Luận văn Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại

MS: LVVH-VHVN050 SỐ TRANG: 151 NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NĂM: 2008 CẤU TRÚC LUẬN VĂN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3. Phương pháp nghiên cứu 4. Lịch sử vấn đề 5. Đóng góp của luận văn 6. Kết cấu của luận văn Chương 1: NGƯỜI TRÍ THỨC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM TỪ CUỘC ĐỜI ĐẾN NHỮNG TRANG VĂN 1.1. Vai trò của tầng lớp trí thức trong đời sống xã hội hiện đại 1.1.1. Người khai sáng văn hóa và tiên phong trong cải cách xã hội (Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945). 1.1.2. Những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, người thư kí trung thành của thời đại (Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975) 1.1.3. Người trí thức - điểm hội tụ của trình độ văn minh dân trí, dân chủ và phát triển đời sống xã hội (Giai đoạn sau 1975) 1.2. Sự nhận thức, tự nhận thức về thiên chức xã hội và về số phận cá nhân, bi kịch tinh thần của tầng lớp trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại 1.2.1. Ưu thế nhận thức của văn xuôi nghệ thuật hiện đại 1.2.2. Sự nhận thức và tự nhận thức về thiên chức xã hội của tầng lớp trí thức 1.2.3. Sự nhận thức và tự nhận thức về số phận cá nhân, bi kịch tinh thần của tầng lớp trí thức 1.3. Nhìn chung về tác giả, tác phẩm văn xuôi viết về người trí thức 1.3.1. Người trí thức như là chủ thể sáng tạo văn học 1.3.2. Người trí thức như là đối tượng trung tâm của văn học 1.3.3. Người trí thức và nhiệm vụ tôn vinh chiến sĩ, quần chúng cách mạng 1.3.4. Người trí thức – linh hồn của văn hóa và giá trị nhân văn, tinh thần dân chủ. 1.4. Hình tượng người trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại từ góc nhìn, tư duy nghệ thuật (tư duy tiểu thuyết và tư duy sử thi) 1.4.1. Hình tượng người trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại - nhìn từ góc nhìn và tư duy sử thi 1.4.2. Hình tượng người trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại - nhìn từ góc nhìn và tư duy tiểu thuyết Chương 2 : HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TRÍ THỨC VĂN NGHỆ SĨ TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI – NHỮNG MẪU NGƯỜI ĐA TÍNH CÁCH 2.1. Những mẫu người lấy vinh quang, kiêu hãnh nhấn chìm cay đắng, mặc cảm qua cái nhìn sử thi của văn xuôi Việt Nam hiện đại (1945 - 1975) 2.1.1. Mặc cảm lạc lõng trong quan hệ với cộng đồng (Người trí thức trong những ngày đầu cùng nhân dân đi kháng chiến) 2.1.2. Ước muốn “nhận đường” và “lột xác” 2.1.3. Vươn mình thành những trí thức - chiến sĩ 2.2. Những mẫu người giàu kiêu hãnh và mặc cảm trong ý thức sâu xa về nhân cách, về bản thể qua cái nhìn tiểu thuyết của văn xuôi Việt Nam hiện đại (trước 1945, sau 1975) 2.2.1. Người trí thức với niềm kiêu hãnh về bản ngã 2.2.2. Người trí thức với niềm mặc cảm cay đắng, cô đơn trong hành trình đi tìm bản thể 2.2.3. Cái nhìn người trí thức - nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại càng ngày càng nhạt chất tư duy sử thi, đậm chất tư duy tiểu thuyết Chương 3 : HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT GIÀU Ý NGHĨA NHẬN THỨC VÀ ĐẬM CHẤT TỰ TRUYỆN, BI KỊCH 3.1. Một yêu cầu mang tính thời đại và đầy thách thức: nhà văn tự viết về mình và giới mình 3.2. Sự thể hiện những hình tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa nhận thức 3.2.1. Cốt truyện, tình huống giàu ý nghĩa nhận thức 3.2.2. Nhân vật giàu ý nghĩa nhận thức 3.2.3. Ngôn ngữ trần thuật giàu ý nghĩa nhận thức, triết lí 3.3. Sự thể hiện những hình tượng nghệ thuật đậm chất tự truyện 3.3.1. Sự phát triển của các thể loại tự truyện, tự thuật, hồi kí, nhật kí, tuỳ bút 3.3.2. Cốt truyện, tình tiết, nhân vật mang dáng dấp tự truyện 3.3.3. Điểm nhìn trần thuật mang chất tự truyện 3.4. Những lớp bi kịch viết bằng văn xuôi 3.4.1. Tình huống, xung đột nội tâm thể hiện những bi kịch tinh thần 3.4.2. Sự thể hiện tính cách, số phận bi kịch 3.5. Nhân vật trí thức - một loại hình tượng có khả năng “trí thức hóa” cốt cách con người Việt Nam trong đời sống và trong văn học KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

pdf151 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2902 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Với điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ nhất, nhân vật mang đậm màu sắc chủ quan, có đời sống nội tâm phong phú, có quá trình diễn biến tâm lí tinh tế, phức tạp để tăng sức thuyết phục cho người đọc. 3.3.3.1.2. Trần thuật ở ngôi thứ nhất xuất hiện ở những tác phẩm thuộc thể loại kí: Nhật kí Ở rừng, Đường vô Nam (Nam Cao), Hồi kí Cát bụi chân ai (Tô Hoài). Nhân vật trong tác phẩm mang cái tôi của tác giả. Điểm nhìn của tác giả, người kể chuyện và nhân vật là một. Tác giả là người chứng kiến, hoặc tham gia vào đời sống bên trong của tác phẩm và nhân vật. Nhờ thế, những tác phẩm thuộc thể loại kí viết về nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong giai đoạn 1945 – 1975 manh tính khách quan, chân thật. 3.3.3.1.3. Có một tỉ lệ khá lớn các tác phẩm viết về nhân vật trí thức sau 1975 được trần thuật ở ngôi thứ nhất: Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Một cõi nhân gian bé tí (Nguyễn Khải),... Khi ý thức cá nhân cũng như ý thức cá tính trong nghệ thuật bừng tỉnh, nhà văn có xu hướng xác lập dấu ấn cá tính của mình trong tác phẩm, mà điểm nhìn trần thuật là một trong những tiêu chí rất có giá trị trong việc tạo lập dấu ấn cá tính của chủ thể nhà văn. Điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ nhất đã tạo ra nhiều trường cảm nhận và để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc. Điểm nhìn trần thuật ở ngôi thứ nhất khiến một số tác phẩm mang dáng dấp của tự truyện. Nó giúp nhà văn cắt nghĩa, lí giải hiện thực theo những hệ quy chiếu riêng. Nó cũng giúp nhà văn phản ánh hiện thực đồng thời thể hiện sự chiêm nghiệm, chất vấn, tự vấn,… trước hiện thực được phản ánh. 3.2.3.2. Tuy nhiên, không phải lúc nào nhân vật cũng kể, cũng nói về mình ở ngôi thứ nhất, mà, bằng cách để cho nhân vật nói về mình như nói về nhân vật đang đối thoại hoặc như về một người thứ ba nào khác, điểm nhìn trần thuật cũng mang dáng dấp tự truyện, vừa thể hiện ý định trực tiếp của nhân vật, vừa thể hiện ý định gián tiếp của tác giả. 3.3.3.2.1. Trần thuật từ ngôi thứ ba là lối trần thuật phổ biến. Giữa người kể chuyện và nhân vật luôn tồn tại một khoảng cách. Người kể chuyện nói về các sự kiện với một sự yên tĩnh lãnh đạm, là người có tài “biết hết”. Nhà văn đứng bên ngoài, quan sát, tả, kể lại mọi suy nghĩ, hành động của nhân vật. Thế nhưng, trong những sáng tác về nhân vật trí thức, khoảng cách giữa người trần thuật và nhân vật ngày càng được thu hẹp dần. Từ điểm nhìn bên ngoài (hướng ngoại), nhà văn di chuyển vào điểm nhìn bên trong (hướng nội). Người trần thuật dường như nhập thân vào nhân vật. “Người trần thuật bắt đầu nhìn thế giới theo mắt một nhân vật, thâm nhập vào suy nghĩ và ấn tượng của người ấy” [114, tr.290]. Với điểm nhìn này, nhà văn không chỉ quan sát, tả, kể, mà còn đi sâu khám phá tâm trạng bên trong của nhân vật với những độc thoại nội tâm, hồi tưởng, nhận thức, suy tư, tự vấn,… và để cho nhân vật tự bộc lộ nội tâm, suy nghĩ, tính cách của mình (Vang bóng một thời, Nguyễn, Thiếu quê hương (Nguyễn Tuân); Đôi bạn (Nhất Linh); Đẹp (Khái Hưng); Đói, Một cơn giận, Sợi tóc (Thạch Lam); Miếng bánh (Nguyên Hồng); Đời thừa, Trăng sáng, Sống mòn (Nam Cao);…). Điểm nhìn hướng nội mang chất tự truyện đã gây nên hứng thú nghệ thuật ngày càng cao đối với sự độc đáo của bản thân con người. 3.3.3.2.2. Những tác phẩm viết về nhân vật trí thức giai đoạn 1945 – 1975 chủ yếu được trần thuật từ ngôi thứ ba. Trong đó, điểm nhìn của tác giả trùng với điểm nhìn của người kể chuyện. Hình tượng người trần thuật hiện diện khá phổ biến trong tác phẩm, đứng cao hơn nhân vật, cao hơn những sự kiện diễn ra trong đời sống. Điểm nhìn đánh giá cuộc sống của nhà văn bao giờ cũng trùng với nhân vật chính diện. Thông qua nhân vật, nhà văn khẳng định vai trò hướng dẫn người đọc, khẳng định quyền ban phát chân lí. Do đó, nhân vật trí thức giai đoạn này luôn được quan sát, miêu tả, trần thuật bằng điểm nhìn của một người kể chuyện toàn năng và chủ yếu là qua lăng kính sử thi - cộng đồng. 3.3.3.2.3. Điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 đa dạng và phong phú hơn. Tư duy tiểu thuyết chiếm ưu thắng trong ý thức nghệ thuật, kéo đối tượng trần thuật (nhân vật) xích lại gần với người kể chuyện, đặt người kể chuyện và đối tượng trần thuật vào cùng một đẳng cấp giá trị. Nhiều tác phẩm về nhân vật trí thức được trần thuật từ ngôi thứ ba, nhưng khoảng cách giá trị giữa người kể chuyện ở ngôi thứ ba và nhân vật bị xóa bỏ hoàn toàn. Người kể chuyện có thể trần thuật về đối tượng của mình bằng thái độ thân tình, thân mật, thậm chí là suồng sã, bỗ bã: Đám cưới không có giấy giá thú, Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh),… Việc xóa bỏ khoảng cách giữa người kể chuyện và nhân vật mở đường cho văn xuôi sau năm 1975 miêu tả đời sống hiện tại như nó đang hiện có, đang tiếp diễn với đầy những dang dở, phù vân. Sự hòa nhập song trùng chủ thể giữa người kể chuyện và nhân vật khiến điểm nhìn của nhà văn di chuyển vào bên trong nhân vật, từ đó, khám phá thế giới nội tâm phong phú, phức tạp của nhân vật trong mối quan hệ đa dạng, đa chiều với cuộc sống. Nếu như ở hai giai đoạn văn học từ đầu thế kỉ XX – 1945 và từ 1945 – 1975, dù trần thuật theo ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba, thì trong tác phẩm thường chỉ có một điểm nhìn, chủ yếu là điểm nhìn của nhân vật chính diện hay chính là điểm nhìn của người kể chuyện. Điểm đặc biệt của văn xuôi sau năm 1975 là, do xuất phát từ tính đối thoại, tính đa thanh của tư duy tiểu thuyết, xuất hiện nhiều điểm nhìn trong một tác phẩm. Nhà văn hoặc người kể chuyện thường di chuyển điểm nhìn theo nhiều chủ thể khác nhau. “Thêm vào đó, nhu cầu chiêm nghiệm, tự vấn trước hiện thực khiến điểm nhìn luôn có xu hướng dịch chuyển từ nhà văn và người kể chuyện đến nhân vật, từ điểm nhìn bên ngoài đến điểm nhìn bên trong. Với cách tổ chức tác phẩm là một hệ điểm nhìn, nhà văn có thể khám phá, chiêm nghiệm về con người một cách đa diện hơn” [89, tr.304]. Cơ hội của Chúa (Nguyễn Việt Hà) được tổ chức qua điểm nhìn trần thuật của bốn nhân vật: Hoàng, Tâm, Nhã, Thủy. Các điểm nhìn này “đối thoại” nhau khiến cho nhân vật được soi chiếu từ nhiều góc độ. Qua đó, chân dung, tính cách, tư tưởng, nội tâm của nhân vật được khắc họa rõ nét, sâu sắc và phong phú hơn. 3.4. Những lớp bi kịch viết bằng văn xuôi “Bi kịch là một thể của loại hình chính kịch, đối lập với thể hài kịch. Bi kịch là thể loại nghiêm khắc đến khắc nghiệt; nó miêu tả thực tại theo lối nhấn mạnh, cô đặc các mâu thuẫn bên trong, phơi bày những xung đột sâu sắc của thực tại dưới dạng bão hòa và căng thẳng đến cực hạn, mang ý nghĩa tượng trưng nghệ thuật. Tác phẩm bi kịch thường đặt độc giả trước những câu hỏi phức tạp, hóc búa, nhức nhối của cuộc sống” [162, tr.117]. Văn xuôi Việt Nam hiện đại viết về người trí thức, dĩ nhiên không phải là bi kịch theo ý nghĩa đầy đủ của thể loại, nhưng đó là những tác phẩm chứa đựng nhiều yếu tố nghệ thuật của bi kịch. Hay nói đúng hơn, đó là một thứ bi kịch viết bằng văn xuôi. Cuộc đời của người trí thức không chỉ có vinh quang mà còn có những nỗi đau, cay đắng, mặc cảm trong số phận cá nhân. Gửi gắm trong hình tượng nhân vật trí thức là những bi kịch cá nhân được viết bằng những dòng xám buồn, lặng lẽ của chất văn xuôi đời thường. Sau đây, luận văn sẽ đề cập đến hai đặc điểm của những hình tượng “bi kịch viết bằng văn xuôi” ấy: Tình huống, xung đột nội tâm thể hiện những bi kịch tinh thần và Sự thể hiện tính cách, số phận bi kịch. 3.4.1. Tình huống, xung đột nội tâm thể hiện những bi kịch tinh thần Để thể hiện những bi kịch tinh thần của nhân vật trí thức, nhà văn thường đặt nhân vật trong những tình huống, xung đột nội tâm. Tình huống, xung đột nội tâm trong tác phẩm mang tính nghệ thuật, thể hiện tính cách, bi kịch tinh thần của con người. Nhân vật trí thức của Nam Cao thường rơi vào tình huống, xung đột nội tâm dữ dội. Xoáy sâu vào bi kịch vỡ mộng của Đời thừa, nhà văn đã để cho nhân vật có sự xung đột nội tâm dai dẳng, gay gắt. Từ lúc cúi xuống cuộc đời Từ, Hộ không thể “khinh những lo lắng về mặt vật chất” [7, tập 1, tr.602] nữa. Để kiếm tiền, anh “phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng,… những bài báo để người ta đọc và quên ngay sau lúc đọc”. Hộ đau đớn, nhục nhã vì một người có lí tưởng hoài bão cao đẹp, có lương tâm nghề nghiệp như anh phải chấp nhận làm một kẻ “bất lương”, “đê tiện”. Anh cay đắng nhận ra mình “là một kẻ vô ích, một người thừa”. Tấn bi kịch của Hộ không chỉ có thế, anh còn lâm vào bi kịch của người vốn coi trọng lẽ sống tình thương nhưng lại vi phạm vào lẽ sống đó. Nhiều lần Hộ muốn “biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ” nhưng anh không thể chọn cách thoát li vợ con. Buộc phải lựa chọn giữa nghệ thuật và tình thương, anh đã hi sinh lẽ sống thứ nhất cho lẽ sống thứ hai. Người nghệ sĩ này đã hi sinh lí tưởng anh hằng đeo đuổi bấy lâu, nhưng anh cứ bị giày vò, dằn vặt trong cái nợ áo cơm và trong mặc cảm “người thừa”. Đối xử tệ bạc với vợ con, để rồi khi tỉnh rượu, Hộ ân hận đến đau đớn. Những giọt nước mắt bật ra là sự hối hận chân thành, cũng là biểu tượng của tình thương trong cuộc giằng xé, vật lộn đớn đau để vươn lên lẽ sống nhân đạo. Tự (Đám cưới không có giấy giá thú – Ma Văn Kháng) cũng diễn ra những xung đột nội tâm căng thẳng trong cuộc đấu tranh chống lại sự tha hóa của nhân cách. Cái tôi của anh đầy mặc cảm và sĩ diện trước khát vọng và nỗi đau thời cuộc. Nhân vật trí thức là người có nhân cách, coi khinh mọi cách sống tầm thường, thiếu mục đích, thiếu tình người. Thế nhưng, họ vẫn là những người bình thường với nhiều biểu hiện: ích kỷ, nhỏ nhen, ghen tuông, sĩ diện, ảo tưởng, che đậy,… Thể hiện những tình huống, xung đột nội tâm, nhà văn để cho nhân vật dám tự phát hiện, tự tìm sâu vào sự thật của bản thân mình ở những mặt còn hèn kém, tự phê phán, phân tích với nhiều sắc thái khác nhau để giữ được nhân cách của con người. Theo đó, biện pháp kĩ thuật mà nhà văn ưa chuộng và thường sử dụng thành công là cho nhân vật độc thoại và đối thoại nội tâm. Độc thoại, đối thoại nội tâm là phương thức hữu hiệu để khai thác tâm lí và tâm hồn nhân vật, làm cho nhân vật có thêm chiều sâu và sức nặng. Qua những đoạn độc thoại nội tâm, nhân vật trí thức văn nghệ sĩ tự bộc lộ, tự xây dựng và tự điều chỉnh tính cách trong quá trình sáng tạo của nhà văn. Dũng (Đôi bạn - Nhất Linh) miên man những dòng độc thoại trong suy nghĩ: “Sống mà nghĩ đến mình thì bao giờ cũng buồn. Đã bao lâu, mình không làm gì cả, nên mình không có cái gì để quên điều ấy đi” [85, tr.306]. Hiểu được tâm trạng của Dũng qua những lời độc thoại, chúng ta mới có thể lí giải ước mơ và hành động dấn thân của Dũng. Sử dụng triệt để thủ pháp độc thoại, đối thoại nội tâm khi xây dựng nhân vật trí thức văn nghệ sĩ, Nam Cao đã thể hiện được nhân vật trí thức tự nhận thức, tự ý thức. Thứ (Sống mòn) nhiều lần tự đấu tranh căng thẳng, gay gắt trong nội tâm để đi tìm lại chính mình, để nhận ra sự mòn mỏi, gỉ mục của cuộc đời mình. Điền (Trăng sáng, Nước mắt), Hộ (Đời thừa),… rơi vào nỗi cô đơn, bế tắc khi lí tưởng và hiện thực không đồng nhất, nhiều lần tự đối thoại với chính mình, tự phán xét về hành vi của mình để nghiền ngẫm về lẽ sống, thấm thía hơn thân phận con người. Đi sâu vào thế giới nội tâm, khám phá chiều sâu tâm linh để nhận diện chân dung trí thức đích thực, nhà văn khơi sâu vào cõi tâm linh, miền vô thức của nhân vật, khai thác con người ở bên trong con người. Thủ pháp độc thoại, đối thoại nội tâm được sử dụng triệt để trong việc để cho nhân vật tự bộc lộ tâm hồn, tình cảm, tư tưởng, tính cách. Tâm trạng Kiên (Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh) như những con sóng cuộn trào vắt dòng lên nhau, tạo cho nhân vật một thế giới nội tâm phức tạp, rối rắm. Như con thuyền ngược dòng quá khứ, Kiên tự tìm lại mình qua những lần độc thoại, và đối thoại với kí ức chiến tranh. Trong đó, nhiều lần, anh phán xét lại hành vi của mình và những người anh từng quen biết để thấm thía hơn thân phận con người trong cuộc chiến giữa ranh giới mong manh của nhân tính. Sống với những kí ức chiến tranh, Kiên rơi vào bi kịch lạc loài, lạc thời trong thế giới hiện tại. Còn Tự (Đám cưói không có giấy giá thú – Ma Văn Kháng), qua những dòng độc thoại, đối thoại nội tâm, thì đau đớn trước sự tha hóa của những người xung quanh mình, và khắc khoải đấu tranh để giữ gìn nhân cách. Hoàng (Cơ hội của Chúa - Nguyễn Việt Hà) lại nhiều lần tự phán xét tính cách mình. Tính cách của Hoàng còn được khái quát bởi cái nhìn của nhiều người xung quanh. Nhân vật tự đối thoại với chính mình và đối thoại với mọi người xung quanh. Đối thoại khiến cho nhân vật “thật” hơn, quá trình phát triển tính cách đa dạng hơn, có mối quan hệ bình đẳng với nhà văn và người đọc. “Sự sống đích thực của nhân cách chỉ có thể hiểu bằng cách thâm nhập vào nó dưới dạng đối thoại, một sự đối thoại mà cá nhân tự nó sẽ bộc lộ bản thân một cách tự do để đáp lại” [Dẫn theo 77, tr.103]. Qua độc thoại và đối thoại nội tâm, trạng thái tinh thần của nhân vật trí thức hiện lên phong phú và phức tạp. Đó là những trạng thái tinh thần giàu kịch tính, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, và trong niềm khao khát giải quyết mâu thuẫn nội tâm, nhân vật trí thức lâm vào trạng thái bi kịch, tâm hồn họ khắc khoải đau đớn không nguôi. Nhân vật nội tâm thường tự phân tích, tự phán xét gương mặt của mình (ngoại hình, ý nghĩ, hành vi,…). Ngôn ngữ độc thoại và đối thoại nội tâm của nhân vật rất gần với ngôn ngữ kịch, nhất là ngôn ngữ bi kịch: giàu cảm xúc, giàu tính đối thoại, giàu triết lí, giàu tinh thần tự phán xét, tự phản tỉnh,… và thường được diễn đạt biểu hiện bằng những đoạn văn dày đặc câu hỏi, câu cảm, các khẳng định, bác bỏ, các phán đoán lô-gich, đặc chỉ,… Qua đó, nhà văn khám phá ra thế giới tâm hồn sâu thẳm, đầy phức điệu của con người và sự mênh mông, bừa bộn, hỗn tạp của cuộc sống. 3.4.2. Sự thể hiện tính cách, số phận bi kịch Nhân vật bi kịch mang trong mình không chỉ những say mê, khát vọng lớn lao mà còn mang cả những lầm lạc trong hành động và tư duy. Tính cách bi kịch không bao giờ chịu khuất phục hoàn cảnh, thường bướng bỉnh vùng lên chống lại số phận, thách thức số phận, và rất bướng bỉnh cả trong những lựa chọn quyết định của nó dù đó là đúng đắn hay sai lầm. Nhân vật người trí thức trong văn xuôi nghệ thuật hiện đại Việt Nam có nhiều yếu tố bi kịch xét từ phương diện này. Khi những biến động của đời sống xã hội luôn tác động đến cuộc sống và làm thay đổi số phận của con người, những vấn đề thế sự và nhân sinh luôn đặt ra câu hỏi và giày vò lương tâm, trách nhiệm của mỗi con người thì nhà văn phải suy nghĩ và có thái độ thích hợp. Nhà văn rất cần thiết mổ xẻ những tính cách, số phận cá nhân để cảnh tỉnh và chia sẻ tình thương với con người. Nhà văn luôn quan tâm đến số phận của con người, hướng tới việc miêu tả số phận những con người bình thường với những bi kịch của đời họ. Khi thể hiện nhân vật trí thức, nhà văn xoáy sâu vào những trạng thái tâm lí và những dòng độc thoại nội tâm. Số phận con người được giải quyết trong mối quan hệ mật thiết với cộng đồng, xã hội. Đằng sau những số phận cá nhân - những vấn đề cá thể đều mang ý nghĩa nhân sinh của thời đại. Khai thác tính cách và mọi khả năng biến động trong đời sống nội tâm của người trí thức, đến các lớp chiều sâu nhân cách, nhất là khi số phận cá nhân và xã hội của nhân vật không ngang bằng nhau, nhà văn đã có ý thức chiếm lĩnh đời sống bằng phương thức thể hiện tâm lí và độc thoại nội tâm. Nhân vật trí thức của Nam Cao thường là những anh nhà văn, những anh giáo khổ trường tư. Tất cả họ đều nghèo và mang gánh nặng nợ áo cơm. Chính vì vậy, họ thường bị rơi vào bi kịch vỡ mộng vì những hoài bão, lí tưởng lớn lao, cao cả của họ vỡ tan vì hoàn cảnh xã hội, vì thực tế cuộc sống. Nhức nhối vì những nguyện vọng không thành, họ lại còn đau đớn về số kiếp, số phận của mình. Ông giáo Thứ (Sống mòn) từng “thích làm một việc gì có ảnh hưởng đến xã hội ngay” , mong muốn “những sự thay đổi lớn lao đến cho xứ sở mình”, mơ ước trở thành “một vĩ nhân, một anh hùng vượt lên bên trên sự tầm thường để chỉ nghĩ đến những cái gì vĩ đại thôi” [8, tr.48]. Thế nhưng, cuộc đời Thứ càng lúc càng xúi xó đi. Y bị giam hãm vào một môi trường chật hẹp, tù túng, quẩn quanh do sức mạnh và tác động của hoàn cảnh, của chiến tranh. Sự hủy hoại thầm lặng đang diễn ra trong con người và cuộc sống của y. Y cũng nhiều lần tính toán nhỏ nhen, ích kỷ, có những suy nghĩ hão huyền, có những lúc ngoại tình tư tưởng, những khi thèm khát cuộc sống đủ đầy…, thế nhưng, vượt lên trên những thói xấu thông thường, trong Thứ diễn ra những cuộc độc thoại nội tâm để dằn vặt và giữ gìn nhân cách, cũng như, để thức nhận tình trạng thê thảm của bản thân: thất nghiệp, trở về quê, nghèo đói, ăn bám vợ con, sống mòn ở cái chốn nhà quê xác xơ, tù đọng,… Từ cuộc đời một anh giáo nghèo, nhà văn Nam Cao đã khái quát lên bức tranh xã hội trước Cách mạng tháng Tám hắt hiu, buồn chán: cái đói, cái rét. Tiếp nối Nam Cao, Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), Sóng gầm (Nguyên Hồng) miêu tả chuyện thất nghiệp, đói cơm rách áo và những đau đớn quằn quại trong tâm hồn người trí thức tiểu tư sản nghèo ở thành thị. Hội (Vỡ bờ - Nguyễn Đình Thi) lâm vào tình cảnh có chữ cũng vô dụng khi trường Bạch Mai đóng cửa. “Hội biết làm gì để nuôi lấy thân mình, chứ đừng nói gì đến nuôi vợ, nuôi con… Chao ôi, sao mà Hội hoá ra sống thừa như vậy! Bao nhiêu công ăn học, bao nhiêu sách vở Hội đã đọc, bao nhiêu nghiền ngẫm suy nghĩ của Hội, rút lại chẳng đổi lấy được bát gạo trong lúc này. Nghĩ lắm càng nát ruột, đau đầu, thật là đắng cay, nhục nhã” [130, tập 1, tr.623]. Họa sĩ Tư (Vỡ bờ) là người nghệ sĩ có tài và trong sạch. Tư bỏ vào công việc hội họa tất cả sức lực, tuổi trẻ của anh. Nhưng người họa sĩ này lại chết trong nghèo khổ và bệnh tật chỉ vì muốn bảo vệ sự trong sáng của nghệ thuật, chống lại sự tha hóa của xã hội tư sản, của đồng tiền. Thông qua số phận nhân vật Hội, Tư, nhà văn đã đặt ra vấn đề có tầm khái quát cao: số phận của người trí thức muốn sống đàng hoàng và sáng tạo ra một nền nghệ thuật chân chính trong xã hội tư bản (một xã hội mà tất cả những thứ thiêng liêng nhất của con người đều biến thành hàng hóa). Số phận của nhân vật Tự (Đám cưới không có giấy giá thú – Ma Văn Kháng) cũng rơi vào bi kịch vỡ mộng của “một bữa tiệc dang dở, một đám cưới không thành, một cuốn sách hay để lầm chỗ” [65, tr.281] khi những say mê lí tưởng cao đẹp, những khát vọng trong sáng của anh bị ném vào một môi trường xấu xa, dung tục, băng hoại về đạo đức, nhân phẩm. Xã hội thực dụng và cơ hội đang lên cơn sốt với những đam mê, khoái lạc, khát vọng quyền lực và làm giàu bất chính không dung nổi một con người có nhân cách cao cả, thánh thiện như Tự. Nhân vật trí thức hiện ra với trăm nghìn mảnh đời khác nhau, với nhiều vết thương nhức nhối trên thân thể và trong tâm hồn. Nhà văn đi sâu vào thân phận con người, đề cập đến khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, khát vọng tự do,… làm nổi bật khía cạnh nhân bản của văn học. Số phận họ được miêu tả với tất cả chất người tự nhiên trong sự tranh chấp giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái cao cả và cái thấp hèn, giữa ý thức và vô thức. Nhân vật luôn có sự giằng xé nội tâm, tự lên án, tự kết tội, tự nhận thức về mình. Có hàng ngàn, hàng vạn những số phận trong đời. Thể hiện thành công những tính cách, những số phận nhân vật trí thức, nhà văn đã tạo dựng được bức tranh xã hội của thời đại. 3.5. Nhân vật trí thức - một loại hình tượng có khả năng “trí thức hóa” cốt cách con người Việt Nam trong đời sống và trong văn học Nghiên cứu nhân vật của Thạch Lam, Vương Trí Nhàn có một phát hiện đáng chú ý: nhân vật của nhà văn này có chung một nét tính cách đáng trân trọng đó là “cốt cách trí thức”, cho dù họ là bà mẹ lao động nghèo như mẹ Lê (Nhà mẹ Lê), là cô gái quê như Tâm (Cô hàng xén), hay là những cô gái giang hồ phải sống đời ô trọc, lầm lỡ như cô Liên, cô Huệ (Tối ba mươi). [Nguồn: Vương Trí Nhàn: “Cốt cách trí thức ở ngòi bút Thạch Lam”, Tạp chí Văn học số 5, 1990.] Quả thật, trí thức là tinh hoa của đất nước (“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”), phần tinh hoa trong con người trí thức văn nghệ sĩ là tiêu chuẩn tốt đẹp mà con người nói chung cần vươn tới, trân trọng, nuôi dưỡng. Con người khi có được cốt cách trí thức là con người trưởng thành, đáng kiêu hãnh, một nền kinh tế trí thức là một nền kinh tế phát triển, theo kịp thời đại. Đọc tác phẩm văn xuôi hiện đại viết về người trí thức, dĩ nhiên ta gặp các nhân vật có cốt cách trí thức. Nhưng đáng nói hơn là khả năng “trí thức hóa” những người xung quanh, môi trường xung quanh của người trí thức trong các tác phẩm này. “Trí thức hóa” ở đây hiểu theo cả hai mặt: a) Cái tốt đẹp, tinh hoa ở nhân vật người trí thức tỏa sáng, nhân lên ở những người xung quanh họ, góp phần nhân đạo hóa môi trường; b) Cái tốt đẹp, tinh hoa bị tha hóa, mai một như là bài học chua xót hay như là những lời cảnh tỉnh: hãy giữ gìn, nâng đỡ phần tinh hoa trong cốt cách trí thức Việt Nam. Một ví dụ cho trường hợp thứ nhất (a): Trong mối tương quan với nhân vật ông giáo, cái cách mà lão Hạc - một người nông dân - suy nghĩ và hành động quả thật mang hơi hướng cốt cách của một người trí thức. Ông giáo cạnh Lão Hạc (Lão Hạc – Nam Cao) làm cho Lão Hạc có một điểm tựa tinh thần, một người bạn tin cẩn, ngược lại nhân cách người cha đáng kính của Lão Hạc đặt cạnh ông giáo, làm cho ông giáo càng phải giữ gìn cốt cách trí thức hơn. Cũng như thế, tinh hoa trí thức ở nhân vật “tôi” - ông giáo chắc chắn làm cho nhân vật người vợ, Binh Tư và dân làng Vũ Đại cũng trở nên trí thức hơn trong cách ứng xử. Đặc biệt, bài học ứng xử ở đời: Phải “cố tìm mà hiểu” “những người xung quanh ta” của nhân vật tôi – “ông giáo”, chắc chắn có khả năng “trí thức hóa” con người và môi trường rất lớn. Có thể tìm thấy nhiều ví dụ tương tự trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Trong Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân), “chữ” của “người tử tù” tài hoa lẫm liệt Huấn Cao là thứ ánh sáng vẫy gọi những người sống nhầm chỗ, chọn lầm nghề như ngục quan, thơ lại đến với cái tài, cái dũng, cái thiên lương. Cái tài, cái dũng, cái thiên lương của Huấn Cao đã làm cho một kẻ “mê muội” như ngục quan tỉnh ngộ ra nhiều điều tốt đẹp. Một số ví dụ cho trường hợp thứ hai (b): Sự tha hóa của các nhân vật trí thức của Nam Cao và bài học từ sự phản tỉnh của họ (Hộ trong Đời thừa, Điền trong Trăng sáng, Thứ trong Sống mòn,…); Sự tha hóa đáng tiếc của nhân vật Thuật (Đám cưới không có giấy giá thú, Ma Văn Kháng),… còn mang lại những bài học cay đắng và sâu sắc hơn. Hình tượng nhân vật trí thức có khả năng “trí thức hoá” hình tượng con người Việt Nam, làm tỏa sáng những tính tình tốt đẹp, những cốt cách của con người. Con người Việt Nam dù ở tầng lớp nào cũng đều hiện lên trong văn học với một bản lĩnh vững vàng và những nét đẹp tính cách, tâm hồn. Ngay cả khi đề cập đến cái xấu, cái ác của con người, hình tượng nhân vật giúp ta nhận thức, đề phòng, cũng như biết cách tự vệ và tiêu diệt cái xấu, cái ác. Hình tượng nhân vật trí thức còn góp phần phát triển nền văn học: quan niệm nghệ thuật về con người, hệ thống thể loại, kĩ thuật tự sự,... Cùng với quá trình vận động và phát triển của hình tượng nhân vật, văn học cũng vận động và phát triển theo. Đó là sự vận động và phát triển của một nền văn học có sự nhận thức, có ý thức, và mang tính tự vấn cao, để có thể đáp ứng được yêu cầu của thời đại và con người, đồng thời, làm cho thời đại và con người tiến bộ, phát triển lên ở một tầm vóc cao hơn, cả về vi mô lẫn vĩ mô. Như vậy, trong chương này, luận văn đã tìm hiểu những hình thức, kĩ thuật thể hiện hình tượng nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Hình thức, nghệ thuật thể hiện này, dưới tài năng và tài hoa của người sáng tác, đã xây dựng được hình tượng người trí thức trong văn học - những mẫu người hội đủ cả vinh quang và cay đắng, kiêu hãnh và mặc cảm như chính nguyên mẫu ngoài cuộc đời. KẾT LUẬN 1. Từ đầu thế kỉ XX đến nay (tính đến năm 2000), đất nước và xã hội Việt Nam trải qua nhiều cơn biến động, ba đào: một cuộc Âu hóa làm đổi thay quan niệm cũ (XX – 1945), một hành trình đấu tranh gian khổ cho độc lập, tự do (1945 – 1975), một công cuộc xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế (sau 1975). Trong những biến cố của đời sống xã hội, người trí thức có một vai trò quan trọng, to lớn tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển của đất nước: Người khai sáng văn hóa và tiên phong trong cải cách xã hội (Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945); Người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa - Người thư ký trung thành của thời đại (Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975); Người trí thức - điểm hội tụ của trình độ văn minh dân trí, dân chủ và phát triển đời sống xã hội (Giai đoạn sau 1975). Văn xuôi nghệ thuật mang chức năng nhận thức, với những đặc trưng về thể loại, đi vào khám phá hình tượng nhân vật trí thức chủ yếu ở hai phương diện: Sự nhận thức, tự nhận thức về thiên chức xã hội và về số phận cá nhân, bi kịch tinh thần của tầng lớp trí thức. Từ cuộc đời đến những trang văn, qua các góc nhìn và tư duy nghệ thuật (tư duy sử thi hay tư duy tiểu thuyết) của các thế hệ nhà văn, nhân vật trí thức được xem xét ở các khía cạnh: Người trí thức như là chủ thể sáng tạo văn học; Người trí thức như là đối tượng trung tâm của văn học; Người trí thức và nhiệm vụ tôn vinh chiến sĩ, quần chúng cách mạng; Người trí thức – linh hồn của văn hóa và giá trị nhân văn, tinh thần dân chủ. 2. Ở từng chặng đường văn học, tùy vào cái nhìn nghệ thuật (tư duy sử thi hay tư duy tiểu thuyết), hình tượng người trí thức - những mẫu người đa tính cách - được thể hiện nghiêng về vinh quang hay cay đắng, kiêu hãnh hoặc mặc cảm. 2.1. Qua cái nhìn sử thi của văn xuôi Việt Nam hiện đại (1945 – 1975), hình tượng người trí thức là những mẫu người lấy vinh quang, kiêu hãnh nhấn chìm cay đắng, mặc cảm. Theo tiếng gọi của lí tưởng cách mạng, người trí thức văn nghệ sĩ đi theo kháng chiến, hòa vào đời sống chung của dân tộc, nhưng vẫn còn rơi rớt những mặc cảm lạc lõng trong quan hệ với cộng đồng của một số trí thức chưa kịp thức thời, giác ngộ. Thế nhưng, cốt cách trí thức và thái độ thức thời chân chính đã giúp cho người trí thức không ngừng tự vươn lên, vượt qua “cái tôi” để chiến thắng niềm mặc cảm lạc lõng đó. Người trí thức thể hiện ước muốn “nhận đường” và “lột xác”, trở thành người thư ký trung thành của thời đại, ghi lại một thời kỳ đau thương nhưng vĩ đại, hào hùng, xây dựng hình tượng con người Việt Nam anh hùng, bất khuất, có tác dụng cổ vũ lớn lao, mạnh mẽ tinh thần chiến đấu và lòng yêu nước của nhân dân ta. Người trí thức văn nghệ sĩ đã rất tận tâm với lí tưởng nghệ thuật mới mẻ đó. Họ vươn mình trở thành những trí thức - chiến sĩ với một niềm tin bất diệt vào độc lập, tự do. Nhân vật trí thức kết tinh những phẩm chất cao đẹp của thời đại. Họ tìm kiếm và thể nghiệm một lẽ sống đẹp trong cuộc đời. 2.2. Qua cái nhìn tiểu thuyết của văn xuôi Việt Nam hiện đại (trước 1945 và sau 1975), hình tượng người trí thức là những mẫu người giàu kiêu hãnh và mặc cảm trong ý thức sâu xa về nhân cách, về bản thể. Trí thức thường rất kiêu hãnh về bản ngã của mình. Sự kiêu hãnh đó thể hiện ở tình yêu, lòng tôn thờ, niềm khát khao sáng tạo cái đẹp, tha thiết với hoài bão, lí tưởng cao cả trong cuộc đời và trong nghệ thuật. Họ tìm kiếm những con đường khác nhau để đi tìm, theo đuổi mục đích lớn nhất của cuộc đời mình. Với người trí thức, sống là phải làm việc, phải cống hiến và sáng tạo. Cái đích mà họ khát khao vươn tới chính là cái đẹp. Sự kiêu hãnh đó còn thể hiện ở niềm khát khao vươn đến một thế giới tinh thần phong phú, độc đáo, một nhân cách đẹp theo quan niệm, cảnh ngộ của mỗi người, mỗi thời. Trí thức vốn rất đa cảm và nhạy cảm, thế giới tinh thần, đời sống nội tâm của họ phong phú với nhiều cung bậc, lắm thanh âm, đa màu sắc: Nhân vật trí thức luôn có ý thức “tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác” của Thạch Lam; Nhân vật trí thức tài hoa tài tử và rất “ngông” của Nguyễn Tuân; Nhân vật trí thức khắc khoải với tấn bi kịch tinh thần đau đớn của Nam Cao;… Trí thức luôn biết tự nhận thức, tự đấu tranh, tự vấn để vươn đến một thế giới tinh thần độc đáo và một nhân cách toàn vẹn, đẹp đẽ. Không phải chỉ được thể hiện ở sự kiêu hãnh về bản ngã, hình tượng người trí thức trong văn học còn được soi chiếu trong niềm mặc cảm, cay đắng, cô đơn trong hành trình đi tìm bản thể. Trí thức dễ rơi vào mặc cảm cô đơn, vỡ mộng. Họ cô đơn vì chịu sự tác động của hoàn cảnh xã hội lên thân phận cá nhân (nhân vật trí thức của Nhất Linh, Nguyễn Tuân). Họ cô đơn trong sự đối mặt với chính mình, với những cuộc đấu tranh căng thẳng trong tâm hồn mình (nhân vật trí thức của Nam Cao, Nguyên Hồng). Họ cô đơn vì mặc cảm con người thừa, thân phận bèo bọt và lạc loài, lạc thời (nhân vật trí thức của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Bảo Ninh,…). Họ cô đơn trong cuộc đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, sự huỷ hoại về nhân tính (nhân vật trí thức của Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp). Họ cô đơn trong dòng chảy trôi của cuộc sống đời thường (Hoàng – Cơ hội của Chúa, Nguyễn Việt Hà, Kiên - Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh),… Sự cô đơn đó xuất phát từ bi kịch vỡ mộng, và tạo nên một niềm mặc cảm chân thành, lành mạnh, và chính đáng của những con người luôn biết ý thức sâu sắc về bản ngã của mình. Người trí thức trong văn học còn đối mặt với mặc cảm tha hóa của bản thân và của tầng lớp mình. Lúc đầu chỉ là những hiện tượng tha hóa riêng lẻ (nhân vật trí thức lưu manh của Vũ Trọng Phụng, nhân vật trí thức có những biểu hiện tha hóa nhân cách của Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Minh Châu), về sau là sự tha hóa tập thể và nó trở thành một vấn nạn đáng báo động về sự xuống cấp, suy đồi đạo đức (đám đông trí thức trong Đám cưới không có giấy giá thú – Ma Văn Kháng, Thiên sứ - Phạm Thị Hoài, Cơ hội của Chúa - Nguyễn Việt Hà,…). Thế nhưng, nhân vật trí thức của Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Minh Châu còn biết tự thú, tự vấn, sám hối với niềm mặc cảm bi thiết, còn đám đông trí thức trong văn học sau 1975 không mấy người biết mặc cảm trước sự tha hóa của bản thân mình. 2.3. Trong tư tưởng và ý thức của người Việt Nam, trí thức đại diện cho trí tuệ, tâm hồn, tinh hoa của cộng đồng. Nhưng khi tư duy sử thi nhường chỗ cho tư duy tiểu thuyết, hình tượng người trí thức trong văn học không còn là những con người luôn vật vã đấu tranh cho sự hoàn thiện nhân cách, mà họ được đem ra xem xét, mổ xẻ, khám phá ở nhiều bình diện, đặc biệt là những góc khuất của tâm lí, tâm linh. Nhân vật trí thức không còn đẹp đẽ một cách thần thánh, “vô trùng”, mà là con người “như tự nó” với sự tồn tại của cả “cái tốt và cái xấu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ” trong cùng một con người. Họ mang những nét tính cách rất “phản anh hùng” (nhân vật trí thức của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Việt Hà). Dưới cái nhìn sử thi hoặc cái nhìn tiểu thuyết, ở mỗi chặng đường văn học, chân dung, tính cách, tâm hồn của nhân vật trí thức được thể hiện khá chận thực, toàn diện. Hình tượng người trí thức - những mẫu người đa tính cách – là loại nhân vật có sự phát triển khá nhất quán cùng với sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại. 3. Trong chương 3, luận văn nghiên cứu hình thức, kĩ thuật thể hiện hình tượng nhân vật trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Trước hết, viết về người trí thức là một nhu cầu bức bách, thiết yếu và là một thách thức lớn đối với người cầm bút. Nó đòi hỏi lòng can đảm, sự dũng cảm và thái độ “trung thực vô ngần” khi nhà văn bộc bạch, phơi bày, mổ xẻ con người mình và tầng lớp mình. Do đặc trưng riêng của loại hình nhân vật, người trí thức trong văn học là những hình tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa nhận thức. Thông qua hình tượng nhân vật, nhà văn thể hiện sự nhận thức, tự nhận thức về vai trò xã hội cũng như sự nhận thức, tự nhận thức số phận cá nhân, bi kịch tinh thần của tầng lớp trí thức. Do vậy, trong tác phẩm viết về người trí thức, nhà văn xây dựng cốt truyện, tình huống giàu ý nghĩa nhận thức, xây dựng nhân vật giàu ý nghĩa nhận thức và sử dụng ngôn ngữ kể chuyện giàu ý nghĩa nhận thức, triết lí. Bên cạnh đó, hình tượng người trí thức còn đậm chất tự truyện. Vì thế, các thể loại tự truyện, tự thuật, hồi kí, nhật kí, tùy bút rất thích hợp để nhà văn, thông qua nhân vật, bộc lộ cái tôi, cái chủ quan. Để khắc họa hình tượng người trí thức đậm chất tự truyện, nhà văn sáng tạo nên những cốt truyện tâm lí, những tình tiết, những nhân vật đậm chất tự truyện và sử dụng điểm nhìn trần thuật mang chất tự truyện. Cuộc đời của nhân vật trí thức đúng là những lớp bi kịch viết bằng văn xuôi. Tính cách, số phận của nhân vật trí thức gần với tính cách, số phận của nhân vật bi kịch. Nhà văn thường đặt nhân vật vào những tình huống, xung đột nội tâm và thể hiện những tính cách, số phận bi kịch của người trí thức để khám phá ra thế giới tâm hồn sâu thẳm, đầy phức điệu của người trí thức và sự mênh mông, bừa bộn, hỗn tạp của cuộc sống. Khi thể hiện tính cách, số phận bi kịch của nhân vật trí thức, nhà văn xoáy sâu vào những trạng thái tâm lí và những dòng độc thoại nội tâm. Cốt cách, tâm hồn của nhân vật trí thức được soi sáng dựa trên mối quan hệ tương tác với những loại nhân vật khác trong tác phẩm (công nhân, nông dân, người lính,…). Nhưng cốt cách của nhân vật trí thức cũng tác động rất lớn đến hành vi, ngôn ngữ, nhận thức, tâm hồn,… của những loại nhân vật khác. Nói cách khác, hình tượng nhân vật trí thức trong văn học có khả năng “trí thức hóa” những người xung quanh, môi trường xung quanh. Cốt cách trí thức của nhân vật người trí thức tỏa sáng, nhân lên ở những người xung quanh họ, góp phần nhân đạo hóa môi trường. Cốt cách trí thức của họ cũng làm cho người đọc cùng chia sẻ nỗi bất an trong lòng khi mà cái tốt đẹp, tinh hoa bị tha hóa, mai một. Trong trường hợp này tác phẩm là bài học chua xót hay là lời cảnh tỉnh: hãy giữ gìn, nâng đỡ phần tinh hoa trong cốt cách trí thức Việt Nam. 4. Qua sự phác họa những đặc trưng tiêu biểu trong hình tượng nhân vật trí thức và những hình thức, kĩ thuật thể hiện hình tượng nhân vật trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, có thể rút ra một kết luận chung nhất: Văn học không chỉ phản ánh hiện thực đời sống, hiện thực thời đại mà còn là, luôn là bức tranh phản chiếu tâm thế, “não trạng” của thời đại, và, hơn ở đâu hết, hình tượng người trí thức trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam hiện đại cho ta thấy rõ nhất, cái tâm thế, “não trạng” ấy. Ai đó đã nói rằng: Hãy cho biết anh chơi với ai, tôi sẽ nói cho biết anh là người thế nào. Sẽ không hề vu vơ hay quá lời khi ta cũng nói theo cách đó: Hãy cho biết một giai đoạn, một nền văn học viết về người trí thức như thế nào, tôi sẽ nói về đặc điểm, trình độ phát triển của giai đoạn hoặc nền văn học ấy. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Tuấn Anh – Lê Thị Dục Tú (2001), Thạch Lam - Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2. Lại Nguyên Ân (1998), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 3. Lại Nguyên Ân (2003), Sống với văn học cùng thời, Nxb Thanh niên. 4. M. Bakhtin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch, Bộ Văn hóa thông tin và thể thao, Trường viết văn Nguyễn Du. 5. M. Bakhtin (1998), Những vấn đề thi pháp tiểu thuyết Đôtxtôiepxki, (Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Trần Đình Sử dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 6. Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, Hà Nội. 7. Nam Cao (1987), Tuyển tập truyện ngắn, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội. 8. Nam Cao (2002), Nam Cao toàn tập (2 tập) – Hà Minh Đức sưu tầm, giới thiệu, Nxb Văn học, Hà Nội. 9. Nam Cao (2006), Sống mòn, Nxb Giáo dục. 10. Nam Cao (2003), Tuyển tập Nam Cao, Nxb Văn học. 11. Nguyễn Minh Châu (2001), Dấu chân người lính, Nxb Thanh niên. 12. Nguyễn Minh Châu (2003), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học. 13. Nguyễn Minh Châu (2002), Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học xã hội. 14. Tân Chi (1999), Thạch Lam – Văn và đời, Nxb Hà Nội. 15. Vũ Khắc Chương (2000), Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm Nam Cao, Nxb Văn học, Hà Nội. 16. Đặng Anh Đào (1992), “Nguồn gốc và tiền đề của tiểu thuyết”, Tạp chí Văn học, số 6. 17. Đặng Anh Đào (1988), “Một trường hợp đang bàn cãi”, Văn nghệ, ngày 3-9-1988. 18. Phan Cự Đệ (1990), Tự lực văn đoàn – Con người và văn chương, Nxb Văn học. 19. Phan Cự Đệ (2002), Văn học lãng mạn (1930 – 1945), Nxb Văn học, Hà Nội. 20. Phan Cự Đệ (2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục. 21. Phan Cự Đệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 22. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học. 23. Hà Minh Đức (1991, chủ biên), Mấy vấn đề lí luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội. 24. Hà Minh Đức (2003), Khảo luận văn chương (tái bản lần 3), Nxb Khoa học xã hội . 25. Hà Minh Đức (2007), Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm, Nxb Văn học. 26. Umberco Eco (2003), “Về một vài chức năng của văn học”, Tạp chí Văn học, số 5. 27. Văn Giá (2002), Một khoảng trời văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 28. Nguyễn Việt Hà (2006), Cơ hội của Chúa, Nxb Hội nhà văn. 29. Nguyễn Việt Hà (2006), Khải huyền muộn, Nxb Hội nhà văn. 30. Lê Thị Đức Hạnh (2000), Nguyễn Công Hoan - Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 31. Nguyễn Văn Hạnh (1993), Nam Cao - Một đời người, một đời văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 32. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học - Vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 33. Hegel (1999), Mĩ học (Phan Ngọc dịch, tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội. 34. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn Nguyễn Du. 35. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, Nxb Văn học, Hà Nội. 36. Hoàng Ngọc Hiến (2006), “Đọc Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt Hà”, Cơ hội của Chúa, Nxb Hội nhà văn. 37. Trần Văn Hiếu (2005), Ba phong cách trào phúng trong văn học Việt Nam thời kì 1930-1945: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 38. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học xã hội và Mũi Cà Mau. 39. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn. 40. Lê Cẩm Hoa (2000), Nhất Linh – Con người và tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội. 41. Lê Huy Hòa, Nguyễn Văn Bình (1995), Những bậc thầy văn chương thế giới, Nxb Văn học, Hà Nội. 42. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 43. Phạm Thị Hoài (1988), Thiên sứ, Tạp chí Tác phẩm văn học, Số 7. 44. Tô Hoài (1992), Cát bụi chân ai (hồi kí), Nxb Hội nhà văn. 45. Tô Hoài (2007), Ba người khác, Nxb Hội nhà văn. 46. Tô Hoài (2007), Mười năm, Nxb Hội nhà văn. 47. Đỗ Kim Hồi (1994), “Đôi mắt của Nam Cao”, Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục. 48. Nguyên Hồng (2002), Truyện ngắn trước 1945, Văn học Việt Nam thế kỉ XX, quyển 2, tập 4, Nxb Văn học. 49. Nguyên Hồng (1961), Sóng gầm, Nxb Văn học. 50. Nguyên Hồng (1998), Cơn bão đã đến, Nxb Văn học. 51. Nguyễn Thị Thu Huệ (1993), Hậu thiên đường, Nxb Hội nhà văn. 52. Khái Hưng (2001), Đẹp, Văn chương Tự Lực văn đoàn, Nxb Giáo dục, tập 1, Viện Văn học – Trung tâm KHXH – NV quốc gia. 53. Mai Hương (2000, tuyển chọn), Vũ Trọng Phụng - Một tài năng độc đáo, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội. 54. Dương Thu Hương (1987), Bên kia bờ ảo vọng, Nxb Phụ nữ. 55. Dương Thu Hương (1988), Các vĩ nhân tỉnh lẻ, Nxb Thanh niên Hà Nội. 56. Dương Thu Hương (1988), Những thiên đường mù, Nxb Phụ nữ. 57. Trần Đình Hượu (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 – 1930, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 58. Nguyễn Khải (2001), Tuyển tập tiểu thuyết (2 tập), Nxb Thanh niên. 59. Nguyễn Khải (1982), Gặp gỡ cuối năm, Nxb Tác phẩm mới. 60. Nguyễn Khải (1983), Thời gian của người, Nxb Tác phẩm mới. 61. Nguyễn Khải (1999), Vòng sóng đến vô cùng, Nxb Trẻ TP.HCM. 62. Nguyễn Khải (1989), Một cõi nhân gian bé tí, Nxb Văn nghệ TP.HCM. 63. Ma Văn Kháng (1986), Mùa lá rụng trong vườn, Nxb Phụ nữ. 64. Ma Văn Kháng (2001), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 65. Ma Văn Kháng (2003), Đám cưới không có giấy giá thú, Nxb Công an nhân dân. 66. Ma Văn Kháng (2003), Ngược dòng nước lũ, Nxb Công an nhân dân. 67. Nguyễn Hoành Khung (1997), “Đời thừa”, Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục. 68. M.B. Kharapchenco (1979), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 69. M.B. Khrapchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, (nhiều người dịch), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 70. Lê Minh Khuê (1992), Viết về cái ác cũng là một cách thức tỉnh nhân tính, Nxb Tác phẩm mới. 71. Phùng Ngọc Kiếm (1998), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 72. Milan Kundera (2001), Nghệ thuật tiểu thuyết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 73. Chu Lai (1992), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hội nhà văn. 74. Thạch Lam (1988), Tuyển tập, Nxb Văn học. 75. Thạch Lam (1999), Sợi tóc, Nxb Văn nghệ TP.HCM. 76. Thạch Lam (1999), Gió đầu mùa, Nxb Văn nghệ TP.HCM. 77. Tôn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb KHXH. 78. Phong Lê (1986), “Người trí thức kiểu Nam Cao và chiến thắng của chủ nghĩa hiện thực”, Tạp chí văn học, số 5. 79. Phong Lê (1987), “Nam Cao – văn và đời”, Tuyển tập Nam Cao, tập 1, Nxb Văn học. 80. Phong Lê (1997), Văn học Việt Nam trên hành trình của thế kỉ XX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 81. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục. 82. Phong Lê (2003), Nam Cao - Người kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực, Nxb ĐHQG Hà Nội. 83. Nhất Linh (1989), Bướm trắng, Nxb Tổng hợp An Giang. 84. Nhất Linh (2000), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học. 85. Nhất Linh (2001), Đoạn tuyệt, Văn chương Tự Lực văn đoàn, Nxb Giáo dục, tập 1, Viện Văn học – Trung tâm KHXH – NV quốc gia. 86. Nhất Linh (2001), Đôi bạn, Văn chương Tự Lực văn đoàn, Nxb Giáo dục, tập 1, Viện Văn học – Trung tâm KHXH – NV quốc gia. 87. Phạm Quang Long (1994), “Một đặc điểm thi pháp truyện ngắn Nam Cao”, Tạp chí văn học, số 2. 88. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục. 89. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006, chủ biên), Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục. 90. NguyễnVăn Lưu (1988), “Về truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp”, Báo Hà Nội mới, 28-8-1988. 91. Phương Lựu (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 92. Phương Lựu (2001), Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX, Nxb Văn học, Hà Nội. 93. Hoàng Như Mai (1989), Trí thức và nghệ sĩ, Nxb Tổng hợp An Giang. 94. Đặng Thai Mai (1960), Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX, Nxb Văn học. 95. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 96. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 97. Nguyễn Đăng Mạnh (2006), Nhà văn Việt Nam hiện đại – Chân dung và phong cách, Nxb Văn học. 98. Tôn Thảo Miên (1998), Nguyễn Tuân - Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 99. Nguyễn Thanh Minh (2005), Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trong sáng tạo nghệ thuật, Nxb Văn học. 100. Lê Thành Nghị (2003), Văn học – Sáng tạo và tiếp nhận, Nxb Quân đội nhân dân. 101. Phương Ngân (2001, tuyển chọn), Nguyễn Huy Tưởng – Khát vọng một đời văn, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội. 102. Vương Trí Nhàn (1990), “Cốt cách trí thức ở ngòi bút Thạch Lam”, Tạp chí Văn học, số 5. 103. Vương Trí Nhàn (1996), Khảo về tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn. 104. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tayt truyện ngắn, Nxb Văn nghệ TP.HCM. 105. Vương Trí Nhàn (2001), Những kiếp hoa dại, Nxb Hội nhà văn. 106. Phùng Quý Nhâm (1992), Thẩm định văn học, Nxb Văn nghệ TP.HCM. 107. Phùng Quý Nhâm (1998), “Tinh thần phân tích tâm linh - một đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực”, Tạp chí Văn học, số 4. 108. N.I. Niculin (2007), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Văn học – Trung tâm nghiên cứu quốc học. 109. Bảo Ninh (2006), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Văn học. 110. Nguyễn Oanh (1988), “Khởi sắc hay là sự chuyển mình của văn học”, Văn nghệ, 3-12-1988. 111. M.F. Ôpxiannhicôp (2001), Mĩ học cơ bản và nâng cao, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 112. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại (2 tập), Nxb Khoa học xã hội, TP.HCM. 113. Hoàng Phê (1997), Tự điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. 114. Pospelov (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục. 115. Vũ Trọng Phụng (2006), Số đỏ, Nxb Văn học. 116. Vũ Trọng Phụng (2006), Giông tố, Nxb Văn học. 117. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, Nxb Hội nhà văn. 118. J.P. Sartre (1999), Văn học là gì? (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Văn học, Hà Nội. 119. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn. 120. Trần Đình Sử (2002), Đọc văn và học văn, Nxd Giáo dục, Hà Nội. 121. Trần Đình Sử (2003, chủ biên), Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb ĐHSP Hà Nội. 122. Trần Hữu Tá (1988), “Lời tựa Bướm trắng”, Bướm trắng, Nxb An Giang. 123. Trần Hữu Tá (2001), Nhìn lại một chặng đường văn học, Nxb TP.HCM. 124. Vũ Thăng (2001), Một vài đặc điểm thi pháp truyện Nam Cao, Nxb Quân đội nhân dân. 125. Hoài Thanh, Hoài Chân (2006), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học. 126. Hoài Thanh (1978), Toàn tập, Nxb Văn học Hà Nội. 127. Ngô Thảo (2000), Văn học với đời sống - Đời sống văn học, Nxb Văn học. 128. Bùi Việt Thắng (2001), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn học. 129. Đoàn Cầm Thi (2004), “Cơ hội của Chúa - Từ nhật kí đến hậu trường văn học”, Cơ hội của Chúa, Nxb Hội nhà văn. 130. Nguyễn Đình Thi (2001), Vỡ bờ (2 tập), Nxb Văn học. 131. Nguyễn Thành Thi (2006), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam, Nxb Khoa học xã hội. 132. Nguyễn Thành Thi (2008), “Lược đồ văn học quốc ngữ Việt Nam trước 1945 nhìn từ quá trình hình thành và tương tác thể loại”, Bình luận văn học, Nxb Văn hóa Sài Gòn. 133. Nguyễn Huy Thiệp (2005), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Hội nhà văn. 134. Bích Thu (2004, tuyển chọn), Nam Cao - Về tác gia và tác phẩm, Nxb CAND. 135. Nguyễn Ngọc Thiện (1996, chủ biên), Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ thuật 1935 – 1939, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 136. Trần Mạnh Tiến (2001), Lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, Nxb Giáo dục. 137. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, TP.HCM. 138. Lê Ngọc Trà (2002), Thách thức của sáng tạo – Thách thức của văn hóa, Nxb Thanh niên, TP.HCM. 139. Hoàng Trinh, Nam Mộc, Duy Thành, Nguyễn Cương (1978), Văn học, cuộc sống nhà văn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 140. Hà Bình Trị (1991), “Chất trữ tình trong sáng tác của Nam Cao”, Báo Giáo dục và thời đại, số 37. 141. Hà Bình Trị (1992), “Tâm lý nhân vật trong một số sáng tác của Nam Cao”, Tập san Giáo dục phổ thông, số 3. 142. Võ Gia Trị (2001), Văn chương và nghệ sĩ, Nxb Văn học. 143. Trần Thị Thanh Trúc (2004), Số phận tinh thần của con người trong tác phẩm của Nam Cao, Luận văn thạc sĩ ĐHSP. TPHCM. 144. Nguyễn Tuân (2002), Vang bóng một thời, Nxb Văn học. 145. Nguyễn Tuân (1998), Tùy bút viết trước 1945, Nxb Hải Phòng. 146. Nguyễn Tuân (2005), Thiếu quê hương, Nxb Văn học. 147. Lê Thị Dục Tú (2003), Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn, Nxb Thanh niên. 148. Xuân Tùng (2000, sưu tầm), Thạch Lam và văn chương, Nxb Hải Phòng. 149. Nguyễn Huy Tưởng (1996), Sống mãi với thủ đô, Toàn tập (tập 4), Nxb Văn học. 150. Nguyễn Huy Tưởng (1997), Vũ Như Tô (Kịch nói Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX), Nxb Sân khấu. 151. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết pháp hiện đại, những tìm tòi đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 152. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2004), Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX (1900 – 1945), Nxb Đại học quốc gia TP.HCM. 153. Trần Đăng Xuyền (1998), “Nam Cao – nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn”, Tạp chí Văn học, số 6. 154. Trần Đăng Xuyền (2002), “Cá tính sáng tạo và đặc điểm tiểu thuyết hiện thực của Vũ Trọng Phụng”, Tạp chí Văn học, số 10. 155. Trần Đăng Xuyền (2002), Nhà văn hiện thực - Đời sống và cá tính sáng tạo, Nxb Văn học, Hà Nội. 156. Phạm Hoàng Yến (1996), “Truyện ngắn Nam Cao với phương thức cấu trúc theo số phận nhân vật”, Tạp chí Trung học phổ thông – Khoa học xã hội, số 18. 157. Peter Zinoman (2002), “Số đỏ của Vũ Trọng Phụng và chủ nghĩa hiện đại Việt Nam”, Tạp chí văn học, số 6. 158. Trần Đình Vân (1965), Sống như anh, Nxb Văn học. 159. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Văn nghệ TP.HCM. 160. Nguyễn Khắc Viện (1993), “Con đường trở thành “kẻ sĩ hiện đại””, Bàn về đạo Nho, Nxb Thế giới, Hà Nội. 161. Một số vấn đề về đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy ngữ văn ở trường THPT, Tài liệu lưu hành nội bộ, 2007. 162. Nhiều tác giả (1989), Nguyễn Huy Thiệp – Tác phẩm và dư luận, Tạp chí Sông Hương – Nxb Trẻ TP.HCM. 163. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học, Nxb Thế giới mới. 164. Nhiều tác giả (2002), Nhìn lại một thế kỉ văn học, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. 165. Nhiều tác giả (1995), Hồi ức binh nhì, Truyện ngắn chọn lọc 1992 – 1994, Nxb Văn học. 166. Nhiều tác giả (1994), Bến trần gian (Tập truyện ngắn chọn lọc cuộc thi tạp chí Văn nghệ Quân đội 1992 – 1994), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 167. Nhiều tác giả (2001), Văn học Việt Nam 1930 – 1945 (tái bản lần 5), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHVHVN050.pdf
Tài liệu liên quan