịch cơ cấu một cách tự phát diễn ra ở nhiều địa phương, nhiều vùng trong cả nước. Điển hình năm 1994,1995 do giá trị từ xuất khẩu thuỷ sản quá lớn (Đặc biệt là tôm hùm, tôm sú...), nhân dân ở hai địa phương Cà Mau, Kiên Giang đã phá hàng trăm ha rừng ngập mặn đầu nguồn để phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Hậu quả là hiệu quả nuôi trồng thuỷ sản không cao, trong khi đó nguồn tài nguyên bị xâm hại nghiêm trọng. Chuyển dịch cơ cấu nuôi trồng thuỷ sản rất tự phát: Khi thấy một địa phương, một vùng nuôi trồng thuỷ sản hiệu quả ở một mặt hàng thuỷ sản có giá trị nào đó, thì lập tức các địa phương, các vùng khác bỏ cây trồng, vật nuôi mà mình đang kinh doanh chuyển sang đầu tư ồ ạt vào cây trồng, vật nuôi mới không cần tính toán xem nhu cầu về thị trường trong tương lai về mặt hàng thuỷ sản đó là bao nhiêu, không cần nghiên cứu xem điều kiện sinh sống và tăng trưởng của loài đó có phù hợp với địa phương mình hay không. Kết quả: Thị trường ứ đọng, nguồn nguyên liệu dư thừa, các cơ sở chế biến không bao tiêu hết. Trong việc chuyển dịch cơ cấu đẩy mạnh sang nuôi biển, những hiểu biết về cơ sở khoa học, điều kiện nuôi , các đặc tính sinh học cơ bản của các giống loài nuôi, phòng dịch bệnh, kỹ thuật, công nghệ...hầu như chưa được trang bị, chưa tạo được con giống, bố mẹ ổn định. Phát triển ồ ạt chế biến và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thuỷ sản một mặt tăng nhanh được khả năng xuất khẩu và chống được sự độc quyền trong buôn bán, làm thiệt hại đến người sản xuất trực tiếp, nhưng mặt khác cũng dẫn đến việc đẩy giá nguyên liệu lên quá cao (Một phần do buôn bán lòng vòng, nhiều khâu) thoát ly khỏi giá trị dẫn đến hiệu quả kinh doanh chế biến và xuất khẩu ngày càng giảm sút, làm mất tính động lực cho sự phát triển và tận dụng không hết năng lực sản xuất. Như vậy, sự phát triển ồ ạt, tự phát, thiếu tính toán và thiếu quản lý ngay từ đầu đã bộc lộ rõ nét các hạn chế cho sự phát triển tiếp theo cũng như cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành thuỷ sản trong giai đoạn tới. Trong chuyển dịch cơ cấu ngành thuỷ sản giai đoạn 1991-2002, chúng ta chưa xác định được danh mục các sản phẩm mũi nhọn, chủ lực của ngành, của đất nước. Vì vậy, chúng ta chưa lựa chọn và định hình rõ các tiểu ngành, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh mũi nhọn. Chúng ta còn có cơ cấu dàn trải và nhiều khâu, nhiều mặt khác nhau: Chú trọng cả khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Chuyển dịch cơ cấu nguồn lực trong ngành thuỷ sản còn kém trên các mặt là vốn, khoa học, công nghệ và nguồn lao động. Việc chuyển hướng khai thác từ lộng ra khơi không phải là cứu cánh có triển vọng nhất để cứu nghề cá ven bờ và một trong các lý do là chuyển dịch cơ cấu nguồn lực còn kém: Lượng vốn đầu tư một lao động đánh cá nếu tính cả cơ sở hậu cần phải lên tới hàng trăm triệu trên một chỗ làm việc. Hơn nữa, không phải tất cả các lao động nghề lộng đều có thể chuyển sang nghề khơi. Chỉ có lao động trẻ, được đào tạo mới ra làm nghề khơi được. Phương án chuyển lao động gần bờ sang phát triển nuôi trồng thuỷ sản cũng gặp nhiều khó khăn. Giai đoạn vừa qua công việc phát triển nuôi mặn nhằm mục đích này còn chậm và việc phân bố nguồn đầu tư còn chưa hiệu quả => Tóm lại, thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành thuỷ sản ở nước ta giai đoạn 1991- 2002 tuy đạt được những thành tựu, góp phần tạo đà phát triển nền kinh tế nhanh và tương đối ổn định, song cũng phát sinh nhiều vấn đề cần được tiếp tục tháo gỡ nhất là trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế khu vực và quốc tế hiện nay. 2.2. Nguyên nhân. Những tồn tại trong quá trình chuyển dịch cơ cấu thuỷ sản giai đoạn vừa qua do nhiều nguyên nhân tác động cả khách quan, cả chủ quan. Tựu trung lại bao gồm các nguyên nhân sau: Về cơ chế quản lý ngành: Ngành chưa có quy hoạch cụ thể về phát triển ngành thuỷ sản trong một tương lai dài. Sự phát triển chủ yếu do nhu cầu thị trường quyết định. Nhà nước cũng như Bộ thuỷ sản chưa có những biện pháp nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của nhân tố thị trường trong việc phát triển ngành thuỷ snả. Bộ thuỷ sản chưa định hướng cũng như chưa đưa ra các dự báo chính xác dựa trên những cơ sở khoa học về nhu cầu các loại mặt hàng thuỷ sản trong tương lai. Dẫn tới ngư dân thiếu thông tin về nhu cầu thị trường, trữ lượng khai thác, khả năng đầu tư của nhà nước vào các lĩnh vực kinh doanh ....Đây là nguyên nhân chính dẫn đến những tồn tại trong hướng chuyển dịch cơ cấu ngành, sự phát triển tự phát ở một số lĩnh vực. Cơ chế quản lý ngành thiếu đồng bộ, các cấp quản lý chồng chéo lên nhau, gây khó khăn cho ngư dân trong việc định hướng sản xuất, hạn chế khả năng tự đầu tư sản xuất kinh doanh các mặt hàng mới, các loại mặt hàng có giá trị kinh tế cao. Một số dự án do Bộ và Nhà nước trực tiếp triển khai, nhưng không mang tính lồng ghép của các chương trình dự án gây thất thoát giá trị, sản phẩm do không được tận dụng được các sản phẩm thừa, các sản phẩm phụ có giá trị thấp. Không ít các dự án khi đi vào triển khai không bao tải hết các sản phẩm do ngư dân sản xuất ra và cũng không có chính sách đền bù nào. Dẫn đến tình trạng ở nhiều địa phương khi nối đến các chương trình chuyển dịch cây trồng, vật nuôi thì họ rất thờ ơ mặc dù nếu thay đổi sẽ cho thu nhập rất cao, song họ sợ thay đổi rồi thì nhà nước vì một lý do nào đó không bao tiêu hết các sản phẩm sẽ đẩy họ vào cảnh giàu có về sản vật nhưng nghèo đói về thu nhập. Mặt khác cơ chế quản lý ngành còn mang tính mệnh lệnh, quan liêu, boa cấp. Nhà nước còn chiếm một vị trí rất lớn trong vấn đề xuất khẩu hàng thuỷ sản. Hàng thuỷ sản xuất khẩu còn qua nhiều khâu, dẫn đến tăng giá sản phẩm, điều này bất lợi cho cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Các doanh nghiệp hiện nay đã trực tiếp ký hợp đồng xuất với các thị trường nước ngoài, song cơ chế quản lý còn gặp nhiều khó khăn. Cơ chế đầu tư chưa hợp lý để phát triển ngành thuỷ sản: Nhà nước đầu tư để phát triển ngành thuỷ sản còn dàn trải trên nhiều tiểu ngành, trên nhiều lĩnh vực. Không có chiến lược lâu dài chủ yếu đầu tư do nhân tố thị trường tác động. Chính do việc đầu tư không có chiến lước nên hiệu quả đầu tư thấp dẫn đến tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành còn chậm. Do đầu tư còn dàn trải nên không có sự tập trung đầu tư vào một số tiểu ngành, một số lĩnh vực kinh doanh dẫn tới chưa hình thành nên các ngành, các mặt hàng mũi nhọn; các ngành các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu là điểm mạnh của Việt Nam có sức cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Việc quản lý nguồn vốn đầu tư để phát triển ngành còn nhiều hạn chế. Chúng ta còn để thất thoát nguồn vốn đầu tư, chưa thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư từ ngoài vào, đặc biệt là hai nguồn vốn cơ bản: ODA và FDI. Vấn đề giải ngân đối với hai nguồn vốn này cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ trọng nguồn vốn đầu tư phát triển ngành thuỷ sản trong giai đoạn vừa qua còn ở mức thấp. Chính sách hỗ trợ nguồn vốn cho ngư dân, các doanh nghiệp chưa mạnh, chưa tạo được lực để thúc đẩu ngư dân, doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Cụ thể, chính sách cho vay vốn để phát triển nuôi tôm trên cát ở các tỉnh miền trung về khối lượng vốn cho vay ít, thời hạn cho vay ngắn. Bản thân ngư dân và các doanh nghiệp vốn đầu tư không lớn nên phong trào này chưa thực sự phát triển mạnh, mặc dù hiệu quả nuôi rất cao và nó đáp ứng được nhu cầu chuyển dịch cơ cấu ngành bằng việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Hạn chế về thị trường: Đây cũng là một nguyên nhân làm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành còn chậm và chưa hiệu quả. Như đã phân tích, thị trường là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành thuỷ sản. Hạn chế thị trường ở đây được đề cập cả thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Thu nhập của người dân trong nước tác động đến nhu cầu hàng thuỷ sản chất lượng cao, thu nhập càng tăng thì nhu cầu hàng thuỷ sản chất lượng cao sẽ càng lớn. Trên thực tế bước vào thập kỷ 90, thu nhập của người dân Việt Nam mới bước đầu được cải thiện nhưng vẫn ở mức thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới nên cầu về hàng thuỷ sản chất lượng cao đối với thị trường nội địa còn hạn chế. Hàng thuỷ sản chất lượng cao chủ yếu là phục vụ xuất khẩu trong khi đó việc mở rộng thị trường nước ngoài những năm gần đây có mạnh nhưng chưa phải là lớn. Cầu cho xuất khẩu là lớn, song chưa thực sự tạo động lực mạnh mẽ để quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành có thể diễn ra trên mọi ngành, mọi lĩnh vực, trên mọi đối tượng sản xuất kinh doanh. Hạn chế về khoa học- công nghệ: Khoa học- công nghệ là nguyên nhân làm chậm tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành thuỷ sản trong giai đoạn vừa qua. Xuất phát điểm của ngành thuỷ sản ở mức thấp: Đánh bắt thô sơ với cơ cấu tàu thuyền, ngư cụ lạc hậu, nuôi trồng thuỷ sản phân tán, nhỏ lẻ, công nghệ chế biến lạc hậu, chủ yếu là sơ chế. Do vậy việc tiếp cận khoa học- công nghệ mới gặp nhiều khó khăn và cần có thời gian. Trong một thời kỳ dài chúng ta nhập các loại máy móc, dây truyền sản xuất của các nước tiên tiến, tuy rằng nó hiện đại so với chúng ta nhưng lại là đồ thải loại của nước họ nên sau một thời gian lại phải đầu tư trang thiết bị lại. Đây là một nguyên nhân gây tổn thất lớn nguồn vốn đầu tư và làm chậm quá trình hiện đại hoá, khả năng đưa công nghệ khoa học và sản xuất kinh doanh trong ngành thuỷ sản Chương III: Một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành thủy sản thực hiện chiến lược phát triển thuỷ sản đến năm 2010. I- Chiến lược phát triển thuỷ sản đến năm 2010. 1. Định hướng phát triển thuỷ sản đến năm 2010. Quán triệt đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng, trên tinh thần tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới của đất nước, để góp phần thực hiện được các mục tiêu kinh tế- xã hội đề ra trong năm 2010, trong đó chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người dự kiến đạt 1.000 USD, đảm bảo cho ngành thuỷ sản hội nhập được với kinh tế khu vực và thế giới, ý thức được yêu cầu gắn kết giữa phát triển sản xuất đa dạng với bảo vệ chủ quyền vùng biển và an ninh quốc phòng, ngành thuỷ sản cần phát triển theo các quan điểm định hướng cơ bản sau đây: - Ngành thuỷ sản nước ta trong 15-20 năm nữa vẫn lấy xuất khẩu làm động lực phát triển, coi xuất khẩu là hướng phát triển mũi nhọn và ưu tiên số một, lấy các thị trường các nước có nền kinh tế phát triển cao( Bắc Mỹ, Nhật Bản, EU) và Trung Quốc (Bao gồm cả Hồng Kông) là các thị trường chính, đồng thời coi thị trường trong nước là một thị trường đang phát triển đầy tiềm năng với những đòi hỏi ngày càng cao về sự phong phú và chất lượng. - Phải coi phát triển kinh tế thuỷ sản là một trong những hướng đi chủ đạo của kinh tế biển và ven biển, là một trong những định hướng hiệu quả và nhiều triển vọng nhất của việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, nhằm góp phần phát triển kinh tế- xã hội, cải thiện đời sống của cư dân và thay đổi bộ mặt của nông thôn, đặc biệt là các vùng ven biển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng cường tiềm lực an ninh quốc phòng. - Phát triển kinh tế thuỷ sản phải dựa trên tiêu chuẩn cơ bản là hiệu quả và bền vững. Hiệu quả là động lực và thước đo cho sự phát triển. Hiệu quả được thể hiện ở mức độ lợi nhuận và tổng thu nhập trên một đơn vị đất đai canh tác thủy sản và trên một đồng vốn đầu tư, năng xuất lao động tính bằng giá trị. Sự bền vững phải được xem xét toàn diện trên mọi phương diện: Kinh tế (Giữ được hiệu quả kinh tế lâu dài); môi trường( Phù hợp với các điều kiện sinh thái, không gây ô nhiễm môi trường, không làm suy thoái các nguồn lợi tự nhiên) và xã hội (Không gây mâu thuẫn và tranh chấp, phải được đại bộ phận nhân dân đồng tình), kinh tế- xã hội (Thu hút chuyển giao công nghệ và vốn từ nước ngoài, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày một được cải thiện hơn...). - Ngành kinh tế thuỷ sản chỉ có thể phát triển mạnh có hiệu quả, có khả năng cạnh tranh cao và bền vững trên cơ sở thực thi các chính sách đầu tư và quản lý đúng đắn phù hợp với các điều kiện và tính chất đặc thù của ngành đồng thời phát huy mạnh mẽ hiệu lực quản lý của nhà nước kết hợp với tính tích cực và sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế tham gia và ngành thuỷ sản. Mọi chính sách và chiến lược phát triển ngành đều phải xuất phát từ những đánh giá về lợi thế so sánh và tiềm năng của đất nước. - Tạo điều kiện thuận lợi nhất để thu hút mọi thành phần kinh tế trong đó lấy kinh tế nhà nước làm bà đỡ cho quá trình phát triển, coi kinh tế tư nhân là lực lượng cơ bản, áp dụng những công nghệ thích hợp với trình độ của quan hệ sản xuất ấy, nhằm tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho ngư dân và cho nền kinh tế quốc dân góp phần và công cuộc xoá đói giảm nghèo của đất nước. - Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nghề cá trong mọi lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, dịch vụ mạnh hơn nữa theo định hướng hướng mạnh vào xuất khầu, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành thuỷ sản. - Để tiến đến một nghề cá hiện đại cần phát triển kinh tế thuỷ sản Việt Nam theo định hướng kết hợp kế hoạch hoá với thị trường, kết hợp giữa sự phát triển phù hợp với đặc thù sinh thái và kinh tế- xã hội của các vùng, các địa phương trên cơ sở lợi ích toàn cục trong các chương trình thống nhất. - Kết hợp tăng cường quản lý nghề cá theo những chiến lược quốc gia thông nhất với phi tập trung hoá việc quản lý nghề cá nhằm gắn bó chặt chẽ những ngư dân, những người nuôi trồng, những người trực tiếp hưởng lợi với các hành động quản lý, biến những người trực tiếp hưởng lợi trở thành những người chủ thực sự, có đầy đủ quyền lực và nghĩa vụ đối với những tài nguyên và nguồn lợi thuỷ sản. - Hội nhập với nghề cá thế giới và khu vực là định hướng tất yếu. Mọi luật lệ, các quy định và cách hành xử của nghề cá nước ta phải phù hợp với những công ước và luật pháp quốc tế và khu vực; mọi điều kiện sản xuất và kinh doanh như môi trường cho sản xuất và kinh doanh của ngành, các điều kiện vệ sinh và an toàn thực phẩm..., phải được cải thiện cho phù hợp và đáp ứng với những đòi hỏi của các thị trường. 2. Các mục tiêu của chiến lược phát triển thuỷ sản đến năm 2010. 2.1. Mục tiêu tổng quát. Mục tiêu chiến lược vĩ mô quan trọng nhất là huy động tổng hợp mọi tiềm năng để có thể phát triển ngành thuỷ sản nhằm đóng góp có hiệu quả vào nền kinh tế quốc dân và nâng cao các điều kiện kinh tế xã hội của ngư dân. Cụ thể là: + Không ngừng tăng phần đóng góp của ngành thuỷ sản vào công cuộc phát triển kinh tế- xã hội đất nước bằng việc tăng cường xuất khẩu, gia tăng thu nhập ngoại tệ và nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế, giải quyết được nhiều công ăn việc làm và nâng cao thu nhập, mức sống của các cộng đồng dân cư sống dựa vào nghề cá. Trên cơ sở phát triển kinh tế biển và các vùng ven biển, hải đảo góp phần tích cực và thiết thực vào sự nghiệp bảo vệ an ninh và chủ quyền của tổ quốc. + Đóng góp tích cực vào đảm bảo an ninh thực phẩm quốc gia, nâng cao mức dinh dưỡng của nhân dân bằng cách góp phần tăng mức cung cấp sản phẩm thủy sản cho các thị trường trong nước và tạo điều kiện thuận lợi để người dân có thể tiếp cận được với mọi loại thực phẩm thuỷ sản. + Đưa ngành thuỷ sản trở thành một ngành kinh tế được công nghiệp hoá, hiện đại hoá có luận cứ khoa học chắc chắn cho phát triển và áp dụng công nghệ sản xuất hiện đại, tiên tiến và thích hợp, nhằm không những tạo ra hiệu quả kinh tế cao, phát huy những lợi thế so sánh mà còn góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. + Xây dựng một ngành thuỷ sản được quản lý tốt nhằm đạt được sự phát triển ổn định, bền vững cho hiện nay và trong tương lai. Các chỉ tiêu cụ thể: - Không tăng sản lượng khai thác nhiều trong thời kỳ 2000- 2010 giữ mức từ 1.200.000- 1.400.000 tấn/năm (ở đây chỉ tính riêng cho khai thác cá, tôm, mực). Tăng nhanh sản lượng nuôi trồng thuỷ sản từ 10- 13 %/năm. - Kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ trung bình khoảng từ 10-15%/năm, trong đó giai đoạn 2000-2005 tăng khoảng 12-15%/năm, giai đoạn 2005- 2010 là 10- 12%/năm. Giá trị xuất khẩu tương ứng là 3,0- 3,5 tỷ USD năm 2005 và 4,5- 5 tỷ USD năm 2010. - Số lao động trực tiếp và phục vụ cho nghề cá tăng trung bình 2- 3%/ năm; 3.500.000 lao động (2000), 4.200.000 lao động (2005) và 4.700.000 lao động (2010). Trong đó lao động nuôi trồng thuỷ sản và lao động chế biến thuỷ sản tăng gấp 2 lần so với năm 2000. Lao động khai thác giảm nhẹ. 2.2. Kế hoạch phát triển thuỷ sản năm 2003. a) Tổng sản lượng thuỷ sản: 2.490.000 tấn. Trong đó: - Sản lượng khai thác: Giữ ổn định ở mức 1.400.000 tấn. - Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản: 1.090.000 tấn, tăng 11,6% so với thực hiện năm 2002. b) Giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản: Giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản 2,25 tỷ đến 2,3 tỷ USD tăng 12- 15% so với thực hiện năm 2002. c) Diện tích nuôi trồng thuỷ sản: 1.000.000 ha, tăng 4,7% so với thực hiện năm 2002. Trong đó: - Diện tích nuôi mặn, lợ: 550.000ha, tăng 3,7% so với thực hiện năm 2002. - Diện tích nuôi nước ngọt: 450.000 ha, tăng 5,8% so với thực hiện năm 2002. d) Vốn đầu tư xây dựng cơ bản: 6.001,067 tỷ đồng. Trong đó: - Vốn ngân sách: 560.097 tỷ đồng. - Vốn tín dụng: 3.521 tỷ đồng. - Vốn tự huy động: 1.620 tỷ đồng. - Vốn nước ngoài: 300 tỷ đồng. Trung ương quản lý: 525,974 tỷ đồng: - Ngân sách: 212,274 tỷ đồng (Xây dựng cơ bản: 142 tỷ đồng, nuôi trồng thuỷ sản: 33 tỷ đồng, BĐHĐ: 36,974 tỷ đồng). - Tín dụng: 163,700 tỷ đồng. Tự huy động: 150 tỷ đồng. Địa phương quản lý: 5.475,093 tỷ đồng. - Ngân sách: 347,793 tỷ đồng (Chương trình nuôi trồng thuỷ sản: 147 tỷ đồng, chương trình Biển Đông hải đảo: 110,793 tỷ đồng, tránh trú bão:40 tỷ đồng, xây dựng cảng cá, bến cá: 50 tỷ đồng). - Tín dụng: 3.357,3 tỷ đồng. - Tự huy động: 1.470 tỷ đồng. - Vốn nước ngoài: 300 tỷ đồng. e) Chi ngân sách thuộc bộ: 295,671 tỷ đồng. - Xây dựng cơ bản: 167,3 tỷ đồng( Xây dựng cơ bản: 142,3 tỷ đồng, chương trình nuôi trồng thuỷ sản: 25 tỷ đồng. - Sự nghiệp kinh tế: 57,51 tỷ đồng. - Nghiên cứu khoa hoc: 35,686 tỷ đồng. - Đào tạo: 18,785 tỷ đồng. - Quản lý hành chính: 8,6 tỷ đồng. - Quản lý chương trình: 1,8 tỷ đồng. - Tìm kiếm cứu nạn: 1,5 tỷ đồng. - Đàm phán với nước ngoài: 2,09 tỷ đồng. - Chi khác: 2, 4 tỷ đồng. f) Nộp ngân sách nhà nước: 1.800 tỷ đồng. 3. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành thuỷ sản đến năm 2010. Chuyển dịch cơ cấu ngành Thuỷ sản tiếp tục được đẩy mạnh để thực hiện chiến lược phát triển thuỷ sản đến năm 2010. Mục tiêu chung là: Cân đối giữa khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, giữ sản lượng khai thác ổn định ở mức 1.200.000- 1.400.000 tấn bằng việc giảm dần sản lượng khai thác các vùng ven bờ và gần bờ, đồng thời tăng dần sản lượng khai thác ở các vùng biển xa bờ để bù đắp số sản lượng bị suy giảm do hạn chế dần việc khai thác gần bờ. Nâng cao sản lượng nuôi trồng thuỷ sản: Nuôi trồng thuỷ sản sẽ trở thành ngành sản xuất nguyên liệu chủ yếu, sản lượng của ngành phải vươn lên chiếm 60- 65% tổng sản lượng thuỷ hải sản. Đẩy mạnh công nghiệp chế biến và thương mại thuỷ sản, nâng cao giá trị gia tăng cho từng đơn vị hàng thuỷ sản Việt Nam(V: Đạt 2.000.000- 2.500.000 tấn vào năm 2010): Bảng 17: Dự báo giá trị gia tăng(GDP) cơ cấu ngành thuỷ sản đến năm 2010. Đơn vị: % Năm Chỉ tiêu 2002 2005 2010 Khai thác 40,08 30,8 24-29 Nuôi trồng 54,24 60 >60-65 Dịch vụ thuỷ sản 5,68 9,2 11 Ngành thuỷ sản 100 100 100 Nguồn: Bộ Thuỷ sản Tỷ trọng GDP ngành nuôi trồng thuỷ sản tăng dần chiếm 60- 65 %, tỷ trọng dịch vụ thuỷ sản tăng, chiếm khoảng 11%, tỷ trọng GDP khai thác hải sản giảm dần, chiếm khoảng 24- 29%. Cơ cấu nội bộ ngành, các tiểu ngành có sự dịch chuyển tích cực, được gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo hướng xuất khẩu. Sản lượng khai thác gần bờ ổn định và bắt đẩu giảm, nâng cao dần sản lượng khai thác xa bờ đến năm 2005, sản lượng khai thác xa bờ phải chiếm tỷ trọng từ 40 đến 42%, đến năm 2010 chiếm 50%. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nuôi trồng thuỷ sản hiện đại hoá dần phương thức nuôi, phát triển theo hướng công nghiệp, diện tích nuôi thâm canh là chính. Phát triển các cơ sở chế biến, từng bước hiện đại hoá dây chuyền sản xuất. Mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và thị trường nước ngoài, đặc biệt là các thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc, Đài Loan...Giảm xuất khẩu các loại nguyên liệu thô, đưa mặt hàng giá trị gia tăng chiếm 35- 42 %. Về đầu tư, cơ cấu lại hợp lý cơ chế đầu tư theo hướng và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành. Chuyển dịch nguồn lao động hợp lý giữa các tiểu ngành: Tăng nguồn lao động trong các ngành nuôi trồng, chế biến thuỷ sản, giảm nhẹ nguồn lao động trong khai thác hải sản. II- Một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành thuỷ sản thực hiện chiến lược phát triển thuỷ sản đến năm 2010. 1. Tăng cường năng lực thể chế. Chuyển dịch cơ cấu ngành thuỷ sản muốn đạt được các mục tiêu đề ra để thực hiện chiến lược phát triển thuỷ sản đến năm 2010 chúng ta cần tăng cường năng lực thể chế. Giải pháp tăng cường năng lực thể chế mang tính chất vĩ mô tác động vào cơ cấu ngành thuỷ sản và tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành thuỷ sản giai đoạn tới để thực hiện thành công chiến lược phát triển ngành đến năm 2010. Như đã phân tích ở các phần trên, nhân tố thể chế có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu ngành thuỷ sản, nó mang tính chất định hướng cho sự chuyển dịch và từ đây các giải pháp khác mới được thực hiện. Đây là giải pháp cơ sở, và trong thực tế giải pháp thể chế để tác động vào chuyển dịch cơ cấu ngành ở nước ta trong giai đoạn trước chưa thực sự thành công và đây cũng là nguyên nhân xuất phát những tồn tại trong chuyển dịch cơ cấu ngành giai đoạn 1991-2002. Bộ Thuỷ sản cùng với nhà nước cần phải xác định hệ thống các chính sách tác động vào ngành thuỷ sản làm cho cơ cấu ngành thay đổi, tốc độ chuyển dịch đạt được các mục tiêu đã định. Tăng cường năng lực thể chế bao gồm các nội dung: + Xác định và thiết lập cơ sở và khuôn khổ pháp luật để quản lý sự phát triển nghề cá. Từng bước đưa sự phát triển ngành vào quĩ đạo, khắc phục tình trạng phát triển tự phát, manh mún đặc biệt ở các tiểu ngành và các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. + Tăng cường năng lực hành chính của ngành từ trung ương đến địa phương. Củng cố một bước hệ thống quản lý nhằm phân cấp và nâng cao hiệu lực quảnlý trên các địa phương mà trước hết là các địa phương trọng điểm nghề cá. Cụ thể: - Hình thành hệ thống cán bộ thuỷ sản chuyên trách ở các xã, huyện nghề cá trên 29 tỉnh thành ven biển với nhiệm vụ: thống kê tình hình phát triển sản xuất kinh doanh nghề cá địa phương; thúc đẩy địa phương phát triển các ngành, các lĩnh vực sản xuất theo mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu; trực tiếp hướng dẫn người lao động nghề cá về kỹ thuật, trình độ công nghệ, kiến thức mới trong sản xuất đặc biệt quan trọng trong việc chuyển lao động trong ngành khai thác hải sản gần bờ sang khai thác xa bờ và nuôi trồng thuỷ sản. - Chính quyền địa phương phải kết hợp với bộ thuỷ sản trong việc bàn giao kỹ thuật, công nghệ, giống…xuống đến tận các hộ ngư dân, người lao động. - Thành lập các phòng thuỷ sản ở các huyện nghề cá ven biển với chức năng là bộ phận tham mưu cho uỷ ban nhân dân huyện trong việc xây dựng kế hoạch phát triển nghề cá cấp huyện, tổ chức định hướng phát triển cây trồng vật nuôi phù hợp với từng địa phương đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. + Từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách, hệ thống thông tin quản lý, hệ thống tổ chức và quy chế hoạt động của ngành. Cơ cấu lại hệ thống tổ chức quản lý ngành kết hợp với các hình thức tinh giản biên chế. Đưa bộ máy quản lý tiến dần đến hệ thống nhỏ gọn linh hoạt, hoạt động hiệu quả, thích ứng nhanh nhậy với thị trường. + Tăng cường năng lực lập dự án và giải ngân để thực hiện các dự án phát triển các ngành lĩnh vực trọng điểm. Xây dựng các trung tâm dự báo nguồn lợi (Cả về nguồn lợi khai thác và nguồn lợi nuôi trồng), dự báo nhu cầu thị trường (trong nước và quốc tế) và khả năng nội lực để phát triển ngành thuỷ sản. Muốn thực hiện được giải pháp tăng cường năng lực thể chế , cần thực hiện các nội dung sau : + Nhà nước và Bộ Thuỷ sản cần thể chế hoá, hợp pháp hoá, xác định rõ phạm vi trách nhiệm và tăng cường năng lực quản lý các cơ quan quản lý từ cấp Bộ đến cấp cơ sở. + Xác định rõ các tiêu chuẩn, giới hạn, hệ thống thủ tục , chức năng rõ ràng và phân chia từng bước trách nhiệm quản lý cho các cộng đồng ngư dân vùng ven biển ( từ 6 hải lý trở vào ). Giao cho cấp tỉnh quản lý vùng nước của điạ phương mình từ 6-12 hải lý . + Thiết lập một hệ thống giám sát, đánh giá , sự phát triển + Khảo sát , qui hoạch và thiết lập hệ thống các vùng cấm khai thác cả năm hoặc theo từng thời vụ để bảo vệ môi trường , các bãi đẻ và các bãi sinh trưởng của đàn cá con. Xây dựng các trung tâm bảo vệ nguồn lợi con giống (Bộ thuỷ sản là người trực tiếp quản lý ngành dưới sự giám sát cao nhất là quốc hội ). + Hiện đại hoá bộ máy quản lý. Kết hợp quản lý dọc, quản lý ngang đối với sự phát triển của ngành. Nâng cao chất lượng quản lý các chương trình dự án thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành theo các mục tiêu đặt ra đến năm 2010. 2. Nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư kết hợp điều chỉnh cơ cấu đầu tư hợp lý. Giải pháp về điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho ngành thuỷ sản: Đầu tư hợp lý phát triển cơ cấu ngành: Theo mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành cần đầu tư mạnh vào các ngành, các lĩnh vực kinh doanh mũi nhọn làm động cơ cho việc chuyển dịch; đầu tư hạn chế vào các lĩnh vực đã ở mức giới hạn không cần mở rộng về qui mô và chất lượng. Phải khai thác hiệu quả các nguồn vốn, quán triệt quan điểm “nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng”. Đầu tư vào khai thác xa bờ để chuyển dịch cơ cấu từ nghề lộng sang nghề khơi đồng thời đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản để nâng cao giá trị và sản lượng của ngành nuôi trồng bù đắp việc ổn định mức khai thác từ 1.200.000 đến 1.400.000 tấn của ngành khai thác đến năm 2010. Trong khai thác xa bờ cần đầu tư vốn kỹ thuật nhằm chuyển đổi cơ cấu tàu thuyền, cơ cấu ngư cụ đánh bắt; trong chế biến thuỷ sản nhấn mạnh đầu tư vào việc nghiên cứu và tạo giống; trong chế biến thuỷ sản đầu tư thay đổi dây chuyền sản xuất, hiện đai hoá công nghệ chế biến. Giải pháp về thu hút vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu và phát triển ngành: Đối với nguồn vốn trong nước : + Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất-kinh doanh xuất nhập khẩu thuỷ sản để thúc đẩy và thu hút nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này. +Xây dựng các chinh sách liên quan đến việc bảo lãnh tín dụng cho nuôi trồng thuỷ sản , lấy tài sản hình thành làm thế chấp và tín chấp cho vay lần đầu tạo vốn lưu động . + Tổ chức huy động vốn vay từ ngân hàng thông qua các trung gian đầu tư và người sản xuất kinh doanh thuỷ sản phải tiếp xúc với các nguồn vốn tín dụng một cách gián tiếp thông qua trung gian đầu tư. Theo hình thức này, ngân hàng có thể tham gia phối hợp cùng đầu tư hoặc cho các công ty lớn trong các thành phần kinh tế khác nhau vay những khoản tiền lớn để đầu tư vào các lĩnh vực thuỷ sản mà họ thấy có hiệu quả cao như xây dựng cơ sở hạ tầng cho các vùng nuôi tập trung, các khu công nghiệp sản xuất giống tập trung. Đến lượt mình các công ty trung gian sau khi đầu tư có thể dùng các hình thức cho vay bằng hiện vật, cho thuê hoặc bán trả chậm …cho người sản xuất kinh doanh thuỷ sản trực tiếp . + Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi về vốn cho các khu vực còn gặp nhiều khó khăn như vùng ven biển, hải đảo, vùng giáp biên ; đầu tư mạnh vào các vùng trọng điểm nghề cá như đồng bằng sông Cửu Long, Nam Trung Bộ. Đối với nguồn vốn nước ngoài : + Cần hoàn thiện cơ sở đầu tư, các định chế quản lý, mở rộng các hoạt động tư vấn đầu tư, tạo môi trường hấp dẫn hơn, sớm xem xét và có quyết định hợp tác đầu tư khai thác, chế biến- dịch vụ và thương mại thuỷ sản với các nước . + Khẩn trương xây dựng một số khu kinh tế mở có quy chế riêng tại một số đảo hoặc vùng ven biển như khu chợ cá, dịch vụ thuỷ sản . + Xây dựng cơ chế khuyến khích đâù tư 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh, liên kết vào những lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao như : Chế biến, sản xuất giống, nuôi biển… 3. Giải pháp về thị trường. - Trước hết phải nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường về giá cả và chất lượng. Muốn vậy cần phát triển vùng nguyên liệu tập trung với qui mô hợp lý, đảm bảo đúng qui trình kỹ thuật sản xuất nhằm tạo ra nguyên liệu đồng đều với số lượng đủ lớn. Các cơ quan chức năng ở địa phương và trung ương cần có chiến lược nghiên cứu tìm hiểu, khai thác thị trường trong và ngoài nước để tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho ngư dân. Đồng thời chủ động hợp tác khuyến khích các tổ chức kinh tế tham gia vào việc thiết lập các mạng lưới thu mua rộng khắp nhằm thu mua trực tiếp từ ngư dân, bao tiêu được nhiều sản phẩm thuỷ sản hàng hoá đảm bảo chất lượng . Vì các sản phẩm thuỷ sản có đặc tính mau ươn chóng thối cộng thêm khí hậu nhiệt đới ẩm của Việt Nam . Cần đầu tư phát triển các cơ sở chế biến với công nghệ tiên tiến để tạo ra những sản phẩm có giá trị đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường . Trong việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản cần nắm bắt rõ thị trường và những đòi hỏi thực sự của thị trường để không xảy ra các trường hợp không chấp nhận , trả lại sản phẩm khi hàng đã xuất sang các nước . - Mở rộng phát triển thị trường cả trong nước và nước ngoài tận dụng vị trí tối đa của vùng ven biển, thế mạnh của sản phẩm thuỷ sản để tăng cường giao lưu kinh tế . ổn định thị trường truyền thống , thúc đẩy mở rộng thị trường tiềm năng lớn như EU, Bắc Mỹ, Trung Quốc; tìm cách xâm nhập các thị trường mới như Trung và Nam Phi, các nước ARập …Tìm kiếm lợi thế cạnh tranh trên thị trường cho từng loại mặt hàng, lợi dụng đồng bộ các yếu tố địa lý, thương mại, ngoại giao, truyền thống …Tuy nhiên phải chọn yếu tố chất lượng giá cả làm lợi thế cạnh tranh là chủ yếu. Tìm hiểu rõ thị trường về đối tượng mặt hàng sản phẩm thuỷ sản để xem xét đánh giá nếu nguồn khai thác đã cạn kiệt, sản lượng khai thác giảm mà nhu cầu thị trường lớn thì phải đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ sản cả trong việc nghiên cứu tạo giống và nâng cao sản lượng. - Từng bước cơ cấu lại các doanh nghiệp để phân lập các doanh nghiệp có đủ khả năng tham gia vào thị trường Thuỷ sản, sự hạn chế chỉ tham gia vào “thị trường” Thuỷ sản phải diễn ra trong một thời gian biểu nhất định. Kiên quyết dẹp bỏ những xí nghiệp làm ăn thua lỗ triền miên khó có khả năng khôi phục để tạo ra điều kiện cho sự phát triển và cạnh tranh lành mạnh. Cần đầu tư phát triển các doanh nghiệp nhằm tạo ra sự phát triển trong các ngành mũi nhọn, mặt hàng mũi nhọn trong xuất khẩu. - Tăng cường công tác tiếp thị, triển lãm nhằm quảng bá các sản phẩm có khả năng xuất khẩu của ngành. Xúc tiến nghiên cứu tiến tới đăng ký thương hiệu sản phẩm trên trường quốc tế. Tạo dựng và duy trì trạng thái thị trường có lợi cho ngành Thuỷ sản bảo đảm tính hiệu suất của việc phân phối vốn, đất đai: ví dụ chính sách sử dụng đất đai lâu dài, chính sách hình thành trang trại lớn chấp nhận hình thành chủ trang trại và công nhân làm thuê trong vùng nông thôn ven biển. Nên hạn chế quá nhiều người có thể tham gia vào phát triển nghề cá mà phát triển doanh nghiệp có trọng điểm nhằm không những phát triển bền vững mà còn đảm bảo sự phát triển có hiệu quả cao của các doanh nghiệp. Cũng tương tự như trong nuôi trồng thuỷ sản: không ưu tiên phát triển manh mún, trong chế biến Thuỷ sản không nên phát triển dàn trải. 4. Giải pháp về công nghệ. Nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ phải biết lựa chọn cho phù hợp với điều kiện thực tế từng địa phương trong từng vùng, phù hợp với trình độ sản xuất trong từng tiểu ngành, từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh, mang tính thiết thực, xuất phát từ đòi hỏi của thực tế sản xuất và định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành. Phải có sự kết hợp chặt chẽ, phối hợp đồng bộ giữa đơn vị thực hiện dự án (cơ quan ở địa phương) và cơ quan chuyển giao công nghệ nhằm đảm bảo thực hiện thành công dự án, đồng thời huy động được đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật của địa phương tham gia, tạo điều kiện để cán bộ địa phương tiếp cận với tiến bộ mới. Sự phối hợp đó là nòng cốt để đưa tiến bộ kỹ thuật vào thực tế cuộc sống và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo của Thủ tướng Chính Phủ trong việc liên kết hữu cơ “4 nhà” đó là nhà nông (nghề ruộng bao hàm cả ngành Thuỷ sản), nhà khoa học, nhà nước và nhà doanh nghiệp nhằm trực tiếp đột phá trong sản xuất kinh doanh ngành Thuỷ sản đặc biệt trong chuyển dịch cơ cấu ngành từ nay đến năm 2010. Hoàn thành công nghệ và tăng trưởng năng lực các cơ sở sản xuất giống đặc biệt là tôm và các loài hải sản có giá trị. Dần dần đáp ứng nhu cầu cả nước về số lượng và chất lượng để phát triển ngành nuôi trồng Thuỷ sản nhằm đạt được mức chuyển dịch cơ cấu ngành. Mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ các cơ sở chế biến, bảo quản sản phẩm Thuỷ sản, nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm. Tiếp tục phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, quản lý…nhằm cung cấp kịp thời thông tin về biến động thị trường, từng bước khắc phục hiện tượng “thiếu thông tin” của người sản xuất. Tránh tình trạng sản xuất vượt quá nhu cầu dẫn đến phải chuyển đổi đối tượng nuôi trong nuôi trồng Thuỷ sản điều này rất lãng phí về mọi mặt từ vốn đầu tư đến đào tạo nguồn lao động để có thể nuôi được các loài thuỷ, hải sản khác. Triển khai công nghệ - khoa học vào các ngành, lĩnh vực cần tốc độ tăng trưởng mạnh trong giai đoạn tới, như trong khai thác xa bờ, nuôi trồng Thuỷ sản, chế biến thuỷ sản. Từng bước hiện đại hoá cơ cấu tàu thuyền (về công suất máy và kỹ thuật đánh bắt), cơ cấu ngư cụ đánh bắt. Chính khoa học – công nghệ mới tạo ra những loại tàu có công suất lớn có khả năng đánh bắt xa bờ trong khoảng thời gian dài với các công cụ đánh bắt hiện đại tiên tiến. Đưa công nghệ đặc biệt là công nghệ sinh học vào vấn đề tạo giống và nhân giống các loài Thuỷ sản, hải sản có giá trị và có nhu cầu tiêu dùng cao. Muốn thực hiện thành công các giải pháp trên cần triển khai các biện pháp sau: Nghiên cứu các vấn đề kinh tế xã hội trong khai thác hải sản. Quy hoạch phát triển nuôi trồng một cách bền vững, trọng tâm là các vùng nuôi công nghiệp. Nghiên cứu lợi dụng tổng hợp nguyên liệu để nâng cao giá trị thu nhập của ngành thuỷ sản. Nghiên cứu các mặt hàng, các công nghệ thích hợp để sản xuất các sản phẩm cung cấp cho thị trường nội địa. Nghiên cứu, hoàn thiện và phổ biến các công nghệ tiến bộ trong khai thác. Nhanh chóng chuyển giao các thành tựu và kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật cho người sản xuất kinh doanh và cho các nhà trường. Xây dựng và hoàn thiện công nghệ sản xuất giống. Xây dựng và hoàn thiện công nghệ sản xuất thức ăn cho các đối tượng nuôi. Nhập nội, thuần hoá và nhân rộng các giống nuôi có chất lượng cao. Nghiên cứu công nghệ làm sạch môi trường, công nghệ y sinh để chẩn đoán phòng trị bệnh thuỷ sản. Nghiên cứu ứng dụng các giải pháp công nghệ giảm thất thoát sau thu hoạch. Nghiên cứu đưa vật liệu mới (composit) ứng dụng cho việc đóng tàu đánh cá và sản xuất vật liệu phục vụ cho ngành nuôi. Phát triển và hoàn thiện các công nghệ sinh học lưu trữ gen, các công nghệ nuôi. Xây dựng các khu bảo tồn trên biển. 5. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực. Muốn đạt được mục tiêu chuyển dịch cơ cấu đã đặt ra thì nguồn nhân lực để phát triển các ngành, các lĩnh vực trọng tâm cần được đào tạo để đáp ứng nhu cầu. Thực trạng hiện nay hầu hết các tỉnh vùng hay cả nước đều thiếu cán bộ kỹ thuật có trình độ để trực tiếp chỉ đạo sản xuất, nhất là ngành nuôi trồng Thuỷ sản. Bởi vậy, cần có những chế độ đãi ngộ cụ thể để thu hút cán bộ kĩ thuật vào ngành Thuỷ sản, tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Đầu tư cho công tác đào tạo cán bộ địa phương ven biển và bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ cán bộ hiện có (để cập nhật những tiến bộ mới) vừa thiết thực lại dễ bố trí ổn định cuộc sống. Để có thể chuyển dịch cơ cấu từ khai thác gần bờ sang khai thác xa bờ và nuôi trồng thuỷ sản, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực là rất quan trọng. Phải đào tạo trình độ chuyên môn, kĩ thuật tay nghề cho đội ngũ lao động dư thừa trong khai thác hải sản gần bờ để họ có khả năng chuyển đổi sang xa bờ hoặc phát triển nghề nuôi biển. Không chỉ vậy, ở đây còn phải có những chính sách về vốn để phát triển sản xuất ở các lĩnh vực, nghề mới. Muốn nguồn nhân lực trong ngành Thuỷ sản về lâu dài có chất lượng cao phải đưa ra các chương trình đào tạo dài hạn bằng việc nâng cao trình độ văn hoá cho người dân ven biển. Đây không chỉ là nhiệm vụ trong chiến lược phát triển ngành Thuỷ sản mà còn là chiến lược phát triển nền kinh tế từ nay đến năm 2002. Đào tạo nguồn nhân lực gắn với việc giáo dục không những thông tin về nguồn lợi Thuỷ sản, khả năng khai thác hiện đại…để từ đó tạo ra xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành xuất phát từ từng hộ ngư dân, người lao động. Ngoài ra, Bộ Thuỷ sản và nhà nước cần kết hợp triển khai hệ thống các giải pháp khác để đưa ra các ngành, các lĩnh vực sản xuất tập trung phát triển theo đúng nhu cầu phát triển của nó trong thời kỳ hội nhập hiện nay. 6. Triển khai thực hiện các chương trình nhằm thực hiện các giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành thuỷ sản: 6.1. Chương trình hợp lý hoá khai thác hải sản. Mục đích: - Phát triển khai thác hải sản xa bờ có hiệu quả về kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng. Tạo ra mốt cơ cấu khai thác hải sản phù hợp. Tạo cơ hội chuyển đổi và tăng việc làm thay thế có hiệu quả và có thể hỗ trợ cho ngư dân đang khai thác hải sản gần bờ chuyển sang nghề mới với những thu nhập thích đáng. Tham gia một cách chủ động với các nước trong khu vực trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc khai thác nguồn lợi hải sản vùng chồng lấn. Nội dung: Chương trình có thể bao gồm các dự án sau: Thăm dò và đánh giá trữ lượng nguồn lợi hải sản( xa bờ, gần bờ). Tổ chức hệ thống dự báo nguồn lợi phục vụ cho ngư dân khai thác. Hợp tác quốc tế về thăm dò, khai thác hải sản vùng khơi và viễn dương. Xây dựng đội tàu khai thác hải sản hợp lý bao gồm đội tàu khai thác gần bờ, xa bờ, tàu dịch vụ tại các ngư trường có trang thiết bị hàng hải, trang thiết bị khai thác, bảo quản và an toàn đi biển phù hợp. Hoàn thiện và phát triển hệ thống đóng, sửa tàu đánh cá, dịch vụ cơ khí dệt lưới, bao bì cần thiết. Tổ chức đội tàu khai thác viễn dương. Xây dựng hệ thống neo đậu tránh trú bão cho tàu thuyền khai thác hải sản trong toàn quốc. Đào tạo cán bộ kỹ thuật, ngư dân phục vụ chương trình khai thác hải sản xa bờ. 6.2. Chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Mục đích: Sử dụng tiềm năng các vùng nước một cách có hiệu quả để phát triển nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt phát triển nuôi lợ và nuôi biển. áp dụng nhanh các tiến bộ công nghệ nuôi trồng thuỷ sản nhiệt đới, tiên tiến vào Việt Nam, tạo khả năng đẩy nhanh sản lượng, nhất là các loài hải sản xuất khẩu. Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ kỹ thuật cho nuôi trồng thuỷ sản. Tăng cường khả năng kiểm soát môi trường thuỷ sinh, kiểm soát dịch bệnh. Nội dung: Có thể bao gồm các dự án sau: Nuôi thuỷ sản nước lợ( tập trung cho nuôi tôm). Thúc đẩy nhanh chương trình đột phá nuôi biển với các nội dung: + Nuôi hải sản bằng lồng, bè và vùng rạn ở các eo, vịnh. + Nuôi nhuyễn thể hai vỏ. + Nuôi hải sản theo phương thức công nghiệp ở vùng cao triều( chủ yếu là ở ven biển miền Trung và miền Bắc). Dự án phát triển nuôi cá nước ngọt, kết hợp với sản xuất nông nghiệp( tập trung nuôi cá ruộng trũng và nuôi cá hồ chứa). Cũng cố và phát triển việc xây dựng, quản lý hệ thống trại giống cấp I. Để phát triển các vùng nuôi cần tiến hành các dự án riêng về các mặt sau đây: Dự án sản xuất giống, đặc biệt là giống thủy sản nước lợ và giống hải sản. Dự án sản xuất thức ăn cho nuôi thuỷ sản công nghiệp. Dự án xây dựng các trại giống công ích chuyên sản xuất giống thả ra sông, hồ, biển. Tăng cường cơ sở hạ tầng và dịch vụ kỹ thuật cho nuôi trồng thuỷ sản đặc biệt là hệ thống thuỷ lợi. Tăng cường khả năng kiểm soát, dự báo phòng trừ dịch bệnh. Lập ngân hàng bảo tồn gen các giống thuỷ đặc sản. Xây dựng các khu bảo tồn sinh vật biển. 6.3. Chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản. Mục đích: Tạo điều kiện thuận lợi để hàng thuỷ sản Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới và trong nước. Đảm bảo cho các thành phần kinh tế đều có điều kiện tham gia sản xuất kinh doanh thuỷ sản. Tăng cường quản lý thị trường thuỷ sản trong nước, củng cố các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, tài chính, thu hút đầu tư trong và ngoài nước nhằm phát triển xuất khẩu thuỷ sản. Nội dung: Có thể gồm các dự án sau: Xây dựng chiến lược sản phẩm và thị trường phù hợp, bao gồm cả tiếp thị và thông tin thị trường. Quy hoạch lại và đổi mới, nâng cấp từng xí nghiệp chế biển thuỷ sản và cả hệ thống công nghiệp chế biến thuỷ sản theo chiến lược sản phẩm và thị trường đã hoạch định. Tăng cường năng lực quản lý chất lượng sản phẩm, vệ sinh thuỷ sản và an toàn thực phẩm. Tăng cường năng lực bảo quản, chống thất thoát nguyên liệu thuỷ sản sau thu hoạch. Chuyển đổi hệ thống doanh nghiệp nhà nước thành hai loại: doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp thương mại. Cổ phần hoá các doanh nghiệp thương mại. Kết luận Công nghiệp hoá- hiện đại hoá ngành thuỷ sản được gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nhằm thực hiện chiến lược phát triển ngành từ nay đến năm 2010. Việc chuyển mạnh nghề cá tự do sang nghề cá được quản lý thống nhất bằng luật pháp có sự phân cấp cụ thể từ trung ương đến địa phương cùng với quá trình chuyển mạnh cơ cấu ngành theo hướng từ khai thác tài nguyên tự nhiên chủ yếu hiện nay sang khai thác lao động, kỹ thuật công nghệ tiên tiến đáp ứng nhu cầu phát triển thuỷ sản ổn định lâu bền nhấn mạnh vào nuôi trồng thuỷ sản, chế biến và xuất khẩu giai đoạn vừa qua 1991-2002 có những kết quả thành tựu lớn. Để đạt được mục tiêu chiến lược phát triển ngành đến năm 2010, các giải pháp nhằm tác động vào chuyển dịch cơ cấu ngành mang một ý nghĩa quan trọng, đây là một trong những cơ sở để hoàn thành các mục tiêu. Kết quả nghiên cứu của đề tài nhấn mạnh vào việc đưa ra các giải pháp , hệ thống các giải pháp bao gồm : giải pháp vĩ mô và vi mô để tác động trực tiếp và gián tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành thuỷ sản. Kết quả chuyển dịch cơ cấu ngành thuỷ sản giai đoạn 1991-2002 là rất lớn, vai trò của ngành nuôi trồng thuỷ sản được đặt đúng vị trí và tầm quan trọng của nó song tỷ lệ đóng góp vào tổng sản lượng thuỷ sản của cả nước là do ngành khai thác đem lại. Từ đây, nó đặt ra những yêu cầu mới về tốc độ chuyển dịch từ khai thác sang nuôi trồng và sự chuyển dịch trong nội bộ các tiểu ngành, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh . Danh mục tài liệu tham khảo 1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế PGS.TS Lê Du Phong. 2. Tạp chí công nghiệp Việt nam số 5/2001 : “Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện toàn cầu hoá và phát triển kinh tế tri thức”- PGS.TS.Nguyễn Kế Tuấn. 3. Lựa chọn hướng chuyển dịch cơ cấu ngành trong tiến trình công nghiệp hoá Việt Nam–GS.TS.Vũ Thị Ngọc Phùng-Tạp chí Kinh tế và Phát triển. Số 44-2001. 4. Giáo trình Kế hoạch hóa phát triển – NXB Thống kê 2002. 5. Kinh tế chính trị Mác-Lê Nin . Tập 2- NXB Thống kê 2000. 6. Chuyển dịch cơ cấu ngành và phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam –Viện kinh tế học –GS.TS.Đỗ Hoài Nam-NXB KHXH 1996 7. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam từ năm 1995-1998. Vũ Hùng Dũng – Tạp chí NCKT số 266 tháng 7/2000. 8. Dự thảo Qui hoạch tổng thể ngành thuỷ sản đến năm 2010- Viện kinh tế và qui hoạch thuỷ sản. 9. Niên giám thống kê (từ năm 1991-2001) 10. Cơ sở lý luận của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành thuỷ sản – TS.Hà Xuân Thông- Viện kinh tế và qui hoạch thuỷ sản 2000. 11. Đánh giá tác động của khoa học công nghệ cho tăng trưởng kinh tế trong chế biến thuỷ sản xuất khẩu – Kĩ sư. Lê Xuân Nhật – Hà nội2/2003 12. Chương trình khai thác hải sản xa bờ thời kỳ 2002-2010. Viện kinh tế và qui hoạch thuỷ sản – Hà nội tháng 5/2002. 13. Tổng quan về ảnh hưởng của quá trình đổi mới lên sự phát triển của ngành thuỷ sản Việt nam – TS. Hà Xuân Thông- Viện kinh tế và qui hoạch thuỷ sản – Hà nội 5/1998. 14. Giáo trình Kinh tế phát triển tập I và II – NXB Thống Kê 2000. 15. Giáo trình Dự báo phát triển kinh tế-xã hội – Khoa Kinh tế và Phát triển –Hà nội 2002. 16. Báo cáo tổng kết ngành thuỷ sản giai đoạn 1991-2002. Viện kinh tế và qui hoạch thuỷ sản. Mục lục Trang Lời cam đoan Tôi xin cam đoan, luận văn này là do tôi tự tìm hiểu và nghiên cứu độc lập, không có sự sao chép các bài viết và đề tài nghiên cứu của các cơ quan, tổ chức và các cá nhân khác. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Sinh viên Nguyễn Thành Lân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37127.doc
Tài liệu liên quan