Luận văn Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc tại Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp I

Đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng may mặc hiện nay là một trong những vấn đề rất cần thiết trong hoạt động xuất khẩu của nước ta. Hiện nay, hiệu quả của hoạt động xuất khẩu này về mặt xã hội là vô cùng lớn, bên cạnh lợi ích thu được chưa nhiều đòi hỏi phải có sự đầu tư hơn nữa, đó là việc đầu tư trong quá trình sản xuất, đầu tư về nghiên cứu mẫu mã, thị trường may mặc thế giới, cải tiến cách quản lý, nâng cao tay nghề công nhân sao cho phù hợp giữa điều kiệơisanr xuất trong nước và điều kiện quốc tế. Phải đa dạng hoá thị trường bạn hàng và sản phẩm, cung cấp thêm nghuyên phụ liệu đầu vào thay thế nhập khẩu từ nước ngoài để tăng tỷ trọng nguyên vật liệu trong giá trị sản phẩm xuất khẩu. Chắc chắn rằng trong tương lai hoạt động xuất khẩu hàng may mặc sẽ ngày càng tăng và đặc biệt nó sẽ đóng góp càng nhiều cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bước vào thế kỷ 21, Việt Nam đã là thành viên của ASEAN, APEC, và sẽ tham gia WTO trong tương lai không xa. Trước những thử thách, khó khăn của giai đoạn mới, với khả năng của mình, Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I sẽ cố gắng phát triển mặt hàng may mặc đi xa hơn nữa và như vậy hoạt động xuất khẩu mặt hàng này sẽ được đẩy mạnh, góp phần phát triển ngành may mặc Việt Nam, nâng cao uy tín và vị trí hàng may mặc Việt Nam trên thị trường quốc tế.

doc115 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1555 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc tại Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp I, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i nhiều mặt hàng lớn nh gạo, cement , xăng dầu ,sắt thép... Đồng thời, hạn chế nhiều mặt hàng : ôtô, xe máy ,hàng tiêu dùng... Do vậy ,Công ty đã bị mất một số mặt hàng có kim ngạch cao. +Thị trường trong nước: Nhiều mặt hàng tồn đọng lớn. Nhìn chung, hàng hoá nhiều vượt khả năng thanh toán, hoạt động cầm chừng. Nạn buôn lậu trốn thuế diễn ra phổ biến. Trong khi các doanh nghiệp có vốn nước ngoài có nhiều lợi thế về tài chính , kỹ thuật tiếp thị, được hưởng chính sách ưu đãi thâm nhập vào thị trường nội địa tạo sự cạnh tranh gay gắt không cân sức. +Thị trường nước ngoài: Thị trường khu vực và Châu á, nơi tiêu thụ 70% mặt hàng xuất khẩu cũng là nơi cung cấp chính hàng nhập khẩu .Sau một thập niên phát triển cao, năm1997 bắt đầu rơi vào khủng hoảng tài chính tiền tệ tháng 7/1997. Giá xuất khẩu các sản phẩm hầu hết giảm mạnh, đặc biệt là hàng nông sản như lạc, cà phê, cao su, sắn lát... giá thấp hơn giá cung nội địa. Hàng dệt may tiếp tục phát triển trên thị trường có phần thuận lợi hơn do cạnh tranh của hàng dệt may Thái Lan có xu hướng mất ưu thế trên thị trường thế giới. Giá cà phê: Đầu năm 1995 khoảng 2400USD/ Tấn FOB SG đến nay xuống còn 1500 USD/ Tấn. Giá phân bón ure: 60 USD /Tấn Giá thiếc: Đầu tháng 8/1995: 6900 USD /Tấn MT CF Genoa đến nay xuống còn 5950 USD /MT CF Genoa. + Chính sách quản lý tiền tệ trong thanh toán đối ngoại chặt chẽ, tỷ giá đồng VN và ngoại tệ khác biến động nhiều về cuối năm, tỷ lệ lãi suất đồng liên tục hạ. + Chính sách cải cách hành chính, trực tiếp là việc bãi bỏ giấy phép xuất nhập chuyến, trong khi chưa có sự phối hợp chuẩn bị đầy đủ các ngành quản lý đặc biệt là hải quan gây rất nhiều vớng mắc và tăng phí đáng kể trong hoạt động kinh doanh của Công ty . - Về chi phí: Năm 1999 so với năm 1998, chi phí tăng 7.771 triệu đồng hay tăng 3,2%, tốc độ tăng chi phí lớn hơn tốc độ tăng doanh thu (3%). Năm 2000 so với năm 1999, chi phí tăng 12.031 triệu đồng hay tăng 4,8%. Chi phí của Công ty thay đổi tương ứng với sự thay đổi của sản xuất kinh doanh là hợp lý. Về lợi nhuận: So với năm 1998, năm 1999 lợi nhuận giảm 166 triệu đồng hay giảm 3,13%. Lợi nhuận năm 1999 so với năm 1998 giảm do sự cạnh tranh gay gắt của thị trường, Công ty phải điều chỉnh kinh doanh . Về nghĩa vụ nộp ngân sách: Công ty thực hiện nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước một cách đầy đủ và đúng hạn. Mức thuế Công ty thực hiện với Nhà nước năm sau đều cao hơn trước. Năm 1999 so với năm 1998 tăng 1.182 triệu đồng hay tăng 2,2%. Năm 2000 mức thuế Công ty nộp cho Nhà nước tăng 2.200 triệu đồng hay tăng 4% so với năm 1999. Về tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 5.072.000 USD hay tăng 7,9% so với năm 1999 nhưng hiệu quả kinh tế không cao do thị trường tài chính của các nước Đông Nam á biến động về giá cả như : Inddonexia ,Malayxia... Năm 2001 so với năm 2000, tổng kim ngạch XNK tăng 1.228.000 USD hay tăng 1,8%. Thu nhập của người lao động: Quỹ lương của Công ty được nâng cao dần qua 3 năm. Năm 2000 quỹ lương tăng 95 triệu đồng hay tăng 1,8% so với năm 1998. Năm 2001 so với năm 2000, quỹ lương tăng 150 triệu đồng hay tăng 2,8%. Tuy số lao động của Công ty qua 3 năm tăng lên nhưng Công ty vẫn đảm bảo được cuộc sống cho cán bộ công nhân viên với mức thu nhập tương đối cao. Năm 2000 tiền lương bình quân một nhân viên/một tháng tăng 4.415 đồng hay tăng 0,58% so với năm 1999. Năm 2001 so với năm 2000 lương bình quân một nhân viên / một tháng tăng 6.827 đồng hay tăng 0,89%. Đạt được kết quả đó là do năm 2001 tình hình kinh doanh của Công ty có nhiều thuận lợi: + Cơ chế, chính sách khuyến khích hoạt động XNK được tháo gỡ tích cực. Số lượng mặt hàng có hạn ngạch và giao theo đầu mối được hạn chế tối đa, các thủ tục XNK đã tương đối thông thoáng hơn. Việc cho phép các giám đốc doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm trong một số lĩnh vực XNK (định mức gia công, địa điểm XNK) đã tạo điệu kiện để doanh nghiệp được chủ động thực hiện hợp đồng. + Công ty dã chú trọng đầu tư nhằm nâng cao chất lượng của sản phẩm xuất khẩu để nâng cao công suất và đáp ứng nhu cầu của Công ty vẫn giữ được mức ổn định. Nhận xét: Qua phân tích tình hình kinh doanh của Công ty qua 3 năm , ta thấy các chỉ tiêu kế hoạch đề ra năm sau đều cao hơn năm trước. Riêng lợi nhuận năm 2000có giảm đi bởi những nhân tố khách quan : do chính sách của Nhà nước thay đổi, do thị trường ở khu vực có phần hoạt động chậm lại... Sang năm 2001, bằng sự nỗ lực, năng động nhạy bén của mình, Công ty đã mở rộng thêm thị trường tiêu thụ, đồng thời chính sách khuyến khích hoạt động XNK được tháo gỡ tích cực nên lợi nhuận năm 2001 cao hơn năm 2000. Mặc dù vẫn còn một số khó khăn nhưng vì là một doanh nghiệp có truyền thống làm ăn nghiêm chỉnh, có định hướng kinh doanh phù hợp, đặc biệt được sự giúp đỡ của lãnh đạo bộ và các vụ quản lý chức năng bộ Thương Mại, các cơ quan quản lý các ngành, Công ty đã đạt được mức đề ra năm 2002 với hiệu quả khá cao, giữ vững được sự phát triển ổn định sản xuất kinh doanh và đảm bảo cho đời sống của cán bộ nhân viên. Tuy có sự cạnh tranh gay gắt của thị trường, nhưng Công ty XNK Tổng Hợp I đã cố gắng tổ chức hoạt động kinh doanh, tăng doanh thu, tăng thu nhập cho người lao động. Mặc dù còn một số chỉ tiêu không đạt bằng các năm trước nhưng tình hình kinh doanh của Công ty thời gian qua là lạc quan. Từ thực tế trên đây có thể nói rằng, để trụ vững trong cơ chế thị trường, Công ty XNK Tổng Hợp I đã có nhận định và sự cố gắng vượt bậc, tiếp tục ổn định công tác tổ chức cán bộ tập trung sức giải quyết công tác sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, để có thể đánh giá chính xác được toàn bộ vấn đề, ta phải đi sâu phân tích tình hình thực hiện công tác quản trị nhân sự và thực hiện các biện pháp kích thích trực tiếp người lao động ở Công ty trong thời gian qua. Bảng 7: Tình hình kinh doanh của Công ty qua 3 năm 1999-2000-2001 Chương 3 Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I I- Mục tiêu và phương hướng phát triển mặt hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam nói chung và của Công ty nói riêng 1. Mục tiêu. Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I là một đơn vị hạch toán độc lập, vì vậy mà lợi nhuận cao luôn là mục tiêu hàng đầu. Để đạt được mục tiêu này Công ty phấn đấp phát triển hoạt động kinh doanh xuất khẩu, giữ vững và phát triển thị trường tiêu thụ, khai tác tốt nguồn hàng, tiết kiệm chi phí và sử dụng vốn có hiệu quả, tăng vòng quay của vốn, bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh. Trong hoạt động kinh doanh hiện nay, lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất mà việc phấn đấu để tối đa hoá lợi nhuận phải đồng nghĩa với tối đa hoá các lợi ích kinh tế, Công ty phải đảm bảo an ninh và chủ quyền quốc gia, bảo vệ môi trường, phúc lợi xã hội, … Kết hợp hài hoà giữa mục tiêu riêng của Công ty với mục tiêu chung của xã hội. Mục tiêu chiến lược dài hạn của Công ty đối với mặt hàng may mặc xuất khẩu là mở rộng quy mô kinh doanh, tiến hành liên doanh liên kết, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước, nâng cao vị thế vai trò là nhà cung cấp cũng nh nhà tiêu thụ của thị trường trong nước và nước ngoài. Bảng 8: Một số chỉ tiêu, kế hoạch trong hai năm 2001 và 2002. Danh mục Đvt USD Thực hiện năm 2002 Dự kiến kế hoạch năm 2003 Lượng Tiền Lượng Tiền Tổng trị giá 1000 18.978 11.050 I. Xuất khẩu 486.995 9.489 302.000 5.500 - tự doanh 371.995 7.239 232.000 3.800 - Uỷ thác 115.000 2.250 70.000 1.750 II. Nhập khẩu 9.557 5.000 (Nguồn: Do phòng kế hoạch và kế toán của Công ty cung cấp) 2- Phương hướng phát triển mặt hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam ý thức được vị trí quan trọng của mặt hàng may mặc xuất khẩu trong chiến lược xuất khẩu mấy năm vừa qua, đồng thời qua phân tích ở chơưng I chúng ta đã thấy đây là một mặt hàng rất có triển vọng phát triển trong thời gian tới. Tổng Công ty may Việt Nam đã liên tục tổ chức các cuộc hội thảo về phát triển thị trường hàng may mặc Việt Nam. Hội thảo đã thu hút được rất nhiều nhà doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc, đồng thời cũng thu được nhiều ý kiến quý báu. Hội thảo đã đưa ra được định hướng phát triển mặt hàng may mặc xuất khẩu những năm tới, cụ thể: 2.1- Về thị trường: - Khai thác hiệu quả hơn các thị trường hiện có như EU (thị trường hạn ngạch). Tìm khách hàng EU để giảm trung gian, chuyển sang xuất khẩu trực tiếp, chuyển dần từ gia công sang thương mại. - Đẩy mạnh thâm nhập thị trường lớn như Bắc Mỹ và Mỹ (lập văn phòng đại diện nghiên cứu và cung cấp thông tin về khách hàng và mặt hàng có thế mạnh, nghiên cứu về luật lệ, thủ tục tập quán). - Khôi phục thị trường truyền thống thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu (lấy các doanh nghiệp dã có sản phẩm tiêu thụ tại các thị trường này làm nòng cốt để mở rộng thị phần). - Mở rộng quan hệ buôn bán với các nước trong khu vực ASEAN, Châu á-Thái Bình Dương (APEC), từng bước hội nhập với khối mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và tổ chức thương mại thế giới (WTO). Bộ Công nghiệp xây dựng kế hoạch phát triển công nghiệp dệt may đến năm 2001 đạt kim nghạch xuất khẩu 2,5 tỷ USD và năm 2010 đạt 5 tỷ USD. Nó là chỉ tiêu quan trọng mà ngành dệt may đang nỗ lực thực hiện để tới năm 2002 có thể xuất khẩu hàng tỷ USD sản phẩm may, đồng thời đáp ứng 60 -70% tiêu dùng trong nước với giá rẻ, chất lượng cao, ngành may sẽ đi dần vào xuất khẩu trực tiếp, thay thế dần gia công, đứng vững trên thị trường thế giới bằng cách nâng dần uy tín của sản phẩm được làm tại Việt Nam. Dự báo về xuất khẩu hàng may mặc sang các thị trường năm tới như sau: Bảng 9: Dự báo xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam Đơn vị: Triệu sản phẩm STT Thị trường xuất khẩu hàng may mặc Năm 2002 Năm 2006 1 SNG 30 34 2 EU 41 70 3 Nhật Bản 25 30 4 Mỹ và Bắc Mỹ 80 130 5 Canada 4 6 6 Các nước khác 20 30 (nguồn:Kinh tế và dự báo) 2.2- Về đầu tư - Không ngừng đầu tư mở rộng, nâng cao công suất nhà máy. - Đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước. 2.3- Về sản phẩm - Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm. - Mỗi nhà sản xuất phải tạo ra được một nhãn hiệu sản phẩm của riêng mình, giảm gia công. - Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thời trang, đa ra những mẫu mốt kết hợp hài hoà giữa tính dân tộc và hiện đại. 3- Xu hướng dịch chuyển hàng may mặc Hiện nay ngành may mặc ở nhiều trên thế giới đã trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn. Các nước láng giềng chũng ra cũng có những nước như Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, ... là các nước có ngành may phát triển, theo số liệu thì kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của: - Trung Quốc là : 13,75 tỷ USD. - Đài Loan : 6,9 tỷ USD. - Thái Lan : 5,8 tỷ USD. Theo đánh giá của các chuyên gia thuộc tổ chức phát triển của liên hợp quốc (UNIDO) thì trong những năm 80, ngành công nghiệp may mặc của các nước Châu á mà trước hết là khu vực Đông Nam á phát triển với tốc độ cao. Tỷ trọng các nước Châu á trong sản xuất hầu hết các nhóm sản phẩm chính đều tăng, trong khi đó tỷ trọng của các nước Đức, Pháp, Italia vẫn là những nước sản xuất và xuất khẩu chủ yếu trên thế giới. Các nước Châu á đang đi đầu trong lĩnh vực này là Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan. Cùng với việc áp dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào trong ngành sản xuất hàng may mặc, các nước Châu á biết tận dụng nguồn nhân lực dồi dào trong khu vực để mở cửa và phát triển sản xuất. Do đặc điểm của ngành may mặc là cần nhiều lao động sống, nhưng giữa các khu vực, giữa các nước trong khu vực có khoảng cách rất xa nhau về chi phí tiền công trên giờ lao động. Bảng 10: Tiền công giao công hàng may mặc của một số nước trên thế giới: Tên nước Tiền công (USD/h) Canada 2,65 Mỹ 2,3 Nhật Bản 2,24 Pháp 1,72 Hồng Kông 1,2 Thái Lan 0,92 Philipin 0,67 Indonexia 0,24 Trung quốc 0,37 Việt Nam 0,15 - 0,2 (Nguồn: Tạp chí Thương mại) Ngành công nghiệp may sẽ chuyển dần sang khu vực Châu á, nơi có lưu lượng lao động dồi dào, chi phí tiền công thấp. Và như vậy các nước công nghiệp phát triển sẽ tập trung nhân lực vào các ngành sản xuất có kỹ thuật cao và công nghệ tiên tiến. Ngày nay, các nước NIC Châu á đã có xu hướng dịch chuyển ngành sản xuất này sang các nước mới phát triển nh Indonexia, Băngladesh, Việt Nam. Ví dụ năm 1988 Nam Triều Tiên có 18 hàng sản xuất quần áo may sẵn của mình ra nước ngoài còn Hồng Kông thì đa hầu hết các hàng sản xuất quần áo may sẵn của mình ra nước ngoài. Từ những phân tích trên cho ta thấy xu hướng phát triển của ngành hàng may mặc sản xuất sẽ phát triển mạnh ở các nước đang và mới phát triển. Các nước Châu á là những nước sẽ có hàng may sẵn xuất khẩu chính thế giới, còn các nước phát triển chủ yếu là nhập khẩu. Việt Nam nằm trong khu vực Châu á cũng hội tụ được u thế của mình để có thể phát triển được ngành may mặc cũng nh xuất khẩu ra thị trường thế giới. 4- Phương hướng phát triển mặt hàng may mặc xuất khẩu của Công ty trong thời gian tới. Mặt hàng may mặc xuất khẩu hiện nay đang được coi là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Công ty bởi nó đem lại cho Công ty khoản thu ngoại tệ lớn bên cạnh việc giải quyết tốt công ăn việc làm, khai thác lợi thế và nguồn lực sẵn có. Tuy nhiên, kết quả đạt được của hoạt động xuất khẩu hàng may mặc thời gian qua vẫn chưa phản ánh hết được khả năng phát triển của nó. Cũng như phương hướng chung của thị trường xuất khẩu hàng may mặc của cả nước, Công ty đang từng bước chấn chỉnh lại cách thức tiến hành sản xuất - xuất khẩu mặt hàng này nhằm đem lại hiệu quả và phù hợp với xu thế mới: - Tìm kiếm khách hàng nước ngoài, từng bước giảm dần làm hàng gia công theo loại hình nhận nguyên liệu giao thành phẩm, mà tiến tới mua đứt bán đoạn. Với hình thức này, Công ty có thể tăng lợi nhuận, đồng thời Công ty phải triệt để nguồn nguyên liệu trong nước thay thế nhập khẩu, giảm được giá thành, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. - Luôn quan tâm đổi mới trang thiết bị, máy móc, nhà xưởng để mở rộng năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động. - Đa dạng hoá thị trường và hàng bạn hàng xuất khẩu, tích cực tìm kiếm các thị trường mới, đặc biệt là các thị trường phi hạn ngạch để đẩy mạnh khối lượng xuất khẩu. Mặt khác, cần phải cải tiến một bước trong quan hệ bạn hàng, làm hàng gia công hay xuất khẩu trực tiếp, hạn chế qua Công ty trung gian. Hầu hết các hợp đồng gia công của Công ty đều phải thông qua các Công ty trung gian nước ngoài nh Hồng Kông, Đài Loan, Singapore. Sau đó hàng mới được xuất khẩu đi các thị trường khác dẫn tới việc lợi nhuận bị chia sẻ, hiệu quả kinh doanh không cao, chưa kể tới Công ty mất quyền là chủ nhân sản xuất ra lô hàng đó. Do vậy, uy tín, nhãn mác sản phẩm của Công ty không được thị trường quốc tế biết đến, về lâu dài việc này gây hậu quả nghiêm trọng đối với sự phát triển của Công ty. - Đội ngũ cán bộ cần phải đi sâu nghiên cứu mẫu mốt và nắm bắt được thị hiếu của khách hàng, đặc biệt là giới trẻ, vì đây là lực lượng không nhỏ tiêu thụ hàng may mặc trên thế giới. Tiếp tục xây dựng mặt hàng xuất khẩu như là mặt hàng chủ lực số 1 để ổn định một phần kế hoạch kim ngạch, bằng nỗ lực đẩy nhanh sản xuất và xuất khẩu trực tiếp dần ổn định sản xuất và giữ vững thị trường. Tăng cờng mối liên kết kinh tế - kỹ thuật với các tổ chức kinh tế và cơ quan hữu quan, mở rộng quan hệ bạn hàng, tạo thế cân bằng, vững chắc trong kinh doanh. Tranh thủ mọi cơ hội nhận gia công xuất khẩu và học hỏi nâng cao trình độ nhằm cho mặt hàn may mặc của Công ty ngày càng phát triển. II- Một số giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc tại Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I Bất kỳ một doanh nghiệp nào mức độ thành công trong kinh doanh, mức độ thực hiện của các kế hoạch đều chịu sự ảnh hưởng của các phương hướng, các giải pháp ban đầu vạch ra cho các kế hoạch dài hạn hay ngắn hạn. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là làm sao với những hoàn cảnh cụ thể doanh nghiệp có thể đề ra các giải pháp phù hợp, đẩy mạnh hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty. 1- Cần có cơ chế phù hợp trong kinh doanh xuất khẩu: - Vấn đề vốn trong kinh doanh là cực kỳ quan trọng, không phải Công ty nào cũng có sẵn nhiều vốn để bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng thực hiện được các hợp đồng lớn nhỏ của khách hàng, vì vậy mà đôi khi Công ty phải chịu mất đi những hợp đồng lớn do không có đủ vốn. Để thực hiện được chiến lược đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng hoá thì việc đầu tư phát triển cơ sở vật chất cho kinh doanh, bổ sung vốn lưu động là một đòi hỏi lớn mang tính cấp bách. Mặt khác Công ty nên có những ngoại tệ gia hạn thời gian thu hồi vốn, phải mềm dẻo linh hoạt hơn trong công tác quản lý khuyến khích các phòng sử dụng vốn tự có của Công ty với lãi suất thấp hơn với lãi suất của ngân hàng. - Công ty cần thực hiện cơ chế khoán một cách triệt để: Để các phòng, các xí nghiệp có mục tiêu phấn đấu rõ ràng, để có cơ sở đánh giá hiệu quả kinh doanh của từng phòng cũng nh lấy đó làm căn cứ để đề ra mức thưởng phạt công minh, hiện nay Công ty đã thực hiện khoán thu nhập theo doanh số xuất nhập khẩu, kim ngạch, lãi, ... Đây là hình thức tiến bộ làm cho các phòng quan tâm sát sao tới hiệu quả kinh doanh của phòng mình. Thông qua việc khoán các chỉ tiêu trên cơ sở chỉ tiêu kế hoạch năm của Công ty, đã buộc các phòng phải kinh doanh đủ các hình thức và có hiệu quả. Nếu chỉ khoản hai chỉ tiêu kim ngạch và lãi thì các phòng chỉ cần phát triển hình thức xuất khẩu ủy thác cũng hoàn thành được, nhưng khi khoán chỉ tiêu doanh số thì bắt buộc các phòng phải có hình thức tự doanh, phải hạch toán doanh số cho kim ngạch, giá mua, các chi phí sao cho sau thời gian khoán sẽ đạt được các chỉ tiêu giao khoán. Do đó Công ty cũng phải có cơ chế tạo điều kiện tự chủ trong kinh doanh cho từng phòng. Ví dụ như giao vốn cho các phòng kinh doanh để các phòng phát huy tính tự chủ trong kinh doanh nhưng chịu sự quản lý của Công ty say một thời gian nhất định nào đó kiểm tra lại. Giao cho trưởng phòng quyền tự quyết định thực hiện cho từng phương án kinh doanh. - Công ty cần có cơ chế thưởng phạt rõ ràng. Đây là động lực thúc đẩy kinh doanh xuất khẩu hơn nữa, thu ngoại tệ, tạo môi trường khuyến khích các phòng tự chủ kinh doanh, không dựa dẫm phó mặc cho nhau tăng cường khả năng điều hành quản lý, thống nhất hành động với phó phòng vì mục tiêu chung của Công ty. Công ty cần đưa ra mức thưởng phù hợp với khả năng của cán bộ kinh doanh hơn, kịp thời ngay sau khi hạch toán lỗ lãi của từng lô hàng để cá nhân của Công ty tin tưởng nhận thấy ngay được lơi ích trực tiếp do nỗ lực của mình và từ đó dám chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. 2- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường Thị trường luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc của Công ty. Trong thời gian qua, công tác nghiên cứu thị trường chưa được Công ty đầu t một cách thoả đáng, đó là một thiếu sót trong mà Công ty cần khắc phục. Trước hết, Công ty cần khắc phục được thị trường định hướng, tức là thị trường mà Công ty đã định kinh doanh, hoặc sẽ mở rộng thị trường trong tương lai, thị trường mà Công ty có khả năng thâm nhập và đem lại hiệu quả cao. Qua việc nghiên cứu các thông tin cụ thể trên thị trường và qua kết quả hoạt động của Công ty, theo tôi trong thời gian tới Công ty vẫn nên lựa chọn thị trường định hướng - thị trường chính là EU. Bởi vì thị trường EU là thị trường lớn (trên 375 triệu người), sự tiêu dùng khá cao, hơn nữa mặt hàng may mặc của Công ty xuất khẩu sang EU được hưởng chế độ ưu đãi về thuế quan phổ cập (GSP) dành cho các nước đang phát triển. Tuy nhiên, Công ty cũng phải lu ý rằng các nước thuộc khối EU đều là có nền công nghiệp phát triển, mức sống của người dân khá cao, do vậy họ luôn đòi hỏi mặt hàng họ tiêu dùng có hình thức đẹp, chất lượng cao, mẫu mã đa dạng. Bên cạnh thị trường chính là EU, ta cũng thấy rằng thị trường Mỹ và Bắc Mỹ là thị trường rất có nhiều triển vọng trong tương lai. Cho dù kim ngạch của Công ty vào thị trường này vẫn còn rất ít, chủ yếu thông qua các Công ty trung gian nhưng chúng ta cũng phải khẳng định rằng đây là một thị trường đầy tiềm năng. Sở dĩ ta có thể nói nh vậy là vì thực tế nhu cầu nhập khẩu hàng may mặc của thị trường này là rất lớn (riêng Canada là nước nhập khẩu đứng thứ 7 trên thế giới). Còn một lý do nữa, hàng xuất khẩu của ta vào thị trường Mỹ không nhiều do thuế nhập khẩu của Mỹ có sự phân biệt rõ rệt về mức thuế đối với những nước hưởng MFN và những nước không được hưởng sự chênh lệch của 2 mức thuế này khá xa 60 - 90%. Nh vậy làm sao chúng ta có thể cạnh tranh được với mức giá cộng thêm thuế nhập khẩu quá đắt. Mong rằng sắp tới sau khi Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ được ký kết sẽ tạo động lực để kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này tăng mạnh hơn nữa. Xuất khẩu vào thị trường Mỹ và Bắc Mỹ, Công ty phải nghiên cứu kỹ những điều kiện đối với mặt hàng được hưởng mức thuế ưu đãi và hệ thống pháp luật của các nước đó. Xuất khẩu là mục tiêu chính của Công ty, nhưng để đẩy mạnh hoạt động này đồng thời để nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng may mặc này, tại sao Công ty lại không thử sức với các Công ty khác trên thị trường nội địa với dân số gần 78 triệu người, chỉ một năm cho may mặc thì doanh số đã là 7800 tỷ đồng, đó là một số không nhỏ. Như vậy, mục tiêu trong thời gian tới Công ty sẽ tung vào thị trường nội nhiều sản phẩm mẫu mã đa dạng, phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Lựa chọn được thị trường định hướng, Công ty sẽ phải nghiên cứu về khách hàng. Khách của mình là ai?, là cá nhân (những người tiêu dùng cuối cùng)?, là cơ quan đoàn thể hay chính phủ? Là những người trung gian? Là những người sản xuất? ... Họ mua sản phẩm của Công ty nhằm mục đích gì? Để tiêu dùng hay để bán? Nghiên cứu về khách hàng, Công ty phải nắm được thu nhập tính theo đầu người, vị trí của người tiêu dùng trong xã hội và đặc biệt là thị hiếu tiêu dùng. Mỗi dân tộc có sở thích và kiểu dáng, màu sắc, chất liệu, ... Thường thì quần áo trẻ em có màu sắc sặc sỡ hơn quần áo người lớn, nữn thích màu sáng hơn nam giới, người Châu Âu thích màu nổi tôn da nh màu đen, vàng, đỏ, người da đen thích màu trắng, người Đức thích quần áo pha nhiều màu... Đối với khách hàng của nhiều khu vực, Công ty cũng phải nghiên cứu về kích cỡ để đưa ra các thông số kỹ thuật cho phù hợp. Ví dụ người Bắc Âu thường cao hơn người Tây Âu, phụ ngữ Nga thì to béo, phụ nữ Đức thì cao gầy, ... Thông thường có 4 loại kích cỡ từ nhỏ tới lớn: S, M, L, XL, XXL tuy nhiên kích cỡ này lại phân theo hệ, hệ Mỹ, hệ Châu lục, hệ Đông Nam á. Với các hệ khác nhau thì kích cỡ của từng lứa tuổi, giới tính cũng khác nhau. Cũng cỡ L nhưng người Châu á khác người Châu Âu, cỡ nam khác cỡ nữ, cỡ trẻ em khác cỡ người lớn, ... Đối với loại áo sơ mi, người ta thường lấy số đo vòng cổ làm làm chuẩn sau đó chiếu sang các số đo vai, tay, thân. Đối với quần âu thì người ta lấy số đo vòng bụng, mông làm chuẩn để suy ra độ dài, rộng. Trong nghiên cứu thị trường, một yếu tố không thể thiếu là Công ty phải nghiên cứu môi trường để hiểu biết về những đòi hỏi, các điều kiện mà các quốc giao dành cho nhau, tránh xung khắc về luật pháp, hiểu được môi trường văn hoá và giữ được bản săc dân tộc riêng, ... có như vậy, Công ty mới có thể dễ dàng thâm nhập và thị trường mới. Ngoài ra, Công ty cũng phải tính toán được thị phần mà Công ty đã chiếm lĩnh hoặc sẽ chiếm lĩnh trên thị trường. So sánh thị phần của doanh nghiệp với thị phần của đối thủ cạnh tranh để biết được vị trí của mình. Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh để biết được đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường, đồng thời xác được Công ty có thể cạnh tranh được với đối thủ nào? các điểm mạnh của đối thủ mà mình cần tránh, điểm yếu mà ta cần tấn công được thì cần phát huy. Nếu không đánh giá đúng đối thủ cạnh tranh thì tất yếu doanh nghiệp sẽ bị loại ra khỏi thị trường. Nghiên cứu thị trường, nghiên cứu nhu cầu thị trường để chớp thời cơ tung sản phẩm ra thị trường đúng thời điểm được coi là nghệ thuật kinh doanh mà Công ty cần áp dụng. Như vậy, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường là biện pháp đầu tiên Công ty phải làm nhằm đa dạng hoá thị trường và bạn hàng xuất khẩu. Có một cái nhìn đúng đắn và tổng quát về thị trường thì Công ty thực hiện mục tiêu củng cố thị trường hiện tại và thâm nhập thị trường mới khi có cơ hội chắc chắn sẽ dễ dàng hơn. 3- Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm Để hoạt động xuất khẩu ngày càng được nâng cao thì sau khi nghiên cứu và tìm ra thị trường đầu ra cho sản phẩm, bản thân sản phẩm đó lúc này lại là yếu tố quyết định. Để có được loại sản phẩm tốt phù hợp với nhu cầu của thị trường (các nhà nhập khẩu) cũng như tăng được khả năng canh tranh của sản phẩm đối với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường lúc này phụ thuộc hoàn toàn vào chính sách sản phẩm của Công ty. Do tính cạnh tranh ngày càng cao trên thị trường nên Công ty phải nghiên cứu tạo ra nhiều sản phẩm với mẫu mã, kiểu dáng đa dạng, phù hợp với nhu cầu thị trường. Chủng loại càng nhiều thì khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm sẽ tăng, Công ty sẽ an tâm hơn trong cạnh tranh và cân bằng được khả năng hoạt động và khả năng tài chính. Thêm vào đó, Công ty nên chú trọng đến nhãn mác và bao bì sản phẩm, đây cũng là yếu tố hết sức quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của mặt hàng. Khi mua hàng, ấn tượng đầu tiên đối với khách hàng là hình thức bên ngoài của sản phẩm. Nhãn mác và bao bì đẹp sẽ tạo niềm tin cho khách hàng về một loại sản phẩm thật. Rõ ràng, trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển bền vững Công ty phải cố gắng xây dựng một hình ảnh, một nhãn hiệu thương mại cho các sản phẩm, dịch vụ của mình, từ đó mới hy vọng có được một vị trí vững chắc trên thị trường. Nói tới tiêu chuẩn chất lượng của mặt hàng may mặc người ta đề cập tới 2 yếu tố là chất liệu vải và kỹ thuật cắt may. Chất lượng vải như thế nào lại phụ thuộc vào khí hậu và trình độ phát triển kỹ thuật của từng nước. ở Châu Âu khí hậu ôn đới thì phù hợp với chất liệu vải Microfy, những nước có khí hậu nóng ẩm như Việt Nam thì chất vải phổ biến được dùng là bông và cotton, ... Ngoài ra, trình độ kỹ thuật phát triển cũng quyết định tới chất lượng vải. Các quốc gia có nền công nghiệp phát triển, người tiêu dùng thường dùng những loại vải có chất lượng cao. Còn ngược lại ở Việt Nam hay những nước đang phát triển nói chung, thu nhập bình quân đầu người thấp, họ cũng không đòi hỏi khắt khe quá về chất lượng vải miễn là mặc đẹp và hợp về hình thức. Yếu tố thứ 2 quyết định đến chất lượng sản phẩm là kỹ thuật cắt may. Công ty phải tiến hành cắt may trên cơ sở thử nghiệm, tức là người sản xuất (Công ty) phải mua hàng mẫu của từng khu vực để trên cơ sở đó thiết kế phù hợp trước khi đem sản phẩm sản xuất hàng loạt. Vậy phải làm như thế nào để nâng cao chất lượng sản phẩm? Thứ nhất: Công ty phải đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và hiện đại hoá công nghệ. Không có dây chuyền hiện đại rất yếu không thể sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt và động bộ, nhờ có máy móc và thiết bị tốt Công ty có thể nâng cao năng suất lao động, nâng cao tính linh hoạt của sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm một cách đồng đều, giảm chi phí điều hành quản lý xí nghiệp, giảm chi phí nguyên vật liệu và chi phí phát sinh khác. Bộ phận kỹ thuật phải giám sát và tìm hiểu kỹ thuật về tiến bộ và công nghệ may hiện đại, cố vấn cho giám đốc điều hành và Tổng giám đốc ra các quyết định mua sắm đầu tư thiết bị, dây chuyền sản xuất hiện đại của từng loại sản phẩm. Công ty cần thiết phải xây dựng kế hoạch đầu tư máy móc thiết bị cho từng giai đoạn. Việc xây dựng kế hoạch phải dựa trên xu hướng đẩy mạnh xuất khẩu hàng năm, dựa trên hợp đồng, đơn đặt hàng đã ký kết với khách hàng, Công ty cần xác định ra loại hàng mà khách hàng yêu cầu, với mặt hàng đó đòi hỏi công nghệ may phải như thế nào. Ai cũng biết cái loại đầu tư máy móc thiết bị mới nhưng máy móc không phải một sớm một chiều mà thay đổi ngay được. Khó khăn lớn nhất là thiếu vốn đầu tư, vì vậy Công ty phải tính một cách hợp lý để đầu tư sao cho có hiệu quả nhất, đồng thời khai thác triệt để máy móc thiết bị hiện có, tránh lãng phí không cần thiết. Thứ hai: Nâng cao tay nghề công nhân Tay nghề công nhân đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và tồn tại của doanh nghiệp. Nếu tay nghề cao tất yếu sản xuất sẽ ổn định hơn, ký được nhiều hợp đồng hơn và đơn giá gia công sẽ cao hơn, nh vậy hoạt động xuất khẩu cũng sẽ được đẩy mạnh. Chính vì vậy, bằng mọi cách Công ty phải nâng cao tay nghề của công nhân. Muốn nâng cao nghề của công nhân chúng ta phải: - Nâng cao tay nghề đội ngũ kỹ thuật may: Đội ngũ kỹ thuật may là những người may mẫu đối với sản phẩm để so sánh với sản phẩm mẫu của các hãng nước ngoài đặt may, người may mẫu đối với sản phẩm chính là người lập quy trình may, tính được thời gian may cho một sản phẩm. Từ đó giúp cho phòng kế hoạch tính được hao phí trên một sản phẩm và so sánh với đơn giá mà khách hàng thuê doanh nghiệp gia công. Nếu hao phí cho một sản phẩm càng thấp hơn đơn giá gia công thì chắc chắn là bù đủ hao mòn cố định, các chi phí khác trong sản xuất và trả được lương cho người công nhân. Nếu hao phí lao động cho một sản phẩm lớn hơn đơn giá gia công thì sẽ giúp cho giám đốc quyết định có sản xuất mẫu hàng này hay không hay là sản xuất mẫu hàng của khách hàng khác có đơn giá cao hơn. Còn nếu không có khách hàng khác mà sản xuất thì tuy rằng lỗ nhưng phần nào vẫn đảm bảo được đời sống của người lao động. Đội ngũ kỹ thuật may giỏi phải là đội ngũ giúp giám đốc và phòng kế hoạch được hai việc: + May được đối mẫu chào hàng của khách hàng nước ngoài với chất lượng mà khách hàng ưng thuận. + Lên được quy trình kỹ thuật may chuẩn với thời gian may một sản phẩm giá thấp nhất, hiệu quả cao nhất khi giải truyền may với số lượng lớn. Chính vì vậy đội ngũ kỹ thuật may của Công ty phải được ưu tiên: Lương phải cao hơn các đơn vị khác trong doanh nghiệp để gắn trách nhiệm đối với công việc mà đội ngũ kỹ thuật may đảm nhiệm. Luôn luôn gửi đội ngũ kỹ thuật may đi học hỏi các doanh nghiệp khác trong ngành may để càng ngày càng nâng cao trình độ chuyên môn, đồng thời học các tiểu xảo, kỹ thuật mới của các đơn vị khác. - Nâng cao tay nghề công nhân may và gắn trách nhiệm của công nhân với sản phẩm may: Người công nhân là người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm để đưa ra thị trường nước ngoài tiêu thụ, chính vì vậy sản phẩm may mặc của Công ty chính là bộ mặt của Công ty trên thị trường nước ngoài. Nếu tay nghề của công nhân cao chắc chắn doanh nghiệp sẽ đứng vững được trên thị trường và có đà phát triển cao hơn nữa, vì vậy đòi hỏi người công nhân phải luôn trau dồi tay nghề và vận hành máy thuần thục. Điều này cần có thời gian, trung một công nhân may muốn có trình độ tay nghề khá thì thời gian cần thiết phải từ 3 đến 5 năm tức là đội ngũ công nhân may phải có thâm niên trong nghề từ 3 đến 5 năm. Còn nếu tay nghề công nhân chưa thành thục thì tất yếu người công nhân phải chịu một khoản lương thấp hơn để chấp thuận có thời gian nâng cao tay nghề. Một vấn đề liên quan đến trình độ tay nghề công nhân lại chính là trình độ tay nghề của đội ngũ tổ trưởng, tổ phó và công nhân kỹ thuật chuyền may. Với đội ngũ tổ trưởng, tổ phó và công nhân kỹ thuật dây chuyền may hiện tại đang áp dụng mức lương khoán trên doanh thu của tổ trong xưởng. Điều này không làm ảnh hưởng tới mức lương của tổ trưởng, tổ phó và nhân viên kỹ thuật dây chuyền may nếu như trong tổ tiếp nhận thêm một số công nhân mới vào nghề, do đó vẫn đảm bảo được thu nhập cho họ và vẫn đảm bảo được sự tăng thêm về lực lượng lao động trong Công ty. Đối với các tổ mới thành lập thì lương của tổ trưởng, tổ phó có thể nhận được lương cố định tương đương hoặc cao hơn lương bình quân của các tổ khác đang làm do Công ty chi trả đến khi các tổ mới này đi vào sản xuất tương đối ổn định được tay nghề so với các tổ khác trong toàn Công ty. Thứ ba: Tổ chức hoàn thiện bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm (KCS) của Công ty nhằm nâng cao hơn nữa hiểu quả của công tác kiểm tra chất lượng nh phát hiện kịp thời sản phẩm sai hỏng để sửa chữa ngay tại khâu đó, hạn chế việc phải tháo dỡ toàn bộ sản phẩm để làm lại từ đầu. Lựa chọn những cán bộ có kinh nghiệm công tác lâu năm về sản phẩm và bộ phận KCS của Công ty. 4- Củng cố, tăng cường hệ thống kênh phân phối hàng hoá: Trong hoạt động xuất khẩu, Công ty sử dụng kênh phân phối gián tiếp, chủ yếu là kênh dài, hiện tại kênh phân phối của Công ty còn yếu. Về lâu dài, với mục đích đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc, Công ty cần thiết lập một kênh phân phối đảm bảo hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ nhanh nhất, an toàn, giữ chất lượng hàng hoá, giúp lu thông tiêu thụ nhanh, thu tiền kịp thời. Những năm qua, mọi giao dịch của Công ty chủ yếu qua trung gian, sản phẩm của Công ty phải phân phối bằng nhãn hiệu của Công ty trung gian, sau một thời gian khi đã có được tiềm lực đủ mạnh Công ty phải tìm mọi cách gây lại tiếng bằng nhãn hiệu của Công ty mình và trên chính sản phẩm của mình. Đó là vấn đề hết sức khó khăn bởi vì để ghi nhớ một nhãn hiệu mới trong tâm trí người tiêu dùng thì rất khó khăn nhưng xoá mờ và thay bằng nhãn hiệu khác thì càng khó hơn. Chuyển từ phương pháp phân phối gián tiếp sang phân phối trực tiếp khó và mất nhiều thời gian hơn là ngay từ đầu xây dựng kênh phân phối trực tiếp. Để tiến tới xuất khẩu trực tiếp là chủ yếu trước hết phải: - Có biện pháp trực tiếp với các khách hàng tại thị trường chính, không qua trung gian như hiện nay. - Tăng cường hình thức “Bán nguyên liệu, thu mua thành phẩm” trong gia công xuất khẩu. Nên sử dụng hình thức chỉ mua của nước đặt gia công nguyên liệu chính còn vật liệu phụ mình tự lựa chọn bạn hàng cung ứng để mua giá rẻ hơn. - Từ hai vấn đề trên, Công ty sẽ học được cách tiếp cận thị trường, nghiên cứu mẫu mã của họ để từng bước xây dựng sản phẩm cho Công ty. - Đẩy mạnh sản xuất để cung ứng hàng cho thị trường nội địa, phải xem đây là trận địa chính để hỗ trợ cho xuất khẩu. Vì vậy, trước mắt Công ty nên hạn chế xây dựng kênh phân phối gián tiếp, đặc biệt không nên sử dụng mạng lới trung gian quá dài, nó sẽ làm cho mối liên kết trong khâu trung gian kém, từ đó sẽ làm giảm sức cạnh tranh của chính sản phẩm của Công ty. Cố gắng từng bước xây dựng kênh phân phối trực tiếp, cho dù lúc đầu có không hiệu quả bằng sử dụng kênh phân phối gián tiếp. Để làm được điều đó Công ty nên nghiên cứu và thành lập các trung tâm giới thiệu sản phẩm, tổ chức buôn bán và bán lẻ tại các thị trường mục tiêu nước ngoài theo các phương thức kinh doanh linh hoạt, đồng thời thông qua trung gian phân phối các hãng kinh doanh nước ngoài. Trong nước, Công ty nên trực tiếp giới thiệu sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng thông qua trung tâm phân phối sản phẩm, đồng thời đa dạng hoá kênh phân phối, sử dụng các thành phần kinh tế nhằm tổ chức lưu thông suốt từ sản xuất tới tiêu dùng, từ thành phố tới nông thôn, vùng sâu, vùng xa, ... 5- Tăng cường liên doanh với các Công ty sản xuất và kinh doanh xuất khẩu - Trong điều kiện nền kinh tế chính trị ở Việt Nam hiện nay, Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, nhiều nhà kinh doanh nước ngoài đã tìm tới Việt Nam, ngược lại nhiều nhà kinh doanh Việt Nam cũng đã mở rộng hoạt động ra thị trường ngoài nước. Việc thành lập liên doanh sẽ giúp cho hai bên khắc phục những thiếu hụt mà nếu kinh doanh độc lập các bên khó tránh khỏi. Do vậy hình thức liên doanh sẽ tạo cho Công ty cơ hội để thu hút vốn, giải quyết công ăn việc làm, tăng cường hàng hoá xuất khẩu và hạn chế rủi ro. Hơn nữa liên doanh còn là điều kiện tốt để Công ty học hỏi kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước ngoài. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay hoạt động xuất khẩu không chỉ độc quyền với các đơn vị kinh doanh ngoại thương thì việc liên doanh sẽ giúp cho Công ty khẳng định được chỗ đứng của mình. - Tích cực tìm kiếm bạn hàng làm gia công xuất khẩu sang Mỹ: Khi được hưởng chế độ tối huệ quốc, hàng may mặc có xuất xứ từ Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ sẽ được miễn thuế. Do vậy, yếu tố giá cả đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của Công ty nói riêng và của Việt Nam nói chung. Nhận định tình hình trên, Công ty đang tích cực tìm kiếm khách hàng làm gia công sang Mỹ với mục đích nâng cao hiệu quả của Công ty. Thực vậy, với việc miễn thuế nhập khẩu đối với hàng may mặc có xuất xứ từ Việt Nam sẽ giảm được chi phí vào giá thành sản phẩm. Mặc khác, giá bán tại thị trường Mỹ không được hạ giá quá mức cho phép để việc cạnh tranh trên thị trường được cân bằng. Nó sẽ là cơ sở tốt để Công ty nâng giá gia công, đem lại hiệu quả kinh tế lớn hơn. - Quan hệ với người cung cấp nguyên liệu phụ: Từ trước tới nay, khi tiến hành hoạt động gia công Công ty phải nhập khẩu hầu hết nguyên liệu phụ theo điều kiện CIF tại Hải Phòng, ... Do vậy, thực tế Công ty chỉ thu được phí gia công gồm: cắt may, cắt, là, khoản thu này được sinh ra từ lao động sống của công nhân nên lợi nhuận mà Công ty thu được không đáng là bao. Để hoạt động gia công đem lại hiệu quả cao hơn Công ty đang từng bước đảm nhận thêm khâu cung cấp phụ liệu, một mặt hoạt động này tạo thêm việc làm cho Công ty, mặt khác sẽ sinh ra số lợi nhuận bằng số chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Trong các năm tới, Công ty cần có kế hoạch nâng dần giá trị phụ liệu do Công ty cung cấp đến năm 2002 chiếm tỷ trọng 60%. Để hoàn thành chỉ tiêu này, Công ty phải chủ trương mở rộng mối quan hệ với các doanh nghiệp cung cấp phụ liệu, mối quan hệ này đang từng bước được Công ty xây dựng vững chắc và ngày càng mở rộng mối quan hệ với các xí nghiệp sản xuất trong nước. Điều này đang mở ra một giai đoạn phát triển mới cho Công ty đó là sản xuất kinh doanh dới hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm về hàng may mặc cho khách nước ngoài. Trên đây là một số biện pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng may mặc tại Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I. Để thực hiện tốt các biện pháp trên thì nhất thiết Công ty phải thành lập một bộ phận chuyên trách các hoạt động Marketing. Do may mặc là hoạt động chủ chốt của Công ty nên bộ phận Marketing phải xác định rõ chức năng của mình: * Nghiên cứu nhu cầu, chất lượng, giá cả. * Nghiên cứu mua bán các yếu tố. * Nghiên cứu phân phối, tiêu thụ. * Nghiên cứu quảng cáo, yểm trợ, xúc tiến bán hàng. * Nghiên cứu các chế độ chính sách của Nhà nước. Từ đó chuẩn bị kế hoạch nghiên cứu, cử cán bộ tham gia nghiên cứu; xác định thời gian chuẩn bị, thời gian bắt đầu và kết thúc; chuẩn bị và lựa chọn các tài liệu tham khảo; lập kế hoạch cho việc nghiên cứu thị trường. Việc thiết lập bộ phận Marketing tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của Công ty. Tuy nhiên bên cạnh đó còn rất nhiều khó khăn: - Mới thâm nhập vào thị trường, lại hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực gia công và xuất khẩu ủy thác, Công ty chưa có sản phẩm mang nhãn mác của mình nên chắc chắn trong thời gian đầu do Công ty ít kinh nghiệm nên công tác Marketing sẽ đạt kết quả không cao. - Để hoạt động Marketing của Công ty được tốt thì cán bộ Marketing phải luôn luôn bám sát thị trường, nhưng các đại diện các Công ty ở nước ngoài ít, khả năng tài chính của Công ty còn yếu nên không thể cử cán bộ ra nước ngoài khảo sát thị trường một cách thường xuyên. Do vậy, công việc nghiên cứu của bộ phận này tương đối khó khăn và phức tạp. Khó khăn trước mắt thì còn nhiều, nhưng tôi tin chắc rằng thiết lập được bộ phận này, đầu t cho hoạt động Marketing có hiệu quả thì việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của Công ty cũng nh việc nâng cao được khả năng cạnh tranh về mặt hàng này của Công ty đối với các doanh nghiệp trong và ngoài nước là điều có thể thực hiện được trong tầm tay. III- ý kiến đề xuất với cấp trên (Tổng Công ty dệt may Việt Nam, Bộ công nghiệp và Nhà nước). Đối với Việt Nam trong những năm trước mắt cũng nh lâu dài, việc đẩy mạnh và mở rộng xuất khẩu là điều kiện cơ bản để thúc đẩu nền kinh tế phát triển đi lên. Với ý nghĩa để xuất khẩu được coi là một khâu chủ yếu trong nền kinh tế đối ngoại và khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu phát triển là một bộ phận trọng yếu của chính sách ngoại thương nước ta. Để đẩy nhanh nền kinh tế sang hướng xuất khẩu thì điều quan trọng là Nhà nước phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để khuyến khích thúc đẩy mọi hoạt động của các đơn vị sản xuất hay chế biến hàng xuất khẩu cũng như các đơn vị kinh doanh xuất khẩu trong đó có Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I - Bộ Thương mại. Bên cạnh đó, Nhà nước và Tổng Công ty may Việt Nam cần có sự hỗ trợ và đưa ra những chính sách tạo điều kiện thuận lợi. 1- Xây dựng các làng nghề Tổng Công ty may Việt Nam cũng Hiệp hội dệt may phối hợp với các địa phương quy hoạch các làng nghề mới cạnh vùng nguyên liệu. Các làng nghề này sẽ góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, đồng thời là đối tợng chuyển dịch máy móc thiết bị công nghệ hiện đại, khai thác hết khả năng và thúc đẩy xuất khẩu. 2- Chuẩn bị nguyên liệu: Tổng Công ty may Việt Nam cần chủ động nguồn nguyên liệu cho trước mắt và lâu dài kể cả việc phát triển cây bông và công nghệ hoá dầu chế tạo xơ, sợi tổng hợp, sớm có nguyên liệu đảm bảo cung cấp tốt cho ngành may xuất khẩu. Nhà nước nên áp dụng mô hình tổ chức ngành dệt may theo kiểu khép kín từ khâu nguyên liệu đến khâu sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. 3- Xây dựng một chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý: Trong năm 2000, tỷ giá đồng Việt Nam và ngoại tệ sau một thời gian ổn định đã bắt đầu biến động lớn. Tỷ lệ biến động chính thức do ngân hàng Nhà nước tuyên bố là 13,5% so với tháng 12 năm 1999, đồng thời Nhà nước lại cho phép các ngân hàng thương mại được giao dịch trong biên độ tăng giảm 5 - 7%. Nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp phải chịu tỷ giá biến động tối đa đến 20%. Chính sự không ổn định này đã gây rất khó khăn cho doanh nghiệp, luốn phải thòng xuyên theo dõi để có biện pháp kịp thời bảo toàn vốn, đảm bảo nhu cầu ngoại tệ phục vụ kinh doanh. Như chúng ta đã biết, hoạt động xuất khẩu có quan hệ khăng khít và rất nhạy cảm với sự biến đổi của tỷ giá hối đoái trên thị trường. Khi giá đồng tiền trong nước giảm thì sẽ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và ngợc lại. Tuy nhiên, không phải mọi sự giảm giá nội tệ đều mang lại kết quả xuất khẩu cao hơn mà còn phụ thuộc vào khả năng cung cấp hàng hoá của chính nước ấy. Do đó, cần phải tính toán một cách khoa học những kết quả thu được và những thiệt hại phát sinh trước khi đa ra những quyết định thực hiện một chính sách tỷ giá hối đoái nào đó. 4- Tăng cường biện pháp xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh: Nhà nước cần quan tâm hơn nữa trong vấn đề cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp thông qua các dịch vụ cung cấp thông tin. Tư vấn cho doanh nghiệp về thị trường, giá cả, đối thủ cạnh tranh, xu thế biến động của thị trường và xúc tiến thương mại. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham giao vào hội chợ, triển lãm bởi đây là những cơ hội tốt để doanh nghiệp giới thiệu hàng hoá của mình và về chính mình, thúc đẩy hợp tác, mở rộng thị trường xuất khẩu. 5- Chính sách thuế cần hợp lý: Trong thời gian qua, mặc dù Nhà nước cũng có các biện pháp khuyến khích nh: - Hoàn thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp nhập nguyên phụ liệu và bán thành phẩm để sản xuất hàng xuất khẩu. áp dụng thuế suất thấp nhất trong khung thuế (0%) cho các mặt hàng cao su, than đá và thủy sản từ 15/1/1998. Kéo dài thời hạn nộp thuế nhập khẩu khi nhập vật tư, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu (thời hạn hiện nay là 9 tháng). Bên cạnh đó, thuế với hàng may mặc xuất khẩu còn nhiều bất hợp lý. Thời gian quy định cho hàng tạm nhập tái xuất, hàng FOB hoãn thuế 90 ngày là quá ngắn, đặc biệt với hàng FOB vì nó liên quan đến vốn của doanh nghiệp. Khi quá 90 ngày chưa xuất khẩu thành phẩm Công ty phải vay ngân hàng chịu lãi suất để nộp thuế, cục thuế chỉ là người giữ tạm cho Công ty, song như vậy sẽ tạo “vốn chết”, đẩy giá thành lên. Thời gian làm thủ tục hoàn thành thuế cũng khá lâu, cách tính thuế đối với hàng phải chịu thuế cũng không phù hợp. Khi quá 90 ngày chỉ nên đánh thuế vào 100% hàng hoá trên hợp đồng bởi vì có thể chưa xuất hết nhưng có nhiều hàng trong hợp đồng đã được xuất khẩu. Giá tính thuế đối với một số nguyên liệu ngoại nhập vẫn còn cao, gây thiệt hại nhiều cho doanh nghiệp. Đối với hải quan, cần có cán bộ nắm chắc chuyên môn của ngành may và nên có thông tin chuyên ngành từ Tổng Công ty dệt may để làm căn cứ giúp cho sự kiểm tra, giám sát chính xác hợp đồng của các doanh nghiệp may cũng như quản lý giá cả, định mức sơ đồ mẫu, vật tư hàng may, ... Nhà nước nên miễn thuế nhập khẩu đối với sản phẩm ưu đãi. Đối với xuất khẩu, đề nghị Nhà nước trợ giá đối với sản phẩm dệt xuất khẩu để có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực và trên thế giới. 6- Xây dựng và phát triển quỹ bình ổn giá, quỹ tín dụng xuất khẩu và quỹ thưởng xuất khẩu. Quỹ thưởng xuất khẩu đã được thành lập và đi vào hoạt động theo quy định 764/QĐ-TTG ngày 24/8/1998 của Thủ tướng Chính phủ. Thông qua quỹ này, các doanh nghiệp được khuyến khích xuất khẩu rất nhiều. Vì vậy, trong thời gian tới cần phát triển quỹ này tốt hơn. Quỹ tín dụng xuất khẩu đảm bảo gánh vác mọi rủi ro mạo hiểm mà các nhà xuất khẩu bán hàng hoá ra nước ngoài với phương thức thanh toán trả chậm hoặc tín dụng dài hạn. 7- Cải thiện môi trường kinh doanh Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế là điều kiện sống còn cho sự tồn tại và phát triển của chúng. Vì vậy Nhà nước cần quan tâm hơn nữa trong việc tạo môi trường, hành lang và những điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp để họ hoạt động một cách có hiệu quả. Trong nhiều năm qua mặc dù chúng ta có nhiều bước thay đổi lớn, nhưng điểm nổi bật còn gây trở ngại lớn cho sản xuất kinh doanh là chúng ta chưa có sự ổn định của môi trường kinh tế và chưa có một hệ thống pháp luật hữu hiệu và đồng bộ. Vì vậy việc tạo môi trường kinh tế và môi trường pháp luật hữu hiệu cho kinh doanh sẽ củng cố niềm tin cho sự phấn khởi của các doanh nghiệp đối với hoạt động thương mại. Trước hết Nhà nước cần sớm ban hành và thực thi những quy định pháp luật đối với cạnh tranh, hạn chế độc quyền. Các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu phải thực sự được đặt trong mối quan hệ trực tiếp với thị trường, phải tiến hành cạnh tranh và không nâng cao cạnh tranh để tồn tại và phát triển. 8- Tạo vốn cho sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu Các doanh nghiệp cần được quan tâm hơn nữa trong việc tạo vốn theo phương châm đa dạng hoá các nguồn. Nhằm huy động tốt nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, Nhà nước cần nhanh chóng tạo ra các điều kiện và thể chế hoá để có thị trường vốn thuận lợi chỉ trên cơ sở đó mới cho phép ta khai thác tối ưu các tiềm năng của toàn xã hội vào việc phát triển kinh tế đất nước, khuyến khích mọi người có điều kiện bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh. 9- Nhà nước cần có chính sách ưu đãi vễ lãi suất ngân hàng Để hấp dẫn khách hàng nước ngoài đặt đơn hàng gia công may mặc tại Việt Nam thì những doanh nghiệp may trong nước phải đầu t máy móc thiết bị, nhà xưởng. Như chúng ta đã biết, lợi nhuận sinh ra từ hoạt động gia công không nhỏ, do vậy các doanh nghiệp phải được ngân hàng cho vay với lãi suất ưu đãi thì họ mới có khả năng trả nợ và yên tâm sản xuất. Tóm lại, các chính sách là do Nhà nước đưa ra, các doanh nghiệp là người trực tiếp thi hành. Qua thời gian thực tập tại Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp I, tôi cũng được biết Công ty cũng đã có một số kiến nghị về chính sách và đã được sửa đổi bổ sung một số điều. Tuy nhiên, tôi cũng mong rằng các cấp, các ngành sửa đổi bổ sung một số điều. Tuy nhiên, tôi cũng mong rằng các cấp, các ngành quản lý trước khi đa ra các chính sách phải có sự tìm hiểu kỹ càng về những điều bất hợp lý, có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cấp quản lý và thực hiện. Kết luận Đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng may mặc hiện nay là một trong những vấn đề rất cần thiết trong hoạt động xuất khẩu của nước ta. Hiện nay, hiệu quả của hoạt động xuất khẩu này về mặt xã hội là vô cùng lớn, bên cạnh lợi ích thu được chưa nhiều đòi hỏi phải có sự đầu tư hơn nữa, đó là việc đầu tư trong quá trình sản xuất, đầu tư về nghiên cứu mẫu mã, thị trường may mặc thế giới, cải tiến cách quản lý, nâng cao tay nghề công nhân sao cho phù hợp giữa điều kiệơisanr xuất trong nước và điều kiện quốc tế. Phải đa dạng hoá thị trường bạn hàng và sản phẩm, cung cấp thêm nghuyên phụ liệu đầu vào thay thế nhập khẩu từ nước ngoài để tăng tỷ trọng nguyên vật liệu trong giá trị sản phẩm xuất khẩu. Chắc chắn rằng trong tương lai hoạt động xuất khẩu hàng may mặc sẽ ngày càng tăng và đặc biệt nó sẽ đóng góp càng nhiều cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bước vào thế kỷ 21, Việt Nam đã là thành viên của ASEAN, APEC, và sẽ tham gia WTO trong tương lai không xa. Trước những thử thách, khó khăn của giai đoạn mới, với khả năng của mình, Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I sẽ cố gắng phát triển mặt hàng may mặc đi xa hơn nữa và như vậy hoạt động xuất khẩu mặt hàng này sẽ được đẩy mạnh, góp phần phát triển ngành may mặc Việt Nam, nâng cao uy tín và vị trí hàng may mặc Việt Nam trên thị trường quốc tế. Trong quá trình thực tập tại Công ty Xuất nhập khẩu I, được sự giúp đỡ của các cô, các chú, các bác, phòng nghiệp vụ 6, tôi đã cố gắng tìm hiểu hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty nói chung, tìm hiểu về thực trạng hoạt động xuất khẩu may mặc của Công ty nói riêng, đồng thời đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh sản xuất mặt hàng này. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của thầy giáo PGS-TS Nguyễn Duy Bột để em có thể hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình thương mại quốc tế. PGS.TS Nguyễn Duy Bột. 2. Giáo trình thanh toán và tín dung thương mại quốc tế. PGS .TS Nguyễn Duy Bột. 3. Giáo trình Marketing thương mại quốc tế. PGS.TS Nguyễn Duy Bột 4. Marketing căn bản. Philip Kotler. 5. Chiến lược cạnh tranh và thị trường. UB vật giá chính phủ. 6. Thị trường và nghệ thuật kinh doanh. UB vật giá chính phủ. 7. Văn kiện đại hội đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX. 8. Tạp chí cộng sản. 9. Tạp chí thương mại. 10. Tạp chí kinh tế và dự báo. 11. Bản tin nội bộ công ty. 12. Báo cáo tổng kết hoạt động dệt may - Bộ thương mại. 13. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty các năm. 14. Thời báo kinh tế Việt Nam các số (1999-2002). Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29752.doc
Tài liệu liên quan