Luận văn Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

LỜIMỞĐẦU Trước Đại hội Đảng lần thứ 6 năm 1986. Việt Nam là một nước có nền kinh tế chậm phát triển, trì trệ, lạc hậu, và kém xa các nước khác trên thế giới. Sau Đại hội Đảng 1986 thực hiện phương châm, chính sách của Đảng đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế, mở cửa nền kinh tếđể thu hút vốn Đầu tư nước ngoài. Do vậy đến nay nền kinh tế của Việt Nam đã có những bước chuyển biến rõ rệt vàđang trên đà phát triển thành một nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo con đường xã hội chủ nghĩa. Qua đó ta cũng thấy được tầm quan trọng của Đầu tư nước ngoài là như thế nào đối với nền kinh tế của một đất nước. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với xu thế chung. Theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn, thông thoáng hơn. Hơn 15 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài, hoạt động đầu tư nước ngoài đãđạt được những hiệu quả cao những thành tựu quan trọng góp phần tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội màĐảng và Nhà nước đãđặt ra, đưa đất nước Việt Nam phát triển bền vững trở thành một nước công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong những thập kỷ tới. Tuy nhiên đểđạt được những mục tiêu đặt ra như vậy không phải là dễ, bởi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam qua quá trình thực hiện vẫn còn những hạn chế, những thiếu xót chưa kịp sửa đổi bổ sung, cơ sở hạ tầng - kinh tế kỹ thuật còn nhiều khó khăn so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới như: Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Mỹ, Pháp, Anh . Môi trường đầu tưở Việt Nam chưa được hoàn thiện, chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhàđầu tư nhất là các vấn đề về thủ tục pháp lý. Môi trường đầu tư còn những hạn chế như vậy làm sao có thể thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng nhiều như mong muốn? Làm sao có thể phát triển nền kinh tế ? Trong khi đóở các nước khác trong khu vực và trên thế giới nhất là Trung Quốc vàĐài Loan ngày càng cải thiện môi trường đầu tư cho thông thoáng hơn, thủ tục đầu tưít rườm rà hơn, cơ sở hạ tầng phát triển hơn Trong mấy năm qua mặc dù số dựán đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng nhưng số lượng không đáng kể, số dựán giải thể trước thời hạn ngày càng tăng, đến hết năm 2003 có trên một nghìn dựán giải thể trước thời hạn với vốn đăng ký khoảng 12,3 tỷ USD chiếm gần 18,6% số dựán và 23% tổng vốn đăng ký của tất cả các dựán được cấp phép. Tại sao số dựán giải thể trước thời hạn lại tăng như vậy? Chúng ta cần phải xem xét lại các yếu tố của môi trường đầu tưở Việt Nam về những mặt tích cực và hạn chế, hệ thống chính sách pháp luật ở Việt Nam những vấn đề cần sửa đổi bổ sung. Chúng ta có lợi thế là mặt chính trịổn định hơn so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới chúng ta nên phát triển lợi thế này cùng với các yếu tố kinh tế và pháp luật của môi trường kinh doanh để nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển hơn. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu những quy định của pháp luật vềđầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nghiên cứu về những chính sách của Nhà nước về tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. - Mục tiêu của đề tài: Nghiên cứu một số vấn đề pháp lý về hoàn thiện môi trường đầu tư nước ngoài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế; đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. - Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp truyền thống như phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích . Qua đó ta thấy việc hoàn thiện môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cho phù hợp với các yêu cầu của các nhàđầu tư nước ngoài, các tổ chức kinh tế quốc tế là một trong những yếu tố quyết định đến sự phát triển kinh tế của đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Xuất phát từ những yêu cầu trên mà tôi chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế". Về bố cục Luận văn bao gồm : Mục lục Danh mục từ viết tắt Lời nói đầu Chương 1: Một số vấn đề chung về Môi trường Đầu tư nước ngoài tại Việt nam. Chương 2: Một số vấn đề pháp lý về hoàn thiện Môi trường Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập Kinh tế quốc tế. Chương 3: Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện Môi trường Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập Kinh tế quốc tế. Kết Luận Danh mục tài liệu tham khảo MỤCLỤC Lời mởđầu 1 chương 1 4 Một số vấn đề chung về môi trường đầu 4 tư nước ngoài tại Việt Nam 4 1.1. Khái niệm chung vềđầu tư nước ngoài 4 1.1.1. Một số quan niệm vềđầu tư nước ngoài 4 1.1.2. Định nghĩa vềđầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật vềđầu tư tại Việt nam 6 1.2. Các yếu tố cơ bản hình thành môi trường đầu tư nước ngoài 8 1.2.1 Sựổn định về chính trị 8 1.2.2. Sự phát triển kinh tế – kỹ thuật 10 1.2.3. Sự phát triển của hệ thống pháp luật vềĐầu tư 14 1.3. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế 23 chương 2 27 Một số vấn đề pháp lý về hoàn thiện 27 môi trường Đầu tư nước ngoài tại Việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 27 2.1. Quá trình hoàn thiện môi trường đầu tư theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1987; 1990; 1996; 2000. 27 2.1.1. Các quy định về bảo đảm Đầu tư 27 2.1.2. Các quy định về khuyến khích Đầu tư 32 2.1.3. Quyền kinh doanh của Doanh nghiệp FDI 39 2.1.4. Quản lý nhà nước vềĐầu tư. 45 2.2. Những vấn đềđặt ra về hoàn thiện môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế 47 quốc tế. 47 2.2.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế. 47 2.2.2. Những vấn đềđặt ra của hội nhập kinh tế quốc tếđối với môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt Nam 49 2.3. Một số khó khăn thách thức hiện nay trong quá trình hoàn thiện môi trường đầu tư. 53 CHƯƠNG 3 57 Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế 57 3.1. Một số giải pháp 57 3.1.1. Xây dựng chiến lược quy hoạch thu hút Đầu tư nước ngoài, trong đó xác định số ngành, lĩnh vực, địa bàn khuyến khích thu hút ĐTNN. 57 3.1.2. Cải thiện môi trường đầu tư 58 3.1.3. Xúc tiến Đầu tư. 62 3.1.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế. 63 3.2. Một số kiến nghị của bản thân góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 65 kết luận 74

docx83 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1343 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ký. Các cơ quan chức năng phải thông báo công khai các loại giầy tờ cần có về hồ sơ cấp giấy phép đầu tư. Cần công khai quy trình, thời hạn, trách nhiệm xử lý thủ tục. Riêng các loại dựán có tỷ lệ xuất khẩu từ 80% trở lên và một số lĩnh vực khác do Bộ kế hoạch vàđầu tư công bố, nhàđầu tư phải đăng ký theo mẫu của Bộ. Cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải có quyết định trong thời hạn chậm nhất là 15 đến 60 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Để thực hiện được điều đó Bộ khoa học công nghệ và môi trường cần sửa đổi vàđiều chỉnh một số nôi dung theo hướng giảm bớt các danh mục phải báo cáo đánh giá tác động môi trường, quy định cụ thể những dựán nào được miễn các loại báo cáo này. Đối với các dựán phải lập báo cáo này, cơ quan thẩm định phải tiến hành khẩn trương vàđảm bảo độ chính xác cao, để vừa rút ngắn thời gian đăng ký vừa hạn chếđược công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường. *Mở rộng quyền kinh doanh của doanh nghiệp Cho đến thời điểm này, các quy định của pháp luật vềđầu tư nước ngoài vẫn có nhiều hạn chế phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp và tất nhiên là hạn chế quyền kinh doanh của doanh nghiệp trong thời hạn tối đa là hợp với lộ trình cam kết của Việt Nam với các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, quyền kinh doanh của các doanh nghiệp FDI cần được nới lỏng hơn nữa để các doanh nghiệp có thể tự quyết định công việc kinh doanh của mình một cách có hiệu quả nhất. Cụ thể các doanh nghiệp có thể tự quyết định tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm mà không bị ràng buộc vào tỷ lệ xuất khẩu quy định trong giấy phép đầu tư; hoặc được phép sử dụng tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm một cách thích hợp đểđảm bảo chất lượng và giá cả sản phẩm thích ứng với nhu cầu tiêu dùng mà không phải bị bắt buộc thực hiện như quy định hiện nay. Vềcơ chế xuất nhập khẩu cần có nhiều quy định thông thoáng hơn nữa. Ví dụ cần nhanh chóng xoá bỏ những hạn chế về nhập khẩu dùng làm nguyên liệu cho sản xuất, nhập khẩu xe tải đã qua sử dụng, hoặc bãi bỏ việc xét duyệt kế hoạch nhập khẩu vật tư nguyên liệu để sản xuất tại các cơ quan do Bộ Thương Mại uỷ quyền như hiện nay. *Tăng cường các biện pháp khuyến khích và bảo hộđầu tư Các biện pháp ưu đãi và bảo hộđầu tư theo quy định tại Nghịđịnh 24/2000/NĐ-CP và Nghịđịnh 27/2003/NĐ-CP được các nhàđầu tư quan tâm vàđón nhận với thái độ tích cực. Tuy nhiên cũng còn nhiều vấn đề cần sớm bổ sung điều chỉnh để tạo ra sức hấp dẫn hơn nữa đối với các nhàđầu tư. Cụ thể: - Các ưu đãi đầu tư mà chủ yếu ưu đãi về thuế cần có sự chi tiết vàđảm bảo sựổn định tương đối. Ví dụ cần quy định rõ thuế suất hoặc miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu, tiền thuêđất… trong giấy phép đầu tưđể nhàđầu tư có thể hoạch định chiến lược và xây dựng phương thức đầu tư một cách hợp lý. Đồng thời việc quy định cụ thể này giúp cho nhàđầu tư có cơ sởđể thực hiện các nghĩa vụ của mình một cách đúng đắn và kịp thời. Ngoài các ưu đãi về tài chính cần xem xét cho phép các doanh nghiệp FDI được hưởng các hình thức hỗ trợđầu tư thông qua việc cho vay đầu tư, hỗ trợ sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng. Vấn đề này cũng không trái với quy định của WTO vì nhiều nước mới gia nhập có GNP dưới 1000 USD được phép áp dụng các biện pháp hỗ trợ. - Các biện pháp bảo đảm đầu tư, ngoài việc cam kết không trưng thu, trưng mua, quốc hữu hóa, bảo đảm quyền sở hữu, quyền chuyển vốn, lợi nhuận về nước, luật cần quy định chi tiết hơn nữa cơ chế bồi thường thiệt hại các nhàđầu tư do có sự thay đổi về luật, tránh tình trạng như vừa qua các thay đổi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các nhàđầu tư tăng, thuế nhập khẩu đối với phụ tùng ô tô tăng…đã gây phản ứng không tốt từ các nhàđầu tư. Để phù hợp với các yêu cầu của tiến trình hội nhập với các nguyên tắc cơbản của WTO vềđối xử tối huệ quốc (MFN), đối xử quốc gia (NT), cần nhanh chóng xây dựng một bộ luật chung vềđầu tưđể tạo sân chơi bình đẳng cho các nhàđầu tưđồng thời đây cũng là giải pháp tốt nhất để thực hiện việc bảo đảm, ưu đãi và khuyến khích đối với các nhàđầu tư. 2.3. MỘTSỐKHÓKHĂNTHÁCHTHỨCHIỆNNAYTRONGQUÁTRÌNHHOÀNTHIỆNMÔITRƯỜNGĐẦUTƯ. *Sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ. Thành tựu ban đầu sau hơn 10 năm đổi mới làđáng khích lệ, đáng khâm phục nhưng thực tế trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn thấp ,chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm, sức cạnh tranh của hàng hoá kém, hàng hoá kém chất lượng không đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng. Hội nhập kinh tế quốc tế một mặt tạo thêm rất nhiều cơ hội thâm nhập thị trường quốc tếđồng thời cũng buộc phải mở cửa thị trường Việt Nam cho hàng hóa của các nước nhập vào (theo nguyên tắc cóđi có lại). Nếu không chuẩn bị tốt, chủđộng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sơ phát huy lợi thế so sánh mà cứđầu tư dàn trải, thiếu thứ gì làm thứấy, công nghệ lạc hậu thì không thể cạnh tranh được. Hơn nữa kỹ thuật công nghệ của Việt Nam mặc dùđã có nhiều cải tiến nhưng còn kém xa so với các nước đang phát triển khác. Đây là sức ép lớn không chỉđối với Việt Nam mà ngay cả các nước có sức mạnh kinh tế cũng phải chấp nhận vàđương đầu, có lúc còn phải bỏ một số nghành nghềđể tạo cơ hội phát triển những nghành có lợi thế so sánh hơn đồng thời có kế hoạch và biện pháp cụ thểđể chủđộng thích ứng và vượt lên. Trước yêu cầu phải giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan để mởđường cho thương mại phát triển, một mặt phải tính toán để thực hiện chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, bảo hộ cóđiều kiện, có chọn lọc, có thời gian. Đểđạt được kết quả mong muốn ta sẽ xác định và công bố thời gian bảo hộđi đôi với việc đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở lợi thế so sánh của ta, mặt khác ta phải vận dụng các nguyên tắc của các tổ chức kinh tế về quyền tự vệ, về quyền tham gia các tổ chức kinh tế khu vực, vềưu đãi cho các nước đang phát triển và chậm phát triển như là những lợi thế giúp ta tìm lời giải thích thích hợp cho những thách thức nói trên. Vấn đề quan trọng đặt ra là sự tính toán, vận dụng khôn khéo các nguyên tắc của các tổ chức đó vào thực thi các chính sách vừa phù hợp với quốc tế vừa bảo hộ và kích thích sự phát triển của các nghành sản xuất của từng doanh nghiệp. Thực tế 2/3 thành viên của WTO là các nước đang phát triển, một số nước thành viên của tổ chức khu vực cũng đang ở trình độ thấp, có những mặt tương đồng như Việt Nam. Vấn đềđặt ra là ta không ngồi chờ mà luôn có biện pháp thích hợp với từng nghành từng thời kỳ nhằm nâng cao nội lực và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Đây là một chiến lược đúng đắn nhưng cùng tồn tại song song với nó Việt Nam phải có những biện pháp cạnh tranh thích hợp với hàng hoá trên thị trường quốc tế, Việt Nam không những phải cạnh tranh với những nước đang phát triển mà còn phải cạnh tranh với những nước phát triển, các nước trong khu vực và quốc tế. *Về khả năng của các doanh nghiệp. Đây là khó khăn thách thức lớn thứ hai màđất nước Việt Nam gặp phải trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sự phát triển kinh tế của đất nước tuy có những kết quả khả quan nhưng doanh nghiệp trong nước vẫn còn nhiều yếu kém, tụt hậu quá xa so với các nước khác trên thế giới. Doanh nghiệp nước ta quy mô nhỏ, vốn ít, khả năng tổ chức thị trường yếu, lao động trong doanh nghiệp trình độ thấp, kỹ thuật công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý kém. Một số doanh nghiệp tuy đã chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế thị trường nhưng vẫn còn tư tưởng ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước. Do vậy, nếu không tổ chức và sắp xếp lại, tăng cường khả năng tích tụ và tập trung vốn, hoàn thiện cơ chế quản lý thì sẽ rất khó khăn trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp còn quá thấp và thách thức này sẽ gia tăng so các nguyên nhân như tự do hoá thương mại quốc tế, mở rộng thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt mà Việt Nam lại phải cạnh tranh ngay từđầu trên tất cả các lĩnh vực với các đối thủ mạnh hơn, nhiều kinh nghiệm hơn. Trong tương lai sẽ có nhiều nước đang phát triển mới bước vào giai đoạn công nghiệp hoá sẽ chọn chiến lược tăng trưởng hướng về xuất khẩu. Như vậy Việt Nam không chỉ cạnh tranh với những đối thủ mạnh đi trước mà còn phải tham gia cuộc cạnh tranh giữa các nước tương đồng nhau về trình độ và cơ cấu sản phẩm. Hệ quả là chúng ta sẽ gặp khó khăn trong việc bảo vệ thị trường nội địa trước áp lực ngày càng tăng của nạn buôn lậu qua biên giới, của việc mở cửa thị trường rộng hơn khi thực hiện đầy đủ các quy chế và luật chơi của các tổ chức AFTA, APEC, WTO…trong tương lai gần. Tuy nhiên đây cũng là quá trình buộc các doanh nghiệp phải tích tụ và tập trung quy mô thích hợp để tồn tại và phát triển sau một thời gian chuyển tiếp. *Xây dựng các quy phạm pháp luật vềđầu tư liên quan thương mại. Pháp luật vềđầu tư liên quan thương mại ngày càng có tầm quan trọng hơn cho phép nâng cao năng lực cạnh tranh vừa mở rộng vừa củng cố vị trí của mỗi một mặt hàng và thị trường phát triển. Các quy phạm pháp luật vềđầu tư thương mại phải ngày càng rõ ràng, hoàn thiện, hình thành và phải đáp ứng được các nguyên tắc vàđịnh chế của WTO như là một chuẩn mực chung của quốc tế. Mặt khác các quy định này có tác dụng hỗ trợ, đàm phán mở cửa thị trường, là chỗ dựa cho hàng hoá dịch vụ và thương nhân, trong đó quan trong nhất là chính sách thương mại, chính sách thuế và chính sách phi thuế quan. Cho đến nay hệ thống chính sách này còn rất nhiều điều bất cập, chưa thống nhất, chưa đồng bộ. Đặc biệt những biện pháp chính sách tạo lợi thế cho kinh tế thương mại. Đầu tư thương mại trong nước mà các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực thừa nhận thì ta lại chưa có, ví dụ như chính sách thuế và phi thuế quan theo chếđộđãi ngộ tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia, chếđộ hạn ngạch thuế quan, biện pháp cán cân thanh toán, quyền tự vệ, quy chế xuất xứ…Trong khi đó một số biện pháp chính sách không được thừa nhân, không phù hợp với các nguyên tắc của các tổ chức này thì ta còn áp dụng, việc xây dựng một số biện pháp, chính sách còn thô sơ, can thiệp trực tiếp bằng các chỉ thị hành chính, thường xuyên phải điều chỉnh, thay đổi thất thường. Sau cuộc họp với các doanh nhân trong nước lần thứ nhất 5.12.2002 và lần thứ 2 ngày 26.5.2003 tại Hội An các thành viên tham dự cả hai cuộc gặp đều nêu lên sự cần thiết của việc tiếp cận được với các thông tin thị trường, đặc biệt là các thị trường xuất khẩu. Các doanh nghiệp ở Miền Bắc đãđề nghị việc tăng cường hệ thống đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài và yêu cầu họ giải quyết các vấn đề khó khăn trong việc cấp giấy phép kinh doanh, đẩy nhanh làm rõ các thủ tục hải quan để thuận lợi cho thương mại phát triển. Vì vậy hệ thống chính sách của ta cần được xây dựng đường bộ, áp dụng các biện pháp mà thế giới vẫn sử dụng, xử lý một cách thích hợp tính bảo vệ và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh nhằm thích nghi với thực tế cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt trên thị trường thế giới và trong nước, khuyến khích đổi mới công nghệ và ngày càng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam và doanh nghiệp Việt Nam cả trên thị trường nội địa và quốc tế. Việc thực hiện các nguyên tắc này cũng đặt yêu cầu về trình độ hoạch định và thực thi chính sách thống nhất, có kĩ thuật và chuyên môn cao, phối kết hợp giữa các cơ quan nhà nước chặt chẽ. Thực tế sau hơn 15 năm đổi mới cho thấy rằng, thực hiện các nguyên tắc và chuẩn mực chung quốc tế còn đặt ra nhiều khó khăn nhưng Việt Nam có khả năng tìm thấy chính lợi ích của mình trong việc thực hiện các nguyên tắc ấy.Việc thực hiện các nghĩa vụ của khu vực thương mại tự do ASEAN, AFTA trong 10 năm qua cũng chứng minh được điều này. CHƯƠNG 3 MỘTSỐGIẢIPHÁPNHẰMGÓPPHẦNHOÀNTHIỆNMÔITRƯỜNGĐẦUTƯNƯỚCNGOÀITẠI VIỆT NAMTRONGBỐICẢNHHỘINHẬPKINHTẾ 3.1. MỘTSỐGIẢIPHÁP 3.1.1. Xây dựng chiến lược quy hoạch thu hút Đầu tư nước ngoài, trong đó xác định số ngành, lĩnh vực, địa bàn khuyến khích thu hút ĐTNN. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Các nước bị khủng hoảng kinh tế vừa qua đã rút ra bài học và khẳng định vai trò tích cực của, tính an toàn của ĐTNN nhất là việc thu hút nguồn vốn FDI một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế 1997 tỉ lệ vay nợ ngắn hạn quá cao ở Thái Lan 85% còn FDI chỉ chiếm 15%; Hàn Quốc một thời gian dài đã chủ trương vay vốn để thanh lập các tập đoàn lớn, dẫn đến nợ chồng chất không trảđược, nhiều tập đoàn lâm vào phá sản, hay chính phủ phải chủ trương mạnh mẽ thu hút vốn FDI. Đối với những nước xuất phát điểm thấp như Việt Nam. Trong quá trình hội nhập FDI có vai trò hết sức quan trọng. Vì vậy việc mở rộng thu hút vốn ĐTNN đã trở thành mục tiêu cơ bản và là hoạt động không thể thiếu được đối với Việt Nam. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định kinh tế có vốn ĐTNN là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường cóđịnh hướng XHCN ở nước ta, được khuyến khích lâu dài bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Thu hút ĐTNN là chủ trương quan trọng, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển đất nước. Hơn 15 năm qua kể từ khi ban hành LĐTNN tại Việt Nam 1987 hoạt động ĐTNN đạt được những kết quả khả quan quan trọng góp phần tích cực vào thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Thực tế cho thấy ĐTNN đã trở thành một trong những nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, có tác dụng thúc đẩy sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ, mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo nên nhiều việc làm mới, góp phần mở rộng hoạt động kinh tếđối ngoại và thực hiện chủđộng hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu của thu hút đầu tư nước là nhằm tranh thủ nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý, công nghệđể phát triển kinh tế. Chiến lược thu hút ĐTNN được xem như một hình thức biểu hiện cụ thể của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, phản ánh sự kết hợp hài hoà việc phát huy nội lực với tranh thủ nguồn lực bên ngoài đểđẩy nhanh quá trình CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân, nó là cơ sởđể xây dựng các quy hoạch kế hoạch thu hút ĐTNN theo ngành, lĩnh vực kinh tế và vùng lãnh thổ. Để nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút ĐTNN cần chú trọng công tác dự báo, cập nhật thông tin thị trường trong nước, quốc tếđảm bảo sự thống nhất quy hoạch giữa các Bộ, ngành, địa phương trong việc thu hút ĐTNN. Xây dựng danh mục dựán kêu gọi ĐTNN trong năm năm tới dựa trên cơ sở quy hoạch thu hút ĐTNN đãđược phê duyệt, danh mục dựán kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài của Bộ, ngành và các địa phương là bộ phận cấu thành của danh mục dựán kêu gọi ĐTNN của Quốc Gia. Như trong Nghị quyết 09/2001/NQ-CP xây dựng Danh mục dựán kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2001-2005 và công bố trong năm 2001 làm cơ sở cho việc vận động xúc tiến đầu tư. Các dựán này khi được lựa chọn đưa vào danh mục này phải có sự thống nhất trước về chủ trương, quy hoạch vàđược bố trí vốn làm dựán tiền khả thi. Các Bộ, ngành, địa phương chủđộng xây dựng và công bố danh mục dựán kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài của ngành, địa phương mình sau khi thống nhất với Bộ kế hoạch vàđầu tư. 3.1.2. Cải thiện môi trường đầu tư Việc cải thiện môi trường đầu tưđược thực hiện trên cả năm mặt là luật pháp, cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính, môi trường kinh doanh, hệ thống trọng tài toàán. Trong thời gian tới tình hình trong nước và bối cảnh quốc tếđòi hỏi chúng ta phải tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, đưa đất nước tiến nhanh và vững chắc theo định hướng XHCN. Thuận lợi lớn nhất của tình hình trong nước là sựồn định chính trị, xã hội nó là nền tảng vững chắc tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của đất nước, quan hệ sản xuất của ta được đổi mới phù hợp hơn với thực tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Khó khăn của nước ta là trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp, CNH-HĐH chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh còn kém, quy mô sản xuất nhỏ bé, thu nhập của dân cư chưa đủ tạo sức bật đối với sản xuất và phát triển thị trường, hệ thống tài chính tiền tệ còn nhiều yếu kém, bất cập. Đứng trước tình hình như vậy nhà nước ta sẽ phải tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút ĐTNN vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, công nghiệp phục vụ phát triển nông thôn, các dựán áp dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử…phát triển các ngành mà Việt Nam có tiềm năng, có nhiều lợi thế cạnh tranh với công nghiệp hiện đại. Xây dựng những quy định mới của pháp luật, sửa đổi, bổ sung những quy định củ là hệ thống các việc làm công phu, có căn cứ, làm sao cho sựđổi mới hoàn thiện đó là cơ sở pháp lý cho thực tiễn phù hợp với nhận thức của các nhàĐTNN và của nhân dân. Những quy định mới, những sửa đổi bổ sung cùng với các quy định hiện hành vềĐTNN phải đáp ứng được nhu cầu do việc thực hiện ĐTNN đặt ra và tạo nên cơ sở pháp lý vững vàng cho ĐTNN tại Việt Nam . Vì pháp luật ĐTNN có mối quan hệ chặt chẽ và có sự tác động qua lại với các đạo luật khác trong hệ thống pháp luật tại Việt Nam nên việc cải thiện môi trường đầu tư về pháp luật phải cải tiến một cách đồng bộ các đạo luật đókhông được để lỗ hổng trong pháp luật ĐTNN. Bất kỳ sự thay đổi nào trong các văn bản ĐTNN đều phải đi liền với sự rà soát các đạo luật liên quan đáp ứng yêu cầu mà thực tiễn ĐTNN đặt ra. Xây dựng hệ thống pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vục. Triển khai việc nghiên cứu để tiến tới xây dựng một Bộ luật đầu tư chung cho cảđầu tư trong nước vàĐTNN. Hoàn chỉnh hệ thống pháp lý chung về kinh tếđể tạo lập môi trường kinh doanh bất động sản, luật cạnh tranh và chống độc quyền. Sửa đổi thuế thu nhập cá nhân đối với người lao động Việt Nam làm viêc trong các doanh nghiệp ĐTNN, xây dựng chính sách thuế khuyến khích sản xuất phụ tùng linh kiện, nâng cao tỉ lệ nội địa hoá. Hoàn chỉnh hệ thống thuế xuất nhập khẩu, thuế VAT, thuế tiêu thụđặc biệt, hoàn thiện các quy định về hợp đồng kinh tế, sở hữu trí tuệ, cải tiến hệ thống tín dụng, bảo lãnh đầu tư, phá sản đối với doanh nghiệp ĐTNN. Đa dạng hoá các hình thức ĐTNN để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới, cho phép các tập đoàn lớn có nhiều dựán ở Việt Nam thành lập các công ty quản lý vốn (holding company) đẩy nhanh việc thíđiểm cổ phần hoá doanh nghiệp ĐTNN, ban hành danh mục, lĩnh vực cho phép nhàđầu tưđược mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam. Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phíđầu tư, điều chỉnh giá chi phí các loại hàng hoá dịch vụđể sau một thời gian về cơ bản áp dụng một mặt bằng giá chung cho các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn ĐTNN.Trước mắt thực hiện giảm gía cước viễn thông, vận tải cho các máy bay, giảm giá thuêđất…Tạo điều kiện giúp doanh nghiệp giảm chi phíđầu vào để tăng sức cạnh tranh, từđó thu hút các dựán đầu tư mới. Đối với đất đai có thể miễn giảm tiền thuêđất trong một số năm để tạo ra thuận lợi cho doanh nghiệp, giải quyết dứt điểm tình trạng giải phóng mặt bằng đền bùđang bịách tắc trong việc triển khai dựán. Tiếp tục ban hành văn bản hướng dẫn vềđiều kiện, thủ tục thế chấp quyền sử dụng đất. Cải tiến công cụ thuế, tín dụng, cơ chế xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan. Có các chính sách khuyến khích vàưu đãi tạo động lực lớn hơn để hướng mạnh vào xuất khẩu, áp dụng công nghệ cao, thu hút các dựán đặc biệt khuyến khích đầu tư. Trên thực tếđã có nhiều trường hợp thuế xuất nhập khẩu các bán thành phẩm, linh kiện, chi tiết để sản xuất và lắp ráp thành phẩm bịđánh thuế vàáp dụng thuế nhập khẩu cao hơn thành phẩm. Không khuyến khích sản phẩm nội địa hoá. Chính sách tín dụng tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp cận chủđộng hơn các nguồn vốn trong nước và thị trường vốn nước ngoài, chú trọng giải quyết những vấn đề tồn tại để khai thông về các giao dịch có bảo đảm…cho phép các doanh nghiệp trực tiếp tham gia thuê lao động để sản xuất tránh tình trạng các doanh nghiệp ĐTNN phải sử dụng lao động qua các tổ chức cung ứng của Việt Nam hiện nay. Tạo các điều kiện để chuyển đổi hình thức đầu tư. Thủ tục đầu tư cũng là một vấn đề nổi cộm đang được chúng ta cải tiến từng bước. Đểđảm bảo tính hấp dẫn cần kiên quyết thực hiện một cửa và quy định chặt chẽ thời gian tối đa giải quyết thủ tục. Kiên quyết xử lý và xử lý nghiêm những trường hợp gây phiền hà, nhận ăn hối lộ. Thủ tục hành chính ở các khâu mua bán hoáđơn, khắc dấu, đăng ký thuế của doanh nghiệp cần sớm được cải cách mạnh mẽ theo hướng đơn giản hoá và khoa học hơn. Việc quá tập trung vào cải cách, cải tiến khâu thẩm định cấp giấy phép đầu tư mà lại coi nhẹ khâu sau cấp giấy phép đầu tư trong những năm qua đã gây cản trở không ít cho các nhàĐTNN. Thực tế cho thấy khâu đền bù, giải toả, xây dựng, xuất nhập khẩu, tuyển dụng lao động, sản xuất kinh doanh…là yếu tố quyết định cho sự thành công của dựán nói riêng và toàn bộ hoạt động ĐTNN nói chung. Do vậy cần nhanh chóng giải quyết các thủ tục giao đất, cho thuêđất. Sởđịa chính ở các tỉnh, thành phố chỉ tiến hành đo đạc lập bản đồ một lần, đơn giản hoá mọi thủ tục giấy tờ vềđất đai. Coi trọng công tác kiểm tra giám sát thực hiện tiến đọđầu tư theo đúng quy định khi cần có thểđiều chỉnh ngay tránh phiền hà, lãng phí. Tình trạng chồng chéo của nhiều giấy phép được coi là một trở ngại lớn đối với sự phát triển của các công ty, yêu cầu bỏ một số giấy chứng nhận đối với người Viêt kiều đầu tư vào Việt Nam như giấy chứng nhận không phạm tội hình sự, giấy chứng nhận không bị phá sản…biện pháp này sẽ giúp các Việt kiều đầu tư về nước nhiều hơn. Cải thiện môi trường kinh doanh trước hết phải tạo được môi trường kinh doanh lành mạnh vàổn định ta cần nhanh chóng triển khai thực hiện một số luật sửa đổi bổ sung mới được Quốc Hội thông qua. Đồng thời chú trọng đến việc cải cách hệ thống thuế, cải tiến phương thức tổ chức quản lý thu thuế theo phương thức phù hợp với cam kết quốc tế vàđáp ứng yêu cầu gia nhập WTO và cam kết AFTA, phấn đấu đến hết năm 2005 phải giảm hàng hoá dịch vụđang còn độc quyền xuống ít nhất ngang mức giá trung bình của sản phẩm cùng loại trong khu vực. Ngoài ra chúng ta cần tiếp tục chú trọng nâng cao năng lực của ngân hàng thương mại, đảm bảo cóđiều kiện để ngân hàng thực sự chuyển sang kinh doanh, tăng nguồn vốn tự có của các ngân hàng, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng. 3.1.3. Xúc tiến Đầu tư. Trong thời gian dài chưa xây dựng được chiến lược và quy hoạch thu hút, sử dụng FDI phù hợp với yêu cầu vàđiều kiện mới làm cơ sở cho vận động xúc tiến đầu tư, xử lý các dựán FDI. Việc quy hoạch các nghành kinh tế kỹ thuật và một số sản phẩm chủ yếu làm chậm, một số dự báo không được chính xác làm cho việc đầu tư dư thừa công suất và hoạt động kém hiệu quả. Do vậy công tác vận động xúc tiến đầu tư cần được đẩy mạnh theo hướng chương trình, dựán trọng điểm, hướng mạnh vào các nước lớn có tiềm năng như Châu âu, Bắc Mỹ…chú trọng các tập đoàn có tiềm lực về vốn và công nghệ. Phối kết hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành liên quan để thường xuyên trao đổi thông tin thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao để vận động xúc tiến đầu tư, giúp đỡ hợp tác lẫn nhau giữa các tổ chức xúc tiến đầu tư quốc tế ASEAN,APEC…tạo điều kiện cho việc thành lập các Câu lạc bộ hoặc Hiệp hội các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam.Về ngành, lĩnh vực cần tập trung vận động đầu tư cho các dựán áp dụng công nghệ thông tin, dầu khíđiện tử. Vềđối tác cần mở rộng đa phương hoá, hợp tác các nhàđầu tư thuộc EU, Hoa kỳ, Nhật bản và các nước ASEAN…Tăng cường công tác nghiên cứu đối tác, nâng cao chất lượng thông tin, bố trí ngân sách phục vụ cho công tác đầu tư. Ngân sách về xúc tiến đầu tư không có kinh phí thường xuyên, không thể chỉ trông chờ vào nguồn tài trợ từ bên ngoài để tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư cảở trong nước và ngoài nước. Việc bố trí một khoản ngân sách dành riêng cho hoạt động xúc tiến đầu tư giống như dành cho hoạt động ngoại giao phục vụ kinh tế hoặc xúc tiến thương mại là hết sức cần thiết. Ngay cảđối với một loại hàng hoá cụ thểđể bán được doanh nghiệp cũng phải có ngân sách để quảng cáo, tuyên truyền, xúc tiến đầu tư cũng vậy, chúng ta cần có kinh phíđể in ấn tài liệu để phát không cho các nhàđầu tư, cung cấp một số dịch vụ miễn phí và cần đưa khoản kinh phí này về một đầu mối để chủđộng điều phối các hoạt động xúc tiến đầu tư chung cho cả nước,trong đó có các địa phương, các ban quản lý KCN-KCX…làm như vậy xúc tiến đầu tư sẽđược tổ chức một cách có hệ thống, bài bản hơn. 3.1.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế. Một trong những trở ngại nghiêm trọng đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội Việt Nam là tình trạng lạc hậu của hệ thống cơ sở hạ tầng. Trở ngại này vốn dĩđã tồn tại từ nhiều thập kỷ nay và càng trở nên gay gắt khi nên kinh tếđã tạo được những bước chuyển mới với kết quả tích cực trong việc gia tăng sản xuất trong nước và mở mang quan hệ kinh tế với bên ngoài. Tình trạng lạc hậu và quá tải của một số cảng biển, cảng hàng không và hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt. Điện năng thiếu hụt, nguồn cung cấp nước công nghiệp chưa đảm bảo, thông tin liên lạc chưa kịp thích ứng với cơ chế thị trường. Việc phát triển cơ sở hạ tầng không chỉ làđiều kiện cần để tăng sự hấp dẫn đối với các nhàđầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho chủđầu tư triển khai dựán, kế hoạch đầu tư của mình mà nó còn là cơ hội để nước ta tăng thu hút ĐTNN vào lĩnh vực hạ tầng.Vì vậy cần ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạtầng từ nhiều nguồn vốn: ngân sách nhà nước, vốn ODA, vay trong nước,phát hành trái phiếu trong nước và quốc tế, khuyến khích vốn tư nhân đầu tư vào các dựán nhà nước đặc biệt khuyến khích ,khuyến khích vốn ĐTNN vào các dựán BOT, BTO, BT để phát triển hạ tầng theo quy định thống nhất, đảm bảo tính liên tục, đồng bộ, hiện đại của hệ thống cơ sở hạ tầng. Trong gần 20 năm đổi mới cơ sở hạ tầng của Việt Nam cũng có những bước tiến đáng kể, những kết quảđạt được này là do nhà nước đã cố gắng đầu tư ngày càng lớn cho lĩnh vực này. Từ năm 1985 đến nay hàng năm nhà nước dành từ 15% đến 20% ngân sách đầu tư cho giao thông vận tải, năm cao nhất là 30%. Bảo đảm giao thông thông thoát trong mọi thời tiết của các tuyến đường giao thông huyết mạch, tuyến xương sống và các tuyến nhánh đến các vùng, các trung tâm miền núi trong từng vùng, điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc được đáp ứng tuỳ theo yêu cầu của mức độ phát triển. Phát triển cơ sở hạ tầng vùng miền núi, nông thôn, giao thông vận tải đãđược khắc phục sự xuống cấp, từng bước nâng cấp các công trình, các tuyến giao thông trọng yếu. Nâng cao hiệu quả vận tải lưu thông: Từ năm 1993 ngành giao thông vận tải đã sử dụng vốn ODA để xây dựng cơ sở hạ tầng nhờđó mà tạo được môi trường cạnh tranh, vận tải trong nước phần nhiều là vận tải đường bộ bằng xe tải nhưng đối với các trường hợp vận tải bằng cự ly dài thì vận tải ven biển là chủ yếu, lượng hàng hoá vận chuyển bằng đường sắt còn ít. Trong vận tải bằng đường biển thì cảng biển của Việt Nam chủ yếu là cảng sông nên mực nước sông ởđó tàu chở côngtenơ lớn không cập cảng được, cần xúc tiến xây dựng các cảng biển tạo điều kiện cho tàu chở lớn côngtennơ lớn cập cảng và cung cấp dịch vụ vận tải trực tiếp đến các nước đầu tư. Cần cho phép doanh nghiệp vận tải 100% vốn nước ngoài tham gia vào thị trường vận tải là thúc đẩy thị trường này ở trong nước đạt hiệu quả cao vàáp dụng chính sách khuyến khích đầu tư ngay cả trong lĩnh vực vận tải. Vềđiện lực: trong vòng 10 năm tính đến năm 2000 tỷ lệ gia tăng trung bình năm của lượng điện tiêu thụ tại Việt Nam là 13,7% và dự tính trong thời gian tới đây nhu cầu tiêu thụđiện có xu hướng tăng mạnh. Nguyện vọng của các nhàđầu tư vào lĩnh vực điện lực là thúc đẩy hoạt động tư nhân trong lĩnh vực điện lực, xây dựng cơ chế cho phép doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này, xoá bỏ tỷ lệ hạn chếĐTNN dưới hình thức BOT (hiện nay là 20%). Nếu như vậy tư nhân nước ngoài sẽ dễ dàng thâm nhập vào lĩnh vực này và các nhà máy phát điện sẽđược xây dựng có thểđã phát triển ứng nhu cầu điện, đảm bảo nguồn cung cấp điện năng. Giáđiện của Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực, doanh nghiệp nằm trong KCN không gặp vấn đề gì vềđiện nhưng các doanh nghiệp nằm ngoài KCN đều phàn nàn về việc mất điện. Việt nam vẫn còn tồn tại cơ chế hai giá trong lĩnh vực điện lực, cùng trong một ngành nhưng doanh nghiệp nhà nước lại rẻ hơn doanh nghiệp có vốn ĐTNN, do vậy chính phủ Việt Nam không áp dụng hạn chế vốn ĐTNN vào lĩnh vực điện lực (20%) và không quy định vấn đề này trong Luật điện lực mà thực hiện ngay. Chính phủ Việt Nam giảm gía điện cho sản xuất xuống mức trung bình của khu vực, nỗ lực thực hiện cung cấp điện một cách ổn định cho nhà sản xuất điện năng lớn. Cải thiện hạ tầng viễn thông: Giá cước điện thoại trong nước và quốc tế của Việt Nam đều cao hơn so với các nước trong khu vực. Việt Nam đã giảm giá cước Internet mức sử dụng 30h/tháng xuống còn 12 USD vào năm 2002 các doanh nghiệp cho rằng độ tin cậy của dịch vụ internet của Việt Nam không cao, thưđiện tử bị mất hoặc tốn khá nhiều thời gian đểđến nơi, cước điện thoại quốc tế ngày càng giảm nhưng các nước trong khu vực cũng có xu thế giảm giá nên Việt Nam cần giảm giá tương xứng với các nước trong khu vực, xu hướng hiện nay là tăng cước nội hạt, hạ cước điện thoại liên tỉnh và quốc tế. Chính phủ Việt Nam trên cơ sở quan sát động thái của các nước trong khu vực tiếp tục giảm giá cước viễn thông quốc tế(đặc biệt là phí thuê kênh riêng, phí kết nối internet) tới mức trung bình trong khu vực, nâng cao công tác an ninh mạng nhằm đảm bảo độ tin cậy của hình thức thông tin bằng thưđiện tửđồng thời đẩy mạnh lộ trình gia nhập thị trường nước ngoài. 3.2. MỘTSỐKIẾNNGHỊCỦABẢNTHÂNGÓPPHẦNHOÀNTHIỆNMÔITRƯỜNGĐẦUTƯNƯỚCNGOÀITẠI VIỆT NAM * Cải thiện chếđộ thuế thu nhập cá nhân đối với người nước ngoài: Hiện nay thuế suất thu nhập cá nhân cao nhất đối với người nước ngoài là 50% từ trước đến nay thuế suất bị phê phán từ các nhàđầu tư nước ngoài là quá cao so với các nước khác trong khu vực. Quy tắc 7/30 trong giai đoạn chuyển đổi được phát triển dụng trong một thời gian dài. Tuy nhiên trong năm 2002 quy tắc này đã bị huỷ bỏ cùng với việc chính phủ thực hiện giảm thuế thu nhập cá nhân đối với người Việt Nam. Do đó mức nộp thuế thu nhập của người nước ngoài trong doanh nghiệp cơ vốn đầu tư nước ngoài lại tăng thêm một lần nữa (Thời điểm này lao động Việt Nam được giảm thuết thu nhập. Ngoài ra còn có vấn đề thuế suất đối với lao động Việt Nam đãở mức cao hơn với người nước ngoài). Còn một vấn đề nữa ở Việt Nam không có Luật thuế thu nhập cá nhân mà chỉ có pháp lệnh có liên quan. Thuế thu nhập cá nhân chỉ chiếm 2% trong tổng giá trị thuế thu, đối tượng nộp thuế chủ yếu là lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mức thuế suất thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập vào Việt Nam có thuế suất cao hơn các nước khác trong khu vực: Việt Nam 50%; Thái Lan 37%; Malaixia 28%; Singapo 26%: Philippin 12%; Inđônêxia 35%; Trung Quốc 45%. Khác với thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân đối với người nước ngoài là chi phí cốđịnh phát sinh không liên quan đến lợi nhuận. Các doanh nghiệp cho rằng thuế thu nhập cá nhân đối với người nước ngoài hiện nay là khá cao. Thuế suất quá cao so với các nước trong khu vực là nguyên nhân làm cản trởđầu tư mới. Mặc dù tại diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam vấn đề về thu nhập thuế cá nhân trong nhiều năm liền được xếp ở vị trí cao nhất trong danh sách các nội dung đề nghị cải thiện môi trường đầu tư nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết. Cũng cóý kiến phần nào cho rằng trong thời gian gần đây một số người Việt Nam có thu nhập cao song không hề khai báo đầy đủ. Như vậy phải chăng cơ quan thuế vụ chỉ nghiêm khắc đối với người nước ngoài hay sao? Các doanh ngiệp mong muốn chính phủ giảm thuế thu nhập cá nhân và xây dựng một cơ chế bình đẳng về thuế thu nhập cá nhân. Hiện nay chính phủ Việt Nam đang xem xét đến việc sửa đổi trong hai giai đoạn. Trước hết sẽ xem xét việc sửa đổi pháp lệnh về thuế thu nhập và cá nhân đối với người nước ngoài có thu nhập cao hiện nay vàđưa vào áp dụng năm 2005. Trong đó việc thóng nhất thuế suất giữa người Việt Nam và người nước ngoài cùng với việc giảm thuế suất tối đa cũng sẽđược đề cập đến. Tiếp theo sẽ xem xét việc thiết lập và ban hành luật thuế thu cá nhân vào năm 2006. Điều đó thể hiện ý nghĩa định hướng xây dựng từng bước khung luật pháp mới của chính phủ Việt Nam với chủ trương người lao động nộp thuế tương ứng với thu nhập tiền lương trong bối cảnh xây dựng nền kinh ttế thị trường. Bên cạnh đó chếđộ khấu trừ thuế thu nhập từ tiền lương cũng sẽđược đưa vào thực hiện xuất phát từ thực tế rất khó có thể thu thuế trực tiếp từ người lao động nếu xét về khía cạnh kỷ luật. Do đó chính phủ Việt Nam cần có các biện pháp cụ thể. Giảm mức thuế suất cao nhất, sửa đổi Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao nhất trong năm 2004 và thực hiện áp dụng năm 2005. Trong áp dụng Pháp lệnh thuế sửa đổi này, thuế suất thu nhập cá nhân sẽđược giảm xuống (giảm xuống 40% tính đến việc cạnh tranh đối với Trung Quốc). Áp dụng chếđộ khấu trừ thu nhập: Chính phủ Việt Nam xây dựng thuế thu nhập cá nhân mới vào năm 2005 và thực hiện vào năm 2006. Trong luật thuế thu nhập cá nhân mới này áp dụng chếđộ khấu trừ thu nhập cá nhân phù hợp với chính sách. *Nâng cao năng lực của cơ quan thực thi. Các cơ quan thực thi của Chính phủ, các cơ quan Hải quan, Thuế vụ, Toàán, cơ quan quản lý Quyền sở hữu trí tuệ, cơ quan Thống kê, là những đơn vị hành chính quản lý trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế tư nhân vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề trong cơ chế và năng lực điều hành. Công cuộc cải thiện môi trường kinh doanh thông qua việc nâng cao năng lực của các cơ quan này gắn liền với việc cải thiện tình hình kinh doanh của nhàđầu tư và có những đóng góp to lớn trong hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Cơ quan Hải quan: Có nhiều vấn đềđược chia ra đối với tính minh bạch vàđộ tin cậy của nghiệp vụ Hải quan. Mặt khác Hải quan Việt Nam đang đứng trước yêu cầu đơn giản hoá vàđồng bộ hoá quy trình thủ tục Hải quan, chếđộđể trình trước kế hoạch nhập khẩu và kiểm dịch, thủ tục xuất nhập khẩu tại cảng biển…đã có những bước tiến đáng kể nhưng vẩn còn rất nhiều thủ tục xuất nhập khẩu rườm rà phức tạp liên quan đến nhiều cơ quan hành chính cần phải được cải tiến kịp thời. Để thúc đẩy quá trình cải thiện những vấn đề trên, cần cũng cố chức năng về mặt tổ chức của Hải Quan và nâng cao năng lực cán bộ. Bên cạnh đố việc thực hiện cải cách và kiện toàn hệ thống pháp luật trên cơ sở tham khảo. Công ước KYÔTOđãđược sửa đổi cho phù hợp với quy ước với WTO cũng rất cần thiết. Thêm vào đó nên kết hợp và rút gọn một cách phù hợp thủ tục xuất nhập khẩu rườm rà phức tạp liên quan đến những cơ quan hành chính, tiến hành đơn giản hoá thủ tục một cách toàn diện. Về cơ quan thuế vụ: Với những nỗ lực của chính phủ Việt Nam, cơ quan thuế vụđã có những bước cải thiện đáng kể. Tuy nhiên vẫn còn tồn động một số vấn đề cần cải thiện như rút ngắn thời gian làm thủ tục, rút ngắn thời gian hoàn thuế, áp dụng chặt chẽ các điều khoản pháp luật về thuế, xoá bỏ sự chồng chéo trong các quy định về thuế, xoá bỏ chếđộ kiểm tra thường xuyên đối với các doanh nghiệp, làm bản hướng dẩn chỉđạo còn chưa rõ ràng… củng cố chức năng của cơ quan thuế vụ và nâng cao năng lực cán bộ là không thể thiếu trong việc giải quyết triệt để các vấn đề trên. Toàán: Số lượng và trình độ của các chuyên gia pháp luật chưa đạt yêu cầu. Trước đó thời điểm thực hiện chính sách đổi mới, công tác giáo dục vàđào tạo về luật pháp ở Việt Nam là trì trệ nên tình trạng hiện nay làđội ngũthẩm phán và luật sư không những thiếu về số lượng mà còn về trình độ chuyên môn, có nhiều trường hợp là thẩm phán nhưng chưa được đào tạo về luật. Do tình hình trên về cơ bản độ tin cậy đối với toàán là tương đối thấp. Có nhiều doanh nghiệp bày tỏ thái độ tiêu cực đối với các vấn đềđưa các vụ việc tranh chấp ra toàđể giải quyết. Vì vậy việc nâng cao năng lực thẩm phán và củng cố chức năng của Toàán là rất cần thiết. Cơ quan chuyên trách về quyền sở hữu trí tuệ: có rất nhiều các cơ quan chính phủ liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ bao gồm Cục Sở trí tuệ trực thuộc bộ khoa học công nghệ, Cục quản lý thị trường trực thuộc Bộ Thương mại, Cục Cảnh sát kinh tế, Hải quan, cơ quan Thanh tra trực thuộc Bộ Khoa học công nghệ, Uỷ ban nhân dân các cấp… thị trường Việt Nam tràn ngập hàng nhái, hàng giả xâm phạm đến quyền sỡ hữu trí tuệ. Tình trạng hàng nhái, hàng giảđang trở thành một vấn đề nhức nhối đối với doanh nghiệp. Có nhiều ý kiến cho rằng việc không thể loại trừ hàng nhái là vấn đề nghiêm trọng nhất đối với môi trường đầu tư của việt nam. Do cán bộ của các cơ quan chuyên trách về việc phát triển vàđầu tư chống hàng giả chưa cóđầy đủ kiến thức về quyền sở hữu trí tuệ cho nên thực trạng đang tồn tại hiên nay là việc đấu tranh chống hàng nhái, hàng giả vẫn chưa được tiến hành triệt để. Mặt khác cũng cóý kiến cho rằng một đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn còn thiếu và việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa đồng bộ. Đứng trước tình trạng này, chính phủ Việt Nam cần hướng dẫn nâng cao kiến thức và trình độ chuyên môn của cán bộ, đồng thời điều chỉnh cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng, thực hiện chỉđạo các cơ quan có trách nhiệm đấu tranh chống hàng giả. Cơ quan thống kê: số liệu thống kê hay còn gọi là thống kê kinh tếđược sử dụng để phân tích đánh giá về tình hình đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên, nghành thống kê của Việt Nam còn tồn tại những vấn đề nhưđộ tin cậy về số liệu thống kê còn thấp, thu nhập và sử dụng số liệu khó khăn, thông tin thống kêít được công bố rộng rãi, quyền hạn công khai số liệu thống kêđược quy định chưa rõ ràng… Do đó nhiệm vụ cấp bách trước mắt là phải củng cố chức năng và nâng cao năng lực của các cơ quan chuyên trách và thống kê là Tổng cục thống kê. Do nhận thức được tính cần thiết trong việc hoàn thiện nghành thống kê nên Chính phủ Việt Nam trong năm 2002 đã công bố “ Định hướng củng cố nghành thống kê cho đến năm 2010”. Ngoài ra Luật Thống kê mới sẽđược thi hành từ tháng 1 năm 2004. trong Luật Thống kê mới cóđề cập đến các quy định như: sử dụng hiệu quả số liệu thống kê, áp dụng chính sách tập trung các hoạt động thống kê về Tổng cục thống kê. Do hiện nay có nhiều doanh nghiệp đặt hy vọng vào hoạt động điều tra thống kê nhanh chóng và công tác thúc đẩy quá trình sử dụng số liệu thống kê một cách hiệu quả nên cần nâng cao năng lực thống kê cho các cơ quan chuyên trách thống kê. *Tuân thủ lộ trình gia nhập thị trường. Các nhàđầu tư nước ngoài tại Việt Nam đưa ra yêu cầu với chính phủ Việt Nam cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào một lĩnh vực thuộc ngành dịch vụ như thương mại, dịch vụ vận tải lưu thông trong nước, tài chính, bảo hiểm, quảng cáo cũng như cho phép các doanh nghiệp sản xuất được nhập nhập khẩu các sản phẩm của mình. Ví dụ như quy định chi tiết về việc hướng dẫn thực hiện luật đầu tư nước ngoài xếp dịch vụ nhập khẩu và dịch vụ vận tải lưu thông trong nước vào lĩnh vực hạn chếđầu tư. Đầu tư vào lĩnh vực này cần có giấy phép của Thủ tướng Chính phủ theo từng dựán của đầu tư. Theo hướng dẫn thi hành luật đầu tư nước ngoài, dịch vụ tài chính, bảo hiểm, quảng cáo được xếp vào nhóm A và cũng được cấp giấy phép riêng sẽ theo từng dựán đầu tư. Dịch vụ viễn thông được phân loại vào lĩnh vực hạn chếđầu tư và chỉđược cấp giấy phép đầu tư dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC). Vai trò của công ty thương mại nước ngoài, các công ty có mạng lưới tiêu thụ rộng khắp phát triển trên toàn thế giới cũng rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường tại Việt Nam. Về một Marketing và hỗ trợđầu tư nước ngoài. Tuy nhiên môi trường kinh doanh của các công ty này (xuất nhập khẩu) hiện nay vẩn còn nhiều hạn chế và cần các biện pháp của nhà nước Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp mong muốn đầu tư vào các lĩnh vực dịch vụ nói trên cho nên Chính phủ Việt Nam nới lỏng hạn chếđầu tư thìđầu tư nước ngoài sẽ gia tăng nhanh chóng. Các nhàđầu tư mong muốn Chính phủ làm rõ về các điều kiện đối với trường hợp cấp giấy phép đầu tư vàđối xử công bằng đối với tất cả các nhàđầu tư. Đối vối các công ty thương mại, các công ty này hiện chỉđược thực hiện chức năng xuất nhập khẩu đối với một số mặt hàng và bằng các phương thức nhất định. Điều này hạn chế các doanh nghiệp thương mại quốc tế thực hiện các hoạt động khác của mình như Makettinh quốc tế, thương mại và du lịch FDI. Hạn chế hoạt động của các doanh nghiệp thương mạicũng chính là hạn chế xuất khẩu các sản phẩm của Việt Nam và thu hút đầu tư nước ngoài. Căn cứ vào đường lối được quy định trong Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, phương châm cơ bản của chính phủ Việt Nam về hoạt động đầu tư vào dịch vụ là sẽ từng bước nới lỏng quy chếđầu tư không chỉđối với Mỹ mà còn đối với các nước khác. Cụ thể là chính phủ Việt Nam sẽ tiến hành cấp phép thành lập các công ty liên doanh trong lĩnh vực vận tải lưu thông trong nước với số vốn đóng góp phía Mỹ không vượt quá 49% chậm nhất trong vòng 3 năm tính từ thời điểm ký kết hiệp định sau 7 năm tính từ thời điểm ký kết hiệp định sẽ cấp phép thành lập doanh nghiệp 100%vốn nước ngoài. Giấy phép nhập khẩu hoàn chỉnh thuộc sản phẩm ngành chế tạo cần thiết phải gia hạn nhưng không hạn chế về mặt thời gian. Phía Việt Nam cũng hy vọng phía các nhàđầu tư hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam trong các vấn đề và luật đầu tư mới về qui định liên quan. Hiệp định đầu tư thông qua các điều khoản liên quan đến WTO. Liên quan dến thương mại và lưu thông hàng hoá. Chính phủ chỉđịnh áp dụng các biện pháp nới lỏng quy chếđối với các doanh nghiệp ĐTNN. Tuy nhiên luật pháp hiện hành chưa có quy định cụ thể về mô hình công ty thương mại kinh doanh đa ngành nghề. Chính phủ Việt Nam nới lỏng các hạn chế có liên quan đến đầu tư vào các ngành nhập khẩu lưu thông (bao gồm việc nhập khẩu các sản phẩm hoàn chỉnh và bản trên thị trường nội địa), tín dụng, bảo hiểm, viển thông dựa trên các lộ trình đãđược quy dịnh tại các Hiệp định mà Việt Nam ký kết nhất là Hiệp định đầu tư Việt - Nhật. Chính phủ Việt Nam ngay lập tức cho phép mở rộng chức năng hoạt động của chi nhánh các công ty thương mại kinh doanh đa ngành nghề, mở rộng các chủng loại mặt hàng xuất nhập khẩu và giảm bớt các hạn chế liên quan đến hạn ngạch xuất nhập khẩu. * Xoá bỏ các quy định bất hợp lý liên quan đến Đầu tư. Nhàđầu tư nước ngoài tại việt nam mong muốn chính phủ Việt Nam bãi bỏ các quy định bất hợp lý liên quan đến đầu tư như quy định về nghĩa vụ xuất khẩu, quy định về tỷ lệ nội địa hoá bắt buộc, nguyên tắc thống nhất toàn bộ trong hội đồng quản trị công ty liên doanh, chếđộ hai giá… Theo các nhàđầu tư nước ngoài hiện nay quy định về tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc 80% đang từng bước được dỡ bỏ và chỉđược áp dụng với 14 danh mục hàng hoá (quyết định 718/2001/QĐ-BKT) chếđộ hai giá cũng đang được dỡ bỏ dần dần. Nguyên tắc thống nhất toàn bộ trong hội đồng quản trị công ty liên doanh tuy hiện nay vẫn còn hiệu lực nhưng quy định này có thểđược xoá bỏ trong luật đầu tư mới sắp được hoàn thành. Tỷ lệ xuất khẩu và tỷ lệ nội địa hoá bắt buộc đối với các giấy phép đầu tư trước đây sẽđược huỷ bỏ như là một biện pháp ưu đãi nhằm thu hút đầu tư. Khi Hiệp định mậu dịch đầu tư Việt-Nhật bắt đầu có hiệu lực thì các quy chế trên dự kiến sẽđược dỡ bỏ căn cứ vào lịch trình đãđịnh . Quy chếđầu tư về nghĩa vụ xuất khẩu và tỉ lệ nội địa hoá bắt buộc đang còn là rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp. Nguyên tắc thống nhất trong toàn bộ trong hội đồng quản trị công ty liên doanh không thấy được áp dụng trong cơ chế của các nước trong khu vực. Trong nhiều trường hợp quy định này cản trở trong hoạt động kinh doanh của công ty liên doanh. Chếđộ hai giá cũng cóảnh hưởng nhất tương tự. Nguyện vọng của nhàđầu tư là nhanh chóng dỡ bỏ các quy chế này. Về cơ bản Chính phủ sẽ xoá bỏ các quy định trên căn cứ vào phương hướng của hiệp định thương mại Việt- Mỹ. Chính phủ Việt Nam đang tích cực rà soát lại các quy định này. Chính phủ xoá bỏ các quy định về nghĩa vụ xuất khẩu và nguyên tắc nhất trí toàn bộ trong hội đồng quản trị, đồng thời loại bỏ các quy chế về tỷ lệ nội địa hoá và chếđộ hai giá dựa trên lộ trình đãđược quy định trong các Hiệp định mà Việt Nam đã ký kết với các nước và dựa vào sự phản ánh của các nhàđầu tưđầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra vấn đề còn nhiều điểm bất hợp lýở các giấy tờ, thủ tục trong cả quy trình cấp mã số thuế, mua hoáđơn và khắc dấu. Doanh nghiệp phải tiến hành các khâu này theo trình tự xong khâu này mới bắt đầu khâu khác. Ví dụ phải có con dấu mới được kê khai mã số thuế, có mã số thuế mới làm thủ tục mua hoáđơn. Tờ khai mã số thuế có tới 26 nội dung với nhiều chi tiết trùng lặp, như kê khai đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc, đơn vị chủ quản, chủ doanh nghiệp, giám đốc…trong khi đó, danh sách thành viên góp vốn đã có trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nộp trong bộ hồ sơ xin mã số thuế. Còn đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, theo quy định của pháp luật chỉ có giám đốc hoặc chủ tịch Hội đồng quản trị mới là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, thì việc kê khai người góp vốn cao nhất là không cần thiết, chưa kể công ty có rất nhiều thành viên góp vốn bằng nhau thì kê khai như thế nào? Sự bất hợp lý có thể nhìn thấy ngay trên văn bản. Đó là quy định thời gian để cơ sở mới thành lập, đăng ký nộp thuế chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nhưng tờ khai đăng ký thuế lại phải cóđóng dấu, song để có dấu doanh nghiệp phải xin phép và chờ cấp giấy phép thêm 7 ngày nữa. Vậy làm sao doanh nghiệp có thểđáp ứng thời hạn trên. Để xoá những thủ tục rườm rà không cần thiết như hoàn tất thủ tục pháp lý cho kinh doanh phải mất hai tháng, rườm rà phiền toái trong thủ tục cấp mã số thuế, thủ tục mua hoáđơn, tạo môi trường thông thoáng cho nhàđầu tư, báo cáo khảo sát của Hiệp hội công thương đãđưa ra kiến nghị rằng Nhà nước nên nghiên cứu ban hành quy định mỗi doanh nghiệp chỉ có một mã số duy nhất là mã số thuếđồng thời là mã sốđăng ký kinh doanh và mã số hải quan mà doanh nghiệp có thể sử dụng trong mọi trường hợp giao dịch cần thiết, giống như số chứng minh nhân dân của mỗi người dân.Việc thống nhất này có thểđơn giản hoá quy trình hoàn tất các thủ tục pháp lýđể doanh nghiệp nhanh chóng khởi động kinh doanh. Cụ thể là ngay sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp có quyền xuất trình giấy này yêu cầu cơ sở khắc cho đơn vị mình. Cùng lúc, doanh nghiệp có thể dến cơ quan thuế làm tờ khai đăng ký mã số thuế mà không nhất thiết phải cóđóng dấu. Người đến lấy mã số thuế mang theo giấy giới thiệu cóđóng dấu của doanh nghiệp để cơ quan thuế lưu vào hồ sơ, trong khi chờ cấp mã số thuế doanh nghiệp có thể xuất trình chứng nhận đăng ký kinh doanh và phiếu nhận hồ sơ làm mã số thuếđến Chi cục thuếđể xin mua hoáđơn. Theo cách này hoàn toàn có thể rút ngắn được một nửa thời gian hoàn tất thủ tục pháp lýđể khởi động kinh doanh so với quy trình hiện nay. Vấn đề chỉ là năng lực vàý muốn chủ quan, sự hợp tác giữa các cơ quan Đăng ký kinh doanh, Công an và Tài chính./. KẾTLUẬN Luật đầu tư nước ngoài từ khi ra đời 1987 đến nay đã trải qua nhiều lần sửa đổi bổ sung 1990,1992,1996 và gần đây nhất là năm 2000 theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn tạo môt trường hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhàđầu tưđầu tư ngày càng nhiều vào Việt Nam mang lại cho nền kinh tế nước nhà sựđổi mới và phát triển. Thực tếđã chứng minh rằng mở cửa nền kinh tế và phát triển đầu tư nước ngoài là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và xu thế quốc tế hoá - toàn cầu hoá của toàn thế giới. Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của toàn nhân loại, hội nhập kinh tế quốc tế làđộng lực thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển toàn diện của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Sự phát triển kinh tế cùng với sự phát triển của văn hoá - xã hội…tạo nên một đất nước phát triển toàn diện, và nó sẽ phát triển hơn nữa nếu có môi trường đầu tư thông thoáng thu hút nhiều đầu tư nước ngoài, đúc rút nhiều kinh nghiệm từ các nước khác nhau trên thế giới. Do vậy, phát triển kinh tế khu vực có yếu tố nước ngoài là trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta và nhiều nước trên thế giới. Nhận thức được tầm quan trọng đó môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không ngừng được cải thiện ngày một thông thoáng hơn, hấp dẫn hơn. Đó là một sự nỗ lực rất lớn của Việt Nam mà không ai có thể phủ nhận được trên con đường hội nhập vàđổi mới. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư nước ngoài sau hơn 15 năm thực hiện vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định cần được khắc phục kịp thời nhất là khi xu hướng hội nhập kinh tế quốc tếđang diễn ra hết sức sôi động và phức tạp. Như vậy, vấn đề cốt lõi bây giờ không phải làđánh giá vai trò của đầu tư nước ngoài, mà là tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện luật đầu tư nước ngoài và các nghành luật khác liên quan. Đồng thời có những biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả trên thực tế những quy định pháp luật đó… Có như vậy Việt Nam mới có thể thành công trong hoạt động đầu tư nước ngoài và xem nó như là một chiến lược trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do những hạn chế về khả năng và trình độ hiểu biết, lại tiếp cận với đề tài rộng, lượng thông tin tương đối lớn tôi sẽ không hoàn thành một cách thuận lợi Luận văn của mình nếu không có sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo trường Đại học Luật Hà Nội, thầy cô giáo Khoa pháp luật Quốc Tế, của gia đình và bạn bè màđặc bịêt là sự hướng dẫn nhiệt tình và sự cung cấp những thông tin quý báu mà Thầy giáo – Tiến sỹ Phạm Sỹ Chung Vụ phó VụĐầu Tư Bộ Thương Mại đã dành cho tôi. Mặc dù luận văn này đãđược hoàn thành song không thể tránh khỏi những sai sót và hạn chế. Vì vậy, tôi mong được sựđóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên để nâng cao nhận thức và tiếp tục hoàn thiện đề tài này khi cóđiều kiện. DANHMỤCNHỮNGTỪVIẾTTẮT Luật Đầu tư nước ngoài LĐTNN Đầu tư nước ngoài ĐTNN Công nghiệp hoá-hiện đại hoá CNH-HĐH Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Khu công nghiệp KCN Khu chế xuất KCX Doanh nghiệp DN Doanh nghiệp liên doanh DNLD MỤCLỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxKDQT08.docx
Tài liệu liên quan