Luận văn Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan tại công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội (TOCONTAP)

Tóm lại, chương ba đề cập tới những kết quả nghiên cứu thị trường mây tre đan quốc tế theo khu vực địa lí và theo lãnh thổ các quốc gia, trên cơ sở thị trường hiện có của công ty và kết quả nghiên cứu thị trường quốc tế đưa ra được những định hướng xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan trên các phương diện như: Mục tiêu xuất khẩu mây tre đan, định hướng thị trường xuất khẩu, định hướng sản phẩm xuất khẩu và định hướng về nguồn nhân lực. Để đạt được mục tiêu xuất khẩu đề ra đối với nhóm hàng mây tre đan, đồng thời khắc phục được các tồn tại trong hoạt động xuất khẩu, trên cơ sở các nguyên nhân của tồn tại đã đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan của công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội dưới hai góc độ: Giải pháp từ phía doanh nghiệp và những kiến nghị đối với Nhà Nước. Những giải pháp và kiến nghị trên đều xuất phát từ sự phân tích khoa học thực trạng xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan của công ty và tham khảo các biện pháp đã áp dụng thành công của một số nước trên thế giới

doc144 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1325 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan tại công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội (TOCONTAP), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thống nhất, Ixraen... Nhưng thị trường này cũng cần được nghiên cứu kỹ cả về tập quán, thị hiếu và phương thức kinh doanh. II . Định hướng xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan của công ty TOCONTAP. 1 . Mục tiêu xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan của Công ty. Mục tiêu tổng quát, chiến lược ổn định và phát triển kinh doanh từ nay tới năm 2008 của TOCONTAP là phấn đấu vượt qua những khó khăn giải quyết nhanh gọn những vướng mắc, cải thiện đời sống CBCNV, tạo điều kiện đưa Công ty phát triển nhanh hơn vào những năm sau. Tổng kim ngạch XNK của Công ty đến năm 2008 sẽ đạt và vượt mức tổng kim ngạch XNK thời kỳ hoàng kim Công ty( những năm cuối thập kỷ 80 TOCONTAP đạt gần 80 triệu USD). Tốc độ tăng trưởng bình quân từ năm 2003 đến năm 2008 là 20%, tổng doanh thu bình quân từ năm 2003 đến 2008 đạt 800 tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước 110 tỷ đồng. Về chủ trương: Ưu tiên khuyến khích đẩy mạnh XK, hạn chế NK những mặt hàng không thực sự cần thiết, khôi phục và phát huy thế mạnh của những mặt hàng truyền thống đặc biệt là nhóm hàng mây tre đan. Để phấn đấu đạt được mục tiêu trên, Công ty phải không ngừng đẩy mạnh XK, NK, ưu tiên XK hàng mây tre đan mặt hàng chủ lực của Công ty. 2. Định hướng thị trường xuất khẩu mây tre đan của Công ty. Tìm mọi biện pháp duy trì những thị trường hiện có, ưu tiên XK vào một số nước như: Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Nga, Canada củng cố phát triển thị trường mới nhất là các thị trường EU, thị trường Mỹ, thị trường Châu á - những thị trường tiềm năng của Công ty, tiến tới mở rộng ra thị trường Châu Phi nơi mà hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam rất được ưa chuộng. Làm được việc này công ty phải cố gắng mở các phòng đại diên ở nước ngoài, phòng trưng bầy sản phẩm. Phát huy kinh nghiệm để XK, đặc biệt chú trọng liên doanh liên kết để XK, phát triển hình thức hàng gửi bán cả trong và ngoài nước. 3. Định hướng về sản phẩm mây tre đan xuất khẩu của Công ty. Công ty vẫn tiếp tục duy trì một cơ cấu mặt hàng phong phú đa dạng nhưng phải chủ động xây dựng những mặt hàng chủ lực XK lâu dài, có những đổi mới hợp lý về sản phẩm nhằm đáp ứng được đòi hỏi của thị trường trong nước, kịp thời nắm bắt thông tin về nguồn hàng, về giá cả... Đánh giá được chất lượng hàng, cũng như uy tín, hiện trạng của các doanh nghiệp trong nước sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, khả năng đổi mới công nghệ để có thể cung ứng được những mặt hàng mới, đa dạng về mẫu mã, tốt về chất lượng, hợp lý về giá trị, giá cả. 4. Định hướng về phát triển nguồn nhân lực của Công ty. Đây là một định hướng rất quan trọng trong chiến lược phát triển của Công ty. Là một công ty có thâm niên trong lĩnh vực XK, đã từng trải qua bao biến cố lịch sử, hơn ai hết Công ty hiểu rõ tầm quan trọng của nhân tố con người trong sự thành bại của mình. Công ty đã từng có những thế hệ cán bộ giỏi, nhiệt tình với công việc. Trong số ấy hiện nay vẫn còn có những người gắn bó với công ty, nhưng cũng không ít người đã ra đi. Để bổ sung cho sự thiếu hụt ấy, Công ty phải không ngừng tìm kiếm, thay thế một thế hệ cán bộ mới, được đào tạo toàn diện trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là kinh doanh quốc tế, có lòng say mê với công việc có trách nhiệm và bản lĩnh. Trong những năm gần đây Công ty đã tuyển dụng được đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp trong lĩnh vực kinh tế, họ là những người trẻ tuổi, tháo vát và làm việc với tinh thần trách nhiệm cao. Hiện nay ở phòng XNK số 8, phòng có thành tích cao nhất, đóng góp được nhiều nhất cho công ty với kim ngạch XK vượt mức kế kế hoạch đặt ra, có tới một nửa số cán bộ là dưới 30 tuổi. Trong giai đoạn tới. Công ty vẫn tiếp tục chú ý vào việc đào tạo nguồn nhân lực, cụ thể trong phương hướng hoạt động của giai đoạn 2003 – 2008 là phải đào tạo, tuyển dụng được cán bộ đạt tiêu chuẩn cụ thể sau. Am hiểu sâu sắc về tình hình thị trường trong và ngoài nước. Có kiến thức về kinh doanh Quốc tế, luật pháp quốc gia và quốc tế, tập quán buôn bán. Giỏi nhiều ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, vi tính. Biến cách đàm phán, thương thuyết, có tinh thần hợp tác.... Như vậy phương hướng mục tiêu là quan trọng, nhưng yếu tố có tính quyết định thành công lại là chính sách, biện pháp và việc tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách biện pháp được đề ra. III . Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan của công ty TOCOTAP. A / Giải pháp từ phía doanh nghiệp. 1. Nâng cao khả năng chuyên sâu sản xuất, xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan của công ty TOCONTAP. Để khắc phục tình trạng công ty chỉ chuyên doanh XNK nên hạn chế việc sản xuất và hiểu biết sâu về sản phẩm, Công ty cần chuyên môn hoá, chuyên sâu, giao các mặt hàng, ngành hàng cho từng phòng cụ thể. Các phòng được chuyên môn hoá theo mặt hàng, nguồn hàng và được điều hành bằng một bộ phận thống nhất, điều hoà hoạt động chung cho các phòng. Bên cạnh đó Công ty cần phải tự cấp vốn cho các phòng kinh doanh để trong những trường hợp bảo đảm thu hồi được vốn sẽ áp dụng cả hình thức bán chịu cho khách hàng. 2. Xác định đúng đắn chính sách sản phẩm. Trước hết Công ty phải dựa trên kết quả nghiên cứu thị trường, phân tích vòng đời, giá cả của sản phẩm, tình hình cạnh tranh giữa các đối thủ trên thị trường nước ngoài, từ đó đề ra một chính sách sản phẩm đúng đắn, chính xác và thích hợp. Một chính sách sản phẩm đúng đắn khi nó giúp Công ty thu mua và XK những sản phẩm có chất lượng, số lượng, mức giá được thị trường chấp nhận, có sự tiêu thụ chắc chắn, đảm bảo cho công ty có lợi nhuận tối đa, mở rộng được thị trường XK, qua đó nâng cao uy tín sản phẩm của Công ty trên thương trường. Một số biện pháp cần áp dụng cho một chính sách sản phẩm đúng đắn. + Không ngừng thay đổi đề tài, mẫu mã của mặt hàng sao cho phục vụ được các yêu cầu đa dạng của khách hàng, kéo dài tối đa vòng đời sản phẩm nếu có thể, sự thay đổi mẫu mã không chỉ là sự đổi mới sản phẩm toàn diện, đôi khi chỉ là cải tiến nhỏ ở một số đường nét, mầu sắc, hoa văn là có thể tạo ra một sản phẩm mới, từ đó tạo nên sự kích thích đối với khách hàng. So với những công ty XK mây tre đan của một số nước khác, khả năng cải tiến mẫu mã sản phẩm của Công ty TOCONTAP có phần chậm hơn, đồng thời điều kiện vệ sinh còn yếu kém. Do vậy những mẫu mã mới phải được nghiên cứu thiết kế dựa vào kết quả nghiên cứu thị trường sao cho phù hợp với thị hiếu, sở thích của khách hàng ở từng khu vực. Chẳng hạn khách hàng Tây Bắc Âu thích những sản phẩm cao cấp, kiểu dáng đơn giản, nhẹ nhàng nhưng đòi hỏi nguyên liệu cao cấp, quy trình sản xuất có hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao. Khách hàng Đông Âu và các nước SNG thích những sản phẩm giá rẻ, khách hàng Châu á đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc mua hàng rất kỹ tính, ưa thích những sản phẩm tinh xảo, mức độ khéo léo cao. Khách hàng Châu Mỹ tiêu dùng các loại sản phẩm từ cao cấp ,trung bình tới rẻ tiền. Để có thể thiết kế nhiều loại mẫu mã, chủng loại phù hợp với sở thích khách hàng, Công ty nên đặc biệt quan tâm tới chế độ đãi ngộ tốt quyền lợi của người sáng tạo mẫu mã hàng hoá mới. Hàng năm trước mùa đàm phán và ký kết hợp đồng Công ty nên có một vài ưu đãi công khai, ngoài ra có thể ưu tiên cho những cơ sở nào có nhiều mẫu đạt chất lượng, được nhiều khách hàng lựa chọn. Công ty tạo điều kiện cử đại diện của cơ sở sản xuất đi thăm quan nước ngoài, tự mở mang tầm hiểu biết về văn hoá, về thị hiếu của người tiêu dùng, từ đó có những sáng tạo phù hợp. Công ty cần chú trọng phát triển những loại sản phẩm vừa đáp ứng được thị hiếu của khách hàng từng khu vực vừa đáp ứng yêu cầu thuộc nhiều tầng lớp khác nhau như: + Những sản phẩm bình dân: Dùng các nguyên liệu rẻ tiền chế biến thành những sản phẩm thông dụng như đệm cói, mành tre, hàng đan bằng nứa... + Những sản phẩm cao cấp: dùng nguyên liệu khá tốt, chế biến thành các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, hoặc được làm khá cẩn thận, tinh xảo, khéo léo như bàn ghế, đồ dùng gia đình bằng gỗ, bằng song mây, cần câu trúc, tăm hương,.. + Những sản phẩm phục vụ cho khách hàng có nhu cầu cá biệt , sản xuất và XK theo đơn đặt hàng riêng, thường là những sản phẩm đặc biệt cao cấp. Công ty phải luôn thay đổi cơ cấu sản phẩm theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng cao cấp và kỹ thuật, giảm hàng bình dân và hàng thô. Song song với việc cải tiến mẫu mã và hình thức sản phẩm thì chất lượng hàng hoá mang tính quyết định chữ tín của nhà kinh doanh. Chất lượng hàng hoá thể hiện ở độ chắc, độ bền, sự tinh tế, khéo léo, tính mỹ thuật của sản phẩm. Chất lượng hàng mây tre đan Việt Nam hiện nay còn đang bị hạn chế do việc tổ chức sản xuất, chế biến XK phân tán nhiều đầu mối, doanh nghiệp trong nước cạnh tranh trên thị trường nước ngoài, thiếu quy định cụ thể về chất lượng, người sản xuất không theo một tiêu chuẩn thống nhất. Trong ngành mây tre đan Việt Nam, có những năm bồi thường thực tế cho khách hàng 85 – 90% giá trị hợp đồng, trước tình hình sa sút về chất lượng chung của toàn ngành, Công ty nên có một cơ chế kiểm tra, chọn mẫu thật chặt chẽ đối với các cơ sở sản xuất chế biến hay các đầu mối thu gom sản phẩm. Công ty có thể cử cán bộ kỹ thuật của mình xuống các cơ sở sản xuất để kiểm tra, giám sát ngay từ khâu xử lý nguyên vật liệu. Việc xử lý nguyên vật liệu tốt là yếu tố quyết định sự thành công của vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm. Các công đoạn xử lý như :ngâm nguyên vật liệu, sấy khô, xử lý hoá chất, cần phải chuẩn bị và thực hiện một cách cẩn thận, chu đáo, đầy đủ các khâu, các công đoạn, quá trình, xử lý càng kỹ sự biến chất càng giảm. Khi tiến hành thu mua hàng hoá phải có sự lựa chọn, phải có hàng mẫu, có tiêu chuẩn tốt làm đối tượng so sánh, kiên quyết loại bỏ những mặt hàng, những sản phẩm không đủ tiêu chuẩn XK từ đó tăng ý thức trách nhiệm đối với người sản xuất. Công ty cũng cần đầu tư cho cơ sở sản xuất chế biến những công nghệ mới, nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, mà không mất đi tính độc đáo của nó. Công ty cũng nên quan tâm tới ISO 9002 ( hệ thống tiêu chuẩn quốc tế) trong đó bao gồm những quy định quốc tế đối với chất lượng hàng hoá XNK, hệ thống đảm bảo nhằm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Làm được như vậy sẽ giúp công ty chủ động trong công tác thu mua hàng xuất khẩu, có những mặt hàng mới, phong phú về chủng loại, tốt về chất lượng, chíng xác về giá cả, đáp ứng được các loại nhu cầu trên thị trường từ bình dân đến cao cấp và đáp ứng được thị hiếu của khách hàng theo từng khu vực địa lí, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh, lôi kéo khách hàng về với công ty và khám phá, đáp ứng được những nhu cầu mới Xác lập chính sách giá cả hợp lý. Giá cả của sản phẩm không chỉ là phương tiện tính toán mà còn là một công cụ để cạnh tranh và bán hàng. Chính vì vậy, giá là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến lượng hàng XK ra thị trường nước ngoài của Công ty. Tuỳ theo mức độ biến động các yếu tố cấu thành giá và quan hệ cung cầu mức giá luôn được điều chỉnh cho từng thời điểm. Giá cả hàng mây tre đan XK của Công Ty cũng như các Công ty Việt Nam vào loại thấp trên thị tường thế giới. Giá sản phẩm cùng tên của Việt Nam chỉ bằng 1/ 2 – 1/ 4 giá sản phẩm của các nước khác như :Thái Lan, Malaixia, Hồng Công...Nguyên nhân cơ bản là do chế độ đãi ngộ sử dụng các nghệ nhân, hoạ sĩ, thợ thủ công, và người lao động sản xuất chưa thoả đáng nên mẫu mã ít thay đổi, tính nghệ thuật thấp, mức độ khéo léo, tinh xảo còn hạn chế dẫn đến sản phẩm chất lượng thấp chưa đáp ứng được sở thích của người tiêu dùng do đó giá rẻ. Mặt khác các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh trong lĩnh vực này đều rất yếu về khâu tiếp thị, khó tìm được một phạm vi tiêu thụ như ở các nước cùng XK trong khu vực. Ngoài ra còn có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty Việt Nam với nhau chủ yếu bằng công cụ giá, làm tổn hại lợi ích của chính bản thân doanh nghiệp và lợi ích quốc gia. Do vậy đối với mỗi sản phẩm, đối với mỗi thị trường công ty phải có mức giá riêng và chính xác, có thể cao hơn hoặc thấp hơn đối với mỗi vị trí của sản phẩm và từng thời điểm cụ thể, hạn chế và tiết kiệm cả chi phí khác nếu có thể để công ty có được mức giá thấp nhất. Tuy nhiên giá bán trên thị trương nước ngoài, đặc biệt các thị trường có thu nhập cao, chiến lược giá thấp hơn đối thủ cạnh tranh chưa hẳn đã có lợi. Do đó cần phải phân tích, lựa chọn thật kỹ khi đặt giá. Mặt khác, doanh nghiệp có thể trực tiếp hoặc thông qua cơ quan thương vụ để hợp tác hoặc thuê Việt kiều ở nước sở tại, mời hoặc thuê chuyên gia của khách mua hàng, thiết kế mẫu mã phù hợp với sở thích, thị hiếu của từng nơi, từng thời điểm, đây là cách làm vừa qua của một số doanh nghiệp đã gặt hái được kết quả khả quan tại các thị trường Đức, Đan Mạch, Thuỵ Điển... 4. Tăng cường hơn nữa công tác thâm nhập và phát triển thị trường của Công ty. Công ty phải chủ động trong công tác xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường.Trong thực tiễn kinh doanh, muốn mang lại thắng lợi thì tự bản thân doanh nghiệp phải chủ động, việc này không phải dễ thực hiện, vì chỉ một số ít doanh nghiệp lớn, còn đa số doanh nghiệp kinh doanh mặt mây tre đan - thủ công mỹ nghệ đều là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, năng lực tài chính rất hạn hẹp, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ còn hạn chế. Do vậy, khả năng tự vươn ra thị trường thế giới không phải là dễ dàng. Nhưng như vậy, không có nghĩa là cứ phó mặc công việc này cho các cơ quan Nhà nước. Muốn làm tốt công việc xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, thì bản thân doanh nghiệp cũng phải dám bỏ ra một khoản chi phí để tổ chức các đoàn của doanh nghiệp đi điều tra, khảo sát nhu câù thị hiếu của người tiêu dùng, gặp gỡ, giao lưu với khách hàng, tham gia các hội trợ triển lãm quốc tế + Thâm nhập và phát triển thị trường XK. Trong mất năm trở lại đây, tình hình thị trường khá khả quan, sản phẩm của Công ty đã có mặt ở khắp các khu vực trên thế giới. Tuy nhiên ở các thị trường này, Công ty mới chỉ chiếm một phần nhỏ bé, thị trường có triển vọng chưa được quan tâm khai thác, lượng XK vào từng khu vực còn quá ít so với các nước cùng XK mặt hàng của Công ty. Bởi vậy Công ty cần tổ chức nghiên cứu thị trường để có thể nắm bắt được nhu cầu, nắm bắt được đặc điểm, cơ cấu từng thị trường, từ đó xác định đúng đắn chính sách sản phẩm, xu hướng giá cả mặt hàng XK một cách phù hợp nhất, điều này có ảnh hưởng quan trọng tới việc thu mua hàng hoá, đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng. Hiện nay thị trường nước ngoài của công ty không ổn định, Công ty cần phải có định hướng đối với từng thị trường, từng khu vực khách hàng, coi trọng các thị trường lớn và quen thuộc. Cụ thể là: * Thị trường Đông Âu và Liên Xô (cũ). Mặc dù thị trường Đông Âu có nhiều biến động, kim ngạch XNK của Công ty sang những nước này không cao như trước, nhưng vẫn là thị trường lớn, thị trường truyền thống trọng điểm của Công ty. Tại thị trường này đối với mặt hàng mây tre đan được XK chủ yếu sang Ba Lan, Nga,...Trong những năm tới, Công ty cần mở rộng tới nhiều nước khác trong khu vực. XK sản phẩm mây tre đan nói riêng và các sản phẩm của Công ty nói chung sang thị trường Đông Âu có nhiều thuận lợi. Trước hết đây là có những bạn hàng quen thuộc với thị trường Việt Nam, đã có sự tin tưởng và hiểu biết lẫn nhau trong nhiều năm. Vì vậy Công ty có thể biết được khá chính xác và đầy đủ về thị hiếu, tập quán , thói quen tiêu dùng của thị trường này, đồng thời đây là thị trường NK mây tre đan dễ tính, thị trường không đòi hỏi chất lượng cao, đó là điều kiện để công ty có thể đáp ứng tốt nhu cầu của họ. Chính đặc điểm tiêu dùng trên và sự ổn định về kinh tế, chính trị của các nước này cho thấy. Trước mắt công ty chỉ nên tập trung XK những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của tầng lớp thu nhập khá, trung bình và thấp bằng cách: + Mở các cửa hàng chuyên bán đồ mây tre và hàng hoá Việt Nam cho cộng đồng người Việt Nam định cư trên đất nước này. Tập trung thành thành khối lượng lớn để giảm giá thành, những cửa hàng này cần đặt dưới sự bảo trợ của Bộ thương mại để các công ty, các nhà sản xuất trong nước yên tâm thiết lập quan hệ đại lý, gửi bán hàng, thu tiền sau cùng với các hình thức mua hàng khác. Kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với mọi lô hàng XK, kể cả những lô hàng XK phi mậu dịch, thống nhất bao bì nhãn mác, kích cỡ màu sắc để đảm bảo chất lượng trên mức trung bình và ổn định chất lượng này. + Bảo lãnh tín dụng XK: Nói chung do uy tín, tín dụng của các ngân hàng các nước trong khu vực này còn thấp, các ngân hàng Việt Nam đang ở trong tình trạng khó khăn nên không dám mở rộng tín dụng sang thị trường này. Trong khi đó nếu không chấp nhận bán hàng trả chậm thì cơ hội thâm nhập thị trường sẽ giảm đi nhiều. Bởi vậy công ty nên thiết lập giao dịch với các tập đoàn bảo lãnh tín dụng, bảo hiểm XK lớn, trên thế giới, hoặc ở Việt Nam đang kinh doanh các hình thức bảo hiểm đặc thù này. * Thị trường Châu á. Châu á là thị trường quy mô tương đương với thị trường các nước Đông Âu. Hiện nay ở Châu á, TOCONTAP quan hệ chủ yếu với Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc...Việc củng cố và mở rộng thị trường XK ở thị trường này có những thuận lợi sau: +Về nhu cầu sử dụng mây tre mỹ nghệ trên thị trường Châu á là rất lớn ( đặc biệt là Nhật Bản) đây là những nhu cầu bền vững. Họ có thói quen tiêu dùng mặt hàng này từ lâu đời vì theo phong tục của họ, tre trúc là biểu hiện của sự bình yên và cao quý. Công ty cần tận dụng điều này để mở rộng thị phần của mình ở Hàn Quốc và Nhật Bản. Việt Nam và các nước trên gần nhau về mặt địa lí ,đồng thời cũng có những nét tương đồng về văn hoá bản sắc dân tộc, thị hiếu. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hông Kông, Singapore là những quốc gia có nền kinh tế phát triển mạnh, thu nhập bình quân đầu người khá cao, khả năng thanh toán tốt nên thuận lợi cho việc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên thị trường này đòi hỏi mặt hàng mây tre phải có trình độ mỹ thuật cao, chất lượng và mẫu mã đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đây là những khách hàng khó tính nên Công ty nên chuẩn bị tốt chủng loại hàng hoá có chất lượng cao. Hơn nữa, Châu á là một thị trường lớn, đầy triển vọng, công ty có thể tập trung nguồn lực và tài chính đầu tư vào thị trường này. Mục tiêu đề ra là tỷ trọng trên thị trường Châu á phải đạt trên 60% và không ngừng được củng cố mở rộng. * Thị trường Tây Âu (EU). Đến nay TOCONTAP đã có mối quan hệ với một vài nước ở thị trường này như Tây Ban Nha, Đức, Đan Mạch, Anh, Hà Lan, Pháp ... Nhu cầu hàng mây tre đan, gốm sứ ... ở đây là lớn và hàng năm đều tăng mạnh. Mỗi năm Tây Ban Nha NK khoảng 2 tỷ USD hàng mây tre đan, Hà Lan nhập khoảng 1 tỷ USD, Italia, Pháp nhập khoảng 1 tỷ USD... các nước Đức, Thuỵ Điển NK khoảng 0,5 tỷ, Anh, Đan Mạch, Bồ Đào Nha cũng NK với khối lượng lớn.. Kinh doanh trên thị trường này có những thuận lợi sau: + Người tiêu dùng khu vực này ưa chuộng các sản phẩm đơn giản, nhẹ nhàng tiện lợi, không cầu kỳ nên dễ sản xuất. +Thu nhập bình quân đầu người cao, khả năng chi trả tốt nên thuận lợi trong việc thanh toán. Nhưng cũng có những khó khăn sau: Yêu cầu sản phẩm nhẹ nhàng song phải đẹp, tinh tế chất lượng cao. Do điều kiện về khí hậu khác với nước ta, việc bảo quản hàng hoá gặp khó khăn, khoảng cách địa lý từ nước ta tới các nước Tây Âu khá xa nên cước phí vận chuyển cao, thời gian vận chuyển dài. Bởi vậy việc nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, bảo quản tốt trong điều kiện mới là đòi hỏi không thể thiếu đối với công ty khi thâm nhập vào thị trường này. * Thị trường Châu Mỹ. Thị trường này chiếm khoảng 15% tổng kim ngạch NK hàng mây tre đan trên thế giới, trong đó chủ yếu là Mỹ, Canada, và Chi lê. Hàng năm 3 nước này NK khoảng 3,5 tỷ USD cho riêng mặt hàng mây tre đan và tăng đều đặn hàng năm từ 8% - 12%. Hiện nay Chi lê đang nhập khẩu một số mặt hàng của Công ty với khối lượng lớn, do đó công ty luôn phải duy trì và phát triển mối quan hệ này, đồng thời thông qua đó làm cơ sở cho việc thâm nhập vào các thị trường nước còn lại và mở rộng sang Nam Mỹ như Braxin… + Đối với Mỹ, là một nước có nhu cầo tiềm năng lớn. Khối lượng NK hàng mây tre đan khoảng 2 tỷ USD/ năm. Đồng thời Mỹ là một siêu cường quốc kinh tế, nền kinh tế hùng mạnh, uy thế chính trị lớn, có thể gây sức ép nhiều mặt với nhiều nước, mức sống của người dân Mỹ cao, khả năng chi trả tốt. Nhưng thị trường này có đặc điểm yêu cầu không khắt khe như Châu Âu. Người Mỹ tiêu dùng hàng mây tre ở mọi cấp chất lượng, từ cao đến trung bình, thậm chí là hàng rẻ tiền, điều đó nó sẽ rất thuận lợi cho Công ty thâm nhập vào thị trường này. Tuy nhiên hiện nay mức XK của Công ty vào thị trường Mỹ chưa nhiều, một mặt là do mây tre đan không phải là hàng hoá nằm trong nhóm hàng trao đổi chính thức của Mỹ, không phải là hàng thiết yếu nên không được NK dễ dàng, làm hạn chế khả năng XK của Công ty. Khi XK sang thị trường Mỹ, hàng hoá của Công ty phải cạnh tranh với nhiều nhà XK sừng sỏ, được Mỹ ưu tiên hơn Việt Nam như :Đài Loan, Malaixia, Indonexia...các nước này rất thành công trên thị trường Mỹ. Trước mắt, công ty duy trì và tận dụng triệt để mối quan hệ đã có, từng bước tìm hiểu nhu cầu thị trường, cải tiến phương thức kinh doanh, gây sự chú ý để lôi kéo khách hàng về công ty bằng các biện pháp cạnh tranh. + Ngoài các thị trường triển vọng trên còn có các thị trường khác mà Công ty phải lưu ý đến khi có đủ điều kiện như :thị trường Châu úc , Châu Phi. + Như vậy để mở rộng XK sang thị trường trên Công ty sẽ có nhiều việc cần làm cụ thể là: áp dụng tích cực các biện pháp để duy trì và bảo vệ khu vực thị trường truyền thống, đặc biệt là các khách hàng lớn. Nghiên cứu để hình thành các thoả ước chung với khách hàng thường xuyên trên cơ sở đảm bảo sự có lợi cho 2 bên Xây dựng mối quan hệ tốt với các cơ quan chuyên ngành có chức năng, các văn phòng đại diện ở nước ngoài, ở Việt Nam để tìm kiếm khách hàng, tạo dựng các mối quan hệ bằng cách có thể gửi thư , điện, thiệp chúc mừng trong các dịp đặc biệt, gửi hàng mẫu là quà biếu, quà tặng. Cử cán bộ trực tiếp ra nước ngoài tìm hiểu thị trường, nghiên cứu, tìm hiểu tình hình cung cầu và sự biến động của nó với các yếu tố ảnh hưởng, liên quan đến thị trương đó. Khuyến khích mọi người trong công ty phát huy tính năng động, nhanh nhậy trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường, phải có sự đãi ngộ xứng đáng cho cán bộ làm việc tích cực và có hiệu quả trong công tác này. Trong sự nỗ lực đó thì công ty cần phải tạo vốn cho hoạt động duy trì và phát triển thị trường XK. Tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Đối với công ty, vốn đang là vấn đề nan giải, việc huy động vốn cho sản xuất kinh doanh là rất khó khăn, thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển, thiếu vốn sẽ bỏ lỡ các cơ hội ký kết và thực hiện hợp đồng XK. Trong cơ chế mới ngày nay, công ty không thể trông chờ vào sự cấp phát và bao cấp vốn của Nhà nước, không còn cách nào khác quan trọng hơn là việc sử dụng vốn thật có hiệu quả. Đối với TOCONTAP do không tự sản xuất mặt hàng mây tre đan nên không áp dụng được nhiều hình thức nhận vốn từ liên doanh hay liên kết sản xuất. Hình thức vay lãi chỉ có thể là phương pháp tạo vốn tốt trong trường hợp các biện pháp hoàn thiện marketing- Mix thành công với yêu cầu của thị trường trước thời hạn vay nợ. Trong thời gian qua Công ty đã thực hiện tốt phương châm “lấy nhập bù xuất, lấy xuất bù nhập” lợi nhuận từ hoạt động NK luôn đạt tỷ suất cao, tỷ trọng lớn, hàng năm khoản lợi nhuận này được trích ra một phần dùng vào việc nghiên cứu thị rường, thực hiện chiến lược Marketing hỗn hợp nhằm đẩy mạnh tốc độ XK mây tre đan, mở rộng thị trường. Ngoài các biện pháp tạo vốn trên Công ty đã và đang khai thác được một nguồn vốn khác có giá trị từ việc cho thuê cửa hàng. Công ty cần có biện pháp hữu hiệu để cho mọi cá nhân trong công ty thực hiện nguyên tắc quay vòng vốn nhanh nhất, thu hồi vốn nhanh, tránh sự tồn đọng nguồn vốn hoặc ứ đọng công nợ. Từ tất cả các nguồn vốn được huy động đều có tác dụng lớn đối với việc duy trì, mở rộng thị trường XK, vấn đề đặt ra ở đây là sử dụng vốn như thế nào để có hiệu quả nhất...Làm được như vậy, một mặt củng cố và khôi phục được thị trường truyền thống, mặt khác sẽ mở rộng được thị trường mới, thị trường tiềm năng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sản phẩm của công ty sẽ có chất lượng tốt hơn, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, cũng bằng các biện pháp này công ty có thể nâng cao uy tín của mình trên thương trường, quảng bá được thương hiệu, giới thiệu được doanh nghiệp và sản phẩm, tạo thế và lực cho công ty phát triển đi lên từ chính nhu cầu thị trường. 5. Hoàn thiện chính sách phân phối. Chính sách phân phối có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động Marketing. Một chính sách phân phối hợp lý sẽ làm cho quá trình kinh doanh an toàn, tăng cường được khả năng liên kết trong kinh doanh, làm cho quá trình lưu thông nhanh, liên tục và hiệu quả. Vì vậy chính sách phân phối hợp lý luôn là mục tiêu của các nhà kinh doanh. Hoạt động XK của Công ty hầu hết phải qua trung gian nước ngoài do đó tính ổn định trong kinh doanh chưa cao, không có điều kiện tốt phát triển thị trường và hiểu biết, tiếp cận thị trường sâu hơn. Do không đưa được sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng, không nghe được sự phản ánh của khách hàng, không bám sát giá nên lợi nhuận của Công ty chỉ là một phần nhỏ. Bởi vậy, Công ty nên thành lập chi nhánh ở thị trường nước ngoài quan trọng như : thị trường Châu á, Tây Âu, Đông Âu. Còn những thị trường ở xa hơn, khó khăn như Châu Mỹ La tinh, Công ty có thể hợp tác với các công ty XK khác, có cùng mặt hàng ở trong nước, hợp tác thành lập chi nhánh bán hàng mây tre đan chung của Việt Nam tại thị trường nước ngoài. Liên kết này rất quan trọng và cần thiết, tập trung được sức mạnh của nhiều Công ty phục vụ cho mục đích hàng đầu là nâng cao vị thế của hàng mây tre đan Việt Nam trên thị trường thế giới, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi sản phẩm Việt Nam chưa có chỗ đứng trên thị trường nước ngoài. Đối với các cơ sở sản xuất trong nước Công ty phải tỏ rõ sự nổi trội của mình về hiểu biết thị trường, về khả năng bán sản phẩm trong các mối quan hệ giao dịch, buôn bán với bạn hàng nước ngoài, tỏ rõ vai trò của Công ty là không thể thiếu được trong tiêu thụ sản phẩm. Đối với thị trường mới, Công ty chưa thâm nhập được, thì biện pháp là cần tìm kiếm một đại lý trung gian hay một thương gia ở thị trường NK để cùng kết hợp đưa sản phẩm của Công ty tới các điểm bán lẻ. Trung gian phải là công ty có uy tín, có kết quả kinh doanh tốt. Trong chính sách phân phối, Công ty TOCONTAP thích hợp với việc chọn kênh phân phối theo chiều dọc, Công ty có thể lựa chọn các vị thế khác nhau theo điều kiện cụ thể để XK và tuỳ theo thị trường, có thể thông qua trung gian nước ngoài đối với một số thị trường như Châu Mỹ La Tinh, hoặc bán hàng trực tiếp không cần trung gian ở thị trường Đông Âu, Tây Âu, Châu á. Các cơ sở sản xuất Công ty TOCONTAP Đại diện ở nước ngoài Người tiêu dùng cuối cùng Hình 11: Kênh phân phối lựa chọn của công ty TOCONTAP 6. Đa dạng hoá các biện pháp hỗ trợ và xúc tiến bán hàng. Một vấn đề mà các Công ty Việt Nam thường vấp phải khi XK hàng hoá ra thị trương nước ngoài là sự khác biệt về trình độ tổ chức hoạt động hỗ trợ và xúc tiến bán hàng giữa ta và công ty nước ngoài cùng tham gia trên một thị trường. Các công ty Việt Nam hiện chưa chú ý đến các hoạt động quảng cáo chào hàng, giới thiệu sản phẩm, khuyếch trương, kích thích cầu...hoặc nếu có mới ở mức độ sơ khai, kém hiệu quả. Việc sử dụng các công cụ hỗ trợ, xúc tiến bán hàng của Công ty còn mang tính thụ động, bột phát theo phong trào, chưa hình thành lên chương trình với những mục tiêu cụ thể. Chính vì vậy trong thới gian tới Công ty nên nghiên cứu lựa chọn và sử dụng tốt các công cụ chính sách Marketing vào hoạt động XK để mau chóng thích ứng với những đòi hỏi khắt khe của thị trường. Muốn vậy, Công ty phải xác định rõ nội dung của từng công cụ, mục đích của việc áp dụng công cụ đó, lựa chọn công cụ phù hợp rồi sau đó sắp xếp thành hệ thống với trình tự áp dụng có tính logic. Về quảng cáo Quảng cáo là công cụ kinh doanh của cạnh tranh. Song hiện nay Công ty chưa chú trọng đến các thông tin quảng cáo, thực tế hoạt động quảng cáo của Công ty còn rời rạc, thiếu tập trung và không theo kế hoạch cụ thể. Quảng cáo chưa mang lại kết quả mong muốn. Việc lựa chọn và sử dụng mục tiêu, phương diện và cách thức quảng cáo của Công ty phải thực sự hấp dẫn, lôi cuốn, lượng thông tin cao, chân thực nhưng mang tính pháp lý. Khi tham gia hội trợ triển lãm, Công ty có thể chọn hình thức quảng cáo bằng áp phích, kết hợp với biểu tượng, vừa phong phú và sinh động. Việc quảng cáo phải được tiến hành định kỳ. Đối với sản phẩm là đồ đạc, nội thất, Công ty có thể sử dụng báo chí để quảng cáo gây tác động trực tiếp đến người tiêu dùng. Ngoài ra cần tăng cường xây dựng các mối quan hệ với quần chúng, xúc tiến bán hàng bằng cách tổ chức hôi nghị, hội thảo khách hàng, không chỉ dừng lại ở hình thức quà tặng như hiện nay. Tổ chức tốt các hoạt động yểm trợ bán hàng. Yểm trợ bán hàng là một hoạt động quan trọng của Marketing. Hoạt động này được thông qua sử dụng hoạt động của các hiệp hội kinh doanh, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, hội trợ triển lãm để lôi kéo khách hàng về cho DN. Hiện nay Công ty cũng đang tích cực tham gia hội trợ triển lãm ở địa phương, quốc gia và quốc tế. Như hội trợ EXPO 2000, 2001, 2002, giới thiệu sản phẩm mà Công ty đang XK, qua đó cũng bán được một số lượng hàng lớn thông qua hình thức bán trực tiếp hoặc ký hợp đồng. Hội trợ là hình thức yểm trợ bán hàng không cần tiến hành thường xuyên nhưng rất có hiệu quả, là dịp để Công ty tăng cường quan hệ giao tiếp và nắm bắt, nhận biết chính xác nhu cầu của thị truờng , ưu nhược điểm của mặt hàng Công ty xuất khẩu . Tất cả các hoạt động trên , phải được Công ty tổ chức chu đáo để đạt kết quả tốt. Việc hoàn thiện 4 chính sách thị trường: sản phẩm , giá cả, phân phối , khuyếch trương đòi hỏi Công ty phải đầu tư thời gian và tiền của không nhỏ. 7. áp dụng chiến lược nhân sự phù hợp. Con người là chủ thể của hoạt đông kinh tế. Tất cả mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều phục vụ cho mục đích của con người và cũng do con người thực hiện. Chính vì vậy trong bất kỳ một chiến lược phát triển của Công ty cũng không thể thiếu chiến lược nhân sự. Hiện nay đội ngũ CBCNV Công ty TOCONTAP khá đồng đều về tuổi tác cũng như trình độ nghiệp vụ. Cán bộ trẻ mới ra trường được làm xen kẽ với cán bộ già nhiều kinh nghiệm, công tác khá lâu trong công ty, để lớp trẻ có điều kiện học hỏi , nâng cao hiểu biết thực tế về nghiệp vụ ngoại thương. Nhiệm vụ quan trọng của công ty là lên kế hoạch đào tạo cán bộ làm công tác Maketing. Công ty nên trọn cán bộ trẻ, năng động sáng tạo, có những khả năng thích hợp với maketing để đào tạo và cử đi học, đồng thời tạo điều kiện để họ có thể áp dụng ngay những kiến thức đã học vào thực tế . Bên cạnh đó, công ty phải tạo sự đoàn kết nhất trí trong CBCNV, nên giải quyết các thắc mắc, mâu thuẫn làm họ toàn tâm toàn lực cho công việc chung đạt kết quả tốt nhất . Khuyến khích mỗi cán bộ nghiên cứu kinh doanh riêng, có chế độ thưởng thích hợp cho những ai có ý kiến đóng góp hiệu quả. Đưa mục tiêu chung của công ty vào mục tiêu riêng của cá nhân để nâng cao ý thức trách nhiệm cho cán bộ trong công ty. B/ Một số kiến nghị đối với Nhà Nước. + Nhà Nước cần đẩy mạnh hơn nữa công tác cổ phần hoá doanh nghiệp. Để khắc phục được những mặt trái của cơ chế quản lý cũ vẫn đang tồn tại trong các doanh nghiệp nhà nước, đã và đang gây ra những tác động tiêu cực đối với tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cản trở sự phát triển của nền kinh tế cả về chất và lượng. Do đó nhà nước cần phải có biện pháp phân loại doanh nghiệp theo ngành nghề, theo lĩnh vực kinh doanh. Những lĩnh vực kinh doanh xét thấy không cần thiết phải do nhà nước nắm giữ cần có biện pháp tư nhân hoá. Đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực kinh doanh trên có thể sớm cổ phần hoá, một mặt nó phù hợp với xu hướng tự do hoá thương mại, thúc đẩy nền kinh tế phát triển do năng lực cạnh tranh được nâng cao. Mặt khác, cổ phần hoá là một biện pháp huy động vốn tốt nhất cho các doanh nghiệp, tăng thêm trách nhiệm cho mỗi CBCNV, biện pháp này công ty cần sớm đề nghị Nhà Nước có kế hoạch cổ phần hoá toàn doanh nghiệp. Ngoài những chính sách ưu tiên về XK nói chung, Nhà nước cần có chính sách ưu tiên đối với hoạt động XK một số mặt hàng có những nét đặc thù khác, như với mặt hàng mây tre đan, xuất khẩu mây tre đan không những mang lại hiệu quả về mặt kinh tế, mà còn đem lại hiệu quả về mặt xã hội, giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động. + Nhà Nước cần có chính sách ưu tiên về tín dụng đối với các đơn vị xuất khẩu mặt hàng mây tre đan, cụ thể là hạ lãi suất ngân hàng và kéo dài thời gian vay vốn cho các doanh nghiệp, Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho hoạt động tổ chức nghiên cứu phát triển thị trường mới, như Bắc Mỹ, Canada, nhất là thị trường cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. + Nhà Nước thực hiện chính sách hỗ trợ công tác thị trường và xúc tiến thương mại: Do đặc điểm và khó khăn trong kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, đơn vị kinh doanh mặt hàng này chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn ít, cơ sở vật chất nghèo nàn, hàng hoá thường là loại cồng kềnh, giá trị thấp, không dễ bán...nên đề nghị Nhà nước hỗ trợ một phần chi phí tiếp thị mở rộng thị trường xuất khẩu. Hơn nữa, trong thương mại quốc tế không có hoặc rất ít thấy một nước nào không dành kinh phí nhất định từ ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho công tác xúc tiến thương mại, nhất là khuyếch trương xuất khẩu. Trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ, đề nghị Nhà nước hỗ trợ dưới các hình thức: - Hỗ trợ 50% chi phí thuê gian hàng cho cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ tham gia hội chợ, triển lãm ở nước ngoài. Việc hỗ trợ này có thể được thực hiện trực tiếp đối với doanh nghiệp từ một trung tâm xúc tiến thương mại hoặc thông qua một công ty quốc doanh được giao nhiệm vụ tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế. - Đề nghị cho thành lập thêm một số trung tâm xúc tiến thương mại (chủ yếu là khuyếch trương hàng xuất khẩu) tại một số nước tương tự như: “Việt Nam square” tại Osaka, Nhật Bản, có thêm ở Trung Đông, Pháp, Đức, Nga, Mỹ, Canada... Các trung tâm này có các gian hàng cho các doanh nghiệp trong nước thuê trưng bày chào bán hàng xuất khẩu với giá khuyến khích. Riêng hàng thủ công mỹ nghệ thì được miễn phí. Vừa qua một số doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã thấy được tác dụng lớn của việc trưng bày hàng hoá tại nước ngoài. Thông qua phương tiện thông tin đại chúng ở nước ngoài để quảng bá giới thiệu rộng rãi các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, hướng dẫn tiêu dùng tạo thị hiếu, gắn chặt việc giới thiệu thành tựu văn hoá dân tộc với bàn tay khéo léo của người Việt Nam. - Phục vụ các lễ hội của các nước trên thế giới cũng là một hướng quan trọng thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Hàng năm trên thế giới có hàng trăm lễ hội của các dân tộc, nếu nắm bắt được nhu cầu, thiết kế mẫu mã phù hợp nhu cầu của từng lễ hội về ăn mặc, trò chơi giải trí, vật lưu niệm... thì có thể có nhiều loại hàng có thể bán, nhất là hàng thủ công mỹ nghệ, kể cả hàng thổ cẩm của đồng bào các dân tộc nước ta. Kinh nghiệm tại Philipin, đã thành lập Hiệp hội các nhà sản xuất và nhà xuất khẩu các mặt hàng phục vụ lễ hội và Noel. Chính phủ Philipin đã có nhiều giải pháp thông qua các tổ chức như: Vụ xúc tiến thương mại xuất khẩu, trung tâm thiết kế mẫu mã và phát triển các sản phẩm để mở rộng các hoạt động này, như cung cấp vốn, phát triển kỹ thuật, cải tiến mẫu mã, tìm kiếm thị trường, cung cấp thông tin, giới thiệu bạn hàng. Các tổ chức này cũng giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn và tư vấn chính phủ ra chiến lược và cơ chế, chính sách nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường thế giới. Để có thể triển khai xuất khẩu phục vụ lễ hội và Noel của các nước trên thế giới như là một mũi nhọn khuyếch trương xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong thời gian tới, đề nghị Nhà Nước: * Tại những nơi Việt Nam có đại điện thương mại thì giao cho cơ quan này tìm hiểu, khảo sát, nghiên cứu nhu cầu phục vụ lễ hội và Noel trên địa bàn. Phát hiện nhu cầu, khảo sát, thiết kế mẫu mã chào hàng. * Tại những nơi chưa có cơ quan thương vụ thì giao cho Cục xúc tiến thương mại, phối hợp cùng công ty hội chợ triển lãm quảng cáo nghiên cứu kế hoạch, cử nhóm công tác đến tìm hiểu, khảo sát thiết kế mẫu mã theo cơ chế, chính sách trên - Chính phủ cần có chính sách khuyến khích việc khai thác những hoạt động quốc tế như: hội thảo, biểu diễn thao tác nghề nghiệp...nhằm phát triển ngành nghề phục vụ xuất khẩu. Chẳng hạn, hội bảo trợ thủ công mỹ nghệ của Mỹ có chương trình hỗ trợ 10.000 làng nghề của thế giới và thường có mời các nghệ nhân của các nước sang Mỹ biểu diễn thao tác nghề nghiệp. Tại Achentina vào tháng 4 hàng năm thường tổ chức hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ và khoảng 700 nghệ nhân của các nước được mời tham gia biểu diễn thao tác nghề, có gian hàng trưng bầy miễn phí. Ta nên cố gắng khai thác hoạt động này. Tuỳ trường hợp cần thiết, Nhà nước nên trợ cấp kinh phí cho các nghệ nhân Việt Nam tham gia các hoạt động này, kết hợp với việc giới thiệu hàng hoá của Việt Nam. Hơn nữa nghệ nhân có thể chào bán, ký kết các hợp đồng xuất khẩu theo uỷ nhiệm của các công ty kinh doanh xuất khẩu trong nước, được hưởng thù lao hoặc hoa hồng theo kết quả thực hiện công việc. + Nhà nước sớm có chính sách ưu đãi đối với hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu tại chỗ: Hiện nay một phần đáng kể hàng thủ công mỹ nghệ được bán cho khách du lịch đến Việt Nam, bán tại các cửa hàng, siêu thị, các điểm tham quan du lịch, các cửa hàng miễn thuế ... dưới hình thức thu ngoại tệ hoặc tiền Việt Nam gốc ngoại tệ. Nguồn thu về từ nguồn du lịch của nước ta ngày càng lớn, thì hàng thủ công mỹ nghệ cung ứng cho nhu cầu này cũng ngày càng nhiều dưới dạng các vật phẩm tiêu dùng hoặc vật phẩm lưu niệm. Vì vậy, đề nghị nhà nước chính thức công nhận hàng hoá sản xuất trong nước tiêu thụ dưới hình thức trên là hàng xuất khẩu tại chỗ và có chính sách khuyến khích thích hợp, nếu không áp dụng cho toàn bộ hàng hóa của Việt Nam thì cũng nên áp dụng cho hàng thủ công mỹ nghệ. Như vậy hàng xuất khẩu tại chỗ cũng được hưởng mức thuế 0%, do đó được khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào . Trên cơ sở chủ trương của Chính phủ, Bộ Thương mại, Bộ Tài chính cần quy định cụ thể việc bán hàng, hạch toán kê khai bảo đảm chính sách áp dụng . + Giảm bớt tiền cước vận chuyển và các lệ phí tại các cảng khẩu đối với hàng thủ công mỹ nghệ nhằm mục đích giảm giá thành. Vì cảng Việt Nam hiện nay được đánh giá là cảng có mức thu lệ phí cao nhất so với các cảng của các nước trong khu vực. Hàng thủ công mỹ nghệ thường là hàng cồng kềnh, giá trị không cao, (xuất khẩu một container 40 feet hàng mây tre đan thường chỉ 7-8 ngàn USD theo giá FOB), nên cần có chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho mặt hàng này. - Nhà Nước hỗ trợ từ 30%-50% cước vận chuyển theo biểu giá cước hiện hành. Hàng thủ công mỹ nghệ được vận chuyển từ nơi sản xuất đến các cảng khẩu trên tất cả các phương tiện cần được Nhà nước hỗ trợ thông qua công nhận giảm thu trong hạch toán thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp hàng năm. - Nhà nước hỗ trợ 50% theo biểu giá cước hiện hành cho tất cả các chi phí, lệ phí tại các cảng khẩu có liên quan đến việc giao hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, ( từ việc lưu kho, lưu bãi, gửi hàng, lệ phí cảng khẩu, thủ tục phí ...). Nên miễn kiểm Hải quan khi xuất hàng. - Nhà nước hỗ trợ 50% theo biểu giá cước hiện hành tiền cước phí, bưu phí làm hàng mẫu, hàng thủ công mỹ nghệ cho khách nước ngoài, hoặc hàng mẫu gửi tham gia hội chợ triển lãm nước ngoài. + Sửa đổi tiêu chuẩn thưởng xuất khẩu đối với hàng thủ công mỹ nghệ. Theo quy định hiện hành, để được thưởng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, kim ngạch XkK của doanh nghiệp phải đạt từ 5 triệu USD/ năm trở lên. Đây là một tiêu chuẩn quá cao đối với một doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Sẽ rất hiếm có doanh nghiệp nào đạt được tiêu chuẩn trên để được thưởng. Để khuyến khích những doanh nghệp vừa và nhỏ tích cực tham gia đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, đồng thời cũng là một cách tạo điều kiện cho họ vượt qua khó khăn trong kinh doanh loại hàng này, đề nghị các cơ quan chức năng cho áp dụng tiêu chuẩn xét thưởng ở mức 2 triệu USD/ năm trở lên. + Nhà nước sớm thúc đẩy đàm phán và kí kết hiệp định song phương, hiệp định thương mại khu vực, hiệp định thương mại toàn cầu, hay nghị định thư đối với một số nước Đông âu, giải quyết phân bổ chỉ tiêu trả nợ cho các doanh nghiệp, đồng thời xem xét lại quy chế của Thủ Tướng Chính Phủ về các đầu mối trả nợ. + Nhà nước đứng ra thành lập hiệp hội các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, với nhiệm vụ theo dõi sản xuất, theo dõi hoạt động xuất khẩu và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường nước ngoài, phát hiện kịp thời khó khăn để giải quyết và giúp đỡ các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu. Tập hợp nguyện vọng và đề xuất của người sản xuất để chính phủ điều chỉnh cơ chế chính sách cho phù hợp. Hiệp hội sẽ chủ động cùng các doanh nghiệp nghiên cứu khai thác thị trường hiện có, mở rộng thị trường mới. + Nhà nước cần có chính sách trợ cấp đối với các đơn vị XK mây tre đan như: lập quỹ hỗ trợ XK, giảm thuế, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp , thuế XNK và khuyến khích đầu tư mặt hàng này. Thúc đẩy và giúp đỡ các doanh nghiệp vươn lên trong môi trường cạnh tranh bình đẳng và trung thực, coi đó là phương thức bảo hộ tích cực nhất đối với sản xuất trong nước. Theo tinh thần đó cần xem xét lại chính sách bảo hộ bằng hàng rào thi thuế quan, thực hiện chính sách bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện và thời hạn, vừa giúp đỡ vừa tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước cả doanh nghiệp nhà nước phải tự đổi mới và vươn lên, nâng cao sức cạnh tranh. Từ đó xác định một lộ trình phù hợp, giảm thuế nhập khẩu có thể áp dụng hàng rào phi thuế quan. Lộ trình này phải được công bố rõ ràng, sớm, để từng doanh nghiệp có kế hoạch phấn đấu làm cho sản phẩm do mình sản xuất ra có thể cạnh tranh tốt với hàng nước ngoài. + Nhà nước có chính sách hỗ trợ đúng đắn các ngành công nghiệp chế biến, nhất là chế biến hàng xuất khẩu, cùng với việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật bên ngoài doanh nghiệp, phát triển thị trường vốn, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển làng nghề, giúp đỡ về nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, xây dựng trung tâm nghiên cứu tiếp thị, trưng bầy triển lãm và trung tâm thông tin về thị trường nước ngoài. Bãi bỏ các biện pháp mang tính bao cấp trái với cơ chế thị trường, đơn giản hoá thủ tục hành chính, hình thành hành lang pháp luật rõ ràng, ổn định đầu tư kinh doanh xuất nhập khẩu. Những mặt hàng xuất nhập khẩu còn phải quy định hạn nghạch (QUOTA) thì phải nhanh chóng chuyển sang phương thức đấu thầu thay cho lối phân phối hành chính và tiến tới thay thế Quota bằng thuế xuất nhập khẩu và biện pháp phi thuế quan . + Tỷ giá hối đoái phải được điều chỉnh phù hợp có lợi cho xuất khẩu và đầu tư, tích cực và chủ động thâm nhập, giao lưu với thị trường thế giới, xúc tiến khẩn chương việc chuẩn bị điều kiện ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), phát huy hiệp định thương mại Việt - Mỹ và tham gia vào khu vực mậu dịch tự do AFTA theo lịch trình phù hợp. Ngoài ra Nhà nước cần tăng cường hơn hoạt động thương mại chính ngạch với Trung Quốc, Lào, Campuchia, giảm và ngăn chặn buôn bán tiểu ngạch, thiết lập mối quan hệ ngoại giao, thương mại, tìm thị trường mới ở Trung Cận Đông, Châu Phi và Mỹ La Tinh. Đa phương hoá quan hệ thương mại, giảm sự tập trung cao, phụ thuộc vào đối tác, thu hẹp buôn bán qua trung gian. + Nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp tự lập cơ quan đại diện ở nước ngoài, tăng cường vai trò của cơ quan ngoại giao, thông tấn xã. Đối với các tổ chức, đa dạng hoá hoạt động của cơ quan thường vụ Việt Nam ở nước ngoài, tổ chức giao lưu, giới thiệu các Doanh nghiệp Việt Nam với Doanh nghiệp nước ngoài tại thị trường nước ngoài để tạo nên sự thông suốt về thông tin và biến động của thị trường trong và ngoài nước. Kết luận chương III Tóm lại, chương ba đề cập tới những kết quả nghiên cứu thị trường mây tre đan quốc tế theo khu vực địa lí và theo lãnh thổ các quốc gia, trên cơ sở thị trường hiện có của công ty và kết quả nghiên cứu thị trường quốc tế đưa ra được những định hướng xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan trên các phương diện như: Mục tiêu xuất khẩu mây tre đan, định hướng thị trường xuất khẩu, định hướng sản phẩm xuất khẩu và định hướng về nguồn nhân lực. Để đạt được mục tiêu xuất khẩu đề ra đối với nhóm hàng mây tre đan, đồng thời khắc phục được các tồn tại trong hoạt động xuất khẩu, trên cơ sở các nguyên nhân của tồn tại đã đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan của công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội dưới hai góc độ: Giải pháp từ phía doanh nghiệp và những kiến nghị đối với Nhà Nước. Những giải pháp và kiến nghị trên đều xuất phát từ sự phân tích khoa học thực trạng xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan của công ty và tham khảo các biện pháp đã áp dụng thành công của một số nước trên thế giới KếT LUậN Trải qua 47 năm phát triển và trưởng thành. Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm - TOCONTAP đã đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Qua các thời kỳ phát triển thăng trầm của đất nước, từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường như ngày nay, Công ty đã phải đương đầu với không ít khó khăn và thử thách, song với sự lãnh đạo và chỉ đạo đúng đắn của Nhà nước và các cấp lãnh đạo Công ty, cùng với những kinh nghiệm quý báu đúc rút qua nhiều năm hoạt động, trên cơ sở đoàn kết chặt chẽ với người sản xuất và các cán bộ kinh doanh của Công ty. Công ty đã vượt qua mọi khó khăn hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao cùng cả nước bước vững chắc trên con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn. Em tin tưởng chắc chắn rằng, trong những năm tiếp theo Công ty sẽ có những thành tích tốt hơn, vững chắc hơn và tiến xa hơn trong hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan nói riêng trong tương lai. Luận văn tốt nghiệp trên đã cố gắng đưa ra những nét cơ bản nhất về tình hình hoạt động xuất khẩu của công ty TOCONTAP trong suốt quá trình hình thành và phát triển, tới thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty TOCONTAP trong giai đoạn hiện nay . Trên cơ sở đó tham vấn một số giải pháp và kiến nghị chính nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan của Công ty, với mong muốn có thể góp phần nào đó để nâng cao hiểu quả của hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty - TOCONTAP. Tuy nhiên vì thời gian nghiên cứu và trình độ hạn hẹp, bài viết của em còn có những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự đóng góp của các Bác, các Anh , Chị CBCNV Công ty, cùng các Thầy giáo, Cô giáo và toàn thể bạn đọc giúp hoàn thiện và nâng cao trình độ nhận thức của bản thân em. Một lần nữa em xin chân thành giử lời cảm ơn tới cô giáo PGS.TS Nguyễn Thị Hường và thầy giáo Ths. Mai Thế Cường đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này một cách tốt nhất. Qua đây em cũng xin cảm ơn cô Bùi Thị Tuệ - Giám đốc Công Ty xuất nhập khẩu Tạp Phẩm Hà Nội cùng toàn thể cán bộ công nhân viên phòng Tổng Hợp Công ty - TOCONTAP đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong thời gian thực tập và đóng góp ý kiến cho bài viết này. TàI LIệU THAM KHảO I. Giáo trình: 1. Giáo trình: Kinh doanh quốc tế Trường ĐHKTQD, Chủ Biên PGS.TS. Nguyễn Thị Hường, NXB Thống Kê - 2001. 2. Giáo trình: Đàm phán & Ký kết hợp đồng KDQT Trường ĐHKTQD, Chủ Biên GS.PTS. Tô Xuân Dân, NXB Thống Kê - 2001. 3. Giáo trình: Maketing quốc tế Trường ĐHKTQD, Biên Soạn PTS Nguyễn Cao Văn, NXB Giáo Dục – 1999. 4. Giáo trình: Nghiệp vụ ngoại thương Trường ĐHNT, Chủ Biên PGS. Nhà giáo ưu tú Vũ Hữu Tửu, NXB Giáo Dục – 1998. 5. Giáo trình: Thanh toán quốc tế Trường ĐHNT, Chủ Biên PGS . Đinh Xuân Trình, NXB Giáo Dục – 1998. II. Sách tham khảo: 6. Thương mại và cạnh tranh, Chủ Biên: Chi đoàn giáo viên Khoa Thương mại Trường ĐHKTQD, NXB Thống Kê - 1999. 7. Nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo hộ sản xuất trong nước, Chủ Biên PTS. Lê Đăng Doanh, PTS. Trần Hữu Hân, Ths. Nguyễn Thị Kim Dung, NXB Thống Kê - 2000 III. Tạp chí, Báo: 8. Tạp Chí Doanh Nghiệp Số 12 – 2002 “Những vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp Việt Nam” Nguyễn văn Giang. Số 02 – 2003 “Bước đi cho sáu thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam” Ths. Lê Hồng Ngự. 9. Tạp Chí Thương Mại Số 7 – 2003 “Đánh giá hoạt động XK năm 2002 định hướng và giải pháp phát triển XK năm 2003” Lê Hải Thượng. 10. Tạp Chí Ngoại Thương Số 2 - 2003 “ Quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam – EU và dự báo” Vũ Ngọc Khoa. Số 3 – 2003 “ Mục tiêu kế hoạch XK năm 2003 vào các thị trường” Nguyễn Thị Ngọc. Số 4 – 2003 “Một số điều cần biết khi thâm nhập thị trường Trung Quốc. 11. Tạp Chí Thương nghiệp và Thị Trường Số tháng 9 – 2002 “Nâng cao sức cạnh tranh hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam” Phạm Thị Băng Tâm. Số tháng 11 – 2002 “ Để hàng thủ công mỹ nghệ vươn xa” Trọng Khôi. 12. Tạp chí Thời trang mỹ nghệ kim hoàn Số 88 (3/2003) “ Trúc Hun” 13. Báo Đầu Tư Số 97 (14/4/2002) “Bốn vấn đề lớn cần giải quyết để hàng Việt Nam dễ thâm nhập vào thị trường Mỹ” Hoàng Việt. 14. Thời Báo Kinh Tế Việt Nam Số 972 (7/8/2002) “Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ” 15. Báo Nhân Dân Số 987 (15/12/2001) “Thâm nhập thị trường Châu Phi – Tây nam á” Nguyễn Duy Nghĩa. Báo số ra ngày 3/6/2002 “Biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Nga, SNG” Nguyễn Anh Kiệt. 16. Thời báo tài chính Số ra ngày 8/10/2002 “Những bài học quý cho Việt Nam” TS. Lê Đăng Doanh. 17. Báo Thương Mại Số 32 (19/ 4/2002) “Thương vụ Dubai” Đặng Ngọc Quang. IV. Tài liệu khác: 18. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 1999, 2000, 2001, 2002 của Công ty TOCONTAP. 19. Niên giám thương mại Việt Nam năm 2000, 2001, 2002, - NXB Thống Kê. 20. Trang Website: - www. vnn .vn “Việt Nam còn nhiều bất lợi trong cạnh tranh” (26/9/2002) - www.business. gov.vn “Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu - Trung tâm thông tin doanh nghiệp” (8/5/2002). - www. Mof.gov.vn “Chuyện kinh doanh – xúc tiến thương mại” (31/7/2002). - www.vir.com.vn “Tăng hiệu quả cạnh tranh là việc cần làm ngay của cộng đồng doanh nghiệp” (16/2/2002) Các trang website khác : - www.nhan dan.com. - www. Eshop.vn-style.com.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0508.doc
Tài liệu liên quan