Luận văn Những biện pháp hạn chế rào cản từ liên minh châu âu (EU) của Việt Nam

Liên minh Châu Âu - như đã phân tích ở trên đấy là một tổ chức duy nhất có mục tiêu cơ bản và lâu dài, là thống nhất cả một châu lục cả về kinh tế và chính trị, dựa trên các nguyên tắc cơ bản và linh hoạt vừa thực dụng mang tính siêu quốc gia ngày càng rõ rệt. Trong hơn 40 năm qua, EU đã tồn tại không ngừng phát triển và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống quốc tế nói chung và các nước trong EU nói riêng. Trong những thành công mà EU đạt được trong tiến trình đi tới nhất thể hoá kinh tế - tiền tệ và chính trị, Việt Nam đang ngày càng chú trọng tới phát triển đẩy mạnh hợp tác kinh tế với EU. Nhiều kết quả đạt được trong hợp tác kinh tế Việt Nam – EU, từ khi Việt Nam – EU thiết lập quan hệ ngoại giao (1990) đặc biệt sau ký hiệp định khung hợp tác đến nay khẳng định rõ sự chuyển biến về chất và lượng của quan hệ Việt Nam – EU. Phát biểu nhân dịp ký kết Hiệp định khung hợp tác Việt Nam – EU, bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm và Chủ tịch hội đồng EU đều hoan nghênh sự gia tăng về các mối quan hệ hợp tác kinh tế từ khi Việt Nam và EU bình thường hoá quan hệ. Giờ đây là lúc thế giới thừa nhận Việt Nam đã có những biện pháp tích cực nhằm bình thường quan hệ với các đối tác của mình trên độ khu vực cũng như trên cấp độ toàn cầu.

doc53 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1560 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những biện pháp hạn chế rào cản từ liên minh châu âu (EU) của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệp định mở rộng hàng dệt may giai đoạn 1998 – 2000, Việt Nam – EU ký 11/1997 là đỉnh cao của mối quan hệ buôn bán ngày càng phát triển giữa hai bên Trong đó EU cam kết nâng cao hạn ngạch trung bình hàng năm cho mặt hàng đệt may của Việt Nam lên 40% và giảm các mặt hàng phải chịu giới hạn của ta từ 53 xuống 21. Đến 3/2000 hiệp định bổ xung quy định hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt trong ba măn (2000 - 2003) và gia hạn đến 2003 với mức tăng bình quân mỗi năm là 17%. Để tăng cường ngoại giao tháng 3/1998, thủ tướng Phan Văn Khải thăm chính thức áo, Pháp, Bỉ, thăm ủy ban Châu Âu tại Bruxen và tham dự cuộc họp cấp cao á -Âu lần thứ hai tại Lôn Đôn. Năm 2000 Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã có chuyến các nước Châu Âu để tăng cường ngoại giao, đa mối quan hệ Việt Nam – EU lên tầm cao mới. Qua chuyến thăm của Tổng bí thư thì chủ tịch ủy ban Châu Âu R.Prodi đã thông báo rằng: ủy ban Châu Âu đã quyết định về nguyên tắc công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trờng nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang EU, thúc đẩy đầu tư và hợp tác thương mại và bất luận quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước khác như thế nào, EU vẫn ủng hộ Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Hai bên nhất trí sẽ thảo luận và thông qua chiến lược hợp tác trong 5 năm (2001 - 2005). Có thể nói đây là chuyến đi thăm có ý nghĩa quan trọng mở ra một trang mới trong quan hệ Việt Nam – EU khẳng định đổi mới là quyết tâm và ý chí của nhân Việt Nam nhằm khắc phục nghèo nàn, phát triển đất nước bền vững, dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh và chủ chương hội nhập kinh tế với cộng đồng là thuận lợi lớn đa Việt Nam vào thế kỷ 21 với mục tiêu công nghiếp hóa hiện đại hóa đất nước. Để tăng cường hơn nữa quan hệ ngoại giao với EU, năm 2005 chủ tịch quốc hội Nguyễn Văn An đã có một chuyến thăm các nước Châu Âu, thông qua chuyến thăm này nhằm thu hút viện trợ, thu hút đầu tư và hạn chế bớt các rào cản từ EU đối với Việt Nam. Trong những năm qua, quan hệ Việt Nam và EU nhằm các mục tiêu chủ yếu là: Tạo điều kiện, khuyến khích tăng trưởng, phát triển đầu tư và thương mại hai chiều giữa hai bên vì lợi ích chung, có đi có lại, Hỗ trợ phát triển kinh tế lâu bền và cải thiện điều kiện sống cho các tầng lớp dân cư nghèo ở Việt Nam. Thúc đẩy hợp tác kinh tế vì lợi ích chung, bao gồm cả hỗ trợ chính phủ Việt Nam trong nỗ lực cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển sang nền kinh tế thị trường. Hỗ trợ bảo vệ môi trường và sử dụng lâu bền các tài nguyên thiên nhiên Mục tiêu được cụ thể hóa trong chiến lược hợp tác EU – Việt Nam trong thời kỳ 1996 – 2000 dưới tên gọi “Cộng đồng Châu Âu – Việt Nam hướng tới một quan hệ đối tác toàn diện”. - Hợp tác toàn diện EU – Việt Nam EU đã trở thành một trong những đối tác quan trọng nhất đối với Việt Nam về ngoại thương và đầu tư, đồng thời cũng là một bên tài trợ. Ngoài sự giúp đỡ chính thức trực tiếp từ các dự án của EU, của ủy ban Châu Âu, của các tổ chức NGO, EU cũng đã có mặt từ những ngày đầu ở Việt Nam và đã giúp đỡ rất nhiều địa phương, kể cả miền núi có điều kiện sinh hoạt khó khăn để xóa đói giảm nghèo, đẩy lùi tệ nạn xã hội và phát triển con người. Trên bình diện thương mại, Liên minh Châu Âu đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Nhờ EU trợ giúp và mở cửa thị trường, xuất khẩu của Việt Nam sang EU đã tăng nhanh chóng qua các năm, như năm 1998 tăng 17 lần so với năm 1990; năm 2000 xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt 3,1 tỷ ERUO; năm 2003 là 3,86 tỷ USD; năm 2004 Việt Nam xuất khẩu sang EU trên 4,5 tỷ USD, bao gồm các mặt hàng như hàng dệt may, giày dép, cà phê, thủy sản và trong khi EU xuất sang Việt Nam năm 2000 là 1 tỷ ERUO; năm 2004 gần 6,5 tỷ USD. Qua số liệu các năm cho thấy cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam có chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các hàng công nghiệp, và kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam và EU tăng lên nhng vẫn chưa xứng tầm với quan hệ hai bên. Về du lịch, khách du lịch từ các nước Châu Âu đến Việt Nam chiếm tỷ trọng đáng kể trong số khách du lịch quốc tế, tuy nhiên chưa tương xứng với tiềm năng của hai bên EU và các nước thành viên cũng đầu tư đáng kể vào Việt Nam. Các nước trong EU đầu tư vào Việt Nam tính từ 1988 – 2001 đã có 322 dự án trị giá 5,381 tỷ USD chiếm 12,6% tổng mức FDI ở Việt Nam. Trừ các dự án hết hạn, giải thể hoặc chuyển nhượng vốn, thì EU còn 241 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký 4,38 tỷ USD, đứng thứ tư trong các nước đầu tư vào Việt Nam. Năm 2002 các nước thành viên của EU có 315 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn đầu tư là 5.900,5 triệu $; năm 2003 EU đầu tư vào Việt Nam trên 500 dự án với tổng số vốn đạt gần 7 tỷ USD. Mặc dù đã đạt được quy mô đáng kể và tiến bộ nhanh chóng, song sự hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và EU vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của hai bên. Quan hệ Việt Nam – EU ngày càng phát triển là xu hướng tất yếu của thời đại, là xuất phát từ lợi ích của các bên. Việc Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa đã diễn ra trùng với làn sóng lan tỏa mạnh mẽ của xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa trong sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, Việt Nam đã trở nên quan trọng và là thị trường bổ xung vào cơ cấu kinh tế của những nước có trình độ phát triển kinh tế cao. Thêm vào đó, trong bối cảnh Liên minh Châu Âu đang chủ động triển khai một chính sách mạnh mẽ hướng về khu vực Châu á - thái Bình Dương mà theo đánh giá “sự phát triển và ổn định trong tương lai của nền kinh tế thế giới sẽ lệ thuộc nhiều vào đó”, thì Việt Nam trở thành cầu nối cho liên minh Châu á trong khu vực. Bởi vậy nhiều nhà lãnh đạo Liên minh Châu Âu đã phat biểu rằng Việt Nam là một trong những ưu tiên trong chính sách của liên minh Châu á của khu vực. Nhờ chính sách đối ngoại đúng đắn, sáng suất mà trong năm 1995, Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và ký hiệp định hợp tác thương mại với Liên minh Châu Âu, gia nhập ASEAN, đã tạo nên bước tiến quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, phá bỏ hoàn toàn bao vây cấm vận. Tính đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới, trao đổi thơng mại với trên 100 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới. Việt Nam đã trở thành đối tác quan trọng của cả ba trụ cột trên thế giới. Hiệp định hợp tác thương mại Việt Nam - EU được ký kết ngày 17/7/1995 đã mở ra một hợp tác toàn diện và có hiệu qủa giữa hai bên. Hiệp định đã tạo nên những yếu tố thuận lợi cho EU và các nước thành viên, trong quan hệ hợp tác thương mại Việt Nam – EU Với hiệp định này Việt Nam có điều kiện tiếp cận với một thị trường rông lớn và đầy tiềm năng, một trung tâm mạnh cả về kinh tế, khoa học, kỹ thuật và công nghệ của thế giới. Tóm lại, quan hệ Việt Nam – Liên minh Châu Âu trong thời gian qua đã có những bước phát triển tốt đẹp. Việt Nam đánh giá cao mối quan hệ này cả hiện tại và trong tương lai, chủ trương hợp tác trên cơ sở hai bên cùng có lợi với Liên minh Châu Âu và coi đó là một trong những yêu tiên trong chính sách đối ngoại mở rộng của nước ta hiện nay. 2.1.2. Chính sách thương mại của EU đối với Việt Nam Trong quan hệ thương mại với Việt Nam, EU xây dựng một chính sách thương mại dựa trên nguyên tắc “không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng” như đối với các nước phát triển khác, với các biện pháp phổ biến như: thuế quan, hạn ngạch, chống bán phá giá, chống trợ cấp xuất khẩu và hàng rào kỹ thuật. Tuy nhiên Việt Nam và EU cũng đã ký kết các hiệp định và có những thỏa thuận riêng bổ sung cho chính sách thương mại của EU với Việt Nam. Cụ thể: Hiệp định khung giữa Việt Nam Và EU – cơ sở điều chỉnh chính sách thương mại của EU đối với Việt Nam. Mục tiêu chủ yếu và hàng đầu của Hiệp định là: đảm bảo các điều kiện cần thiết nhằm khuyến khích, thúc đẩy mạnh và phát triển quan hệ thương mại, đầu tư hai chiều trên cơ sở hai bên cùng có lợi, đương nhiên có tính tới hoàn cảnh của mỗi bên. Và điều đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp Việt Nam là EU cam kết dành cho Việt Nam quy chế MFN và GSP, tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng xuất khẩu sang thị trường EU. Có thể nói Hiệp định khung đã tạo dựng được một khuôn khổ mới, định ra những hướng lớn và tương đối đầy đủ về hợp tác thương mại giữa EU với Việt Nam, từ đó tạo cho các mối quan hệ khác phát triển. Những khía cạnh cụ thể trong chính sách thương mại của Liên minh Châu Âu đối với Việt Nam. Trên cơ sở chính sách thương mại của mình và những cam kết về thương mại dành cho Việt Nam, EU cụ thể hóa chính sách thương mại dành cho Việt Nam thông qua các hệ thống công cụ sau: - Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập Hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trương EU được hưởng GSP từ 1996, và hiện nay dang được hưởng chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập của EU cho thời kỳ 1/7/1999 đến 331/12/2001. Theo chương trình này, EU chia các sản phẩm được hưởng GSP thành 4 nhóm với 4 mức độ ưu đãi khác nhau dựa trên mức độ nhậy cảm đối với bên nhập khẩu, tuy nhiên cũng căn cứ vào mức độ phát triển của bên xuất khẩu và những văn bản thỏa thuận giữa Việt Nam và EU để có sự điều chỉnh thích hợp. Nếu so với chế độ GSP của Nhật Bản có 67 mặt hàng được hưởng 50% thuế suất so với thuế MFN, hay chế độ GSP của Hoa Kỳ qy định tất cả các mặt hàng được hưởng GSP đều có thuế suất bằng không thì chế độ GSP của EU có phần phức tạp hơn. Tính phức tạp của hệ thống GSP trong chính sách ngoại thương của EU thể hiện qua một số quy định như: Quy định về xuất xứ hàng hóa trong chính sách thương mại của EU là căn cứ để xác định hàng hóa của Việt Nam được hưởng chế độ GSP Thứ nhất, đối với các sản phẩm hoàn toàn được sản xuất hay trồng, khai thác và thu hoạch tại lãnh thổ nước hưởng GSP (Việt Nam) thì được xem là có xuất xứ toàn bộ và được hưởng trọn vẹn mức thuế suất GSP. Thứ hai, đối với những sản phẩm sản xuất tại Việt Nam có thành phần nhập khẩu thì EU quy định “thỏa mãn suất xứ theo GSP” nếu chúng ta trải qua “quá trình gia công chế biến đầy đủ” tại nước xuất khẩu được hưởng GSP. Thông thường hàm lượng trị giá sản phẩm sáng tạo tại nước xuất khẩu phải đạt 60% tổng trị giá hàng liên quan. Tuy nhiên, đối với một số nhóm hàng thì hàm lượng này thấp hơn. Thứ ba, EU cũng quy định xuất xứ cộng gộp, theo đó hàng của Việt Nam có thành phần xuất xứ từ một nước khác trong cùng một tổ chức khu vực cũng được hưởng GSP thì các thành phần đó cung được xem là có xuất xứ từ nước liên quan. Quy định này rất có ý nghĩa với Việt Nam trong thời gian qua vì ta xuất khẩu sang EU những mặt hàng có thành phần nhập khẩu từ các nước ASEAN thì vẫn được coi là có xuất xứ Việt Nam và được hưởng GSP nếu đủ hàm lượng quy định. Thứ tư, EU còn cho phép áp dụng quy tắc bảo trợ để xác định xuất xứ hàng hóa. Nghĩa là nếu EU cung cấp nguyên phụ liệu hoặc các chi tiết được sản xuất tại EU cho một nước được hưởng GSP để sử dụng trong quá trình gia công thì các thành phần này được coi là có xuất xứtừ nước đó khi xác định điều kiện hưởng GSP của sản phẩm cuối cùng. Thứ năm, hàng hóa của Việt Nam nhập khẩu Vào EU muốn được hưởng GSP còn phải đáp ứng yêu cầu về vận tải trực tiếp – hàng hóa đó là hàng được vận chuyển thẳng không qua lãnh thổ của một nước nào khác. Hoặc hàng hóa đó cũng có thể được vận chuyển qua lãnh thổ của nước khác với nước xuất khẩu và có thể được chuyển tải hay lưu kho tại nước đó, nhưng phải đảm bảo rằng hàng hóa đó được nằm dưới sự giám sát của hải quan nước quá cảnh hoặc lưu kho, không được buôn bán hay sử dụng, không được gia công chế biến.. EU còn đưa ra một số biện pháp khuyến khích trong chế độ GSP mới (có hiệu lực từ ngày 1/7/1999). Căn cứ vào các biện pháp này, hàng xuất khẩu của Việt Nam thỏa mãn các điều kiện sau còn được hưởng ưu đãi thêm, chẳng hạn: bảo vệ quyền của người lao động, bảo vệ môi trường. Ngoài ra, EU còn có một số quy định khác về cơ chế trưởng thành, cơ chế tự vệ, việc thu hồi tạm thời quyền hưởng GSP, bằng chứng về chứng từ, việc hợp tác quản lý hành chính giữa EU và Việt Nam…nhưng yêu cầu mấu chốt để được hưởng GSP đối với hàng hóa của Vịêt Nam là phải tuân thủ các quy định về xuất xứ hàng hóa và phải xuất trình C/O form A do cơ quan có thẩm quyền của nước đó cấp. - Các hiệp định thỏa thuận khác Cùng với hiệp định hợp tác khung, hai bên Việt Nam và EU đồng thời đã ký kết những hiệp định và thỏa thuận chuyên ngành về dệt may, giầy dép, thủy sản… Ngày 15/12/1992, tại Brussel, Việt Nam và EU đã ký tắt “Hiệp định về buôn bán hàng dệt và may mặc” có hiệu lực 5 năm bắt đầu từ ngày 1/1/1993, quy định những điều khoản về xuất khẩu hàng dệt may sản xuất tại Việt Nam sang EU. Cho đến nay, Hiệp định này đã được điều chỉnh, bổ sung ba lần, trong đó có hai lần được gia hạn và tăng hạn ngạch băng thư trao đổi ký tắt ngày 1/8/1995 và được ký chính thức ngày 16/7/1996; Hiệp định bổ sung áp dụng cho giai đoạn từ 1998 – 2000 ký tháng 11/1997, có hiệu lực từ ngày 1/1/1998; và biên bản thảo luận điều chỉnh Hiệp định hiện hành ký tắt tháng 3/2000 và được bắt đầu thực hiện từ ngày 15/6/2000. Cả ba văn bản này được ký giữa chính phủ Việt Nam và cộng đồng kinh tế Châu Âu. Hiệp định này không chỉ định mức hạn ngạch mà còn quy định có thể chuyển đổi hạn ngạch, theo đó Việt Nam được sử dụng thêm hạn ngạch của Singapore, Indonesia và Philippines tới mức 10% hạn ngạch của các chủng loại. Theo Hiệp định, trong giai đoạn trước năm 2000, hàng năm Việt Nam được xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU với lượng hàng 21.938 tấn – 23000 tấn. Số Cát chịu sự quản lý bằng hạn ngạch giảm từ 106 xuống 29, tăng hạn ngạch ở một số cát “nóng” và nâng mức chuyển đổi hạn ngạch giữa các Cát lên 27%. Hiệp định ký tháng 3/2000 quy định thay đổi thời hạn đến hết năm 2002 thay vì năm 2000, đồng thời tăng hạn hàng dệt may 16 Cát của Việt Nam xuất khẩu vào EU; trọng lượng tăng lên 4.324 tấn, đạt mức trên 26% so với hạn ngạch cơ sở của 16 Cát. Mặt hàng giầy dép cũng là một mặt hàng được quan tâm nhiều trong chính sách thương mại của EU đối với Việt Nam. Thị trường EU ngày càng mở rộng hơn cho mặt hàng này. Trước đây, xuất khẩu mặt hàng này có quy định hạn ngạch. Tuy nhiên, do những năm qua xuất hiện việc giả danh hàng xuất xứ từ Việt Nam để vào EU, hai bên đã ký tắt bản nghi nhớ về chông gian lận trong buôn bán giầy dép, áp dụng từ ngày 1/1/2000 và ký biên bản chính thức vào tháng 10/2000. Phía Việt Nam cấp giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) mặt hàng giầy dép, còn EU không áp dụng hạn ngạch với mặt hàng này của Việt Nam. Thêm vào đó, EU cung cho hàng giầy dép của Việt Nam được hưởng mức thuế nhập khẩu thấp hơn hàng của một số nước. Đối với hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam, từ ngày 1/1/1997, EU đưa ra quyết định cấm nhập khẩu nhuyễn thể hai mảnh vỏ; hàng thủy sản của Việt Nam trước năm 1999 xuất khẩu vào nước thành viên nào thì phải tuân thủ quy định về vệ sinh thực phẩm riêng của nước đó và không được tự do luân chuyển sang các nước thành viên EU khác. tuy nhiên, kể từ tháng 11/1999, cơ quan chức năng EU đã cùng bộ thủy sản Việt Nam kiểm tra điều kiện sản xuất, kinh doanh hàng thủy sản của Việt Nam. Tháng 3/2000 EU đã công nhận 29 doanh nghiệp chế biến thủy sản Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn. Đến cuối tháng 6/2000, EU công nhận thêm 11 doanh nghiệp. EU sẽ công nhận, bổ sung thường xuyên các doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào EU. EU cò dành cho Việt Nam quota xuất khẩu lớn các sản phẩm công nghiệp, thủ công mỹ nghệ, lâm sản,…, miễn thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng như hạt điều, cao su. Đồng thời, EU cũng sẵn sàng đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam. Trong chuyến thăm của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 2000, EU thông báo Hội đồng EU đã công nhận Việt Nam áp dụng cơ chế thị trường. Tuy việc này không tạo thêm ưu đãi cho xuất khẩu của Việt Nam nhưng có ý nghĩa quan trọng khẳng định hàng hóa của Việt Nam không bị phân biệt đối xử. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn phải chờ đợi cho đến khi Hội đồng EU chính thức đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước có nền thương nghiệp quốc doanh. Tóm lại, so với chính sách ngoại thương chung của EU, chính sách thương mại của EU với Việt Nam có nhiều quy định tạo điều kiện thuận lợi và ưu đãi hơn cho hàng xuất khẩu của ta vào thị trường EU, đặc biệt là các ưu đãi về thuế quan và hạn ngạch. Nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại không ít kho khăn như các quy định khắt khe về an toàn vệ sinh thực phẩm, các biện pháp chống bán phá giá, trợ cấp xuất khẩu,… 2.2. Các rào cản của EU đối với Việt Nam 2.2.1. Hàng rào thuế quan của EU Đối với các sản phẩm nông sản nhập khẩu vào EU, mức thuế thay đổi trong phạm vi từ 0% (chiếm 13% số dòng thuế nông nghiệp) đối với đậu nành và bách dầu tới mức thuế ước tính (ngoài hạn ngạch) là 5% đối với chuối. Thuế đỉnh (cao gấp 3 lần mức thuế trung bình giản đơn) được áp dụng đối với thịt, sản phẩm sữa, ngũ cốc…39% số dòng thuế đối với nông sản là thuế phần trăm và phần còn lại là thuế phi phần trăm. Các dòng thuế này tồn tại dưới dạng thuế tuyệt đối, thuế tổng hợp và cả các loại thuế mang tính kỹ thuật khác và đánh vào các sản phẩm như động vật sống, thịt, sản phẩm sữa, rau quả tươi, sản phẩm chế biến từ ngũ cốc, dầu ô lưu, gạo đường, v.v. Tuy nhiên, thuế nhập khẩu trong các cơ chế ưu đãi mà EU tham gia cũng rất khác nhau. Trong vòng đàm phán Urugoay, EU chấp nhận thiết lập giá trần tính thuế đối với ngũ cốc. Bên cạnh đó, EU đã áp dụng chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập GSP. Theo chương trình này, EU chia các sản phẩm được hưởng GSP thành 4 nhóm với 4 mức thuế khác nhau dựa trên chế độ nhạy cảm đối với bên nhập khẩu, mức độ phát triển của nước xuất khẩu và những văn bản thỏa thuận đã ký kết giữa hai bên. Bốn nhóm sản phẩm của các nước đang phát triển được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập của EU như sau: Nhóm 1: Sản phẩm rất nhạy cảm bao gồm phần lớn là nông sản và một số ít sản phẩm công nghiệp tiêu dùng như chuối tươi, chuối khô, dứa tươi, dứa hộp (lượng đường không quá 17% trọng lượng), quần áo may sẵn, nguyên liệu thuốc lá, lụa tơ tầm…được hưởng mức thuế GSP bằng 85% thuế suất MFN. Đây là nhóm hàng mà EU hạn chế nhập khẩu. Nhóm 2: Sản phẩm nhạy cảm chủ yếu là thực phẩm, đồ uống, hóa chất, nguyên liệu, hàng thủ công, hàng giầy dép, hàng điện tử dân dụng, xe đạp, ô tô…được hưởng mức thuế GSP bằng 70% thuế suất MFN (thuế tối huệ quốc). Đây hàng nhóm hàng EU không khuyến khích nhập khẩu. Nhóm 3: Sản phẩm bán nhạy cảm bao gồm phần lớn là thủy sản đông lạnh, một số nguyên liệu hóa chất, hàng công nghiệp dân dụng được hưởng mức thuế GSP bằng 35% mức thuế suất MFN. Đây là nhóm sản phẩm mà EU khuyến khích nhập khẩu. Nhóm 4: Sản phẩm không nhạy cảm chủ yếu là một số loại thực phẩm, đồ uống, nguyên liệu, nông sản, được hưởng mức thuế GSP bằng 1-10% thuế MFN. Đây là nhóm hàng EU đặc biệt khuyến khích nhập khẩu. Mỗi nhóm hàng trên gồm nhiều mặt hàng chịu các mức thuế xuất khác nhau trong phạm vi giới hạn của trương trình ưu đãi thuế quan phổ cập. Hàng của các nước đang phát triển khi nhập khẩu vào thị trường EU muốn được hưởng ưu đãi thuế quan thì phải tuân thủ các quy định của EU về xuất xứ hàng hóa và phải xuất trình giấy chứng nhận xuất xứ mẫu A do cơ quan có thẩm quyền của các nước được hưởng GSP cấp. Chế độ GSP mới áp dụng từ 1/1/2002 đến 31/12/2004 theo đó sẽ giảm 3,5% thuế giá trị hoặc giảm 30% thuế đặc thù. Việc này sẽ làm tăng hay giảm thuế so với GSP cũ tùy theo từng loại hàng nhưng nhìn chung thuế GSP mới sẽ giảm so với GSP cũ. Ngoài ra, đối với hàng nông sản, thủy sản, may mặc, giầy dép…có xuất sứ từ các nước đang và kém phát triển, EU cho hưởng chế độ ưu đãi thuế quan đặc biệt GSP. Theo chế độ này tùy theo mức độ nhậy cảm của hàng hóa, hàng có thển giảm từ 15%, 30% đến 65% mức thuế MFN áp dụng cho mặt hàng đó. EU đã xóa bỏ chế độ hạn ngạch và GSP vào cuối 2004. Như vậy, năm 2005 tất cả hàng hóa xuất nhập khẩu của EU đều không phải chịu thuế quan. Hàng hóa của các nước đang phát triển và kếm phát triển sẽ không được hưởng ưu đãi nữa, lúc đó hàng hóa của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh bình đẳng với hàng hóa của các nước phát triển và các nước đang phát triển khác. Đây là một thách thức lớn cho hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU trong tương lai. 2.2.2. Rào cản phi thuế quan - Cấm nhập khẩu EU thường dựa vào lý do bảo vệ người tiêu dùng, môi trường và động thực vật để áp dụng việc cấm nhập khẩu đối với các sản phẩm. Đối với nông sản EU đang áp dụng biện pháp cấm nhập khẩu cá voi và các sản phẩm từ động vật có vú nhằm mục đích thương mại. - Giấy phép nhập khẩu Nhằm mục đích thống kê, việc nhập khẩu một số sản phẩm như ngũ cốc, gạo, thịt bò, thịt bê,….đòi hỏi phải có giấy phép. Giấy phép nhập khẩu cho các loại hàng này được cấp tự động. Ngoài ra, EU còn ban hành những quy định về nguyên liệu và phương pháp xử lý rượu vang nhập khẩu đối với mỗi chuyến hàng. - Hạn ngạch nhập khẩu EU hiện đang áp dụng hạn ngạch đối với một số mặt hàng như cà phê. Đối với hàng đệt may, EU còn quy định cho từng mặt hàng. - Hàng rào kỹ thuật Mặc dù EC được trao quyền điều phối, đàm phán và tổ chức thực hiện chính sách thương mại, nhưng trên thực tế giữa các nước thành viên EU vẫn còn có sự khác biệt lớn về tiêu chuẩn, kiểm tra và thủ tục cấp giấy chứng nhận đối với một số sản phẩm. Những khác biệt này có thể đóng vai trò như những rào cản đối với việc vận chuyển tự do các sản phẩm này trong EU và gây nên chậm trễ kéo dài trong việc bán hàng do yêu cầu kiểm tra và chứng nhận sản phẩm theo các đòi hỏi khác nhau về sức khỏe giữa các nước thành viên. + Về các hiệp định công nhận lẫn nhau EU đã triển khai một phương thức hài hòa trong việc kiểm tra và chứng nhận nhiều bên trong EU đối với các phòng thí nghiệm quốc gia được nhà nước thành viên chỉ định kiểm tra và chứng nhận một số lượng đáng kể các sản phẩm kiểm tra. Tuy nhiên chỉ những cơ quan được thông báo đóng tại Châu Âu mới có quyền cấp giấy phê chuẩn sản phẩm cuối cùng mà phải gửi các báo cáo kiểm tra cho các đồng nghiệp Châu Âu để họ xem xét lại và phê chuẩn. Điều này sẽ làm tăng chi phí cho các nhà xuất khẩu. + Về các tiêu chuẩn sản phẩm Thị trường EU được xếp vào loại thị trường có hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ cao và nghiêm ngặt nhất thế giới. Tất cả các sản phẩmchỉ có thể bán được vào thị trường EU với điều kiện phải đảm bảo được tiêu chuẩn an toàn chung của EU. Hiện nay, ở Châu Âu có ba cơ quan tiêu chuẩn hàng hóa được công nhận trong lĩnh vực tiêu chuẩn hóa kỹ thuật, bao gồn: ủy ban tiêu chuẩn hóa kỹ thuật điện tử Châu Âu, ủy ban tiêu chuẩn hóa Châu Âu và Viện tiêu chuẩn viễn thông Châu Âu. Ba tổ chức này đã cùng nhau xây dựng các tiêu chuẩn Châu Âu trong các lĩnh vực cụ thể và đã tạo nên “hệ thống tiêu chuẩn hóa Châu Âu”. Vì vậy, việc tiêu chuẩn hóa sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng và việc đáp ứng các tiêu chuẩn đã trở thành một điều kiện quan trọng để thâm nhập thị trường khó tính này. Trên thực tế, rào cản kỹ thuật chính của EU là các quy chế nhập khẩu chung và các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng. Chúng được cụ thể hóa ở năm tiêu chuẩn của sản phẩm: tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn về lao động. + Đối với tiêu chuẩn chất lượng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường EU thuộc các nước đang phát triển. Bộ ISO 9000 có mục tiêu lớn nhất là đảm bảo chất lượng đối với người tiêu dùng. Biện pháp đảm bảo chất lượng của bộ ISO 9000 là xây dựng hệ thống chất lượng và phòng ngừa khâu thiết kế, lập kế hoạch. Bộ ISO 9000 gồm 20 yêu cầu, chia thành các nhóm: + ISO 9001: Hệ thống chất lượng – Mô hình đảm bảo chất lượng trong quá trình thiết kế, sản xuất, lắp đặt và dịch vụ. + ISO 9002: Hệ thống chất lượng – Mô hình đảm bảo chất lượng trong quá trình thiết kế, sản xuất, lắp đặt và dịch vụ sau khi bán hàng. + ISO 9003: Hệ thống chất lượng – Mô hình đảm bảo chất lượng trong quá trình kiểm tra cuối cùng và thử nghệm. Bộ ISO 9000 đưa ra những hướng dẫn với hệ thống chất lượng cho việc phát triển có hiệu quả, chứ không áp đặt một hệ thống chất lượng chuẩn đối với từng doanh gnhiệp. Mỗi loại hình doanh nghiệp sẽ có hệ thống chất lượng đặc trưng, phù hợp trong từng hoàn cảnh cụ thể. Thực tế cho thấy ở các nước đang phát triển Châu á và Việt Nam, hàng của những doanh nghiệp có giấy chứng nhận ISO 9000 thâm nhập vào thị trường EU dễ dàng hơn nhiều so với hàng hóa của các doanh nghiệp không có giấy chứng nhận này. + Đối với tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm Về phương diện này, việc áp dụng hệ thống HACCP là rất quan trọng và gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các xí nghiệp chế biến thủy hải sản của các nước đang phát triển muốn xuất khẩu sang thị trường EU. HACCP là hệ thống phân tích nguy cơ và kiểm soat các khâu trọng yếu trong qua trình sản xuất thực phẩm. Nó được thiết kế riêng cho công nghiệp thực phẩm (chăn nuôi, trồng trọt…) tập trung vào vấn đề vệ sinh và đưa ra một cách tiệp cận cho hệ thống phòng ngừa và giảm thiểu nguy cơ. HACCP có 7 nguyên tắc, không phải chỉ quan tâm đến thiết bị công nghệ như mọi người vẫn tưởng mà chủ yếu quan tâm đến biện pháp quản trị. Các nguyên tắc chính đó là: (1) Phân định rõ sự nguy hiểm có thể xảy ra trong mọi công đoạn sản xuất (nuôi trồng, thu hoạch, xử lý sản xuất, phân phối tiêu thụ) (2) Xác định các điểm (thủ tục công đoạn) tới hạn (Control Critical Point- CCP) mà tại đó cần có những biện pháp kiểm soát để ngăn chặn, khống chế nhằm hạn chế mức độ nguy hiểm tới mức có thể chấp nhận được. (3) Thiết lập các ngưỡng tới hạn (ngưỡng phân định giữa chấp nhận và không chấp nhận) để đảm bảo rằng CCP phải được khống chế. (4) Thiết lập hệ thống theo dõi thường xuyên tại các CCP. (5) Thiết lập các hoạt động khắc phục tại các CCP. (6) Thiết lập hệ thống kiểm định hệ thống HACCP làm việc hoàn hảo. (7) Thiết lập hệ thống tài liệu có liên quan, lập báo cáo đánh giá mức phù hợp với các nguyên tắc trên trong quá trình thực hiện. + Tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng Ký mã hiệu là yêu cầu quan trọng số một trong việc lưu thông hàng hóa trên thị trường EU. Các sản phẩm có liên quan đến sức khỏe người tiêu dùng phải có ký hiệu mã theo quy định của EU. Đối với các sản phẩm công nghiệp chế tạo thì có quy định về nhãn hiệu CE mà mục tiêu là áp đặt một quy đinh chung với các nhà sản xuất để chỉ cho phép những sản phẩm sản xuất an toàn vào thị trường EU. Một số sản phẩm còn có thêm nhãn hiệu chứng nhận bổ sung cho một cơ quan thông báo cấp để chứng nhận sản phẩm tuân thủ quy định nêu trên. Có một số cơ quan chuyên trách phụ thuộc EU thực hiện việc kiểm tra phân loại đối với các sản phẩm khác nhau. Giấy chứng nhận do một trong những cơ quan này cấp sẽ được các nước thành viên khác chấp nhận. Quy định về bảo vệ môi trường Thị trường EU yêu cầu hàng hóa có liên quan đến môi trường phải dán nhãn theo quy định (nhãn sinh thái, nhãn tái sinh) và chứng chỉ được quốc tế công nhận. Ví dụ: tiêu chuẩn GAP (Good agricultural Practice) Và các nhãn hiệu sinh thái (Ecolabels) đang ngày càng được phổ biến, chứng tỏ các cấp độ khác nhau về một môi trường tốt. Ngoài ra, hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 được xây dựng nhằm thiết lập hệ quản lý môi trường và cung cấp các công cụ hỗ trợ có liên quan cho các tổ chức hoặc các doanh nghiệp để quản lý sự tác động của các hoạt động, sản phẩm hoặc các dịch vụ của họ đối với môi trường, ngăn ngừa ô nhiễm và liên tục cải thiện môi trường. Bộ ISO 14000 đề cập đến các vấn đề sau: (1) Hệ thống quản lý môi trường (Environmental Managent System- EMS) (2) Kiểm tra đánh giá môi trường (Environmental Auditing - EA) (3) Đánh giá kết quả hoạt động môi trường (Environmental Performance Evalution) (4) Ghi nhãn môi trường(Environmental Labelling - EL) (5) Đánh giá chu trình sống của sản phẩm (Life cycle Asessment - LCA) (6) Các khía cạnh môi trường trong tiêu chuẩn sản phẩm (Environmental Aspects in Product Standard - EAPS) Trong các tiêu chuẩn nêu trên, tiêu chuẩn ISO 14001 về hệ thống quản lý môi trường là quan trọng nhất. Đây là những tiêu chuẩn bắt buộc của bộ tiêu chuẩn ISO 14000 đối với các tổ chức, doanh nghiệp về vấn đề môi trường. Các tiêu chuẩn còn lại là các tiêu chuẩn mang tính chất hướng dẫn, giúp cho việc xây dựng và thực hiện quản lý môi trường có hiệu quả. Một nội dung đáng lưu ý khác của bộ tiêu chuẩn ISO 14000 trong mối quan hệ đối với thương mại là vấn đề nhãn môi trường. Nội dung về nhãn môi trường được thực hiểntong khuôn khổ ISO/TC 207 nhằm thống nhất và hướng dẫn các khái niệm và tiêu chí cơ bản đối với việc quy định và thực hiện nhãn môi trường . Các tiêu chuẩn về dán nhãn môi trường xây dựng trên cơ sở phân tích chu kỳ sống của sản phẩm. Theo phương pháp này, người ta sẽ đánh giá mức độ ảnh hưởng đối với môi trường của sản phẩm ở các giai đoạn khác nhau trong toàn bộ chu kỳ sống của nó. Các giai đoạn này gồm có giai đoạn tiền sản xuất, sản xuất, phân phối, sử dụng hoặc tiêu thụ và loại bỏ sau khi sử dụng. - Tiêu chuẩn về lao động ủy ban Châu Âu (EC) đình chỉ hoạt động của các xí nghiệp sản xuất nội địa ngay khi phát hiện ra những xí nghiệp này sử dụng lao động cưỡng bức và cấm nhập khẩu những hàng mà trong quá trình sản xuất sử dụngbất kỳ một hình thức lao động cưỡng bức nào như lao động tù nhân, lao động trẻ em,… được quy định trong các Hiệp ước Geneva ngày 25/09/1926 và 7/9/1956 và các Hiệp ước lao động quốc tế số 29 và 105. Như vậy, có thể nói răng, ISO 14000 và HACCP chính là chìa khóa để các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập sâu vào thị trường EU, thị trường mà “rào cản kỹ thuật” là các biên pháp chủ yếu để bảo hộ xuất khẩu và tiêu dùng nội địa do EU đang giảm dần thuế nhập khẩu và bên cạnh đó là Việt Nam đang được hưởng thuế quan ưu đãi GSP. Do vậy, yếu tố có tính quyết địnhđến việc hàng của Việt Nam có thể vào được thị trường EU hay không chính là hàng hóa của Việt Nam có vượt qua được rào cản kỹ thuật của thị trường EU hay không. - Các biên pháp tự vệ EU áp dụng hai cơ chế tự vệ cho các sản phẩm nông nghiệp: Cơ chế tự vệ đặc biệt quy định trong Hiệp định nông nghiệp của WTO. Cơ chế này cho phép EU áp dụng thuế bổ sung đối với các sản phẩm nhập khẩu nếu như giá của sản phẩm thấp hơn giá trần hoặc số lượng nhập khẩu tăng quá mức cho phép gây nguy hiểm cho hoạt động sản xuất. Bên cạnh đó, từ năm 1995, EU đã áp dụng cơ chế tự vệ, bảo vệ đặc biệt (theo tiêu thức giá hoặc số lượng) đối với nhiều sản phẩm như thịt gia cầm, lòng đỏ trứng khô và một số sản phẩm đường, thịt cừu, cam, cà chua, quýt,… 2.3. Những tác động của rào cản thương mại của EU đối với Việt Nam Cho dù tồn tại dưới bất cứ hình thức hoặc biện pháp nào, rào cản thương mại của EU đã và sẽ tiếp tục gây cản trở khả năng đẩy mạnh hàng hóa của Việt Nam. Thể hiện rõ nét ở một số rào cản sau đây Theo quy định của Tổ chức thương mại thế giới, các nước phát triển có thể dành cho các nước đang phát triển được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập. EU đã dành cho Việt Nam được hưởng chế độ này, nhưng có khả năng xem xét lại khi EU mở rộng ra thành EU 25. Đại đa số các mặt hàng được hưởng GSP là những mặt hàng thuộc nhóm nông sản, hải sản, thực phẩm và đồ uống, nhựa và sản phẩm nhựa, cao su và sản phẩm cao su, đồ gỗ, đồ da, một nhóm mặt hàng thuộc nhóm giày dép và may mặc…Đây là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, tuy đã được hưởng chế độ MFN (thuế tối huệ quốc) nhưng cò cao hơn so với mức GSP vì vậy cũng là rào cản đối với xuất khẩu của Việt Nam trong quan hệ so sánh với các nước khác. Trong xu thế hình thành nhiều khu thương mại tự do giữa các nước và thuế suất ưu đãi tại các khu vực này thường ở mức 0%. Một số nước ASEAN như Singapro, Thái Lan, Malaysia,…, đã ký kết hoặc đang chuẩn bị ký các hiệp định thương mại tự do với EU và họ đã dành cho nhau nhiều ưu đãi trong đó có ưu đãi về thuế ở mức 0% đối với nhiều mặt hàng nông sản, rau quả, hàng công nghiệp chế biến… Cơ cấu hàng hóa của Việt Nam có nhiều điểm giống với cơ cấu hàng hóa của các nước trong khu vực nên khi Việt Nam còn chưa được ưu đãi ở mức cao như các nước thì chính nó đã trở thành rào cản tác động không tốt tới xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Việt Nam chưa được EU coi là nước có nền kinh tế thị trường, do vậy phải chịu nhiều bất lợi trong các vụ trnh chấp thương mại tại thị trường này vì phải giải quyết theo cơ chế song phương và bị áp đặt điều tra so sánh thông qua một nước thứ ba. Hơn nữa Việt Nam chưa phải thành viên của WTO nên chế độ tối huệ quốc mà EU dành cho Việt Nam chưa phải là chế độ vĩnh viễn. Tất cả những điều này đã dặt Việt Nam vào thế bất lợi hơn so với nhiều nước khác. Mặc dù đã đạt được những tiến bộ nhất định trong vòng đàm phán thương mại toàn cầu về tự do hóa thương mại với việc các nước phát triển cam kết sẽ cắt giảm khoảng 2 tỷ USD trợ cấp nông nghiệp, nhưng EU vẫn cò trợ cấp cho nông nghiệp ở mức rất cao. ĐIều đó đã gây cản trở rất lớn đối với xuất khẩu một số mặt hàng nông sản như gạo, các loại rau quả, thịt lợn và gia cầm của Việt Nam vào thị trường EU. Việc áp đặt hạn ngạch xuất khẩu tự nguyện đối với hàng dệt may của EU đã cản trở khả năng tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào EU. Khả năng tăng trưởng xuất khẩu dệt may của Việt Nam là rất lớn nhưng do bị áp dặt hạn ngạch nên nhiều doanh nghiệp chỉ đủ hạn ngạch sản xuất đến 50% công suất. Nhưng mới đây EU đã dỡ bỏ hạn ngạch đối với hàng đệt may của Việt Nam, đã dẫn đến khả năng tăng trưởng xuất khẩu vào EU là rất lớn. Ngoài ra, các rào cản kỹ thuật và an toàn thực phẩm thường là cao hơn khả năng đáp ứng của nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Ngay cả khi các doanh nghiệp đã cố gắng để đạp ứng thì EU lại đưa ra các rào cản bổ sung. Chẳng hạn, đối với tỗmuất khẩu vào EU thì ban đầu chỉ là các quy định về chế biến và cơ sở chế biến phải đáp ứng dựa trên yêu cầu theo tiêu chuẩn ISO, nhưng tiếp đó là các yêu cầu về tồn dư kháng sinh, về sử dụng hoóc môn tăng trưởng, tiếp đó lại là các quy định bổ sung về môi truờng và điều kiện nuôi trồng, nhãn sinh thái,… Nhìn chung, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về tiêu chuẩn kỹ thuất, vệ sinh an toàn thực phẩm và các yêu cầu về an toàn cho người sử dụng, bảo vệ môi trường trường sinh thái…các doanh nghiệp buộc phải đầu tư đổi mới trang thiết bị và tăng cường cho các khoản chi phí cho nhiều hoạt động có liên quan. Những khoản chi phí cho các hoạt động như thế đang là khó khăn lớn đối với hầu hết các doanh nghiệp, do vậy chỉ có doanh nghiệp nào có khả năng đáp ứng mới có thể xuất khẩu được. Mặt khác sản xuất nhiều hàng hóa của Việt Nam đang còn ở mức quy mô hộ sản xuất kinh doanh với chất lượng hàng không đồng đều nên yêu cầu của nước nhập khẩu hiện đang là rào cản tác động không tốt tới xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Rào cản về thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa cũng là một khó khăn rất lớn đối với hàng hóa của Việt Nam khi xuất khẩu vào EU. Trên thi trường hàng hóa EU có rất nhiều nhãn hiệu hoặc thương hiệu của các hãng nổi tiếng trên thế giới. Việt Nam tham gia xuất khảu vào thị trường EU với khoảng thời gian không dài, còn rất ít nhãn hiệu hàng hóa hay thương hiệu được đăng ký trên thị truờng EU. Để xuất khẩu hàng hóa qua chế biến, các doanh nghiệp Việt Nam phải mua bản quyền nhãn hiệu hàng hóa của các hãng nổi tiếng hoặc phải gia công cho nước ngoài nên giá trị gia tăng có được rất thấp. Các mặt hàng có kim ngạch lớn như dệt may, giầy dép, hàng điện tử…chúng ta đều phải thực hiện theo phương thức này. Tuy nhiên để xây dựng và phát triển thương hiệu hay nhãn hiệu hàng hóa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường EU đòi hỏi phải có nhiều thời gian và chi phí lớn. Mặt khác, theo quy định chung nếu hàng hóa có kiểu dáng tương tự sẽ bị xử lý vi phạm kiểu dáng công nghiệp. Như vậy, rào cản về cạnh tranh với thương hiệu và nhãn mác nổi tiếng của nước ngoài và rào cản để phát triển thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa của Việt Nam đang có tác động không tốtđến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào EU. Rào cản về thủ tục hành chính cũng tác động không nhỏ đối với Việt Nam. Thủ tục hành chính của EU tuy công khai, rõ ràng nhưng hết sức phức tạp. Để xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào EU phải xin giấy phép hoặc phải được sụ chấp nhận của nhiều cơ quan qản lý,…. Chương 3 Giải pháp hạn chế rào cản thương mại từ EU của Việt Nam Hiện nay EU là một thị trường lớn, ổn định và phát triển Việt Nam thâm nhập thị trường này sẽ không gặp sự chao đảo như vào Nhật Bản, hay Liên Xô, thâm nhập được EU tạo cho Việt Nam thế ổn định xuất nhập khẩu. Hơn thế nữa EU đang quan tâm và hướng hoạt động sang Châu á thể hiện qua hội nghị ASEMA của ASEAN. Việt Nam hiện đang được đánh giá là nước đang đi lên, năm trong khu vực được quan tâm, lại là thành viên của ASEAN. Hàng hóa của Việt Nam có các chủng loại rất cần cho EU, nhất là hàng nông sản, thủy sản, đồ gỗ, công nghiệp nhẹ (may mặc, giày da) EU có thể nhập trực tiếp hoặc hợp tác gia công. Là khu vực đang đi vào nhất thể hóa, làm đối trọng với Mỹ và Nhật Bản, EU rất cần phát triển khu vực thị trường Châu á Việt Nam đang trong giai đoạn công nghiệp hóa cần thị trường xuất khẩu mà EU có thể tiêu thụ khối lượng lớn hàng của Việt Nam. EU lại có công nghệ cao có thể hỗ trợ vốn đầu tư và công nghệ cho Việt Nam. Tuy nhiên Việt Nam cũng gặp rất nhiều rào cản khi xuất khẩu vào EU. Chinh vì thế Việt Nam cần có giải pháp hạn chế các rao cản của EU từ phía nhà nước cũng như về phía doanh nghiệp để có thể xuất khẩu vào thị trường này được nhiều hơn. 3.1. Giải pháp về phía nhà nước Trên thế giới hiện nay xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ, chính vì thế Việt Nam đã quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới. song song với các mối quan hệ đó Việt Nam đã có những mối quan hệ hợp tác thương mại trên thế giới. Trong đó Việt Nam coi trọng mối quan hệ hợp tác với Liên minh Châu Âu và coi EU là một thị trường quan trọng trong sự nghiệp phát triển của đất nước, khi nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.Trong mối quan hệ thương mại, EU đã và đang mở cửa thị trường cho Việt Nam thâm nhập vào. Nhưng do Việt Nam chưa đáp ứng được các yêu cầu mà EU đưa ra. Như cơ chế thị trường hiện nay của nước ta chưa phù hợp với yêu cầu của EU nên về phía nhà nước cần phải nhanh chóng hoàn thiện hành lang pháp lý tạo thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp sản xuất, trước hết về luật thương mại, luật đầu tư nước ngoài và luật khuyến khích đầu tư trong nước như bổ sung về nguyên tắc đối sử quốc gia, sửa đổi biểu thuế và thu thuế. Tiếp tục đổi mới và cải cách thủ tục hành chính xuất nhập khẩu nhất là thủ tục hải quan, áp dụng công nghệ thông tin vào việc kê khai hàng tính thuế. Cơ sở hạ tầng của nước ta còn quá lạc hậu chưa đáp ứng với các yêu cầu trong sản xuất cũng như trong thu hút đầu tư nước ngoài chính vì thế nhà nước cần phải nâng cấp cơ sở hạ tầng. Việt Nam chưa là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới nên mức thuế bị thiệt chính vì thế chính phủ cần đàm phán với EU trong giai đoạn này để cho Việt Nam được hưởng mức thuế ưu đãi (GSP), hoặc mức thuế thấp khi Việt Nam xuất khẩu hàng hóa vào EU. Đây là một giải pháp rất cần thiết đối với Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. EU đòi hỏi chất lượng cao đối với hàng hóa của Việt Nam, nhất là khi EU dùng hàng rào kỹ thuật đối với hàng hóa của Việt Nam. Để hạn chế được rào cản kỹ thuật này không còn cách nào khác là tăng cường chất lượng hàng xuất khẩu từ phía nhà nước. Cần phải nghiêm túc mở rộng ISO 9000, ISO 14000, HACCP,.... Đưa chất lượng thành quốc sách hàng đầu, thành lập các cơ quan kiểm định chất lượng quốc gia để kiểm tra chất lượng hàng hóa của các doanh nghiệp. Chỉ có như thế Việt Nam với đáp ứng được yêu cầu của EU, từ đó hạn chế bớt rào cản của EU đối với Việt Nam. Để có chất lượng tốt nhà nước cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư nhập khẩu công nghệ mới, và đào tạo ra đội ngũ công nhân có tay nghề cao bằng cách mở thêm nhiều trường dạy nghề, thu hút hoc viên vào học, từ đó mới có thể sản xuất ra các sản phẩm chất lượng và giá thành rẻ đáp ứng yêu cầu của EU sẽ giúp Việt Nam hạn chế được rào cản về chất lượng. Chỉ có chất lượng không thì chưa đủ đáp ứng các yêu cầu của EU, mà nhà nước cần khuyến khích doanh nghiệp thay đổi mẫu mã cho phù hợp thị hiếu người tiêu dùng của EU, với công nghệ mới các doanh nghiệp có thể sản xuất ra các sản phẩm chất lượng cao đảm bảo vệ sinh thực phẩm và vệ sinh môi trường, an toàn cho người sử dụng,…. Với tiêu chuẩn trên Việt Nam có thể đáp ứng được yêu cầu của EU, từ đó Việt Nam có thể hạn chế được rào cản kỹ thuật mà EU đưa ra, giúp cho việc xuất khẩu vào EU được thuận lợi hơn. Để hạn chế rào cản về hạn ngạch của EU đối với xuất khẩu hang của Việt Nam, nhà nước cần từng bước đàm phán với EU để giảm bớt các mặt hàng bị hạn chế, như năm 1997 với việc Việt Nam đã ký với EU hiệp định hàng dệt may cho giai đoạn 1998 – 2000, hiệp định này có bước tiến rất quan trọng đối với Việt Nam. EU đã giảm bớt các mặt hàng bị hạn chế hạn ngạch của Việt Nam từ 54 loại hàng xuống còn 29 và có 13 loại hàng được tăng hạn ngạch từ 36% lên 116%. Năm 2000 Việt Nam đã ký hiệp định song với EU về hàng dệt may, giầy dép, với hiệp định này EU lại tăng hạn ngạch dệt may của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU khoảng 20% năm 2001. Cho đến nay EU đã bãi bỏ hạn ngạch hàng dệt may cho Việt Nam vào ngày 1/1/2005. Tuy nhiên theo Hiệp định đa sợi (MFA) hạn ngạch sẽ dần bị hủy bỏ. Tăng cường đàm phán với EU từ phía nhà nước là một giải pháp rất quan trọng trong việc hạn chế các rào cản của EU đối với Việt Nam. Với việc hạn chế các rào cản của EU từ phía nhà nước, giúp cho hàng hóa của Việt Nam thâm nhập vào thị trường EU ngày càng nhiều. 3.2. Giải pháp về phía doanh nghiệp Việt Nam là nước đang phát triển và đang trong quá trình tiến hành công cuộc, công nghiệp hóa hiện đại đại hóa đất nước. Với nền công nghiệp của đất nước hiện nay quá lạc hậu để sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt. Để đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng sản phẩm mà EU đưa ra đối với hàng hóa của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường này, thì các doanh nghiệp của Việt Nam cân đầu tư vào công nghệ mới. EU là thị trường có công nghệ cao đây là điều kiện rất thuận lợi đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Với việc đầu tư nhập khẩu công nghệ mới giúp cho các doanh nghiệp của Việt Nam sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt có thể đáp ứng được yêu cầu về chất lượng đối với Việt Nam của EU, thông qua đó các doanh nghiệp Viêt Nam có thể hạn chế được rào cản về chất lượng mà EU đặt ra đối với hàng hóa của Việt Nam. Việt Nam là nước có nguồn lao đông dồi dào, nhưng điều bất cập nhất hiên nay là lao động có kỹ thuật và tay nghề cao chưa nhiều, không đủ đáp ứng trong quá trình sản xuất. Để có các sản phẩm chất lượng, các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ có đầu tư vào công nghệ mới, mà còn phải cùng với nhà nước tiến hành đào tạo ra đội ngũ công nhân có kỹ thuật. Các doanh nghiệp Việt Nam với việc đầu tư vào đào tạo và nâng cao tay nghề cho công nhân, từ đó đưa lực lượng công nhân này vào vận hành công nghệ mới, điều đó giúp các doanh nghiệp có được những sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu về chất lượng cao của EU. Không chỉ có thế mà thông qua việc đào tạo và sử dụng lực lượng lao động này các doing nghiệp còn hạn chế được rào cản về lao động mà EU yêu cầu. Vì vậy việc các doanh nghiệp cùng với nhà nước đầu tư vào quá trình đào tạo công nhân là rất cần thiết. Muốn hạn chế các rào cản của EU, thì các doanh nghiệp Việt Nam cần phải thay đổi mẫu mã các sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng cua EU. Với các mẫu mã lỗi thời của hang hóa Việt Nam hiên nay thì không thể đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng EU. Để đáp ứng được thì các doanh nghiệp Vịêt Nam phải đầu tư vào nghiên cứu, sáng tạo ra các mẫu mã mới phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng EU. Với hình thức mẫu mã mới phù hợp với sở thích của người tiêu dùng EU, mang lại quyền lợi cho người tiêu dùng Liên minh Châu Âu, từ đó các doanh nghiệp Việt Nam có thể hạn chế các rào cản về hạn ngạch của EU. Để EU công nhận hàng hóa của Việt Nam có chất lượng tốt, đảm bảo vệ sinh, môi trường, an toàn cho người sử dụng,…, thì các doanh nghiệp của Việt Nam phải nghiêm túc áp dụng hệ thống quản lý ISO 9000, ISO14000 và HACCP, đây là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp khi xuất khẩu hàng hóa vào EU. Trong đó ISO 9000 là hệ thống quản lý chất lượng hiện nay trên thế giới áp dụng rất hiệu quả, ISO 14000 là hệ thống quả lý môi trường và HACCP là hệ thống phân tích nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu trong quá trình chế biến thực phẩm. Nghiêm túc áp dụng hệ thống quản lý và có chứng chỉ của hệ thống này sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam hạn chế được các rào cản về kỹ thuật của EU. Kết luận liên minh châu âu - như đã phân tích ở trên đấy là một tổ chức duy nhất có mục tiêu cơ bản và lâu dài, là thống nhất cả một châu lục cả về kinh tế và chính trị, dựa trên các nguyên tắc cơ bản và linh hoạt vừa thực dụng mang tính siêu quốc gia ngày càng rõ rệt. Trong hơn 40 năm qua, eu đã tồn tại không ngừng phát triển và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống quốc tế nói chung và các nước trong eu nói riêng. trong những thành công mà eu đạt được trong tiến trình đi tới nhất thể hoá kinh tế - tiền tệ và chính trị, việt nam đang ngày càng chú trọng tới phát triển đẩy mạnh hợp tác kinh tế với eu. Nhiều kết quả đạt được trong hợp tác kinh tế việt nam – eu, từ khi việt nam – eu thiết lập quan hệ ngoại giao (1990) đặc biệt sau ký hiệp định khung hợp tác đến nay khẳng định rõ sự chuyển biến về chất và lượng của quan hệ việt nam – eu. Phát biểu nhân dịp ký kết Hiệp định khung hợp tác việt nam – eu, bộ trưởng ngoại giao nguyễn mạnh cầm và chủ tịch hội đồng eu đều hoan nghênh sự gia tăng về các mối quan hệ hợp tác kinh tế từ khi việt nam và eu bình thường hoá quan hệ. Giờ đây là lúc thế giới thừa nhận việt nam đã có những biện pháp tích cực nhằm bình thường quan hệ với các đối tác của mình trên độ khu vực cũng như trên cấp độ toàn cầu. Nhiều thành tựu trong quá trình đổi mới của việt nam, việc việt nam tiếp tục thực hiện quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển sang kinh tế thị trường là nước điều kiện thuận lợi để tăng cường và mở rộng hơn nữa các mối liên hệ và quan hệ hợp tác giữa việt nam và eu. đánh giá về triển vọng hợp tác, uỷ viên uỷ ban châu âu phụ trách về đối ngoại ông C.patten nói: “ quan hệ hợp tác chung giữa việt nam và eu rõ ràng đã phat triển rất tích cực”. Hiện tại các tập đoàn và các công ty lớn của eu đang quan tâm và mong muốn hợp tác với việt nam. EU sẽ tiêp tục giành cho việt nam sự giúp đỡ và hợp tác trên mọi lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Mặc dù còn phải dương đầu với nhiều khó khăn trong bối cảnh thế giới và khu vực hiện nay, nhưng điều không thể phủ nhận được, là tiềm năng kinh tế, chính trị của EU về lâu dài trong một trật tự và kinh tế thế giới mới đang hình thành là vô cùng to lớn. chính vì vậy, việt nam cần tiếp tục tranh thủ mở rộng quan hệ với các nước EU trên cơ sở củng cố và tăng cuờng vị trí ở các thị trường quen thuộc và các bạn hàng truyền thống lấy đó làm điểm tựa, cầu nối để thâm nhập tạo chỗ dứng ở thị trường mới, phát triển các mối quan hệ mới. Đồng thời xây dựng thị trường hoàn chỉnh bao gồm cả sức lao động, dịch vụ, vốn và tiền tệ thống nhất trong cả nước và với thị trường thế giới… Với việc duy trì quan điểm tiếp tục phát triển và mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả các quốc gia khác trên thế giới vì lợi ích chung trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền lãnh thổ của mỗi dân tộc do Đảng ta đề ra sẽ tạo tiềm năng to lớn của việt nam và EU, chung ta tin tưởng rằng quan hệ hợp tác việt nam – EU sẽ ngày càng phát triển tốt đẹp cả trong quan hệ song phương việt nam – EU và đa phương ASEAN – EU. Chính vì vậy, giải pháp nhằm hạn chế các rào cản thương mại của EU đối với Việt Nam là rất cần thiết và thiết thực. Tài liệu tham khảo 1. Đảng Cộng Sản – Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIX – nxb Chính Trị Quốc Gia Hà Nội. 2. Kim Ngọc, Viện kinh tế thế giới, Kinh tế thế giới 2003 – 2003 Đặc điểm và triển vọng, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2003. 3. GS – TS Chu văn Cấp – Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế – NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2003. 4. TS Phạm Thúy Hồng – Chiến lược cạnh tranh vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính Trị Quốc Gia Hà Nội, 2004. 5. Hỏi đáp tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, học viện Quan hệ quốc tế. 6. ủy Ban Quốc Gia về hợp tác kinh tế quốc tế – Việt Nam và các tổ chức kinh tế quốc tế, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2004. 7. Kinh tế thế giới, 1999,2000, 2001, 2002, 2003 Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999,2000, 2001, 2002, 2003 8. Chính sách thương mại và đầu tư – Viện nghiên cứu kinh tế thế giới, 1996 9. Quan hệ Việt Nam – Liên minh Châu Âu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001 Tạp chí 10. Đặc san quốc tế Việt Nam – Liên minh châu Âu tiến tới đối tác toàn diện vì phát triển năm 2000 11. Phát triển kinh tế các số 1999,2000, 2001, 2002, 2003, 2004 12. Thông tin lý luận 1999,2000, 2001, 2002, 2003, 2004 13. Kinh tế châu á Thái Bình Dương các số 1999, 2000, 2001, 2002, 2003, 2004 14. Chây Mỹ ngày nay các số năm 1999, 2000, 2001, 2002, 2003, 2004 15. Kinh tế và phát triển các số năm 1999, 2000, 2001, 2002, 2003, 2004 16. Nghiên cứu Châu Âu các số năm 1999, 2000, 2001, 2002, 2003, 2004 17. Báo ngoại thương các số 1999,2000, 2001, 2002, 2003, 2004 18. Báo quốc tế 1999, 2000, 2001, 2002, 2003 19. Báo đầu tư các số năm 1999, 2000, 2001, 2002, 2003, 2004 20. Tạp chí thương mại năm 2003, 2004 21. Báo doanh nghiệp năm 2003, 2004 22. Thời báo kinh tế Việt Nam 7/1/2005 23. Thông tin kinh tế xã hội 1/2004 và số 8 (38) , 11/2004 số 7 ngày 1/10/2003/2005 24. Thông tin kinh tế thương mại số 33, 34 năm 2004 và số 1, 2 năm 2005 25. Những vấn đề kinh tế thế giới số 9,10,12 năm Hà Nội, ngày … tháng… năm 2005 Nhận xét của giáo viên phản biện khoá luận tốt nghiệp Họ và tên thầy giáo phản biện: Cơ quan công tác: I. Đánh giá thành công của khoá luận tốt nghiệp Nội dung: Hình thức; II. Đánh giá hạn chế của khoá luận tốt nghiệp; III. Kiến nghị của giáo viên phản biện đối với khoá luận tốt nghiệp: IV. Điểm của khoá luận tốt nghiệp: Bằng chữ………………………………………. Bằng số

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34137.doc
Tài liệu liên quan