Luận văn Một số giải pháp cơ bản trong chiến lược phát triển ngoại thương Việt nam trong những năm tới

Luận văn đã được thực hiện và đạt được một số kết quả chủ yếu sau: 1. Nghiên cứu đề tài từ góc độ kinh tế chính trị học với lý thuyết kinh tế học về quá trình phát triển nền kinh tế thế giới, luận án đã phân tích được những vấn đề lý luận cốt lõi về quá trình hình thành, sự cần thiết tồn tại và phát triển của ngoại thương, nhất là trong thời đại hội nhập và quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới. Từ đó khẳng định: điều kiện tiền đề để ra đời ngoại thương là sự tồn tại và sự phát triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ và sự hình thành và phát triển của phân công lao động quốc tế giữa các nước. Ngày nay hoạt động kinh tế đối ngoại là yêu cầu khách quan, không thể thiếu được. 2. Hoạt động của ngoại thương Việt Nam trong những năm qua chịu nhiều tác động cả về phía chủ quan của nền kinh tế nước ta cũng như khách quan, song mỗi thời kỳ có đặc thù riêng của nó. Mỗi thời kỳ lịch sử của cách mạng buộc ngành ngoại thương hoạt động với những đường lối chiến lược khác nhau. Từ thực tế hoạt động của ngoại thương từ năm 1975 đến nay, luận văn đã tổng hợp và đánh giá thực trạng hoạt động của ngoại thương Việt Nam, những thành tựu đã đạt được và những đóng góp tích cực của nó vào việc phát triển kinh tế, thực hiện công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Sau khi phân tích các hoạt động của ngoại thương Việt Nam từ năm 1975 đến nay, luận án đã khẳng định được rằng: nhìn chung Việt Nam đã đề ra định hướng chiến lược phát triển ngoại thương qua từng giai đoạn là hợp lý, đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của đất nước và quốc tế để từ đó đã góp phần thực hiện đường lối kinh tế đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ và làm cơ sở để đề ra định hướng chiến lược hoạt động cho ngoại thương trong những năm tới. 3. Thế giới ngày nay đang trong lộ trình hội nhập. Việt Nam là một nước thành viên trong cộng đồng quốc tế, không thể không tham gia vào quá trình hội nhập và chỉ khi có hội nhập mới có thể phát triển. Trong quá trình hội nhập, định hướng phát triển ngoại thương Việt Nam trong những năm tới và có thể cả lâu dài vẫn là tăng cường các mối quan hệ toàn diện, sâu rộng với tất cả các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Việt Nam cần phải cố gắng mở rộng quan hệ đối ngoại đa phương với tất cả các nước và tổ chức kinh tế trên thế giới. Trong lĩnh vực ngoại thương, chiến lược phát triển của nước ta là cần phải cải thiện cơ cấu hàng xuất nhập khẩu, tăng xuất khẩu để nhập khẩu. Xuất khẩu phải tập trung vào việc tăng tỷ trọng hàng chế biến, có hàm lượng chất xám cao và đòi hỏi kỹ thuật - công nghệ cao. Đồng thời nhập khẩu tập trung vào những hàng phục vụ cho sản xuất hàng để xuất khẩu. Chúng ta phải phấn đấu để tự sản xuất xuất khẩu, giảm tối đa hình thức "gia công" hàng xuất khẩu cho nước ngoài như hiện nay vẫn đang tồn tại khá phổ biến. 4. Để thực hiện định hướng chiến lược, luận văn cũng mạnh dạn đề xuất một loạt các giải pháp chủ yếu, trong đó có những giải pháp cần quan tâm nhiều hướng, đó là: - Sớm hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý ngoại thương cho phù hợp với các thông lệ kinh doanh quốc tế, tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia một cách tốt nhất vào lộ trình hội nhập, thực hiện AFTA theo đúng lộ trình và các điều kiện để gia nhập WTO. - Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường thương mại quốc tế và phát triển các hoạt động xúc tiến thương mại, có như vậy chúng ta mới có thể phát triển hoạt động ngoại thương. - Hết sức chú trọng đến thông tin kinh tế và vấn đề này là một trong những tiền đề cho ra những quyết định đúng đắn trong hoạt động ngoại thương. - Tăng cường hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ cán bộ ngoại thương cả về chất và về lượng. Vì "cán bộ là vốn quý nhất" quyết định tất cả như Bác Hồ đã dạy.

doc118 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1201 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp cơ bản trong chiến lược phát triển ngoại thương Việt nam trong những năm tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và định hướng xã hội chủ nghĩa, với kế hoạch tổng thể và lộ trình cũng như các bước đi hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước và quy định của các tổ chức mà ta tham gia, đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp. Nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế. Thứ hai là: Gắn thị trường với sản xuất, gắn kết thị trường trong nước và thị trường quốc tế, vừa chú trọng thị trường trong nước vừa ra sức mở rộng và đa dạng hoá thị trường nước ngoài. Thứ ba là: Kiên trì chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất nhập khẩu với kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 3.2.2 Những mục tiêu chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam Trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã quyết định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu của thế kỷ 21 là: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Xuất phát từ mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, mục tiêu cụ thể là: Đưa GDP của năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế, đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, một phần đáng kể nhu cầu sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô; cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ; bội chi ngân sách, lạm phát, nợ nước ngoài được kiểm soát trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đến tăng trưởng. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP. Nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên 2 lần nhịp độ tăng GDP. Tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp 16 - 17%, công nghiệp 40 - 41%, dịch vụ 42 - 43%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50%. Trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, phát triển kinh tế đối ngoại nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu trên chiến lược luôn luôn được nhấn mạnh và nó được xem như là một biện pháp quan trọng nhất có tính quyết định rất cao đến quá trình phát triển kinh tế nước ta trong thế kỷ XXI này. Việc phát triển ngoại thương cần phải được chú ý cả về quy mô, tốc độ phát triển và cả về cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu và cơ cấu dịch vụ. Về quy mô và tốc độ phát triển: Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh gấp 2 lần tăng trưởng GDP, tức là GDP tăng bình quân 7,2%/năm thì xuất khẩu sẽ tăng bình quân 14,4%/năm, trong đó nông sản xuất khẩu qua chế biến đạt kim ngạch 6 - 7 tỷ USD, xuất khẩu lương thực bình quân 4 - 5 triệu tấn/ năm, xuất khẩu khoáng sản đạt kim ngạch 3 tỷ USD, xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chiếm 70 - 80% tổng kim ngạch xuất khẩu. Về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu và cơ cấu dịch vụ: Cơ cấu xuất khẩu đến năm 2010 cần được chuyển dịch theo hướng: gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia tăng ngày càng cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. Định hướng chiến lược cho từng nhóm hàng xuất khẩu: - Nhóm nguyên nhiên liệu: hai mặt hàng chính là dầu thô và than đá. + Về dầu thô: xuất khẩu theo hướng giảm dần. Phấn đấu đến năm 2010 sẽ xuất khẩu dầu thô ở mức từ 33 đến 40% sản lượng dầu khai thác, còn lại để chế biến trong nước, với tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất đến năm 2010 dự kiến sẽ chỉ còn 1%. Thị trường xuất khẩu chính sẽ vẫn là Ôxtrâylia, Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc và có thể thêm cả Mỹ. + Về than đá: Dự kiến xuất khẩu dao động ở mức xung quanh 4 triệu tấn/năm, kim ngạch đạt khoảng 120 - 150 triệu USD. Thị trường vẫn sẽ là: Nhật Bản, Trung Quốc, Tây Âu và cần mở rộng thêm vào thị trường Hàn Quốc, Thái Lan.... + Về khoáng sản khác: Hiện nay nhóm nguyên liệu này có khả năng xuất khẩu đóng góp 20% trong tổng kim ngạch xuất khẩu (dự kiến đến năm 2005 xuất khẩu 2,5 tỷ USD chiếm tỷ trọng 9%); đến năm 2010 tỷ trọng nhóm này sẽ giảm xuống còn từ 1 - 3,5% (khoảng từ 500 triệu USD đến 1,75 tỷ USD) . - Nhóm hàng nông- lâm- thuỷ sản: Nhóm này đang chiếm gần 25% kim ngạch xuất khẩu với các mặt hàng chủ lực là gạo, cà phê, cao su, chè, rau quả, thuỷ sản, hạt điều, hạt tiêu. Theo mục tiêu của chiến lược chung, tốc độ tăng trưởng của nhóm này chỉ ở mức 4%/năm trong toàn thời kỳ 2001 - 2010, tỷ trọng của chúng sẽ giảm dần đến 22% (tương đương 5,85 tỷ USD) vào năm 2005 và 17,2 % tương đương 8 - 8,6 tỷ USD vào năm 2010. Trong những năm tới, để cải thiện cơ cấu xuất khẩu của nhóm này, hướng phát triển chủ đạo từ nay đến 2010 là: chuyển dịch cơ cấu toàn lĩnh vực, trong mỗi ngành, thậm chí trong từng loại sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng. Tuy nhiên, để thực hiện được định hướng trên, cần phải có sự đầu tư thích đáng vào các khâu cơ bản của sản xuất như: giống, kỹ thuật gieo trồng, công nghệ sau thu hoạch kể cả đóng gói, bảo quản, vận chuyển.... để tạo ra những bước đột phá mới về năng suất và chất lượng sản phẩm. Việc xuất khẩu hàng nông - lâm - thủy sản cần phải được duy trì ở một số thị trường truyền thống, song đặc biệt quan tâm đến các thị trường lớn và lấy đó làm thị trường xuất khẩu chính như: Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc. Mục tiêu xuất khẩu một số mặt hàng nông - lâm - thuỷ sản chủ yếu đến năm 2010 như sau: + Về gạo: dự kiến xuất khẩu bình quân 1 năm từ 4 - 4,5 triệu tấn thu về khoảng 1 tỷ USD. Thị trường xuất khẩu là khu vực Trung Đông, Châu Phi, Nam Mỹ và giữ sự ổn định sang các thị trường truyền thống như Inđônexia, Philipin... + Về nhân hạt điều: có thể đạt kim ngạch 400 triệu USD vào năm 2010. Các thị trường lớn để xuất khẩu là EU, Mỹ, Ôxtraylia, Trung Quốc. + Hạt tiêu: kim ngạch xuất khẩu có thể đạt mức 230 - 250 triệu USD, xuất sang các thị trường lớn như EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, Trung Đông. + Rau, hoa và quả khác: dự kiến đến 2010 kim ngạch xuất khẩu khoảng 1,1 tỷ USD. Các thị trường xuất khẩu lớn của ta là Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Châu Âu. + Cà phê: phấn đấu đến năm 2010 xuất khẩu khoảng 750 ngàn tấn đạt kim ngạch 850 triệu USD, đưa Việt Nam trở thành nước lớn thứ hai về xuất khẩu cà phê trên thế giới. + Cao su và chè: dự kiến kim ngạch xuất khẩu cao su đến năm 2010 đạt 500 triệu USD và chè 800 triệu USD. Tuy nhiên để đạt được kim ngạch này cần phải nâng cao chất lượng cả cao su và chè, vì các thị trường lớn để xuất khẩu như Nhật Bản, Đài Loan, Trung Đông luôn đòi hỏi các loại sản phẩm này có chất lượng cao. + Thịt: mục tiêu của ta sẽ gia tăng xuất khẩu thịt. Các thị trường có tính định hướng là Hồng Công, Nga và về lâu dài có các thị trường Singapore và Nhật Bản. Song để xuất khẩu thịt, chúng ta cần đầu tư từ khâu giống, kỹ thuật nuôi, an toàn vệ sinh thực phẩm..... Nhìn chung, các loại hàng xuất khẩu thuộc nhóm hàng nông - lâm - thủy sản mang tính chất là các sản phẩm thô. Nhóm này dự kiến xuất khẩu đạt từ 10 - 10,35 tỷ USD vào năm 2010, tỷ trọng giảm từ 40% hiện nay xuống còn 20 - 21% kim ngạch xuất khẩu. Định hướng của ta là gia tăng về chất lượng và giá trị gia tăng trong xuất khẩu. - Nhóm sản phẩm chế biến và chế tạo: Hiện nay kim ngạch xuất khẩu của nhóm này đạt trên 4 tỷ (chiếm 30% kim ngạch xuất khẩu). Dự kiến đến năm 2010 đạt 20 -21 tỷ USD, tăng gấp 5 lần hiện nay và tỷ trọng của chúng trong tổng kim ngạch xuất khẩu là 40%. Những mặt hàng chủ lực của nhóm hàng chế biến và chế tạo gồm có: + Dệt may và giày dép: dự kiến kim ngạch đạt 7 - 7, 5 tỷ USD. Muốn đạt được kim ngạch này, hàng dệt may phải tăng 14%/năm và giày dép: 15 - 16%/năm. Thuận lợi lớn trong xuất khẩu hàng dệt may và giày dép là chúng ta ký Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và EU, song chúng ta gặp khó khăn rất lớn là việc Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO, là đối tác cạnh tranh rất lớn trên thị trường xuất khẩu của ta. Để đẩy mạnh xuất khẩu, thực hiện các mục tiêu, chúng ta cần đầu tư phát triển mạnh hai ngành này, tăng cường thâm nhập vào thị trường mới, đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ, Trung Đông, châu Đại Dương, giữ vững và làm ổn định các thị trường truyền thống như EU, Nhật Bản.... + Sản phẩm gỗ: dự kiến đến năm 2005 đạt kim ngạch xuất khẩu 600 triệu USD và mục tiêu đến năm 2010 phấn đấu đạt 1,2 tỷ USD. Để đạt mục tiêu này, cần có chính sách khuyến khích phát triển trồng rừng, đơn giản hoá các thủ tục trong xuất khẩu sản phẩm gỗ, nhất là gỗ rừng tự nhiên. + Hoá phẩm tiêu dùng: thị trường tiêu thụ chính sẽ vẫn là: Trung Quốc, Campuchia, Irắc và một số nước đang phát triển. Phấn đấu đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt 600 triệu USD. Cần mở rộng thêm sang các thị trường tiềm năng như: EU, Nhật Bản, Nga, Hoa Kỳ. + Sản phẩm cơ khí, điện: tuy rằng đây hoàn toàn là những sản phẩm mới đưa vào xuất khẩu, song dự tính đến năm 2010 cần đạt được kim ngạch khoảng 1 tỷ USD, các hàng chủ yếu như: xe đạp, quạt điện, động cơ, máy xay xát... Thị trường định hướng xuất xe đạp là EU, Hoa Kỳ, còn các sản phẩm khác sang các nước trong khối ASEAN, Trung Đông, châu Phi. + Hàng thủ công, mỹ nghệ: kế hoạch phấn đấu đến 2010 xuất khẩu đạt 1,5 tỷ USD (trong đó gốm sứ chiếm 60%). Thị trường chủ yếu sẽ là: EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ, các nước Trung Đông, châu Đại Dương. + Thực phẩm chế biến: gồm các mặt hàng: bánh kẹo, sữa, mỳ ăn liền..... Mục tiêu xuất khẩu đến năm 2010 đạt 700 triệu USD sang các thị trường chủ yếu là Nga, Đông Âu, EU, Ôxtrâylia, Hoa Kỳ. + Sản phẩm nhựa: Nước ta đang xuất khẩu sang Campuchia, Lào, Trung Quốc, Ấn Độ, Sri-lanka. Trong những năm tới cần thâm nhập các thị trường tiềm năng như: Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ. Đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu loại hàng này phấn đấu đạt 600 triệu USD. Như vậy trong nhóm hàng chế biến và chế tạo, dệt may và giày dép vẫn là hàng chủ lực, cần tập trung mọi nguồn lực để phát triển, nhằm đạt được mục tiêu xuất khẩu 7 - 7,5 tỷ USD vào năm 2010. Bên cạnh đó cần tận dụng các lợi thế của ta, phát triển sản xuất các loại hàng khác như thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ, hoá phẩm tiêu dùng.... để quyết tâm đạt được mục tiêu xuất khẩu 20 - 21 tỷ USD trong năm 2010. - Nhóm hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao: Đây là nhóm hàng mới xuất hiện ở nước ta trong một số năm gần đây, song đã mang lại cho chúng ta một khoản thu lớn. Năm 2000 chúng ta đã đạt kim ngạch xuất khẩu 700 triệu USD. Mục tiêu đề ra là đến năm 2010 phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu từ 6 - 7 tỷ USD (riêng phần mềm là 1 tỷ USD). Những mặt hàng hạt nhân là điện tử và tin học. Về cơ cấu dịch vụ xuất khẩu: Dịch vụ xuất khẩu là một hoạt động lâu nay ít được chú ý ở nước ta. Mục tiêu đặt ra cho thời kỳ từ nay đến năm 2010 là phải tăng cường các hoạt động dịch vụ xuất khẩu. Những thế mạnh về dịch vụ xuất khẩu của ta sẽ là: xuất khẩu lao động, du lịch, bưu chính viễn thông, vận tải và ngân hàng. Đến năm 2010 cần phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu dịch vụ từ 8100 triệu đến 8600 triệu USD, trong đó: xuất khẩu lao động: 4500 triệu USD, du lịch: 1600 triệu USD, các ngành khác (ngân hàng, bưu chính viễn thông, vận tải....) đạt từ 2000 đến 2500 triệu USD. Tóm lại, đến năm 2010 kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu được dự kiến như sau (xem biểu 14) Biểu 14: Kim ngạch xuất khẩu dự kiến đến năm 2010 Nhóm hàng Kim ngạch 2010 (triệu USD) Tỷ trọng (%) 2002 2010 Tổng kim ngạch xuất khẩu trong đó: 1 .Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá: - Nguyên nhiên liệu - Nông, lâm, thuỷ sản - Hàng chế biến , chế tạo - Hàng công nghệ cao - Hàng hóa khác. 2. Kim ngạch dịch vụ xuất khẩu 56.100 - 58.600 48000 - 50.000 1750 8000 - 8600 20.000 - 21.000 7000 12.500 8.100 - 8600 100,00 20,5 23,9 39,0 3,24 13,36 100,0 3 - 3,5 16 - 17 40 - 45 12 - 14 23 - 25 Nguồn: Bộ Thương mại 3.3- MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TỚI Phát triển ngoại thương để lấy đó làm cơ sở phát triển kinh tế, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, là một quốc sách trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong những năm tới. Để thực hiện được mục tiêu đến năm 2010 có tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 48 - 50 tỷ USD, chúng ta có thể thực hiện đồng bộ hệ thống các chính sách và các giải pháp cơ bản sau: 3.3.1 Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý ngoại thương Để đáp ứng được các mục tiêu và yêu cầu về tăng trưởng của xuất khẩu, trước hết chúng ta phải đổi mới các chính sách quản lý ngoại thương vốn đã cũ lại lạc hậu trước đây, hoàn thiện các chính sách đó thành một hệ thống và đồng bộ, từ đó tạo ra cơ chế quản lý ngoại thương hợp lý. Chủ trương mang tính chủ đạo của ta trong xuất khẩu hàng hoá là tạo dựng những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, song không giới hạn một cách cứng nhắc vào một số mặt hàng cố định mà cần linh hoạt đáp ứng nhu cầu thị trường và sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới. Những mặt hàng mà chúng ta có thể coi là trọng tâm cần chú trọng đến là các mặt hàng công nghệ chế biến (chủ yếu là chế biến từ các sản phẩm nông - lâm - thuỷ sản) và các mặt hàng công nghiệp nhẹ (dệt, may, giày da....). Trong thời gian tới, chúng ta cần tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm sản xuất có hàm lượng công nghệ cao, muốn vậy cần có nhiều chất xám, có công nghệ mới để tạo cho nhóm hàng này có vị trí quan trọng trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Để đạt được những mục tiêu đề ra trong định hướng xuất khẩu hàng hoá, cần phải có chính sách hàng hoá, mà khâu có ý nghĩa quan trọng và quyết định là chính sách đầu tư. Trong đầu tư, cần ưu tiên cao cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, nhưng không nên đầu tư dàn trải mà nên tập trung đầu tư vào các ngành hàng chủ lực và các dự án đổi mới công nghệ để nâng cao cấp độ chế biến và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá trên thị trường thế giới. Chúng ta cần có thêm nhiều chính sách ưu tiên, ưu đãi hơn nữa để các doanh nghiệp xuất khẩu có điều kiện mở rộng thêm các mặt hàng sản xuất, để sử dụng ngày càng nhiều sản phẩm trong nước, nâng cao hàm lượng nội địa của sản phẩm dành cho xuất khẩu. Các chính sách ưu tiên, ưu đãi này có thể gồm các chính sách về thuế, các chính sách về tín dụng. Chúng ta cần hoạch định và thực thi hệ thống chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngoại thương, trong đó định hướng chính sách chuyển dịch cơ cấu các sản phẩm trong mối quan hệ chặt chẽ với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Từ nay đến hết thập niên đầu của thế kỷ 21, hàng xuất khẩu của ta phải có cơ cấu chuyển dịch theo hướng: "tăng nhanh tỷ trọng các sản phẩm mới, các sản phẩm đã qua công nghiệp chế tạo, chế biến sâu và tinh, tiến tới tăng dần tỷ trọng xuất các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật - công nghệ cao, giảm dần tiến tới hạn chế tối đa việc xuất các nguyên liệu thô và sơ chế”. * Nước ta cần rà soát lại hệ thống luật để điều chỉnh các quy định không còn phù hợp hoặc chưa rõ ràng, như xem xét và điều chỉnh lại Luật thương mại, Luật Đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Về Luật thương mại, cần sửa đổi và bổ sung để làm rõ ràng hơn về vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động xuất nhập khẩu, tạo sự thông thoáng trong hoạt động xuất nhập khẩu và sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. Về Luật đầu tư nước ngoài, cần đưa thêm các quy định để đảm bảo nguyên tắc đối xử quốc gia trong các lĩnh vực như các biện pháp về đầu tư có liên quan đến thương mại. Về Luật khuyến khích đầu tư trong nước, cần quy định lại rõ hơn về ngành nghề khuyến khích đầu tư để khắc phục tình trạng không rõ ràng giữa "thay thế nhập khẩu" và "định hướng xuất khẩu". Cần kết hợp hai Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước thành 1 bộ luật chung nhằm khuyến khích đầu tư. * Chúng ta cần sớm ban hành các văn bản luật mới để điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế mới phát sinh cả trên phương diện quốc tế và quốc gia, như Luật về tối huệ quốc và đối xử quốc gia, Luật cạnh tranh và chống độc quyền, Luật chống bán phá giá và chống trợ cấp, Luật phòng vệ khẩn cấp, Luật chống chuyển giá. Cần điều chỉnh hoặc ban hành mới các quy định dưới luật để xử lý linh hoạt các mảng kinh doanh đang ngày càng trở nên quan trọng nhưng chưa đủ khung pháp lý như xuất khẩu tại chỗ, buôn bán biên giới và duyên hải, kinh doanh tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu...... Chúng ta khuyến khích nhưng cũng cần có cơ chế quản lý chặt chẽ các dịch vụ tái xuất, chuyển khẩu và kho ngoại quan để tận dụng ưu thế về vị trí địa lý, tăng thu ngoại tệ. * Cần khẩn trương xây dựng và sớm ban hành các tiêu chuẩn hàng hoá - dịch vụ xuất khẩu cho phù hợp với tình hình thị trường, nâng dần năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới. * Trong hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế, thực hiện chính sách nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo. Cần tạo sự bình đẳng trong kinh doanh xuất nhập khẩu, xoá bỏ tình trạng độc quyền, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tham gia xuất nhập khẩu. * Nhanh chóng đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại nói chung, hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng để xoá bỏ những khâu lòng vòng, gây phiền hà xách nhiễu, tạo sự ổn định môi trường pháp lý để tạo lòng tin và khuyến khích, thu hút vốn đầu tư. Cần xem xét và sửa đổi các chính sách, nhất là chính sách thuế xuất nhập khẩu để các chính sách này có tính nhất quán không gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu. Cần xoá bỏ các lệnh cấm, lệnh ngừng nhập khẩu tạm thời và tăng cường sự đồng bộ của các cơ chế chính sách trong hoạt động xuất nhập khẩu. * Cần có chính sách về tỷ giá hối đoái linh hoạt, đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của thị trường trong và ngoài nước, bởi vì tỷ giá có thể làm cho những cố gắng trong sản xuất để xuất khẩu tăng thêm phần lớn giá trị hoặc hoàn toàn uổng công. Một chính sách linh hoạt về tỷ giá là một chính sách luôn giữ cho kim ngạch xuất khẩu có thể cân bằng với kim ngạch nhập khẩu trong mọi biến động giá cả ở thị trường nội địa và thị trường thế giới. 3.3.2 Tiếp tục đa phương hoá các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, đa dạng hoá thị trường và năng động tìm kiếm khách hàng Đa phương hoá các mối quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm có thêm nhiều bạn hàng, nhiều bè bạn, tạo thêm thế mạnh, tranh thủ thêm vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý mới của nước ngoài cho sự phát triển kinh tế của ta, tránh được những tình thế khó khăn do biến động về chính trị - kinh tế - xã hội xảy ra ảnh hưởng đến nước ta."Việt Nam muốn làm bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển". Việc Việt Nam thực hiện chính sách đa phương hoá các mối quan hệ không những phù hợp với lợi ích của đất nước mà còn phù hợp với xu thế chung của thế giới, nhờ vậy mà chúng ta đã và đang gặt hái được nhiều thành quả quan trọng, như từ chỗ bị bao vây, cô lập sang thế là một nước có quan hệ song phương và đa phương rộng rãi chưa từng có với tất cả các nước và trung tâm kinh tế - chính trị lớn, đặc biệt là đã ký được hiệp ước thương mại với EU và Hoa Kỳ; đã mở rộng được thị trường, gia tăng được đối tác, tranh thủ được một lượng rất lớn vốn đầu tư của nước ngoài và viện trợ phát triển chính thức, nối lại quan hệ với cộng đồng tài chính quốc tế, xử lý thoả đáng các khoản nợ; vị thế của Việt Nam không ngừng được nâng cao cùng với việc tham gia ngày một chủ động và tích cực vào việc giải quyết các công việc toàn cầu. Những kết quả đó đã góp phần quan trọng và thiết thực vào việc đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, chuẩn bị tiền đề cho việc hoàn thành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, muốn tồn tại và phát triển phải thực hiện chính sách mở cửa, đa phương hoá các quan hệ quốc tế. Tích cực đa phương hoá các quan hệ quốc tế chính là việc thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ rộng mở. Đa phương hoá các quan hệ kinh tế quốc tế cũng có nghĩa là chúng ta cần phát triển các hình thức và nội dung hội nhập khác nhau, đồng thời thúc đẩy quá trình tự do hoá đơn phương, song phương và đa phương, hội nhập cả ở phạm vi tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu, hội nhập trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Thực hiện chính sách đa phương hoá các quan hệ kinh tế, chúng ta có điều kiện để đa dạng hoá thị trường. Thực tế đã cho thấy rằng: muốn phát triển ngoại thương, một trong những điều kiện không thể thiếu là: phải có thị trường. Trong chiến lược phát triển thị trường, trước hết phải chú ý đến các thị trường trọng điểm, các bạn hàng lớn, đặc biệt là khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó thị trường ASEAN đang nổi lên vấn đề tham gia khu vực mậu dịch tự do AFTA. Chúng ta đã ký được Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, song việc phát triển hoạt động ngoại thương với Hoa Kỳ, việc tăng xuất khẩu vào thị trường Mỹ đang đặt ra trước mắt chúng ta nhiều thách thức mới. Mục tiêu của chúng ta đẩy nhanh tiến độ gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) để tạo điều kiện hội nhập một cách toàn diện hơn vào kinh tế thế giới. Đồng thời chúng ta cần xúc tiến mạnh mẽ và toàn diện hơn nữa tham gia vào các hoạt động của các tổ chức kinh tế, tài chính, ngân hàng quốc tế như Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (OPEC), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB)....,vì đó là điều kiện cần thiết để phát triển mạnh nền kinh tế mở cửa, nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Song muốn hoà nhập vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới trên đây, Việt Nam phải đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật về ngoại thương cho phù hợp. Đó là những vấn đề rất lớn, đòi hỏi chúng ta phải có thời gian chuẩn bị khá kỹ càng về tất cả các mặt, nhất là vấn đề nhân lực thì mới có thể thực hiện được mục tiêu đề ra, tránh được những bất lợi, rủi ro, không phù hợp có thể xảy ra. 3.3.3. Chủ động hội nhập quốc tế Hội nhập quốc tế một cách chủ động và tích cực là giải pháp quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu. Hội nhập quốc tế là điều kiện để chúng ta xác định được vị thế của mình trên thế giới, thấy được khả năng tham gia vào thị trường thế giới, thấy được hiệu quả và lợi thế của các sản phẩm và dịch vụ của mình, từ đó điều chỉnh lại các hoạt động và tình trạng sản xuất để tạo năng lực cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Hội nhập quốc tế sẽ mang lại cho chúng ta những thuận lợi to lớn trong các quan hệ quốc tế, tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư và những công nghệ mới từ bên ngoài. Hội nhập quốc tế tất yếu sẽ làm cho kinh tế hướng ngoại. Chủ động hội nhập quốc tế sẽ là giải pháp hàng đầu và là điều kiện tất yếu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu. Hội nhập quốc tế sẽ làm cho cả nước có sự tuỳ thuộc lẫn nhau trên cơ sở cùng có lợi. Hội nhập là điều kiện để chúng ta tham gia một cách nhanh chóng và toàn diện vào lộ trình toàn cầu hoá kinh tế quốc tế, bởi vì tham gia vào toàn cầu hoá chúng ta sẽ có nhiều cái lợi trong việc phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp chế tạo xuất khẩu, cơ cấu kinh tế được điều chỉnh theo hướng xuất khẩu. Tham gia vào toàn cầu hoá sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất, có thị trường xuất khẩu, tranh thủ được thêm các nguồn vốn đầu tư nước ngoài và kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển để khai thác hết khả năng tiềm tàng của nước ta nhằm sử dụng một cách hợp lý nhất các nguồn lực của ta, đi tắt đón đầu về công nghệ và cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá đặt chúng ta trước những thử thách lớn. Đó là tình trạng lạc hậu quá xa của nền kinh tế nước ta so với các nước khác làm cho môi trường đầu tư của nước ta kém lợi thế cạnh tranh hơn, sản phẩm kém năng lực cạnh tranh nên làm cho chúng ta bị thua thiệt nhiều, các tiêu cực và tệ nạn tồn tại và còn phát sinh nhiều trong đời sống kinh tế - chính trị-xã hội.... nó tác động rất lớn đến mọi mặt trong xã hội nước ta. Từ những vấn đề cấp bách trên đòi hỏi phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Chỉ có hội nhập mới có thể vượt qua được những thách thức và khó khăn trong đời sống kinh tế-chính trị- xã hội. Và chủ động hội nhập là để nâng cao lợi ích, hiệu quả của sự hội nhập kinh tế quốc tế. Để chủ động hội nhập, cần phải có chiến lược chủ động, có chuẩn bị và bước đi thích hợp, có kế hoạch cả về phía Chính phủ cũng như về phía các doanh nghiệp và tổ chức phi chính phủ. 3.3.4 Lựa chọn ưu tiên các ngành mũi nhọn có tác động hỗ trợ tích cực cho việc hoàn thiện và đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của ta Mỗi một quốc gia tiến hành công nghiệp hoá, phát triển kinh tế có một đặc thù riêng, điều kiện riêng. Từ những đặc thù riêng có để tìm ra hướng đi, đường đi tốt nhất, nhằm khai thác triệt để những lợi thế mà quốc gia đó có, sẽ đạt được thành công nhanh nhất, với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cao nhất. Thực tế trong nhiều thập kỷ qua phát triển kinh tế của các nước và khu vực ở châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Công và một số nước thuộc khối ASEAN đã chứng minh điều đó. Với Việt Nam, trong hoàn cảnh thực tiễn của mình, cần dựa vào các lợi thế so sánh của đất nước để chọn những ngành xuất khẩu mũi nhọn và các sản phẩm xuất khẩu chủ lực, tạo ra tiền đề cho nền kinh tế "cất cánh" trong một vài thập niên tới. Trong thời gian tới chúng ta cũng cần tăng cường đầu tư về mọi mặt để tạo ra nhiều sản phẩm có hàm lượng cao và tăng giá trị gia tăng để tăng tỷ trọng của chúng trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Chúng ta cần phát triển mạnh hơn nữa các hoạt động dịch vụ có thu ngoại tệ như du lịch, xuất khẩu lao động và chuyên gia, vận tải biển, vận tải hàng không và dịch vụ quá cảnh, gia công sản xuất, tái xuất hàng hoá cho các nước trong khu vực.... Trong phát triển thị trường, chúng ta cần xây dựng một thị trường hoàn chỉnh để từ đó có thể tham gia vào tất cả các hoạt động trên thị trường thế giới, đặc biệt là nhanh chóng tham gia một cách toàn diện vào các thị trường dịch vụ thế giới như tài chính, ngân hàng, thông tin, bưu điện, quảng cáo. Đây đang là lĩnh vực được các nước trong khu vực và trên thế giới quan tâm, phát triển mạnh, coi đó là động lực chính để tăng trưởng kinh tế trong tương lai. 3.3.5 Huy động các nguồn vốn đầu tư để phát triển ngoại thương theo hướng mở cửa và hội nhập Huy động vốn, tạo ra nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế là chủ trương lớn của nhiều quốc gia trên thế giới. Và hiện nay, vấn đề này hình như được hầu hết các nước trên thế giới thực hiện. Từ những năm 20 của thế kỷ trước, Lê - nin đã đưa ra học thuyết "chính sách kinh tế mới (NEP) với mục đích thu hút các nguồn vốn đầu tư để ổn định và phát triển kinh tế của nhà nước Xô viết non trẻ, bị thế giới tư bản bao vây mọi phía. Một số nước trong khu vực châu Á cũng đã thực hiện tốt việc thu hút vốn đầu tư để phát triển kinh tế như Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaixia.... và gần đây nhất là Trung Quốc, một quốc gia có vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất hiện nay. Nhờ có nguồn vốn đầu tư mà các nước kể trên đã tạo được những bước nhảy vọt, đã có nền kinh tế tăng trưởng ổn định và với tốc độ cao, như một kỳ tích trên thế giới. Chủ trương tăng cường thu hút vốn đầu tư đã được chúng ta luôn coi trọng và tìm mọi cách để đạt được mục tiêu thu hút vốn đầu tư và phát triển kinh tế, trong đó trước hết ưu tiên tạo nguồn vốn đầu tư để phát triển nền ngoại thương mở cửa của Việt Nam. Tuy nhiên để huy động được nhiều vốn đầu tư cho phát triển ngoại thương, chúng ta cần tạo ra môi trường chính trị - kinh tế vĩ mô ổn định; phải đổi mới từ nhận thức, quan điểm đến việc hoàn thiện các cơ sở pháp lý, các biện pháp, chính sách kinh tế theo hướng ưu tiên, khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước yên tâm mạnh dạn bỏ vốn đầu tư dưới mọi hình thức để lập ra các khu chế xuất, các tổ hợp liên doanh, các khu công nghiệp.... hướng về xuất khẩu. 3.3.6 Phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường kinh doanh Phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường kinh doanh là yếu tố hết sức quan trọng để thu hút đầu tư, phát triển ngoại thương. Ở nước ta hiện nay, các kết cấu hạ tầng như: hệ thống giao thông, điện nước phục vụ cho sản xuất và đời sống còn quá lạc hậu, yếu kém. Thực trạng đó đã hạn chế rất nhiều sự quan tâm và đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam. Chúng ta cần phải có những chính sách ưu tiên để đầu tư cải tạo, mở rộng, hiện đại hoá một cách đồng bộ toàn bộ hệ thống giao thông vận tải, hệ thống điện và hệ thống cấp thoát nước để phục vụ kịp thời và có hiệu quả cho nhu cầu phát triển của đất nước. Đó cũng là một trong những điều kiện, môi trường vật chất cần thiết thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển ngoại thương và các hoạt động đối ngoại khác. 3.3.7 Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho hoạt động ngoại thương Trong hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế, để tránh đổ bể, để thu được lợi nhuận cao, các doanh nghiệp cần phải có được những thông tin cần thiết, cơ bản về thị trường, về đối tác mà mình có hoặc sẽ có quan hệ. Những thông tin mà các doanh nghiệp cần nắm bắt là: luật lệ và chính sách của nước bạn hàng, đặc biệt là của nước đó với Việt Nam; tình hình tiêu thụ, giá cả và tính chất cạnh tranh đối với hàng hoá chúng ta muốn bán ra nước ngoài; phương thức thâm nhập thị trường có hiệu quả nhất; khả năng kinh doanh của bên đối tác để tìm ra được bạn hàng đáng tin cậy, muốn phát triển lâu dài, biết tôn trọng và quan tâm đến lợi ích của nhau. Những thông tin về đối tác chúng ta cần tìm hiểu, cần biết là các thông tin về vấn đề kỹ thuật, công nghệ, về kinh nghiệm tổ chức và quản lý kinh doanh, thực trạng, uy tín và quan điểm kinh doanh của họ trên thị trường. Thiếu thông tin về đối tác dễ dẫn đến những rủi ro đáng tiếc xảy ra, dễ mắc phải tình trạng mua đắt bán rẻ hoặc bị lừa. Nhờ có các thông tin cần thiết cho hoạt động mua bán hàng hoá, có thể xác định được chiến lược kinh doanh sao cho có hiệu quả. Trong thời gian tới, để hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho hoạt động ngoại thương, trước hết chúng ta cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và cơ chế thông tin thông suốt trong toàn quốc dựa trên chuẩn mực yêu cầu của quốc tế về hình thức và nội dung của các loại thông tin kinh tế, cần công khai hoá hoặc cần cung cấp một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời. Trong công tác xuất nhập khẩu cần thiết phải nắm bắt được những thông tin chính xác về thị trường, về hàng hoá để có những quyết định đúng đắn về chiến lược thị trường và chiến lược sản phẩm. Do vậy, chúng ta cần phải có sự kết hợp, sự hoạt động tích cực, phát huy hết chức năng của cơ quan như văn phòng tư vấn, cơ quan xúc tiến thương mại, đặc biệt là Trung tâm thông tin (Bộ thương mại) và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong việc cung cấp các thông tin chính xác và cập nhật cho hoạt động ngoại thương. Ngoài ra các Thương vụ ở nước ngoài cần cung cấp đầy đủ, kịp thời và chính xác các thông tin kinh tế thế giới cho hoạt động ngoại thương. Chúng ta cũng cần củng cố và phát huy hết năng lực của các cơ quan nghiên cứu nhất là các tin tức về ngoại thương để phục vụ cho việc phát triển thương mại quốc tế. Ngành thương mại cùng các doanh nghiệp cần thiết lập các cơ quan đại diện, các chi nhánh, các đại lý, cơ quan tư vấn - môi giới của mình ở nước ngoài, nhà nước có thể hỗ trợ phần nào tài chính và các chính sách vĩ mô...., từ đó tạo bước chuyển biến mới cho công tác tìm kiếm thị trường, bạn hàng nước ngoài để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. 3.3.8 Xúc tiến thương mại Xúc tiến thương mại là một trong những biện pháp quan trọng nhất trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển ngoại thương. Nhờ tổ chức tốt các hoạt động xúc tiến thương mại mà chúng ta có thể xây dựng được cho mình một hình ảnh, một biểu tượng tốt cho hàng hoá của mình, quảng bá được hàng hoá do mình sản xuất kinh doanh ra thị trường thế giới, đồng thời có thể tăng lượng hàng xuất khẩu, chiếm lĩnh và mở rộng thêm thị trường xuất khẩu. Trong công tác xúc tiến thương mại, trước hết phải làm tốt công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu. Đây là vấn đề mấu chốt trong việc phát triển thị trường. Nghiên cứu thị trường là để nắm được nhu cầu thị trường, những diễn biến trên thị trường, dung lượng thị trường và các đối tác hoạt động trên thị trường, từ đó có chiến lược phát triển thị trường, chiến lược xuất khẩu cho phù hợp với thực tế cũng như đòi hỏi của thị trường xuất khẩu. Trong công tác xúc tiến thương mại, chúng ta thường gặp một trở ngại là kinh phí đầu tư cho công tác này quá ít, đội ngũ cán bộ xúc tiến thương mại còn quá mỏng manh, thiếu và yếu về mọi mặt. Vấn đề đặt ra cần phải thay đổi nhận thức, phải hiểu được rằng: xúc tiến thương mại là một hoạt động cần được chú trọng và quan tâm nhiều hơn nữa. Chúng ta cần đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu, tăng cường việc thu thập và phổ biến thông tin cũng như công tác dự báo để định hướng cho hoạt động sản xuất, xuất khẩu. Để khắc phục tình trạng thiếu kinh phí cho hoạt động xúc tiến thương mại, cần tiến tới thành lập quỹ xúc tiến thương mại có sự đóng góp của các doanh nghiệp để tiến hành hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động hội chợ, triển lãm, xây dựng và quảng bá thương hiệu ở nước ngoài.... 3.3.9 Tăng cường và đổi mới công tác giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ và phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu tình hình mới Để phát triển ngoại thương, để hội nhập vào nền kinh tế thế giới , chúng ta cần một đội ngũ cán bộ quản lý nói chung, đội ngũ cán bộ của ngành ngoại thương nói riêng, có đầy đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời nhu cầu của thị trường quốc tế, quy mô của nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của nền sản xuất trong nước. Chúng ta cần đội ngũ cán bộ và nhân viên hoạt động ngoại thương giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, giỏi ngoại ngữ tiếng Anh và ngôn ngữ thị trường mục tiêu (đặc điểm tâm lý, thị hiếu, thói quen....). Những cán bộ nhân viên này phải được đào tạo từ các trường có tiếng tăm trong nước và quốc tế, để họ có khả năng thích ứng nhanh với tình hình, có khả năng nghiên cứu sâu rộng, có khả năng tiếp nhận và phân tích các thông tin có liên quan đến quản lý, đến sản phẩm và dịch vụ xuất nhập khẩu, đến thị trường mục tiêu, giá cả trên thị trường thế giới.... Đồng thời phải có khả năng sử dụng thành thạo các phương tiện phục vụ cho thu thập, phân tích và truyền thông tin hiện đại (như máy vi tính, fax...) để nâng cao khả năng phân tích thông tin chính xác, nhanh, kịp thời. Chúng ta cần có một đội ngũ cán bộ ngoại thương mạnh, tức là họ phải biết đặt lợi ích của tập thể, của doanh nghiệp lên trên hết, vì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong mọi quan hệ có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chúng ta cũng cần phải xây dựng được đội ngũ cán bộ giỏi về tiếp thị trong lĩnh vực kinh doanh thương mại quốc tế. Phát triển ngoại thương đòi hỏi có khả năng tiếp thị cao hơn hẳn hoạt động nội thương hoặc các doanh nghiệp sản xuất, vì thị trường mà các doanh nghiệp ngoại thương tiếp cận là thị trường nước ngoài, các đòi hỏi và tiêu chuẩn của thị trường cao hơn hẳn so với thị trường trong nước và luôn luôn phải ở mức ngang với các tiêu chuẩn chung của thị trường thế giới. Khả năng tiếp thị của cán bộ ngoại thương được thể hiện ở các mặt : xác định được thị trường mục tiêu, có khả năng chiếm lĩnh và giữ vững thị trường bằng cách gây ấn tượng ban đầu được tốt đẹp cho doanh nghiệp, biết biến những dịch vụ tốt nhất không nơi nào có được của doanh nghiệp thành những khoản thu lớn, có khả năng lựa chọn phương tiện và quy mô quảng cáo thích hợp với thị trường mục tiêu của doanh nghiệp, có khả năng tìm ra khe hở để lọt vào những thị trường rộng lớn hơn, biết hoà nhập vào khách hàng và vào phong trào người tiêu dùng để tạo thêm thuận lợi cho doanh nghiệp, và cuối cùng là : có khả năng định giá táo bạo và có hiệu quả cho sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, vì đây là vũ khí tốt nhất để nâng cao doanh thu, đánh bại các đối thủ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường. KẾT LUẬN Luận văn đã được thực hiện và đạt được một số kết quả chủ yếu sau: 1. Nghiên cứu đề tài từ góc độ kinh tế chính trị học với lý thuyết kinh tế học về quá trình phát triển nền kinh tế thế giới, luận án đã phân tích được những vấn đề lý luận cốt lõi về quá trình hình thành, sự cần thiết tồn tại và phát triển của ngoại thương, nhất là trong thời đại hội nhập và quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới. Từ đó khẳng định: điều kiện tiền đề để ra đời ngoại thương là sự tồn tại và sự phát triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ và sự hình thành và phát triển của phân công lao động quốc tế giữa các nước. Ngày nay hoạt động kinh tế đối ngoại là yêu cầu khách quan, không thể thiếu được. 2. Hoạt động của ngoại thương Việt Nam trong những năm qua chịu nhiều tác động cả về phía chủ quan của nền kinh tế nước ta cũng như khách quan, song mỗi thời kỳ có đặc thù riêng của nó. Mỗi thời kỳ lịch sử của cách mạng buộc ngành ngoại thương hoạt động với những đường lối chiến lược khác nhau. Từ thực tế hoạt động của ngoại thương từ năm 1975 đến nay, luận văn đã tổng hợp và đánh giá thực trạng hoạt động của ngoại thương Việt Nam, những thành tựu đã đạt được và những đóng góp tích cực của nó vào việc phát triển kinh tế, thực hiện công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Sau khi phân tích các hoạt động của ngoại thương Việt Nam từ năm 1975 đến nay, luận án đã khẳng định được rằng: nhìn chung Việt Nam đã đề ra định hướng chiến lược phát triển ngoại thương qua từng giai đoạn là hợp lý, đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của đất nước và quốc tế để từ đó đã góp phần thực hiện đường lối kinh tế đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ và làm cơ sở để đề ra định hướng chiến lược hoạt động cho ngoại thương trong những năm tới. 3. Thế giới ngày nay đang trong lộ trình hội nhập. Việt Nam là một nước thành viên trong cộng đồng quốc tế, không thể không tham gia vào quá trình hội nhập và chỉ khi có hội nhập mới có thể phát triển. Trong quá trình hội nhập, định hướng phát triển ngoại thương Việt Nam trong những năm tới và có thể cả lâu dài vẫn là tăng cường các mối quan hệ toàn diện, sâu rộng với tất cả các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Việt Nam cần phải cố gắng mở rộng quan hệ đối ngoại đa phương với tất cả các nước và tổ chức kinh tế trên thế giới. Trong lĩnh vực ngoại thương, chiến lược phát triển của nước ta là cần phải cải thiện cơ cấu hàng xuất nhập khẩu, tăng xuất khẩu để nhập khẩu. Xuất khẩu phải tập trung vào việc tăng tỷ trọng hàng chế biến, có hàm lượng chất xám cao và đòi hỏi kỹ thuật - công nghệ cao. Đồng thời nhập khẩu tập trung vào những hàng phục vụ cho sản xuất hàng để xuất khẩu. Chúng ta phải phấn đấu để tự sản xuất xuất khẩu, giảm tối đa hình thức "gia công" hàng xuất khẩu cho nước ngoài như hiện nay vẫn đang tồn tại khá phổ biến. 4. Để thực hiện định hướng chiến lược, luận văn cũng mạnh dạn đề xuất một loạt các giải pháp chủ yếu, trong đó có những giải pháp cần quan tâm nhiều hướng, đó là: - Sớm hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý ngoại thương cho phù hợp với các thông lệ kinh doanh quốc tế, tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia một cách tốt nhất vào lộ trình hội nhập, thực hiện AFTA theo đúng lộ trình và các điều kiện để gia nhập WTO. - Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường thương mại quốc tế và phát triển các hoạt động xúc tiến thương mại, có như vậy chúng ta mới có thể phát triển hoạt động ngoại thương. - Hết sức chú trọng đến thông tin kinh tế và vấn đề này là một trong những tiền đề cho ra những quyết định đúng đắn trong hoạt động ngoại thương. - Tăng cường hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ cán bộ ngoại thương cả về chất và về lượng. Vì "cán bộ là vốn quý nhất" quyết định tất cả như Bác Hồ đã dạy. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Mohamed Ariff và Hal Hill (1993), "Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu - Kinh nghiệm của ASEAN", Nxb KHXH, HN. 2 Vũ Đình Bách - Ngô Đình Giao (đồng chủ biên, 1996), Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế, bảo đảm sự tăng trưởng. Nxb CTQG, HN. 3 David Begg, Stanley Fishen, Rudiger Dornbush (1992), Kinh tế học, tập 2, Nxb Giáo dục, HN. 4 Walden Bello, Stehanie Rosenfield (1996), Mặt trái của những con rồng, Nxb CTQG, HN. 5 Bộ ngoại giao - Vụ hợp tác kinh tế đa phương (2002), Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá - vấn đề và giải pháp, Nxb CTQG, HN. 6 Nguyễn Duy Bột, Đinh Xuân Trình (1996), Thương mại quốc tế - xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế, Nxb Thống kê, HN. 7 Cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển (1994), Viện KTTG, Nxb KHXH, HN. 8 Các Mác, Ph. Ăng ghen, V.I. Lê Nin, I.V. Stalin (1977), Về ngoại thương, Nxb Sự thật, HN. 9 Lê Văn Châu (1995), Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển của VN, Nxb CTQG, HN. 10 Phạm Đỗ Chí - Trần Nam Bình - Vũ Quang Việt (đồng chủ biên, 2002), Những vấn đề kinh tế Việt Nam: Thử thách của hội nhập, Nxb TP.HCM. 11 Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 - Báo cáo của BCH TW Đảng khoá VIII tại Đại hội Đảng lần thứ IX. 12 Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 - 2010. Bộ Thương mại. 13 Mai Ngọc Cường - Vũ Văn Hân (đồng chủ biên, 1996), Công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu ở VN, Nxb Thống kê, HN. 14 Tô Xuân Dân - Vũ Chí Lộc (1997), Quan hệ kinh tế quốc tế - Lý thuyết và thực tiễn, Nxb Hà Nội. 15 Lê Đăng Doanh - Đinh Đức Sinh: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế - thành tựu và triển vọng, NCKT, số 9/1995. 16 Dự báo phát triển thương mại VN đến năm 2000, Bộ KH và ĐT, HN 1995. 17 Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 3 năm (2001 - 2003) và dự kiến kế hoạch 2 năm ( 2004 - 2005), Bộ KH và ĐT, 2003. 18 Thế Đạt (2001), Quản lý kinh tế đối ngoại của Việt Nam, Nxb Hà Nội 19 Đỗ Đức Định (1993), Kinh tế đối ngoại - nghiên cứu so sánh các nước đang phát triển châu Á - Thái Bình Dương và Việt Nam, Nxb KHXH, HN. 20 Ngô Đình Giao (chủ biên, 1994), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân, tập 1, Nxb CTQG, HN. 21 Nguyễn Vũ Hoàng (2003), Các liên kết kinh tế - thương mại quốc tế Nxb Thanh Niên. 22 Nguyễn Thị Hường (Chủ biên, 2001), Giáo trình kinh doanh quốc tế, tập 1, Nxb Thống kê, HN. 23 Đinh Sơn Hùng - Xuất nhập khẩu nhìn từ góc độ ngoại thương phát triển kinh tế , số 35 (9/1993). 24 Kế hoạchh phát triển thương mại VN 5 năm (1996 - 2000), Bộ thương mại, HN 1995. 25 Kinh tế VN 2002 (Viện NCQLKT T.W), Nxb CTQG, HN 2003 26 Kinh tế VN 2003 (Viện NCQLKT T.W), Nxb CTQG, HN 2004 27 Kinh tế - xã hội Việt Nam 3 năm (2001 - 2003), Nxb Thống kê , Hà Nội 2003. 28 Phùng Minh Lai (1991), "Chiến lược công nghiệp hoá của các nước NICs". Thông tin chiến lược phát triển KHKTKT, số 4/1994, HN. 29 Chử Văn Lâm (chủ biên), 1991, Những vấn đề kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 30 Lý luận và thực tiễn thương mại quốc tế (1994), Trung tâm kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Nxb Thống kê, HN. 31 Nguyễn Công Liêm, Lê Minh Tâm: Chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại - Tổng luận KHKTKT, số 4/1993. 32 Võ Đại Lược (chủ biên, 1995), Đổi mới KT VN và chính sách KT ĐN, Nxb KHXH, HN. 33 Bùi Xuân Lưu (1994), Giáo trình kinh tế ngoại thương, Nxb Giáo dục, ĐHNT, HN. 34 Bùi Xuân Lưu (2002), Giáo trình kinh tế ngoại thương, Nxb Giáo dục Hà Nội. 35 Nguyễn Mại: Một vài vấn đề về chính sách mở cửa trong quan hệ kinh tế đối ngoại của VN, NCKT, số 3/1991 36 Nguyễn Thị Hồng Nhung (2003), Tự do hoá thương mại ở ASEAN, Nxb KHXH, Hà Nội. 37 Niên giám thống kê 2000 (2001), Tổng cục thống kê, Nxb Thống kê, Hà Nội 38 Niên giám thống kê 2001 (2002), Tổng cục thống kê, Nxb Thống kê, Hà Nội 39 Nguyễn Pháp (1993), Quan hệ kinh tế quốc tế, Nxb Nông nghiệp, HN. 40 Trần Anh Phương: Bàn về định hướng xuất khẩu trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tạp chí TM, số 11/1994. 41 Trần Anh Phương: Để phát triển một nền ngoại thương mở cửa. Tạp chí TM, số 1 + 2/1995. 42 Trần Anh Phương (1997) Quan hệ giữa ngoại thương và với tăng trưởng và phát triển nền kinh tế mở, Nxb KHXH, Hà Nội. 43 Trần Anh Phương: Ngoại thương VN trong quá trình đổi mới kinh tế đối ngoại - Những vấn đề KTTG, số 3/1994 44 Trần Anh Phương: Về một số giải pháp chiến lược ngoại thương trong điều kiện kinh tế mở. KT và dự báo, số 11/1994, 45 Trần Anh Phương: Việt Nam - Sự lựa chọn chiến lược ngoại thương, những vấn đề KTTG, số 6/1993. 46 Nguyễn Trần Quế (1992), Kinh tế đối ngoại VN- Thực tiễn và chính sách - Viện KTTG, HN. 47 Phạm Quyền - Lê Minh Tâm (1997), Hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu VN tới năm 2010, Nxb Thống kê, Hà Nội. 48 Sabuto – Okita (1988), Các nền kinh tế đang phát triển và Nhật Bản, Những bài học về tăng trưởng, Tập 1, Viện KTTG, Hà Nội 49 Đinh Đức Sinh: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sau 10 năm đổi mới (1986 - 1995), NCKT số 6/1996. 50 Số liệu kinh tế - xã hội các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, Tổng cục Thống kê , Nxb Thống kê , HN 2003. 51 Huy Thành: Kinh tế đối ngoại trong công cuộc đổi mới: thành tựu và thách thức, NCKT, số 11/1996. 52 Nguỵ Yến Thân: Sự thách thức và lựa chọn của 4 con rồng nhỏ châu Á trong những năm 1990. NCKT, số 3/1995. 53 Tạp chí Thương mại số 7/2003 54 Thời báo kinh tế Việt Nam, số 140 (01/9/2003) 55 Thương mại Quốc tế và các nước đang phát triển. Những vấn đề KTTG, số 6/1995. 56 Tình hình thương mại tháng 12 và cả năm 2003. Kế hoạch thương mại năm 2004 và một số biện pháp (Bộ Thương mại). 57 Tiềm năng Việt Nam thế kỷ XXI, Nxb Thế giới, 2001 58 Tự do hoá thương mại quốc tế - những xu hướng và chính sách (1993), Viện KT Thế giới, Nxb KHXH, Hà Nội. 59 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976), Nxb CTQG, Hà Nội 60 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1987), Nxb CTQG, Hà Nội 61 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1994), Nxb CTQG, Hà Nội 62 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996), Nxb CTQG, Hà Nội 63 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2002), Nxb CTQG, Hà Nội 64 Văn kiện Hội nghị Trung ương 7 Ban Chấp hành TW khoá IX, Nxb CTQG, HN 2003. 65 Viện chiến lược phát triển, Bộ KH và ĐT (2002), Một số vấn đề về lý luận, phương pháp luận, phương pháp xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế VN, Nxb CTQG, HN. 66 Việt Nam 2010 - Tiến vào thế kỷ 21 - Báo cáo phát triển Việt Nam 2001. (Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam ngày 14 - 15/12/2000). 67 Việt Nam tầm nhìn đến năm 2020 - Viện Dự báo chiến lược khoa học và công nghệ, Nxb CTQG, HN 1995. 68 Jon Woronoff: Những nền kinh tế thần kỳ ở châu Á, tập 2, Nxb KHXH, HN 1990. MỤC LỤC Lời mở đầu 1 Chương 1: Một số vấn đề chung về thương mại quốc tế 4 1.1. Cơ sở phát triển của thương mại quốc tế 4 1.1.1. Cơ sở hình thành thương mại quốc tế 4 1.1.2. Xu hướng phát triển của thương mại quốc tế 6 1.2 Các chiến lược phát triển ngoại thương 12 1.2.1. Chiến lược thay thế nhập khẩu 12 1.2.2. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế 15 1.2.3. Chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu 16 1.2.4. Chiến lược phát triển hỗn hợp 17 1.3. Vai trò của thương mại quốc tế đối với quá trình phát triển kinh tế quốc dân 19 1.3.1 Vai trò đối với việc phát triển kinh tế 19 1.3.2. Vai trò đối với việc giải quyết việc làm và các vấn đề chính trị - xã hội của mỗi quốc gia. 22 1.4. Một số kinh nghiệm phát triển ngoại thương trên thế giới 24 1.4.1 Hàn Quốc 24 1.4.2 Đài Loan 26 1.4.3 Malaysia 27 1.4.4 Trung Quốc 29 Chương 2: Ngoại thương Việt Nam trong những năm qua 32 2.1. Ngoại thương Việt Nam thời kỳ 1975 - 1986 32 2.1.1. Chiến lược phát triển ngoại thương thời kỳ 1975 - 1986 32 2.1.2. Thực trạng ngoại thương Việt Nam thời kỳ 1975 - 1986 35 2.1.3. Đánh giá ngoại thương Việt Nam thời kỳ 1975 - 1986 39 2.2. Ngoại thương Việt Nam từ 1986 đến nay 42 2.2.1. Chiến lược phát triển ngoại thương từ 1986 đến nay 42 2.2.2. Thực trạng ngoại thương Việt Nam từ 1986 đến nay 45 2.2.3. Đánh giá ngoại thương Việt Nam từ 1986 đến nay 56 Chương 3: Định hướng chiến lược và các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới 65 3.1. Bối cảnh mới chi phối chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới 65 3.1.1. Thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay 65 3.1.2. Bối cảnh quốc tế, xu hướng phát triển kinh tế và thương mại thế giới hiện nay 76 3.1.3. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến quá trình phát triển ngoại thương Việt Nam trong những năm tới 78 3.2. Quan điểm và định hướng chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam trong giai đoạn tới 84 3.2.1. Những quan điểm cơ bản về định hướng chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam 84 3.2.2. Những mục tiêu chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam 87 3.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam trong giai đoạn tới 93 3.3.1. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý ngoại thương 93 3.3.2. Tiếp tục đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, đa phương hoá thị trường và năng động tìm kiếm khách hàng 96 3.3.3. Chủ động hội nhập quốc tế 98 3.3.4. Lựa chọn ưu tiên các ngành mũi nhọn có tác động hỗ trợ tích cực cho việc hoàn thiện và đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 99 3.3.5. Huy động các nguồn vốn đầu tư để phát triển ngoại thương theo hướng mở cửa và hội nhập 100 3.3.6. Phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường kinh doanh 101 3.3.7. Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho hoạt động ngoại thương 101 3.3.8 Xúc tiến thương mại 103 3.3.9. Tăng cường và đổi mới công tác giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu tình hình mới. 104 Kết luận 106 Tài liệu tham khảo 108 CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN ADB Ngân hàng phát triển châu Á AFTA Hiệp định thương mại tự do ASEAN APEC Diễn đàn hợp tác Châu Á - Thái Bình Dương ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á CARICOM Cộng đồng hợp tác kinh tế và thị trường chung Caribê GATT Hiệp định chung về thuế quan và thương mại EU Liên minh châu Âu WB Ngân hàng thế giới WTO Tổ chức thương mại thế giới FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài IMF Quỹ tiền tệ thế giới MERCOSUR Khối thị trường chung Nam mỹ NAFTA Hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ ODA Viện trợ phát triển chính thức OPEC Tổ chức các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37192.doc
Tài liệu liên quan