Luận văn Nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp sau chuyển đổi theo luật HTX trên địa bàn tỉnh Hà Tây

HTX nông nghiệp được hình thành và tồn tại trong nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan. HTX nông nghiệp có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng sự phát triển các hình thức hợp tác nói chung và kinh tế HTX nói riêng. Sự ra đời của các HTX nông nghiệp kiểu mới trong nông nghiệp, nông thôn của cả nước nói chung và của tỉnh Hà Tây nói riêng, vừa là kết quả của sự đổi mới hình thức tổ chức, nội dung hoạt động và cơ chế quản lý ở các HTX, vừa là kết quả của những đòi hỏi khách quan của việc từng bước chuyển nền nông nghiệp từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá. Luật HTX ra đời và có hiệu lực thi hành từ 01/01/1997 là hành lang pháp lý, tạo môi trường lành mạnh cho các HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh hoạt động. Bằng những cơ sở khoa học và thực tiễn của kinh tế hợp tác trong đó có kinh tế HTX, luận văn tốt nghiệp đã khái quát bản chất của HTX, sự cần thiết phải nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp và kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới về phát triển HTX nông nghiệp. Qua đó ta thấy được rằng, vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp của nước ta nói chung và của tỉnh Hà Tây nói riêng là một tất yếu khách quan, làm cho HTX nông nghiệp hoạt động phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới và phù hợp với xu thế phát triển của HTX nông nghiệp trên thế giới. Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây cho thấy những mặt đã đạt được và những yếu kém trong quá trình hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp. Qua đó, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp trong thời gian tới. Để tạo điều kiện và giúp đỡ các HTX nông nghiệp hoạt động kinh doanh dịch vụ có hiệu quả và hỗ trợ thực sự cho kinh tế hộ xã viên phát triển, em xin nêu một số kiến nghị với UBND tỉnh Hà Tây và Trung ương một số vấn đề sau: 1. Tỉnh cần rà soát số HTX nông nghiệp đã nhận đăng ký kinh doanh, kể cả HTX cũ chuyển sang và HTX mới thành lập để giúp đỡ các HTX đã làm sai nay phải sửa đổi cho đúng Luật HTX. Đối với số HTX đã làm thủ tục nhưng chưa nhận đăng ký kinh doanh hoặc chưa làm thủ tục đăng ký kinh doanh, UBND tỉnh cần có văn bản triển khai tới các UBND huyện để tiến hành phê duyệt thủ tục đăng ký kinh doanh một cách chặt chẽ, đầy đủ và cụ thể hơn. 2. Các ban ngành thuộc tỉnh tiếp tục tuyên truyền rộng rãi những điểm cơ bản của Luật HTX tới cán bộ quản lý và xã viên của HTX để mọi người hiểu rõ và nắm vững trong quá trình chuyển đổi và quá trình hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX. 3. Các Bộ, ngành có các Thông tư hướng dẫn thực hiện các Nghị định của Chính phủ đối với HTX như: Nghị định 15 về chính sách ưu tiên đối với HTX và Nghị định 02 về quản lý Nhà nước các cấp đối với HTX, có chủ trương và hướng dẫn cụ thể cho cán bộ và xã viên HTX tham gia bảo hiểm xã hội. 4. Tạo điều kiện về vốn cho các HTX nông nghiệp hoạt động bằng các nguồn vốn đầu tư nhằm giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, mở rộng và phát triển kinh doanh ngành nghề phụ ở nông thôn.

doc86 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1494 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp sau chuyển đổi theo luật HTX trên địa bàn tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực hiện kế hoạch ở một số HTX chưa phù hợp với thực tế, còn thiếu tính khoa học. Hạch toán ở HTX còn ở mức độ thấp, chủ yếu mới chỉ là hạch toán thu - chi những khoản trực tiếp liên quan đến khâu dịch vụ, những khoản chi phí gián tiếp nhiều HTX chưa phân bổ đủ chi phí (như khấu hao TSCĐ, chi phí quản lý...).chưa tính được hiệu quả đầu tư. + TSCĐ chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng tài sản của HTX, điều đó thể hiện năng lực của HTX nhưng do khấu hao thấp nên để bảo toàn vốn và để tái sản xuất mở rộng, mở rộng kinh doanh dịch vụ còn gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù vốn của HTX tăng trưởng mạnh nhưng chủ yếu là do HTX tận thu các nguồn khác như bán cây cối lâu năm, thu từ đất công ích, xã viên đóng góp hay nhà nước hỗ trợ....còn phần do bản thân HTX tích luỹ được chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Điều đó thể hiện hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTX còn thấp. + Nhiều HTX không có vốn để hoạt động. ở những HTX này số vốn còn lại thực chất chỉ còn lại những số nợ phải thu.Mặc dù đã có những phương án thu và xử lý công nợ nhưng là một tổ chức kinh tế, HTX nông nghiệp không thể có biện pháp hữu hiệu trong công việc thu nợ nếu không được sự hỗ trợ của UBND các cấp, các ngành pháp luật. Nguồn vốn từ ngân hàng chưa vay được nhiều (kể cả các HTX làm ăn khá) nên không có vốn để mở rộng kinh doanh dịch vụ để phục vụ cho kinh tế hộ xã viên. + Tình trạng nợ nần trong thanh toán ở HTX vẫn gia tăng. HTX nông nghiệp không giám mở rộng dịch vụ hoặc không giám đầu tư ứng trước vì sợ không thu được vốn, có HTX cân đối nợ phải thu không đủ khoản nợ phải trả.Quan hệ giữa HTX nông nghiệp với các tổ chức kinh tế khác không được mở rộng hoặc chưa đủ độ tin cậy với họ nên họ không giám đầu tư vào HTX vì sợ mất vốn.Vấn đề công nợ ở HTX đã gây nên tình trạng mất công bằng ở nông thôn. c. Nguyên nhân tồn tại. @ Khách quan: Do lịch sử xây dựng HTX để lại( những tồn tại trong cơ chế cũ như: Nhận thức về HTX, vốn quỹ, nợ đọng sản phẩm...) chưa thể giải quyết được ngay. HTX mới vừa phải xây dựng cái mới vừa phải khắc phục những tồn tại của cơ chế cũ. Mặt khác, sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc vào tự nhiên, thời tiết, khí hậu, chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, sản phẩm hàng hoá ít, nhu cầu về hợp tác chưa lớn. @ Chủ quan: + Nhận thức của cán bộ, xã viên về HTX vẫn còn hạn chế, chưa thấy được sự khác nhau cơ bản giữa HTX mới và HTX cũ, dẫn tới một số nơi làm theo phong trào, hạn chế tính dân chủ, tự nguyện của xã viên trong việc tham gia xây dựng HTX kiểu mới theo luật. + Sự lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp Đảng uỷ, Chính quyền, nhất là chính quyền cấp xã còn hạn chế hoặc buông lỏng để HTX hoạt động hoặc can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ của HTX. Một số HTX vẫn còn phải bao cấp một số khoản chi cho những vấn đề xã hội của địa phương hoặc phải làm một số việc thuộc chức năng của UBND xã như: Thu thuế, lao động nghĩa vụ, công ích... + Cán bộ quản trị HTX chưa thực sự năng động tìm tòi đổi mới HTX, chưa yên tâm xây dựng HTX, chủ yếu làm theo kinh nghiệm của các khoá trước, chậm đổi mới HTX. + Cán bộ làm công tác quản lý HTX ở các cấp vừa thiếu, vừa yếu, lại chưa được đào tạo nên việc hướng dẫn, kiểm tra giúp đỡ HTX hoạt động theo luật còn hạn chế. Mỗi huyện, thị hiện nay trên địa bàn tỉnh chỉ có 1 đến 2 cán bộ làm công tác quản lý lại kiêm nghiệm nhiều việc, thời gian đầu tư cho công tác quản lý HTX còn hạn chế. + Chính sách của Nhà nước đối với HTX còn thiếu,chưa đồng bộ như :chính sách cán bộ HTX, cấp kinh phí cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX, chính sách thị trường, chế biến tiêu thụ sản phẩm, vay vốn, hợp tác liên doanh liên kết với HTX nông nghiệp ít được chú ý .Vì vậy làm hạn chế tới hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTX. d. Những bài học kinh nghiệm: Mặc dù mới chỉ là bước đầu củng cố chuyển đổi theo luật nhưng qua quá trình phát triển các HTX nông nghiệp có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm chính sau đây: + Một là:Phải có sự lãnh đạo sát sao của các cấp Đảng uỷ và sự chỉ đạo kịp thời của UBND các cấp đối với HTX nông nghiệp, coi việc củng cố, nâng cao vai trò hiệu quả điều hành sản xuất từ đó thúc đẩy các hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTX nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên. + Hai là:Phải có đội ngũ cán bộ HTX (nhất là chủ nhiệm, trưởng ban kiểm soát, kế toán trưởng) trẻ tuổi, năng động, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nhiệt tình, giám nghĩ, giám làm, giám chịu trách nhiệm mọi hoạt động của HTX. + Ba là:Phải có nhận thức đúng và đầy đủ về HTX nông nghiệp theo luật, thấy rõ được bản chất của HTX nông nghiệp cũ và mới, thực sự coi HTX nông nghiệp kiểu mới là một tổ chức kinh tế hoạt động tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, phát huy tốt vai trò điều hành của HTX, đồng thời tổ chức tốt các khâu dịch vụ cho sản xuất của hộ xã viên theo nguyên tắc có hạch toán, bảo toàn và phát triển vốn được giao. + Bốn là: Các cấp Đảng uỷ phải thường xuyên rút ra những mặt mạnh,mặt yếu của công tác quản lý HTX để có biện pháp chỉ đạo kịp thời dần đưa HTX đi vào sản xuất kinh doanh dịch vụ có hiêụ quả. + Năm là: Công khai mọi hoạt động kinh tế, tài chính của hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nhằm tạo sự tin tưởng lẫn nhau tạo đoàn kết xã viên trong toàn HTX. Tóm lại, qua việc đánh giá chung hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp, các HTX sẽ thấy được những mặt làm được và những yếu kém trong quá trình hoạt động kinh doanh dịch vụ để từ đó có những định hướng phát triển phù hợp với tình hình thực tế của HTX, làm cho thành phần kinh tế hợp tác (trong đó có kinh tế HTX) vững mạnh, là "bà đỡ" cho kinh tế hộ xã viên phát triển, đưa nông nghiệp đi lên sản xuất hàng hoá, nông thôn ngày càng giàu mạnh. Chương III Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây I. Một số yêu cầu của việc nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây. Để tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp trong thời gian tới có kết quả và thực hiện đúng đường lối, định hướng mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra thì các HTX nông nghiệp ở Hà Tây cần phải thực hiện một số yêu cầu sau: Trước hết: Hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp phải nhằm mục đích phục vụ cho sự phát triển kinh tế hộ xã viên. Từ khi các HTX nông nghiệp thực hiện việc chuyển đổi và thực hiện theo Luật HTX, hầu hết các HTX đã chuyển hướng hoạt động từ việc thực hiện chức năng sản xuất ra sản phẩm sang làm chức năng dịch vụ cho hộ xã viên, làm “ bà đỡ “ cho kinh tế hộ phát triển và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, trên thực tế cũng có không ít các HTX đã không chú trọng trong việc cung ứng dịch vụ tới hộ xã viên mà mở rộng hoạt động kinh doanh dịch vụ ra bên ngoài với các tổ chức kinh tế, cá nhân kinh doanh khác. Họ cho rằng, thực hiện dịch vụ với người nông dân thì phải có vốn ứng trước, thời gian thu hồi vốn lâu, lợi nhuận ít... Còn kinh doanh dịch vụ với bên ngoài thì chiếm dụng được vốn, lợi nhuận nhiều hơn. Sở dĩ có tính bắt buộc là : Việc lập ra HTX là để hoạt động kinh doanh dịch vụ phục vụ cho kinh tế hộ xã viên là chủ yếu, còn việc kinh doanh dịch vụ với bên ngoài chỉ là phụ. Thứ hai, nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh ở HTX nông nghiệp đồng thời HTX phải nâng cao được cạnh tranh, hoạt động bình đẳng cùng với các thành phần kinh tế khác. Thành phần kinh tế ở nước ta được Đại hội Đảng IX nêu ra có 6 thành phần kinh tế đó là: kinh tế Nhà nước, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, các thành phần kinh tế của nước ta cùng nhau phát triển và cạnh tranh trong một môi trường bình đẳng và lành mạnh. HTX nông nghiệp là hình thức tổ chức cụ thể và cơ bản của thành phần kinh tế tấp thể và tồn tại song song với nó còn có rất nhiều tổ hợp tác dưới các dạng hoạt động khác nhau. Những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát triển kinh tế tập thể trong đó có kinh tế HTX, HTX nông nghiệp nói riêng được ưu đãi nhiều hơn so với các loại hình HTX ngành, nghề khác. Lý do nông nghiệp còn chịu nhiều rủi ro, ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, nông thôn nước ta còn nghèo. Chính vì vậy mà các HTX nông nghiệp đã không ngừng vươn lên phục vụ đắc lực cho sự phát triển của sản xuất nông nghiệp. Theo tiến trình đó thì các HTX nông nghiệp được thừa hưởng những ưu đãi của Nhà nước về đất đai, vốn đầu tư, thuế... để khắc phục những yếu kém và phát triển. Nhưng không vì vậy mà ỷ lại, dựa giẫm, HTX phải không ngừng cải tiến công tác quản lý đưa tiến bộ khoa học công nghệ áp dụng cho hoạt động kinh doanh dịch vụ của mình để các HTX có thể tự mình đứng vững trong cạnh tranh và ngày càng hoạt động có hiệu quả hơn. Thứ ba, nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX trong suốt quá trình của mình , HTX phải bảo tồn được vốn, tăng trưởng và phát triển quỹ. Bất kỳ một tổ chức kinh tế nào muốn hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ thì phải có vốn và HTX nông nghiệp không nằm ngoài vấn đề này. Vốn kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp bao gồm: Vốn điều lệ do xã viên góp, vốn cổ phần, vốn tích luỹ hàng năm do lợi nhuận đem lại và vốn do Nhà nước cấp. Để có thể tồn tại và phát triển, tạo niềm tin và sức mạnh đối với xã viên HTX thì trong quá trình hoạt động kinh doanh dịch vụ của mình, các HTX nông nghiệp phải bảo toàn, tăng trưởng nguồn vốn, đó là yêu cầu có tính bắt buộc đối với các HTX nếu không sẽ lâm vào tình trạng phá sản. Cùng với sự tăng trưởng và phát triển của vốn, quỹ HTX cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động. Bởi lẽ, HTX nông nghiệp vừa là tổ chức kinh tế , vừa là tổ chức xã hội. Vì vậy lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất, tối cao của HTX mà quan trong, đi đôi với nó còn có mục tiêu giúp đỡ nhau của các thành viên trong HTX cùng phát triển ( mục tiêu xã hội ). Và quỹ HTX đã phát huy vai trò của mình trong việc thực hiện mục tiêu này, cụ thể: Quỹ HTX được chi dùng cho phát triển sản xuất, khen thưởng, đào tạo cán bộ xã viên HTX, cho xã viên vay vốn nhằm xoá đói giảm nghèo, cứu tế thiên tai, dịch hoạ... Vì vậy, quỹ HTX được thực hiện như chức năng của một tổ chức xã hội góp phần làm cho nông thôn công bằng, đoàn kết và giàu mạnh. Thứ tư, nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX trong suốt quá trình tồn tại của mình, HTX phải giữ đúng nguyên tắc hoạt động của HTX nông nghiệp kiểu mới ( hoạt động theo Luật HTX ). Phải nằm trong khuôn khổ quy định của pháp luật, chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước và sự giám sát của chính quyền nhân dân các cấp. Hiện nay, một phần do chưa hiểu biết và nắm vững Luật HTX, phần do lợi dụng danh nghĩa là HTX để được những ưu đãi của Nhà nước đối với HTX, thực chất các HTX này là Công ty Cổ phần. Cụ thể là HTX thành lập bằng vốn góp của một số ít cá nhân, nhưng họ đã phân chia nhỏ số vốn góp cho các xã viên đứng tên. Sự khác nhau căn bản giữa HTX với Công ty Cổ phần là quyền bình đẳng ngang nhau giữa các xã viên trong quản lý và phát triển HTX, dù vốn góp có thể khác nhau nhưng phải thấp hơn mức tối đa mà Luật cho phép. Chẳng hạn, Luật quy định vốn góp có thể nhiều hơn mức tối thiểu, nhưng ở mọi thời điểm không được vượt quá 30% tổng vốn điều lệ của HTX ( vốn điều lệ bằng tổng vốn góp của xã viên tại thời điểm đăng ký kinh doanh ). So với điều lệ của HTX nhiều nước, mức 30% là quá cao. Nếu để một vài cá nhân có số tiền đóng góp quá lớn thì cá nhân đó sẽ nắm quyền định đoạt HTX giống như Công ty Cổ phần. Do đó, khó duy trì sự công bằng dân chủ theo đúng nghĩa của HTX. Kinh nghiệm thực tế đã chứng minh rằng, các cá nhân có cổ phần áp đảo trong vốn điều lệ sẽ chi phối hoạt động của HTX dưới nhiều kiểu khác nhau và rất tinh vi. Đó cũng là quy luật của cuộc sống, như Ăng-ghen đã từng nói “ Ai có phương tiện đó ( tức là tiền ), là chi phối được thế giới sản xuất “. Điều đáng quan tâm ở đây là nếu không kiểm soát được tình trạng này sẽ khó nhận biết được các Công ty Cổ phần nấp dưới tên gọi “HTX”, đáng lẽ ra phải chịu sự chi phối của Luật doanh nghiệp nhưng lại chịu sự chi phối của Luật HTX và được hưởng những ưu tiên, ưu đãi của chính sách, sẽ làm méo mó tinh thần hỗ trợ chính sách của Nhà nước đối với HTX. Luật HTX ra đời là hành lang pháp lý cho phép các HTX nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng hoạt động. Vì vậy, trong quá trình hoạt động kinh doanh dịch vụ của mình, HTX nông nghiệp không được hoạt động ngoài luật định. Trên thực tế cũng có nhiều HTX chưa vươn tới Luật vì một nguyên nhân nào đó đi theo lại HTX nông nghiệp kiểu cũ làm cho nông dân mất niềm tin vào HTX, vào Đảng và Nhà nước. Và như vậy thì HTX dần dần sẽ tự tan rã. Chính quyền nhân dân đó là UBND các cấp, đặc biệt là cấp xã, phải thực hiện quản lý Nhà nước của mình đối với HTX, tạo môi trường để thúc đẩy HTX nông nghiệp phát triển. Tại địa bàn tỉnh Hà Tây những năm vừa qua, nhiều UBND xã làm rất tốt chức năng, nhiệm vụ của mình đối với HTX nhưng cũng có nơi chính quyền cấp xã còn buông lỏng quản lý, bỏ mặc các HTX hoạt động, cũng có nơi làm thay bao biện hoặc thọc sâu vào công việc nội bộ liên quan đến hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTX. Thiết nghĩ, công việc này phải được chấn chỉnh ngay đối với UBND các cấp, đặc biệt là chính quyền nhân dân cấp xã nếu không sẽ rất khó đưa Luật HTX vào cuộc sống, như thế vô tình đã làm chệch hướng về sự phát triển HTX ( đơn vị nòng cốt của kinh tế tập thể ) trong chiến lược phát triển kinh tế của Đảng ta. - Cuối cùng: Nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp, HTX phải phát huy dân chủ trong nội bộ HTX và củng cố quan hệ sản xuất ở nông thôn. Dân chủ trong nội bộ HTX được hiểu là: Mọi vấn đề ở HXT đều được bàn bạc công khai, mọi xã viên của HTX có quyền tham gia kiểm tra, giám sát những hoạt động ở HTX, mỗi người có một phiếu biểu quyết như nhau được thể hiện trong đại hội xã viên. Quan hệ sản xuất ở nông thôn được thể hiện trên 3 mặt đó là: Quan hệ quản lý, quan hệ sở hữu và quan hệ phân phối. Trên thực tế trong những năm qua, nhiều HTX trên địa bàn tỉnh đã thực hiện quy chế dân chủ ở HTX rất tốt, ở đó xã viên yên tâm, tin tưởng vào HTX; chính là ở những HTX kinh doanh dịch vụ khá. Còn ở những HTX yếu, kém có khi dân chủ chỉ là trên hình thức, thực chất cán bộ HTX cửa quyền, hách dịch, quan liêu, chỉ đưa ra ý kiến của riêng họ nên các vấn đề của HTX không được đảm bảo một cách công khai. Đây chính là nơi chứa nạn tham nhũng, hối lộ của cán bộ HTX hay làm thất thoát tài sản của HTX mà không rõ nguyên nhân. Khi các HTX này tiến hành Đại hội xã viên thì chậm thời gian hoặc không tiến hành được hoặc tiến hành được thì xẩy ra những tranh chấp, kiện cáo về tình hình kinh tế tài chính của HTX. Điều này gây nghi ngờ trong xã viên HTX. Vì vậy, vấn đề dân chủ trong nội bộ HTX phải được thực hiện nghiêm túc theo đúng Luật quy định ở mọi nơi, mọi lúc. Bước vào nền kinh tế thị trường thì tiền tệ đã trở thành công cụ đắc lực cho các mối quan hệ kinh tế. Quan hệ sản xuất ở nông thôn ngày càng phức tạp hơn, đó là: Quan hệ quản lý giữa cán bộ với xã viên HTX, giữa các xã viên với nhau và giữa xã viên với HTX về quan hệ sở hữu và quan hệ phân phối. Việc tranh chấp về quyền sở hữu đất đai, phân phối lại giữa HTX với xã viên hiện nay đang là vấn đề nổi cộm. Nguyên nhân của những tình trạng này là do: Trình độ dân trí thấp nên không hiểu biết pháp luật, mối quan hệ dòng tộc ở nông thôn để chia bè phái để làm việc tuỳ tiện trái pháp luật. Do đó, củng cố quan hệ sản xuất ở nông thôn làm cho nông thôn đoàn kết sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp của cán bộ, xã viên HTX và có như vậy mới làm cho hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX đạt kết quả tốt hơn. II. những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây. 1. Tổ chức lại bộ máy quản lý, đào tạo cán bộ HTX. Hiện nay, bộ máy quản lý trong các HTX nông nghiệp ở tỉnh Hà Tây là một vấn đề nổi cộm cần phải được giải quyết. Nhiều HTX còn lúng túng trong tổ chức, sắp xếp bộ máy, làm việc chưa hợp lý, chưa xác định được phương hướng sản xuất kinh doanh, một số HTX chưa có tư cách pháp nhân để hoạt động kinh doanh dịch vụ theo đúng pháp luật quy định. Do vậy, để tổ chức lại bộ máy có hiệu quả thì trước hết các HTX phải là một tổ chức có tư cách pháp nhân, đăng ký kinh doanh theo Luật HTX. Bộ máy quản lý HTX hoàn chỉnh bao gồm: Hội đồng Quản trị, Chủ nhiệm HTX do Đại hội xã viên bầu ra, các bộ phận chuyên môn giúp việc do Chủ nhiệm HTX lựa chọn với sự nhất trí của Hội đồng Quản trị, Ban Kiểm soát là tổ chức đối trọng với Hội đồng Quản trị, thực hiện chức năng kiểm tra tính dân chủ của hộ xã viên trong HTX. Nguyên tắc bình đẳng được thực hiện thông qua bầu cử và biểu quyết các vấn đề của HTX, ở đó, mỗi xã viên một lá phiếu, không phân biệt số lượng vốn đóng góp nhiều hay ít hoặc giữ chức vụ gì trong HTX. Việc tổ chức lại bộ máy quản lý phải theo hướng gọn nhẹ, tinh giảm, cán bộ được bố trí vào những khâu công việc thật cần thiết, tuỳ theo quy mô HTX mà bố trí sao cho hợp lý. Các chức danh chủ yếu như : Chủ nhiệm HTX, Trưởng Kiểm soát, Kế toán trưởng phải là những người có năng lực, chuyên môn nghiệp vụ cao, có tinh thần trách nhiêm, phải nhiệt tình hăng say trong công tác và được xã viên HTX tín nhiệm. Hàng vụ, hàng năm, tuỳ theo yêu cầu của xã viên và điều kiện cụ thể, cán bộ HTX có thể tổ chức các dịch vụ thiết yếu như: Dịch vụ thuỷ lợi, dịch vụ BVTV, dịch vụ khuyến nông… cho hộ xã viên theo các mô hình sau: Sơ đồ 1: Mô hình HTX kinh doanh dịch vụ tổng hợp Đại hội xã viên Ban Quản trị Ban Kiểm soát Đội, tổ chuyên khâu ngành, nghề sản xuất dịch vụ Kế toán, thủ quỹ Hộ sản xuất, xã viên có nhu cầu dịch vụ Mô hình tổ chức HTX kinh doanh dịch vụ tổng hợp ( xem sơ đồ 1 ) cho chúng ta thấy giữa các bộ phận của HTX có chức năng riêng và có các mối quan hệ gắn bó với nhau. Ban Quản trị và Ban Kiểm soát do Đại hội xã viên bầu ra. Ban Quản trị có chức năng điều hành toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh dịch vụ hỗ trợ cho hộ xã viên thông qua các tổ, đội, chuyên khâu ngành nghề sản xuất dịch vụ và kế hoạch tài chính thông qua bộ phận kế toán của HTX. Ban Kiểm soát có chức năng giám sát mọi hoạt động kinh doanh dịch vụ và hoạt động tài chính của HTX. Nó hoạt động hoàn toàn độc lập. Mô hình tổ chức liên hiệp HTX. Liên hiệp HTX được tổ chức trên cơ sở các HTX liên kết với nhau trong quá trình hoạt động kinh doanh dịch vụ. Đại hội đại biểu xã viên của liên hiệp HTX bầu ra Hội đồng Quản trị và Ban Kiểm soát của HTX. Ban Kiểm soát liên hiệp HTX quản lý và điều hành toàn bộ hoạt động kinh doanh dịch vụ của liên hiệp HTX thông qua Ban Quản trị của các HTX thành viên, điều hành hoạt động kế toán, tài chính qua bộ phận kế toán của liên hiệp HTX. Ban Quản trị các HTX thành viên tổ chức, quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh dịch vụ trong phạm vi quyền hạn của HTX mình, với hệ thống kế toán riêng thông qua đội, tổ chuyên ngành sản xuất dịch vụ. Tuỳ theo yêu cầu của xã viên và điều kiện cụ thể của mình, các HTX có thể tổ chức theo 1 trong 2 mô hình trên để đảm bảo tận dụng mọi tiềm năng, đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho HTX và phục vụ được tốt nhất các khâu dịch vụ cho kinh tế hộ xã viên. Các HTX cần ban hành quy chế làm việc của Ban Quản trị, Ban Kiểm soát và các bộ phận chuyên môn giúp việc nhằm đảm bảo cho bộ máy quản lý hoạt động đồng bộ, không chồng chéo và có hiệu quả, đảm bảo cho Chủ nhiệm HTX có quyền điều hành chủ động và chịu trách nhiệm trước xã viên trong quá trình hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX. Đội ngũ cán bộ HTX trên địa bàn tỉnh hiện nay còn nhiều bất cập với cơ chế hoạt động, cụ thể: Chủ nhiệm HTX có trình độ hết cấp 2 chiếm 52%, hết cấp 3 chiếm 48%, còn 38.9% chưa qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ; kế toán trưởng có trình độ văn hoá hết cấp 2 là 20%, hết cấp 3 là 80% và còn 40% chưa qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ; trưởng ban kiểm soát có trình độ hết cấp 2 là 60%, hết cấp 3 là 40% và còn 80% chưa qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ. Số cán bộ đã qua đào tạo thì lại được đào tạo theo cơ chế bao cấp. Do đó, cán bộ HTX chỉ mạnh về chỉ đạo “phong trào” theo cơ chế cũ, chưa quen với cơ chế cạnh tranh của thị trường, chưa quen với chức năng kinh doanh dịch vụ cho kinh tế hộ gia đình xã viên. Trong khi đó các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là kinh tế tư nhân lại rất năng động với cơ chế thị trường, có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh dịch vụ. Chính vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX nông nghiệp và cán bộ chuyên môn đang là nhu cầu cấp bách cho các địa phương nói chung và của Hà Tây nói riêng. Trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX phải xác định, nội dung, hình thức đào tạo, thời gian đào tạo và đào tạo cho đối tượng nào với nội dung gì, cụ thể: - Chủ nhiệm HTX, đào tạo cơ bản những kiến thức về nền kinh tế thị trường, tổ chức quản lý và kiến thức Maketing. Tỉnh cần phải có chương trình bồi dưỡng cho cán bộ đương chức và cán bộ kế cận. Cán bộ quản lý phụ trách từng khâu công việc, dịch vụ, chương trình đào tạo bồi dưỡng phải đi sâu vào kiến thức và kỹ năng phải đi sâu vào từng hoạt động dịch vụ cụ thể. Kế toán trưởng, cán bộ kế hoạch dự án, kỹ thuật cần được đào tạo theo chương trình chuyên môn và bồi dưỡng theo chuyên ngành. Trưởng kiểm soát phải được đào tạo cả về tư tưởng, chính trị và chuyên môn nghiệp vụ, kiểm tra, thanh tra các hoạt động kinh doanh dịch vụ cụ thể và công tác tài chính ở HTX. Kế hoạch đến năm 2004, tỉnh phải quy hoạch công tác cán bộ, giành kinh phí đầu tư cho bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX dưới sự chủ trì tổ chức của Sở NN&PTNT. Trước mắt, năm 2002 tỉnh phải tổ chức bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt của HTX như: Chủ nhiệm, trưởng kiểm soát và kế toán trưởng với hình thức đào tạo cán bộ tại chức tại chỗ. Về kinh phí đào tạo thực hiện theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” có nghĩa là tỉnh đầu tư, hỗ trợ 50% tổng mức kinh phí còn HTX chi bằng quỹ đầu tư phát triển của HTX là 50%. Có như vậy thì công việc đào tạo cán bộ HTX mới thực hiện và đạt kết quả tốt. 2. Tăng cường công tác kế hoạch hoá. Công tác kế hoạch ở HTX nông nghiệp là điều kiện cơ bản đảm bảo thực hiện có hiệu quả phương hướng hoạt động kinh doanh dịch vụ, là công cụ quan trọng giúp cho Ban Quản trị HTX chỉ đạo điều hành sản xuất nông nghiệp và thực hiện các hoạt động kinh doanh dịch vụ có cơ sở khoa học. Mặt khác, kế hoạch giúp cho HTX nông nghiệp tập trung khai thác mọi tiềm năng của mình để nâng cao năng lực sản xuất và hiệu quả kinh doanh dịch vụ. Nhờ sự tính toán có kế hoạch mà HTX tránh được những rủi ro đồng thời chủ động ứng phó khi có sự biến đổi bất thường. Kế hoạch còn giúp cho các HTX có cơ sở khoa học, kiểm tra được những hoạt động của mình, tìm ra được những điểm mạnh, điểm yếu của mình và của các đối thủ cạnh tranh để có những giải pháp đối phó thích hợp. Khi xây dựng và thực hiện kế hoạch, các HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây cần đảm bảo những nguyên tắc sau: Phải phù hợp với nhu cầu của hộ xã viên và nhu cầu của thị trường. Trong cơ chế thị trường, mọi hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTX phải tuân theo quy luật của thị trường, phải chịu sự chi phối của thị trường và phù hợp với nhu cầu của kinh tế hộ xã viên. Vì vậy, việc xây dựng các chỉ tiêu của kế hoạch cũng như các biện pháp thực hiện các chỉ tiêu đó phải dựa vào thị trường và phù hợp với nhu cầu của thị trường. Để làm được điều này cần phải phân tích thị trường, nghiên cứu và dự báo các quy luật thị trường. Trước hết đó là cung, cầu, giá cả sản phẩm dịch vụ trên thị trường. - Đảm bảo tính khoa học của kế hoạch : Kế hoạch của HTX phải đảm bảo tính khoa học, có nghĩa là nội dung, phương pháp và chỉ tiêu kế hoạch của HTX nông nghiệp phải phù hợp với yêu cầu và khả năng của điều kiện kinh tế- xã hội của HTX, phải đảm bảo được tính cân đối trong kế hoạch ( cân đối giữa các yếu tố, giữa các bộ phận, giữa các chỉ tiêu nhiệm vụ và các chỉ tiêu biện pháp ). Đảm bảo tính linh hoạt của kế hoạch. Kế hoạch không phải cứng nhắc, bất di bất dịch mà nó phải luôn luôn linh hoạt mới ứng phó được những biến động, bất ngờ có thể xẩy ra trong quá trình kinh doanh dịch vụ. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường luôn biến động, các tình huống bất ngờ càng nhiều hơn thì tính linh hoạt của kế hoạch càng cao. Tuy nhiên, nếu thiếu tính toán mà thay đổi thường xuyên thì kế hoạch không phải là kế hoạch nữa. Vì vậy, tính linh hoạt đòi hỏi phải có sự tính toán, cân nhắc cẩn thận và vận dụng trong từng trường hợp nhất định. Đảm bảo tính khả thi của kế hoạch ( kế hoạch được thực hiện ). Kế hoạch là công cụ chủ yếu để quản lý các doanh nghiệp nói chung và các HTX nông nghiệp nói riêng, vì vậy kế hoạch trong HTX phải là một văn bản có tính khả thi và mức độ thực hiện cao. Do đó, phải tránh tình trạng hình thức trong việc xây dựng và lập kế hoạch ở HTX. Việc xây dựng kế hoạch kinh doanh dịch vụ ở HTX bao gồm các nội dung sau: Xác định rõ nhiệm vụ của từng dịch vụ HTX phải làm đối với hộ xã viên: HTX phải căn cứ vào nhu cầu của xã viên, khả năng của HTX và tình hình cụ thể của kinh tế xã hội ở từng địa phương để xác định loại dịch vụ và nội dung từng dịch vụ mà HTX phục vụ cho hộ xã viên. Nhiệm vụ của từng dịch vụ phải làm rõ: Ban Quản trị làm gì?, tổ dịch vụ làm gì?, tổ xã viên làm gì?, mức độ đảm nhận, thời gian cung cấp, thời gian hoàn thành, chất lượng dịch vụ ra sao;... Nhiệm vụ càng rõ, trách nhiệm của từng bên tham gia dịch vụ phải rõ ràng và xã viên mới có điều kiện kiểm tra mức độ hoàn thành của HTX, để đóng góp trả phí cho thoả đáng. Xác định từng đơn giá dịch vụ: Đơn giá dịch vụ chính là giá bán ( hoặc giá thu dịch vụ ) đối với hộ xã viên tính trong một đơn vị diện tích của một loại dịch vụ cụ thể như: Giá thu cho một ha tưới nước/năm, đơn giá làm đất cho 1 ha/ năm... Đơn giá dịch vụ không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội phức tạp. Vì vậy, HTX phải xem xét một cách thấu đáo trên nhiều phương diện, đảm bảo được lợi ích của HTX và của hộ xã viên. + Đơn giá dịch vụ phải đảm bảo các yêu cầu sau: Đơn giá dịch vụ phải thu hồi đủ chi phí dịch vụ HTX đã bỏ ra ( chi phí vật tư, công lao động, chi phí quản lý, khấu hao TSCĐ...). Đơn giá dịch vụ phải đảm bảo cho HTX có một phần lãi để trích lập quỹ mở rộng năng lực dịch vụ, một phần kích thích xã viên mở rộng dịch vụ và một phần cho các xã viên đóng góp vốn vào HTX. Đơn giá dịch vụ của HTX phải thấp hơn hoặc xấp xỉ giá của thị trường và được hộ xã viên chấp nhận. + Các căn cứ để xác định đơn giá dịch vụ: Căn cứ vào nhiệm vụ của khâu dịch vụ mà HTX đảm nhận. Căn cứ vào bình quân chi phí thực tế của HTX trong những năm gần đây nhằm loại bỏ các yếu tố cá biệt. Chi phí bình quân dịch vụ A = Tổng chi phí các năm cho dịch vụ A Số năm tổng hợp Căn cứ vào giá cả trên thị trường. Căn cứ vào các định mức kỹ thuật mà Nhà nước hướng dẫn. + Các yếu tố cấu thành giá dịch vụ gồm: chi phí trực tiếp ( nguyên, nhiên vật liệu, dụng cụ, tiền công...), chi phí gián tiếp phân bổ cho từng dịch vụ ( khấu hao TSCĐ, chi quản lý ...), thuế nộp nhà nước (nếu có ), lãi định mức từ 0 – 25% doanh thu tuỳ theo các loại dịch vụ. Như vậy, gía thu của hộ xã viên sử dụng dịch vụ của HTX gồm các chi phí kế hoạch + lãi định mức. Sau khi xây dựng xong đơn giá phải được trình Đại hội xã viên thảo luận và quyết định. HTX căn cứ vào mức giá Đại hội xã viên quyết định để tổ chức thu - chi nhằm đảm bảo tốt cung ứng dịch vụ cho hộ xã viên. Tổ chức điều hành dịch vụ bao gồm: Tổ chức các dịch vụ và điều hành cụ thể từng dịch vụ theo kế hoạch đã được Đại hội xã viên quyết định. Dự kiến hiệu quả dịch vụ và phân phối kết quả dịch vụ. Trách nhiệm và quyền lợi các bên tham gia dịch vụ: Kế hoạch dịch vụ xây dựng xong được các xã viên thảo luận, đóng góp, được đại hội xã viên quyết định. Ban Quản trị HTX tổ chức điều hành theo từng dịch vụ. Cuối năm báo cáo kết quả với đại hội xã viên và chấn chỉnh những bất hợp lý làm cơ sở cho việc thực hiện cho kế hoạch năm sau. 3. Thực hiện tốt chế độ kế toán. Để thực hiện tốt chế độ kế toán, các HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây phải làm những công việc sau: Tổ chức bộ máy làm công tác kế toán: Kế toán HTX từ 1– 3 người, tuỳ thuộc vào quy mô kinh doanh dịch vụ và địa bàn hành chính khác nhau. Nếu doanh thu dưới 500 triệu đồng/năm, số dịch vụ từ 2 – 3, hộ xã viên dưới 500 hộ thì chỉ bố trí một kế toán. Nếu quy mô HTX có trên 1000 hộ, doanh thu trên 1 tỷ đồng/năm, số dịch vụ thực hiện từ 5 trở lên thì bố trí 3 kế toán gồm 1 kế toán trưởng và 2 kế toán viên. Kế toán HTX phải thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ được quy định trong chế độ kế toán HTX nông nghiệp. Hình thức thanh toán trong HTX, kế toán HTX phải thanh toán thẳng tới hộ xã viên. Các đội trưởng tiếp nhận dịch vụ và giúp kế toán HTX tính toán, hạch toán các công việc có liên quan. Thực hiện việc ghi chép sổ sách, cập nhật chứng từ và làm đủ các báo cáo tài chính. HTX nông nghiệp muốn hạch toán tốt, ngoài yếu tố con người, chuẩn bị đủ sổ sách, chứng từ và các điều kiện vật chất khác cho công tác hạch toán kế toán cũng rất quan trọng: Sổ sách kế toán: Theo quy định hiện hành, HTX nông nghiệp sử dụng 19 loại sổ sách kế toán theo mẫu thống nhất do Bộ Tài chính quy định. Tuỳ theo các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong HTX mà HTX phải mở sổ sách trên cơ sở có nghiệp vụ phát sinh liên quan tới sổ nào thì phải mở sổ đó. Hàng ngày phải ghi chép đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào các sổ có liên quan; phải ghi đầy đủ các cột, mục có trong từng loại sổ; cuối mỗi trang phải cộng sổ và hàng tháng phải khoá sổ đối chiếu số dư ở các tài khoản với các sổ có liên quan. Không được tẩy, xoá các số liệu trong sổ sách kế toán mà phải sử dụng các phương pháp sửa chữa quy định trong chế độ kế toán. Chuẩn bị ghi chép, phát hành đầy đủ các chứng từ kế toán. Mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều phải lập chứng từ, mọi số liệu ghi trên sổ kế toán đều phải có chứng từ kế toán hợp pháp, hợp lệ chứng minh. Sau khi sử dụng xong chứng từ kế toán phải được sắp xếp, phân loại, bảo quản tốt theo quy định. Kế toán HTX phải lập và phát hành chứng từ tới từng đối tượng có liện quan, không được chỉ phát hành tổng hợp cả đội sản xuất một chứng từ. Các hợp đồng cung cấp dịch vụ giữa HTX và hộ xã viên, là chứng từ quan trọng để cung cấp và thanh toán dịch vụ, điều này thể hiện sự ràng buộc pháp lý giữa HTX và hộ xã viên. Trước kia ít HTX phát hành, nay cần thực hiện tốt và phát hành đầy đủ các chứng từ ở HTX. Lập đầy đủ các báo cáo tài chính theo quy định. Các báo cáo tài chính có 7 báo cáo gồm: 4 báo cáo trình đại hội xã viên và 3 báo cáo tài chính là: Bảng cân đối tài khoản, Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh dịch vụ. Hàng năm, sau mỗi niên độ kế toán, các HTX phải gửi đúng thời gian theo quy định lên Phòng NN&PTNT huyện; phải ghi đầy đủ các nội dung trong từng báo cáo và có đề xuất các biện pháp để thu nợ đọng sản phẩm ở HTX. Trình tự ghi vào các loại biểu kế toán như sau: (xem sơ đồ 2 ). Ghi chú: đ Ghi hàng ngày ị Ghi định kỳ. Đối chiếu kiểm tra. Sơ đồ 2: Trình tự ghi chép vào các biểu kế toán Chứng từ gốc Nhật ký sổ cái Bảng tổng hợp chứng từ gốc Sổ kế toán chi tiết Bảng tổng hợp chi tiết Báo cáo tài chính Việc hạch toán trong các HTX nông nghiệp gồm: Hạch toán tổng hợp để rút ra kết quả chung của HTX sau 1 năm hoạt động và được hạc toán vào cuối năm; hạch toán từng dịch vụ có thể hạch toán sau mỗi vụ sản xuất, hạch toán sau mỗi vụ đã hoàn thành do chủ nhiệm và Ban Quản trị HTX quyết định. HTX cần bố trí nơi làm việc, trang bị tốt các điều kiện làm việc như: bàn, ghế, tủ đựng tài liệu, máy tính, các biểu mẫu kế toán... Sau khi kết thúc năm tài chính, HTX phải sắp xếp và lập bảng kê để đưa các tài liệu kế toán vào bảo quản, lưu trữ theo quy định. 4. Tăng cường công tác quản lý vốn ở HTX. Vốn kinh doanh ở HTX nông nghiệp được biểu hiện bằng toàn bộ giá trị bằng tiền của TSCĐ và TSLĐ. Để tiến hành các hoạt động kinh doanh dịch vụ, các HTX cần một lượng vốn nhất định. Ngoài nguồn vốn tự có của HTX, hàng năm HTX phải huy động các nguồn vốn khác như: Vốn liên doanh, liên kết, vay hộ xã viên, vay tổ chức tín dụng, vốn ứng trước của khách hàng. Vốn ở HTX nông nghiệp được chia làm 2 loại: Vốn cố định ( VCĐ ) và Vốn lưu động (VLĐ). Quản lý VCĐ: VCĐ là bộ phận chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn sản xuất kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp. Do tính chất sử dụng của nó nên cần phải chú ý phân loại: VCĐ dùng vào việc kinh doanh dịch vụ hay không, sử dụng vào ngành kinh doanh chính hay phụ. VCĐ trong HTX nông nghiệp bị thất thoát hàng năm ( hao mòn ) do nhiều nguyên nhân như: Biến động giá cả, rủi ro, thiếu sót, yếu kém trong quản lý ( mất mát, hư hỏng, khấu hao không đủ ). Vì vậy, vấn đề bảo tồn và tăng trưởng VCĐ là yêu cầu bắt buộc đối với các HTX. Bảo tồn VCĐ được xác định theo công thức sau: Số VCĐ phải bảo tồn cuối kỳ = Số VCĐ giao đầu kỳ - Khấu hao đã nộp x Hệ số trượt giá x Hệ số hao mòn vô hình Số VCĐ ở cuối kỳ = Số VCĐ phải bảo tồn ± Tăng, giảm VCĐ trong kỳ Trong HTX nông nghiệp hiện nay, việc xác định hao mòn vô hình hầu như chưa làm được nên trong bảo toàn vốn chỉ là bảo tồn TSCĐ hữu hình. Hệ số trượt giá căn cứ vào công bố biến động giá cả hàng năm của Chính phủ. Để quản lý và sử dụng VCĐ có hiệu quả và hợp lý, thời gian tới các HTX nông nghiệp sử dụng các biện pháp chủ yếu sau: + Đầu tư và trang bị đồng bộ, tập trung dứt điểm, ưu tiên cho ngành chính và khâu kinh doanh dịch vụ chủ yếu. + Rút ngắn thời gian thi công, xây dựng, lắp đặt, nhanh chóng đưa máy móc, công trình vào hoạt động để thu hồi vốn. + Khai thác tối đa công suất và thời gian làm việc của công trình, máy móc thiết bị. + Thực hiện chế độ kiểm kê định kỳ và thực hiện khấu hao đầy đủ. Hàng năm, các HTX phải đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ để có giải pháp quản lý thích hợp thông qua mộ số chỉ tiêu sau: Hiệu suất sử dụng VCĐ theo giá trị khối lượng dịch vụ (Hkl) Hkl = Gkl Vcđ Trong đó: Gkl:Giá trị khối lượng dịch vụ của kỳ kinh doanh. Vcđ:Số VCĐ trong kỳ. Hiệu suất sử dụng VCĐ theo lợi nhuận (HP). HP = P Vcđ Trong đó: P : Lợi nhuận của kỳ kinh doanh. Quản lý VLĐ: VLĐ trong HTX được chia làm 2 loại: VLĐ định mức và VLĐ không định mức. Thực chất của việc quản lý và sử dụng VLĐ cho hoạt động kinh doanh dịch vụ là: VLĐ không định mức, vốn được HTX thường xuyên chiếm dụng ở mức tối thiểu để tiến hành kinh doanh ở mức bình thường, VLĐ không định mức chủ yếu là các khoản vốn trong thanh toán, vốn tiến tệ... Một vấn đề đặt ra hiện nay cho các HTX là phải bảo tồn được VLĐ. Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng như: Hàng hoá kém phẩm chất, kinh doanh thua lỗ kéo dài, rủi ro, bị chiếm dụng vốn... Bảo toàn vốn lưu động được xác định như sau: Số VLĐ phải bảo toàn tới cuối kỳ = VLĐ đầu kỳ - Chi phí VLĐ mất đi cho phép x Hệ số trượt giá Số vật liệuĐ có ở cuối kỳ = VLĐ bảo toàn ± VLĐ tăng, giảm trong kỳ HTX nông nghiệp phải làm sao cho VLĐ thực có để hoạt động tăng lên và công nợ phải giảm dần. Từng bước chấm dứt nợ không có khả năng thu hồi. Hiện nay, nguyên nhân chính và chủ yếu làm cho HTX thiếu VLĐ để hoạt động là do tình trạng nợ đọng sản phẩm của xã viên HTX. Các biện pháp áp dụng để thu nợ sản phẩm là: Phân loại đối tượng nợ để có biện pháp thu nợ cụ thể. Động viên, tuyên truyền thường xuyên tới xã viên có nợ đọng sản phẩm để họ thấy rõ được thiệt hại mà họ gây ra cho HTX. Nhắc nợ bằng: Giấy báo nợ, công bố trên loa truyền thanh của xã. Những đối tượng cố tình thì tổ chức thu nợ vào lúc thu hoạch ( có tính lãi), cá biệt thì thu tại địa điểm nơi sản xuất. Các biện pháp đều không đạt hiệu quả thì lập danh sách đề nghị UBND xã ra quyết định rút ruộng ( người nợ đọng sản phẩm nhiều nhất rút không quá 2/3 diện tích canh tác ). Cán bộ HTX được phân công phụ trách từng mảng dịch vụ, nếu cứ để nợ đọng đến 1500 kg thóc phải chịu trừ 1/4 số công trên vụ . Để thấy được việc quản lý VLĐ như thế nào, các HTX phải nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ. Thông qua các chỉ tiêu đánh giá sau: Tốc độ chu chuyển VLĐ (Vlđ) L = M T = N Vlđ L Trong đó: L: Là số lần chu chuyển VLĐ trong kỳ. M: Tổng mức luân chuyển VLĐ trong kỳ. T: Số ngày một lần luân chuyển. N: Số ngày của chu kỳ kinh doanh (tháng, quý, năm ). Hiệu suất hoàn trả VLĐ (H) H = Gkl Vlđ Để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ thì các HTX phải tăng tốc độ chu chuyển VLĐ mà biện pháp sử dụng chủ yếu là: Dự trữ hợp lý, tránh dư thừa hoặc không có dự trữ cho quá trình kinh doanh dịch vụ, không để ứ đọng vốn, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh dịch vụ bình thường. 5. Hoàn thiện các chính sách của Nhà nước đối với các HTX nông nghiệp. Để khuyến khích các HTX nông nghiệp phát triển, đặc biệt là ở giai đoạn đầu chuyển đổi và hoạt động theo Luật, nội lực của HTX còn yếu. Nhà nước cần phải hoàn thiện các chính sách một cách đồng bộ để hỗ trợ về kinh tế, tạo điều kiện cho các HTX phát triển. Về chính sách đất đai đối với HTX: Đây là một trong những chính sách rất quan trọng có tác động trực tiếp tới sự phát triển của HTX trong tất cả các lĩnh vực kinh tế. Mặc dù đã có luật đất đai sửa đổi và các văn bản hướng dẫn thi hành, song trên thực tế, các HTX nông nghiệp đã chuyển đổi sang hoạt động theo Luật HTX vẫn đang gặp phải những cản trở, vướng mắc về vấn đề đất đai như sau: Một là, theo quy định hiện hành của luật đất đai thì diện tích đất, mặt nước được sử dụng vào mục đích sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp phải được giao cho các hộ nông dân, ngư dân sử dụng lâu dài và họ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài trên số diện tích đã nhận. Nhưng cho đến nay, trên địa bàn tỉnh Hà Tây, nhiều nơi vẫn chưa thực hiện xong. Theo số liệu thống kê của Cục Địa chính Hà Tây cho biết, vào cuối năm 2001, toàn tỉnh mới có khoảng 70% số xã, phường cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 85% số hộ nông dân và đã đạt 78% diện tích đất nông nghiệp phải cấp. Việc chậm trễ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ nông dân làm trì trệ quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp và kéo theo ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh dịch vụ của nhiều HTX nông nghiệp đã chuyển đổi. Bên cạnh đó, việc chia ruộng manh mún, quá nhiều mảnh, thửa cho hộ nông dân trong thời gian qua cũng gây ra khó khăn cho hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTX về: Thuỷ lợi, làm giống, BVSX…đồng thời gây cản trở việc sản xuất hàng hoá của các hộ đã gây nên tổn thất và chi phí cao trong sản xuất và thu hoạch. Vì vậy, vấn đề chuyển đổi ruộng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ nông dân phù hợp với diện tích mới và quy hoạch đồng ruộng đang trở thành bức thiết cần được các HTX tiến hành ngay mặc dù có những khó khăn, cản trở. Hai là, đối với bản thân các HTX mới thành lập đã không có mặt bằng làm trụ sở phải đi thuê của UBND xã và các tổ chức cá nhân khác nên đã không đáp ứng được nhu cầu dịch vụ của hộ xã viên. Vì vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần bổ sung chính sách giao đất hoặc cho thuê ưu đãi đối với các HTX nông nghiệp này. Nếu chỉ áp dụng chính sách cho HTX thuê đất theo chế độ hiện hành thì rất ít các HTX có khả năng trả tiền thuê. Về chính sách thuế đối với HTX: Chính sách thuế đã được Nhà nước quy định trong Nghị định 15/CP của Chính phủ ngày 21/02/1997 về một số ưu đãi của Nhà nước đối với HTX. Thực tiễn vận dụng chế độ ưu đãi về thuế đối với HTX nông nghiệp trong những năm vừa qua cho thấy một số mâu thuẫn: Chính sách quy định trong Nghị định 15/CP chưa đủ cụ thể để triển khai và chưa bao quát hết đối với các loại hình HTX trong đó có HTX nông nghiệp. Các HTX làm dịch vụ tiêu thụ sản phẩm cho hộ xã viên với tên gọi “HTX dịch vụ thương mại” đã không được hưởng chính sách ưu đãi về thuế theo quy định. Việc thực hiện thuế VAT bắt đầu từ năm 1999 đã gây nhiều thua thiệt cho HTX so với thuế doanh thu cũ, do HTX không có đủ chứng từ, hoá đơn tài chính có thuế VAT khi mua các vật tư “đầu vào” để được miễn nộp. Vì vậy, Nhà nước cần phải bổ sung, sửa đổi mức thuế VAT cho phù hợp. Việc áp dụng chế độ thuế mới ( thuế VAT, thuế thu nhập ) chưa đi đôi với việc hướng dẫn đầy đủ chế độ kế toán mới cho HTX, làm cho chính sách ưu đãi về thuế đối với HTX không được thực hiện. Trong những năm tới, Nhà nước nên nghiên cứu, xem xét để giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho hệ thống quỹ tín dụng nhân dân từ 32% xuống còn 10 hoặc 15%. Vì hoạt động tín dụng chủ yếu phục vụ người nghèo ở nông thôn và không nên coi các tổ chức này như là các Ngân hàng Thương mại. Về chính sách tín dụng đối với các HTX. Theo quy định thì HTX được vay vốn ở tất cả các hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tài chính khác với lãi suất ưu đãi. Nhưng trên thực tế, cho đến nay vẫn chưa có một hướng dẫn cụ thể nào của Ngân hàng Nhà nước về việc cho HTX vay vốn để kinh doanh. Hầu hết các HTX ở nhiều địa phương trong tỉnh chưa vay được vốn từ Ngân hàng do HTX chưa có tài sản thế chấp theo đúng yêu cầu (chủ yếu là TSCĐ, đất đai ). Do vậy, cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể của Ngân hàng về việc cho HTX vay vốn dự án kinh doanh dịch vụ là rất cần thiết. Mặt khác, Nhà nước cần có cơ chế giúp HTX lập quỹ bảo lãnh tín dụng để có thể vay được vốn từ Ngân hàng với chế độ bảo lãnh thích hợp. Về chính sách bảo hiểm xã hội. Điều 15- Nghị định 15/CP quy định: Bộ Lao động-Thương binh và xã hội chủ trì cùng các Bộ quản lý ngành liên quan có văn bản hướng dẫn việc đóng bảo hiểm xã hội cho cán bộ, xã viên hợp tác xã và phù hợp với đặc điểm từng loại hình HTX theo pháp luật. Cho đến nay quy định này vẫn chưa được triển khai thực hiện, ở tỉnh Hà Tây có rất nhiều địa phương, HTX có nhu cầu đóng bảo hiểm nhưng cơ quan bảo hiểm không nhận mua đã gây ra thắc mắc và bất bình ở các HTX này. Về chính sách giải quyết công nợ tồn đọng của HTX cũ. Trên địa bàn tỉnh Hà Tây hiện nay, rất nhiều HTX nông nghiệp còn nợ Nhà nước và các tổ chức kinh tế khác về các khoản vay từ những năm trước để dùng vào các mục tiêu khác nhau. Nghị định 16/CP của Chính phủ ngày 21/02/1997 đã quy định về việc giải quyết công nợ của HTX, song cho đến nay vẫn chưa có một văn bản hướng dẫn cụ thể nào của các Bộ, Ngành về công nợ của HTX theo quy định dẫn đến nhiều HTX đã không xử lý được các khoản nợ đọng với Nhà nước nên đã không thể chuyển đổi và giải thể theo Luật HTX. Mặc dù có nhiều HTX đã chuyển đổi mà vẫn chưa xử lý được quan hệ nợ nần, gây khó khăn trong vấn đề tài chính. Vì vậy, trong những năm tới, các Ngành, các cấp liên quan, đặc biệt là Bộ Tài chính phải ban hành quy chế cụ thể về giải quyết công nợ trong HTX, tạo điều kiện cho các HTX kinh doanh dịch vụ có hiệu quả. Chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng. Các ngành của tỉnh và huyện cần chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức xây dựng, quy hoạch nông thôn theo hướng hiện đại hoá. Trên cơ sở quy hoạch, Nhà nước cần hỗ trợ một phần vốn cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như: Giao thông liên xã, điện, nước, công trình thuỷ lợi theo các chương trình, mục tiêu của Quốc gia và của tỉnh. Trước mắt, từ nay đến năm 2005, phải đầu tư xây dựng một số mô hình điểm về nông thôn mới theo hướng Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá ở những huyện và xã có điều kiện thực hiện. Tóm lại, việc hoàn thiện các chính sách của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp rất quan trọng. Bởi vì hiện nay nông thôn còn nghèo, nông nghiệp còn lạc hậu và phụ thuộc nhiều vào các yếu tố bên ngoài nên nội lực cho sự phát triển của HTX còn yếu. Vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây hiện nay đòi hỏi Nhà nước phải thực hiện các chính sách một cách đồng bộ và nhất quán, có như vậy mới mong hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp đạt kết quả tốt hơn. kết luận HTX nông nghiệp được hình thành và tồn tại trong nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan. HTX nông nghiệp có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng sự phát triển các hình thức hợp tác nói chung và kinh tế HTX nói riêng. Sự ra đời của các HTX nông nghiệp kiểu mới trong nông nghiệp, nông thôn của cả nước nói chung và của tỉnh Hà Tây nói riêng, vừa là kết quả của sự đổi mới hình thức tổ chức, nội dung hoạt động và cơ chế quản lý ở các HTX, vừa là kết quả của những đòi hỏi khách quan của việc từng bước chuyển nền nông nghiệp từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá. Luật HTX ra đời và có hiệu lực thi hành từ 01/01/1997 là hành lang pháp lý, tạo môi trường lành mạnh cho các HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh hoạt động. Bằng những cơ sở khoa học và thực tiễn của kinh tế hợp tác trong đó có kinh tế HTX, luận văn tốt nghiệp đã khái quát bản chất của HTX, sự cần thiết phải nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp và kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới về phát triển HTX nông nghiệp. Qua đó ta thấy được rằng, vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp của nước ta nói chung và của tỉnh Hà Tây nói riêng là một tất yếu khách quan, làm cho HTX nông nghiệp hoạt động phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới và phù hợp với xu thế phát triển của HTX nông nghiệp trên thế giới. Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây cho thấy những mặt đã đạt được và những yếu kém trong quá trình hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp. Qua đó, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp trong thời gian tới. Để tạo điều kiện và giúp đỡ các HTX nông nghiệp hoạt động kinh doanh dịch vụ có hiệu quả và hỗ trợ thực sự cho kinh tế hộ xã viên phát triển, em xin nêu một số kiến nghị với UBND tỉnh Hà Tây và Trung ương một số vấn đề sau: Tỉnh cần rà soát số HTX nông nghiệp đã nhận đăng ký kinh doanh, kể cả HTX cũ chuyển sang và HTX mới thành lập để giúp đỡ các HTX đã làm sai nay phải sửa đổi cho đúng Luật HTX. Đối với số HTX đã làm thủ tục nhưng chưa nhận đăng ký kinh doanh hoặc chưa làm thủ tục đăng ký kinh doanh, UBND tỉnh cần có văn bản triển khai tới các UBND huyện để tiến hành phê duyệt thủ tục đăng ký kinh doanh một cách chặt chẽ, đầy đủ và cụ thể hơn. Các ban ngành thuộc tỉnh tiếp tục tuyên truyền rộng rãi những điểm cơ bản của Luật HTX tới cán bộ quản lý và xã viên của HTX để mọi người hiểu rõ và nắm vững trong quá trình chuyển đổi và quá trình hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX. Các Bộ, ngành có các Thông tư hướng dẫn thực hiện các Nghị định của Chính phủ đối với HTX như: Nghị định 15 về chính sách ưu tiên đối với HTX và Nghị định 02 về quản lý Nhà nước các cấp đối với HTX, có chủ trương và hướng dẫn cụ thể cho cán bộ và xã viên HTX tham gia bảo hiểm xã hội. Tạo điều kiện về vốn cho các HTX nông nghiệp hoạt động bằng các nguồn vốn đầu tư nhằm giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, mở rộng và phát triển kinh doanh ngành nghề phụ ở nông thôn. Cần có chính sách khuyến khích bảo hiểm, trợ giá và tạo điều kiện tiêu thụ hàng hoá nông sản cho hộ nông dân, có chính sách giảm và tiến tới miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho hộ nông dân để họ tăng tích luỹ, tái đầu tư, mở rộng cho sản xuất nông nghiệp. Xem xét lại giá điện phục vụ sản xuất ở nông thôn, chỉ nên để bằng giá điện sinh hoạt. Các trạm bơm của HTX được xây dựng bằng vốn tự có nên việc tổ chức, quản lý, điều hành phải đượ hưởng các chính sách ưu đãi như các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lơị. Tăng cường đầu tư nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt ở nông thôn như: Giao thông, thuỷ lợi nội đồng... nhất là chương trình cứng hoá kênh mương, đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật, biện pháp thâm canh cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế và năng suất cao. Như vậy sẽ đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp ổn định, phát triển, nông thôn đoàn kết, góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. Danh mục tài liệu tham khảo Luật HTX – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội – 1996. Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, nông thôn thế giới và Việt Nam – Nhà xuất bản Thống kê - 1996. Ban kinh tế Tỉnh uỷ Hà Tây: Đề án chuyển đổi HTX nông nghiệp của tỉnh theo Luật HTX . Số 28 - ĐA/BKT ngày 26/03/1997. Tỉnh uỷ Hà Tây: Chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về việc chuyển đổi HTX nông nghiệp theo Luật HTX ngày 01/04/1997. UBND tỉnh Hà Tây – Sở NN&PTNT: Báo cáo tình hình HTX nông nghiệp hiện nay của tỉnh Hà Tây – Ngày 21/07/1997. UBND tỉnh Hà Tây: Kế hoạch chuyển đổi HTX nông nghiệp theo Luật HTX – Số 895 KH/UB ngày 27/08/1997. Bộ NN&PTNT: Tài liệu tập huấn Luật HTX và các Nghị định của Chính phủ quy định về việc thi hành trong nông nghiệp – Nhà xuất bản Nông nghiệp TP Hồ Chí Minh năm 1997. Niên giám Thống kê tỉnh Hà Tây từ 1996 – 2001. Các Báo cáo về tình hình HTX nông nghiệp qua các năm (từ năm 1998 – 2001 ) của Phòng Chính sách – Sở NN&PTNT tỉnh Hà Tây. Đổi mới tổ chức và quản lý các HTX trong nông nghiệp, nông thôn – Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội – 1999. UBND tỉnh Hà Tây: Tiếp tục nâng cao hoạt động của các HTX nông nghiệp trong thời gian tới – Số 33 – BC/UB ngày 20/03/2000. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp nông nghiệp – Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội – Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội – 2001. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – 2001. UBND tỉnh Hà Tây – Sở NN&PTNT : Quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tây đến năm 2010. Hà Đông tháng 02/2001. Luận án Thạc sĩ kinh tế của Ngô Thị Kim Ngân: Những giải pháp chủ yếu đổi mới và phát triển HTX nông nghiệp ở huyện ứng Hoà tỉnh Hà Tây – Hà Nội năm 2001. Chu Tiến Quang và Lê Xuân Đình: Nhìn lại bốn năm đưa Luật HTX vào cuộc sống – Tạp chí Cộng sản số 22 tháng 11/2001. Mục lục Trang UBND tỉnh Hà Tây Sở NN&PTNT Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ---------o0o--------- Hà Nội ngày 10 tháng 05 năm 2002 Nhận xét sinh viên thực tập Họ và tên sinh viên: Nguyễn Văn Đăng. Đơn vị : Lớp Nông nghiệp 40B – Khoa Kinh tế NN&PTNT Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội. Thời gian thực tập : Từ 14/01 – 09/05 năm 2002. Được Nhà trường giới thiệu, sinh viên Nguyễn Văn Đăng đã thực tập tại Phòng Chính sách – Sở NN&PTNT tỉnh Hà Tây về chuyên đề “Nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ ở HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây”. Trong thời gian thực tập tại cơ quan, Phòng Chính sách – Sở NN&PTNT có một số nhận xét như sau: Kế toán. Trưởng Phòng Chính sách KT. Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Hà Tây

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29765.doc
Tài liệu liên quan