Luận văn Những biện pháp nhằm điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam giai đoạn hiện nay

Cán cân thanh toán quốc tế là một trong những tài khoản kinh tế vĩ mô quan trọng, phản ánh toàn bộ hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước với phần còn lại của thế giới. Nó có mối quan hệ rất chặt chẽ với các tài khoản kinh tế vĩ mô khác. Chính vì vậy, cán cân thanh toán quốc tế là một công cụ quan trọng để hoạch định các chính sách kinh tế trong từng thời kỳ. Việc thiết lập và điều chỉnh cán cân thanh toán ở Việt Nam là một vấn đề rất mới mẻ. Cán cân thanh toán của Việt Nam mới được thành lập từ năm 1990 theo Pháp lệnh ngân hàng. Từ đó đến nay, chất lượng của các nguồn số liệu trong bảng cán cân thanh toán ngày càng được nâng cao và trở thành công cụ hữu ích giúp chính phủ đưa ra được những chính sách hữu hiệu trong việc điều chỉnh các hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng và hoạt động kinh tế nói chung của đất nước.

doc91 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1660 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những biện pháp nhằm điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ày ở chức năng trung gian làm đại lý dịch vụ cho những nước khác. Nghĩa là Việt Nam trước mắt chỉ nên phát triển công nghiệp lắp giáp, sửa chữa, dịch vụ tiêu thụ là chính, không nên đầu tư quá nhiều vào công nghiệp chế tạo vì nó đòi hỏi vốn lớn và dễ bị lạc hậu. Ngoài ra chúng ta cần chú trọng vào các thị trường dịch vụ như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, du lịch, quảng cáo,... vì những ngành này hỗ trợ đắc lực cho các ngành sản xuất và bản thân nó cũng mang lại thu nhập cao cho nền kinh tế quốc dân. B. Huy động và tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu Trước đây, chỉ có những doanh nghiệp nhà nước mới được quyền hoạt động xuất khẩu trực tiếp. Cho đến nay, nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho lĩnh vực tư nhân vì đây là lĩnh vực rất nhiều tiềm năng (cụ thể: tỷ trọng xuất khẩu của khu vực tư nhân năm 1997 tăng 4% đến năm 1999 tăng 14%). Điều này thể hiện: đối với những mặt hàng tác động đến môi trường sinh thái, hệ sinh thái do Nhà nước công bố danh mục, doanh nghiệp muốn xuất khẩu phải có giấy phép xuất khẩu. Phần lớn các mặt hàng còn lại của doanh nghiệp đã đăng kí kinh doanh mặc nhiên được phép xuất khẩu và chỉ làm thủ tục hải quan. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có tư cách pháp nhân hợp lệ đều được tham gia xuất khẩu trực tiếp mà không phân biệt loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhà nước phải có sự điều chỉnh đồng bộ, thực hiện thể chế hoá quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Đảng, tạo điều kiện hình thành các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh mạnh trên thị trường quốc tế. Đây cũng là đòi hỏi của việc quản lí nghiệp vụ kinh doanh, những vấn đề còn lại của cơ chế kinh tế cũ. C. Thực hiện các biện pháp nhằm xây dựng phát triển thị trường xuất khẩu cho hàng hoá Việt Nam . Một chiến lược hướng về xuất khẩu bao giờ cững phải đảm bảo bằng khả năng thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. Dưới góc độ quản lý vĩ mô việc mở rộng quan hệ nước ngoài được thực hiện bằng các biện pháp sau: - Đàm phán, ký kết các hợp đồng thương mại với các nước bạn hàng, đặc biệt là các nước phát triển có dung luợng thị trường lớn nhằm tăng khối lượng và giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam (bao gồm đàm phán hạn ngạch xuất khẩu đối với các mặt hàng có hạn ngạch, ký các hiệp định chính phủ về mua bán hàng hoá giữa các nước...). Tiến hành khẩn trương việc đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối đa của đất nước . - Thiết lập hệ thống thu nhập và xử lý thông tin thương mại, nâng cao khả năng dự báo và định hướng thị trường đảm bảo cung cấp kịp thời và chính xác các thông tin giúp các doanh nghiệp có căn cứ để buôn bán và đầu tư. - Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại với nhiệm vụ nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin và tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại, đào tạo các nghiệp vụ mua bán hàng hoá quốc tế. - Sớm ban hành quy chế về việc doanh nghiệp Việt Nam, lập chi nhánh thương mại ở nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận trực tiếp nhu cầu thị trường ngoại và thâm nhập sâu vào các thị trường đó. D. Giải pháp về đổi mới, hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu là một khâu quan trọng trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Do đó, việc hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu là cần thiết và cần được thực hiện theo các hướng sau : - Miễn giảm thuế xuất khẩu. Tiếp tục điều chỉnh một các cơ bản chính sách thuế theo hướng miễn giảm đối với các sản phẩm xuất khẩu và chỉ đánh thuế đối với những sản phẩm không khuyến khích xuất khẩu hoặc đánh phụ thu khi có lợi nhuận cao . Ví dụ : + Khi giá cà phê xuất khẩu xuống dưới 1.000USD/1tấn thì nhà nước miễn thuế + Khi giá cà phê xuất khẩu 3.000USD/1tấn trở lên, thuế phụ thu tăng từ 5% đến 7% - Đối với những mặt hàng có hạn ngạch, cam kết số lượng với nước ngoài bằng các hiệp định như xuất khẩu gạo, hàng dệt may, nhà nước nên tổ chức đấu giá các hạn ngạch nhằm tránh tình trạng những doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu thì không có hoặc có ít hạn ngạch trong khi những doanh nghiệp không có khả năng thì lại nhận được nhiều hạn ngạch. Nhà nước nên cho phép chuyển nhượng hạn ngạch để đảm bảo kế hoạch xuất khẩu. - Huỷ bỏ chế độ chuyên ngành: Mỗi doanh nghiệp được quyền xuất nhập khẩu đều có quyền kinh doanh các mặt hàng xuất khẩu (trừ những mặt hàng cấm nhập, cấm xuất). Những kiến nghị trên tựu trung lại nhằm chuyển hẳn quản lý hành chính sang quản lý nhà nước bằng công cụ kinh tế và pháp luật. Ngoài ra, để đẩy mạnh xuất khẩu, nhà nước và các doanh nghiệp cần phải chú trọng đến nâng cao chất lượng và hình thức sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam, quan tâm đến đào tạo cán bộ chuyên ngành cũng như ổn định môi trường pháp lý và cải cách thủ tục hành chính. 3.2.2 Những biện pháp nhằm điều tiết nhập khẩu Hiện nay, nền kinh tế thế giới đang chịu sự tác động của quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá. Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập vào xu thế phát triển chung này nên việc hạn chế nhập khẩu chỉ là một giải pháp ngắn hạn, mang tính tình thế và khó thực hiện, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam sắp tham gia vào khu vực mậu dịch tự do AFTA vào năm 2003. Hơn nữa, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang được tiến hành ở nước ta khiến nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị tiên tiến hiện đại, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất tăng lên. Trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, nhập siêu là một tất yếu. Vì vậy, tất cả các biện pháp nhập khẩu là nhằm đạt được một cán cân thanh toán lành mạnh hơn, hạn chế nhập khẩu những hàng hoá không cần thiết hoặc có ảnh hưởng xấu đến thị trường nội địa . A. Điều chỉnh cơ cấu nhập khẩu Cơ cấu nhập khẩu là tỷ lệ tương quan giữa các nhóm hàng trong toàn bộ kim ngạch nhập khẩu. Cơ cấu hàng nhập khẩu của nước ta gồm hai nhóm lớn: nhóm hàng tư liệu sản xuất và nhóm hàng tư liệu tiêu dùng. Việc đưa ra những quyết định nhập khẩu những mặt hàng cần thiết, phù hợp nhằm tiết kiệm ngoại tệ đồng thời có thể bảo hộ, tạo điều kiện cho nền sản xuất nội địa trong từng giai đoạn phát triển cụ thể là điều vô cùng quan trọng. Trong giai đoạn hiện nay, việc điều chỉnh cơ cấu nhập khẩu cần được tiếp tục thực hiện triệt để theo hướng sau: - Giảm đến mức tối đa nhập khẩu hàng tiêu dùng, đặcbiệt là hàng trong nước có thể sản xuất đựơc như may mặc, đồ uống, hoa quả... Biện pháp này không có tác dụng kiểm soát tốc độ nhập khẩu mà còn nhằm hỗ trợ các các doanh nghiệp trong nước. Danh mực các mặt hàng này được điều chỉnh tuỳ thuộc vào khả năng sản xuất trong nước cũng như năng lực cạnh tranh của hàng nội địa. Biện pháp này cũng được thực hiện sao cho không ảnh hưởng đến các cam kết về mở cửa thị trường trong các hiệp định thương mại Việt Nam đã ký kết với người nước ngoài. - Tạm ngừng nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu cho các ngành đã phát triển khá phồn thịnh ở trong nước như các ngành bia, rượu, đồ uống, nước giải khá... những ngành thuộc dạng ưu tiên, sử dụng các nguồn lực trong nước . Việc điều chỉnh cơ cấu nhập khẩu trong điều kiện nước ta hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc cải thiện cán cân thương mại nói riêng và cán cân thanh toán nói chung . B. Kiểm soát việc nhập khẩu của các doanh nghiệp. Trong những năm qua, việc nhập khẩu của các doanh nghiệp không được quản lý chặt chẽ, gây hiện tượng nhập khẩu tràn lan, tác động xấu tới cán cân thương mại. Do vậy, nhà nước cần phải kiểm soát nhập khẩu của các doanh nghiệp theo hướng sau: - Hạn chế tối đa việc cho phép nhập khẩu hàng tiêu dùng theo phương thức vay trả chậm; đồng thời kiểm tra giám sát chặt chẽ các đại lý bán hàng cho người nước ngoài. Cần ràng buộc nhập khẩu với nghĩa vụ xuất khẩu . - Kiểm tra chặt chẽ việc nhập khẩu theo các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài và các dự án ODA. Đối với các dự án FDI việc kiểm tra nhằm tránh tình trạng nhập khẩu gian lận (chẳng hạn không đúng mặt hàng, chủng loại ghi trong hợp đồng, hoặc nhập khẩu thiết bị máy móc kém phẩm chất...). Với các dự án ODA giải pháp này nhằm cho các nguồn vốn vay có thể tái tạo nguồn ngoại tệ đảm bảo khả năng thanh toán trong tương lai. Những dự án ODA thường tập trung vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng nên không trực tiếp tạo ra nguồn hàng xuất khẩu và vì vậy không thể có những ràng buộc như đối với các dự án FDI. Tuy nhiên cần có những giải pháp quản lý chặt chẽ để thu hồi được vốn cũng như hướng vào việc đầu tư cho những hạng mục có tác động đến hiệu quả chung của nền kinh tế . C. áp dụng các phương pháp đánh thuế và hạn ngạch nhập khẩu. Đây là một biện được áp dụng rất phổ biến và rất có hiểu quả đối với Việt Nam. Ngày nay, trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, chuẩn bị gia nhập AFTA... biện pháp này không còn phát huy hiệu lực trong việc hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên, đối với những mặt hàng cần được bảo hộ, nhà nước cần quy định thêm một loạt các khoản thu bổ sung có chức năng như một biện pháp phụ nhằm hạn chế nhập khẩu mà vẫn không trái với những cam kết giảm thuế suất theo hiệp định thương mại mà nước ta đã ký kết. 3.2.3 Biện pháp thu hút chuyển tiền nước ngoài. Qua bảng chuyển giao vãng lai của Việt Nam giai đoạn 1990-1999 ta thấy vai trò quan trọng của lượng kiều hối, đặc biệt ở khu vực tư nhân, trong việc bù dắp thâm hụt cán cân thanh toán. Việc thu hút kiếu hồi từ những người Việt Nam sống ở nước ngoài là một yêu cầu cụ thể và cần được thực hiện bằng cách : - Nhà nước cần có chính sách về tỷ giá giúp đỡ thân nhân của họ trong việc đầu tư sản xuất kinh doanh để hướng việc chuyển kiều hồi về nước bằng con đường chính thức cũng như loại bỏ những thủ tục phiền hà trong việc chuyển và tiếp nhận kiếu hồi . - Hướng việc chuyển kiếu hồi vào đầu tư tăng trưởng bằng các chính sách ưu đãi đầu tư. Khuyến khích tiết kiệm tiêu dùng, gửi tiền tiết kiệm mua cổ phiếu, kỳ phiếu, thành lập doanh nghiệp góp vốn liên doanh với các đơn vị trong nước . - Nâng cao mức chịu thuế lên, đồng thời với việc cho miễn thuế đối với kiều hối chuyển chính thức qua các tổ chức được nhà nước qui định, vì kiều bào gửi về cho thân nhân trong nước thường là những người nghèo còn những người giàu được nhập tiền qua con đường hợp tác đầu tư . - Cần có những chính sách phù hợp, đơn giản hoá thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi nhất để có thể thu hết nguồn chất xám quý báu của Việt kiều ở nước ngoài có cơ hội đóng góp, xây dựng đất nước như thủ tục vi sa, tạo điều kiện đi lại thuận lợi, tạo sự hợp tác và đặc biệt là thể hiện sự tin cậy của họ . 3.2.4 Những biện pháp thu hút vốn nước ngoài. Việc thu hút các luồng vốn đầu tư nước ngoài vào sẽ có tác dụng làm tăng sản lượng và việc làm, nhưng cũng sẽ làm tăng thiếu hụt cán cân vãng lai do tăng nhập khẩu và tăng các khoản trả lợi nhuận và lãi vay cho nước ngoài. Do đó vấn đề quan trọng ở đây là phải nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Cụ thể là đầu tư phải hướng tới mục tiêu nâng cao được năng lực sản xuất, nâng cao được khả năng cạnh tranh của hàng hoá và đặc biệt phải đẩy mạnh được xuất khẩu.Trong chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần thay đổi từ xu hướng thay thế hàng nhập khẩu sang định hướng ưu tiên sản xuất hàng xuất khẩu để khai thác hết các lợi thế so sánh của Việt Nam và đẩy mạnh được sản xuất. A. Những biện pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Đầu tư trực tiếp nước ngoài (cũng như viện trợ nước ngoài) về cơ bản được coi là một cách lấp đi những thiếu hụt giữa nguồn tiết kiệm, ngoại hối, thu nhập của chính phủ, kỹ năng quản lý sẵn có trong nước và mức độ mong muốn về nguồn lực cần thiết này để đạt được mục tiêu phát triển và tăng trưởng. Để phân tích vai trò cảu đầu tư nước ngoài (cả FDI và ODA) trong việc lấp lỗ hổng giữa đầu tư và tiết kiệm, chúng ta có thể sử dụng mô hình của Harrod-Domar cho rằng quan hệ thuận giữa tốc độ tăng trưởng tiền tiết kiệm (s) và tăng trưởng sản lượng (g) qua phương trình g=s/k, trong đó k là tỷ lệ giữa vốn và sản lượng quốc dân. Nếu tốc độ tăng trưởng sản lượng quốc dân mong muốn (g) được đặt ở mức 7% và tỷ lệ vốn/sản lượng là 3, thì tỷ lệ tiết kiệm cần có là 21%. Nếu chỉ có thể huy động tiền tiết kiệm trong nước được chẳng hạn là 16%, thì một khoảng thiếu hụt tiết kiệm bằng 5%. Để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế như mục tiêu đã đề ra thì quốc gia này cần phải thu hút nguồn lực tài chính nước ngoài. Như vậy, một đóng góp quan trọng của đầu tư nước ngoài đối với phát triển quốc gia (về mặt tốc độ tăng trưởng GDP) là vai trò của nó trong việc bù đắp khoảng thiếu hụt nguồn lực giữa đầu tư đạt mục tiêu và tiền tiết kiệm huy động trong nước. Đóng góp thứ hai của vốn đầu tư nước ngoài là sự đóng góp của nó vào việc bù đắp sự thiếu hụt giữa nhu cầu ngoại hối cần có và các khoảnthu từ xuất khẩu cộng với khoản viện trợ nước ngoài thực có. Đây là cái được gọi là thiếu hụt mậu dịch hay ngoại hối. Dòng vào của đầu tư trực tiếp nước ngoài không những có thể xóa bỏ một phần hay toàn bộ thiếu hụt theo thời gian nếu đâù tư trực tiếp nước ngoài tạo ra nguồn thu nhập ngoại tệ thực. Nhưng đáng tiếc, trong trường hợp đầu tư trựctiếp nước ngoài nhằm sản xuất thay thế hàng nhập khẩu, tác động toàn bộ của việc cho phép thành lập các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đằng sau bức tường thuế quan và hạn ngạch bảo hộ thường làm tồi tệ hơn cả số dư tài khoản vãng lai lẫn tài khoản vốn. Những thiếu hụt đó thường gây ra bởi cả việc nhập khẩu thiết bị sản xuất và sản phẩm trung gian và việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài dưới hình thức chuyển lợi nhuận, phí quản lý, thanh toán tiền bản quyền sáng chế và tiền gốc và lãi đối với các khoản vay tư nhân. Khoản thiếu hụt thứ ba được bù đắp bởi đầu tư nước ngoài là khoảng trống giữa thu nhập từ thuế theo dự định và số thuế thu được trong nước. Bằng việc đánh thuế đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chính phủ có nhiều khả năng hơn trong việc huy động nguồn tài chính cho các dự án phát triển. Thứ tư là khoảng trống trong quản lý, cách làm ăn, công nghệ và kỹ năng mà các công ty có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong nước có thể bù đắp một phần hay toàn bộ. Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài không những cung cấp nguồn lực tài chính và các nhà máy mới cho nước sở tại, mà còn cung cấp các nguồn lực cần thiết bao gồm cả kinh nghiệm quản lý, khả năng kinh doanh và kỹ năng công nghệ, có thể chuyển giao cho các đối tác trong nước thông qua các chương trình đào tạo. Kể từ năm 1997, luồng vốn FDI vào Việt Nam đã giảm đáng kể do nhiều nguyên nhân : Đặc biệt là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á, mức độ cạnh tranh căng thẳng giữa những nước trong khu vực trong việc tìm kiếm đầu tư nước ngoài và những bất cập trong môi trường đầu tư ở Việt Nam. Bảng 1 : Cam kết FDI và giải ngân thực tế ở Việt Nam, 1991-2000 Triệu USD 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số cam kết Giải ngân 1275 9 2207 50 2589 240 3746 516 6607 1318 8640 778 4649 1146 3897 875 1567 641 1600 600 Nguồn: vneconomy.com.vn Sau đây là những giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài : 1.Cải thiện môi trường đầu tư Việc cải thiện môi trường đầu tư đang đặt ra cho nhà nước nhiều vấn đề cần nghiên cứu, để chúng ta tranh thủ nhiều vốn đầu tư hơn, nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả đầu tư. Trước hết, để cải thiện môi trường đầu tư, cần phải ổn định các nhân tố kinh tế vĩ mô nhằm tạo nền tảng thuận lợi cho đầu tư. Đó là tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Điều này đạt được khi : + Khống chế lạm phát ở mức độ lành mạnh. Lý luận và thực tiễn cho thấy duy trì lạm phát ở mức một con số sẽ có tác dụng lành mạnh hoá các hoạt động kinh tế kể cả thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, nước ta đang phải đối mặt với nguy cơ thiểu phát - một tình trạng làm trì trệ nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu trên, nhà nước cần quản lý tốt các khoản thu chi ngân sách tiền tệ nhằm mục tiêu ổn định vĩ mô và hướng tới tăng trưởng, phát huy vai trò điều hoà cung cầu, bình ổn giá cả của các quỹ dự trữ... + Xây dựng một cơ cấu hạ tầng tốt. Cơ sở hạ tầng là yếu tố vĩ mô vô cùng quan trọng tạo nên môi trường đầu tư. Nó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động đầu tư nói riêng và kinh tế nói chung. Hiện trạng cơ sở hạ tầng của nước ta rất yếu. Đã đến lúc cần phải xúc tiến nhanh các chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng với nhiều nguồn vốn và phương thức khác nhau, chú trọng những địa bàn có khả năng thu vốn nước ngoài. Ngoài ra để cải thiện môi trường đầu tư, cần phải cải thiện những chính sách kinh tế xã hội có liên quan đến đầu tư nước ngoài. Những việc cần làm để thực hiện mục tiêu này gồm : + Xây dựng một bộ luật đầu tư có tính chất khuyến khích đầu tư nước ngoài. Bộ luật đầu tư nước ngoài được quốc hội thông qua tháng 11/1996 có nhiều qui định cởi mở hơn, có sức hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài đồng thời có những điều khoản quy định chặt chẽ hơn nhằm tránh những sơ hở trong quản lý nhà nước về lĩnh vực này. Tuy nhiên, nhà nước cần khẩn trương soạn thảo và ban hành một số công cụ và đạo luật như: qui định phân công quản lý nhà nước sau khi có giấy phép đầu tư, luật chống độc quyền, luật liên quan đến hoạt động của thị trường chứng khoán, luật về kinh doanh khoáng sản... + Cải cách các thủ tục hành chính : Nên áp dụng thực hiện chế độ “ một cửa” trong khâu thẩm định và xét duyệt dự án, phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn giữa trung ương và địa phương trong việc thẩm định phê duyệt và quản lý dự án, có những quy định rõ ràng về bảo vệ môi trường, chế độ thuê mướn sử dụng lao động và an toàn trong sản xuất kinh doanh , chuẩn bị cho Việt Nam các điều kiện cần thiết từ khâu nghiên cứu tiền khả thi, bố trí cán bộ cho đến khâu đàm phán, ký kết hợp đồng để khỏi bị yếu thế trong quá trình thương lượng. + Cải tiến công tác thẩm định dự án : Cần xác định rõ hai cấp thẩm quyền: chủ đầu tư và cơ quan cấp giấy phép đầu tư, đưa ra các quy hoạch cụ thể từng vùng, các chỉ dẫn cụ thể về định mức, tiêu chuẩn, chi phí từng loại, môi trường,... đào tạo chuyên gia thẩm định am hiểu kinh tế và công nghệ của từng loại dự án... Cải thiện môi trường đầu tư còn đòi hỏi có quy hoạch đầu tư, cân đối hợp lý sự phân bố đầu tư giữa các ngành, các vùng và địa phương trong cơ cấu kinh tế, cải thiện năng lực của đối tác Việt Nam đối với dầu tư nước ngoài. 2. Khắc phục tiêu cực, phát huy tích cực trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài - Quản lý chặt chẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua pháp luật. Các công ty nước ngoài khi được phép vào Việt Nam, trở thành pháp nhân Việt Nam có nghĩa là chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, chịu sự kiểm tra, kiểm soát của nhà nước Việt Nam. Sự điều chỉnh của pháp luật thể hiện ở chỗ: họ được làm gì và không được làm gì? được làm bao nhiêu và ở đâu? xuất nhập khẩu ra sao? Khi chúng ta đề ra pháp luật, chính sách đúng đắn, chúng ta sẽ hạn chế được tác động tiêu cực của FDI. - Quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua pháp luật quốc tế. Trong hợp tác kinh tế với nước ngoài, pháp luật và chính sách của nước ta không những thể hiện đường lối của Đảng, không những xuất phát từ thực tế nước ta mà còn phù hợp với quy định trong thông lệ quốc tế. Đây là đòi hỏi tất yếu của kinh tế thế giới ngày nay. 3. Hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Xác định rõ vai trò và chức năng quản lý của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam), hướng dẫn bên nước ngoài và bên Việt Nam trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng; làm đầu mối giải quyết những vấn đề do tổ chức và cá nhân nước ngoài yêu cầu; theo dõi, kiểm tra việc triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Hoàn thiện quy trình hoạt động xúc tiến đầu tư. - Hoàn thiện quy trình hoạt động của cơ quan xúc tiến đầu tư nước ngoài của Việt Nam, sắp xếp quản lý chặt chẽ các công ty tư vấn trong nước và các công ty nước ngoài ở Việt Nam, phát triển mối quan hệ cá nhân giữa các chuyên viên, cán bộ Việt Nam với người nước ngoài. - Hoàn thiện quy trình thẩm định và cấp giấy phép đầu tư. Nhà nước cần thiết kế lại quy trình thẩm định dự án theo cơ chế thị trường. Nhà nước chỉ nên quy định hành lang mà trong đó, các xí nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể hoạt động. Hành lang này gồm các sắc thuế, quy định chế độ kế toán thống kê, chuyển đổi ngoại tệ, quy định thuê mướn lao động. - Hoàn thiện quy trình quản lý các xí nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các xí nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh. Các cơ quan nhà nước chỉ được thực hiện chức năng quản lý của mình thông qua việc theo dõi hoạt động và giải quyết kịp thời các kiến nghị của xí nghiệp; xử lý các tranh chấp nảy sinh trong hoạt động của xí nghiệp. Các Bộ, UBND các tỉnh phối hợp với các cơ quan nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc thanh tra hoạt động của xí nghiệp nhằm đảm bảo việc chấp hành nghiêm pháp luật. Nghiêm cấm mọi hoạt động điều tra trái pháp luật, tuỳ tiện, gây phiền hà cho hoạt động của xí nghiệp. - Đào tạo mới, đào tạo lại đội ngũ cán bộ tham gia vào hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Hiện nay, đội ngũ cán bộ tham gia vào hoạt động đầu tư còn tồn tại một tỷ lệ cao những người không nắm vững pháp luật, thiếu sự nhạy cảm trong kinh doanh, thiếu trình độ giao tiếp và non yếu về ngoại ngữ. Nhà nước cần phải mở các khoá ngắn hạn và dài hạn để đào tạo lại cán bộ hiện đang hoạt động trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đồng thời đội ngũ cán bộ trẻ trong các trường đại học. B. Những biện pháp thu hút vốn ODA Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại, tín dụng ưu đãi của các chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế dành cho những nước đang và chậm phát triển. ở Việt Nam, kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới chúng ta đã gặt hái được những thành công trong việc thu hút và sử dụng ODA, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước. Khối lượng nguồn vốn ODA được cam kết hơn 13 tỷ USD bao gồm cả viện trợ không hoàn lại và vốn vay ưu đãi dài hạn. Tình hính giải ngân vốn ODA này có tiến bộ nhưng chưa đạt được kế hoạch đề ra. Bảng 1 : Cam kết ODA và giải ngân thực tế ở Việt Nam, 1993-2000 Triệu USD 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số cam kết Giải ngân 1810 413 1910 725 2260 737 2430 900 2400 1000 2700 1242 2800 1350 24001690 Nguồn: vneconomy.com.vn Tuy nhiên, những mặt tồn tại trong lĩnh vực này như: Công tác chuẩn bị dự án còn chậm, khối lượng ODA thực hiện còn thấp, một số dự án vay ODA đạt hiệu quả không cao... đòi hỏi nhà nước phải đưa ra những biện pháp cụ thể để thu hút ODA, phát huy được những đóng góp tích cực của nguồn vốn này cho sự phát triển kinh tế. Đồng thời, nhà nước cần quán triệt quan điểm: tranh thủ mọi nguồn ODA không gắn với các rằng buộc về chính trị, phù hợp với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam và ưu tiên sử dụng ODA để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển nguồn nhân lực. Những biện pháp chủ yếu nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA : 1. Hoàn thiện môi trường pháp lý đối với quản lý nguồn vốn ODA Nhà nước cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tham gia quá trình quản lý, điều phối và sử dụng ODA đồng thời đảm bảo nguyên tắc "một cửa" để tránh tình trạng chồng chéo, cửa quyền, ảnh hưởng tới quá trình thực hiện các dự án ODA. Nhà nước cũng áp dụng cách phân cấp, ra các quyết định liên quan tới việc điều phối và sử dụng ODA đảm bảo được nguyên tắc thống nhất quản lý ODA của chính phủ và linh hoạt để đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế. 2. Thiết lập hệ thống thông tin hữu hiệu về ODA Mạng lưới thông tin hữu hiệu về ODA giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA. Mạng lưới này phải công bố chiến lược hoạt động, chính sách hợp tác, quy trình và thủ tục ODA của từng nhà tài trợ. Như chúng ta đã biết, ODA còn kéo theo những ràng buộc khác. Điều quan trọng là chúng ta phải nắm được những ràng buộc ấy là gì, có lợi hay có hại đối với tình hình chính trị, an ninh quốc gia, để đưa ra những biện pháp sử dụng tối ưu. Để thực hiện được biện pháp này, nhà nước cần ban hành hệ thống biểu mẫu báo cáo chuẩn với nội dung cụ thể, chi tiết đảm bảo thu thập được thông tin liên tục, cập nhật đồng thời tổ chức các cuộc hội thảo hợp tác quốc tế để thực hiện trao đổi thông tin hai chiều từ phía Việt Nam với các đối tác nước ngoài và ngược lại. Những cuộc hội thảo với các nhà tài trợ mang lại những lợi ích trước mắt và lâu dài, những vấn đề cụ thể được đặt ra và giải đáp, xây dựng những kế hoạch, dự định cho tương lai. 3. Đảm bảo nguồn vốn đối ứng trong nước Mỗi một dự án ODA đều cần đến khoản vốn đảm bảo trong nước để trang trải cho những chi phí phát sinh như: Chi phí chuẩn bị dự án, chi phí hồi tố (chủ dự án đứng ra thanh toán trong quá trình thực hiện, trước khi nhà tài trợ thanh toán lại), chi phí tạo tiền đề vật chất hoặc cung cấp một số hàng hoá, dịch vụ đầu vào,... Hầu hết các nhà tài trợ đều muốn chính phủ Việt Nam phải cung cấp khoản vốn bảo đảm trong nước để nâng cao trách nhiệm của chính phủ trong việc quyết định thực hiện một dự án nào đó. Vì vậy, các cơ quan quản lý và điều phối viện trợ cần có thông tư hướng dẫn về cân đối vốn đối ứng trong nước đồng thời phải thực hiện phân cấp trong việc cân đối vốn đối ứng. 4. Xây dựng và hoàn chỉnh các quy hoạch ODA Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện các quy hoạch ODA cho từng thời kỳ cụ thể, cho từng năm làm căn cứ để xây dựng các kế hoạch cụ thể của hoạt động vận động viện trợ. Trong quy hoạch cần hết sức quan tâm đến việc xây dựng các cơ chế chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư vào những ngành, những lĩnh vực và những địa bàn ưu tiên. 5. Tiến hành hoạt động nghiên cứu chiến lược, chính sách vay, trả nợ của quốc gia trong thời gian dài và các phương án xử lý nợ cũ. Nhà nước cần xác định phải khống chế mức vay vừa đảm bảo được yêu cầu vốn cho đầu tư vừa sử dụng có hiệu quả và trả được nợ. Đồng thời với việc vay nợ, hàng năm ngân sách nhà nước phải bố trí trả nợ cả gốc lẫn lãi. 6. Tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng lực lượng cán bộ Việc đào tạo và bồi dưỡng lực lượng cán bộ quản lý, điều phối và sử dụng ODA là điều vô cùng quan trọng vì những cán bộ này phải có đầy đủ kiến thức trong việc hoạch định chiến lược, quản lý các dự án phục vụ các mục tiêu phát triển của Nhà nước. Nếu không, hiệu quả sử dụng vốn ODA sẽ rất thấp. Vì vậy, cần phải có một chương trình đào tạo và bồi dưỡng kiến thức rộng rãi để nâng cao nhận thức, thái độ và kỹ năng ở tất cả các cấp chính quyền. C. Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vay nợ thương mại nước ngoài của Việt Nam. Nhìn chung, các khoản vay thưong mại nước ngoài đã giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới trang thiết bị và công nghệ. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn vay nước ngoài của ta vẫn thấp, còn tồn tại tình trạng lãng phí, thất thoát vốn, những khoản sử dụng không đúng mục đích gây hiện tượng tiêu cực mà dư luận xã hội lên án như nhập máy móc thiết bị cũ, lạc hậu, giá cao một cách bất hợp lý... Nguyên nhân gây ra tình trạng trên bao gồm: - Về tổ chức điều hành: + Việc hình thành một hệ thống cơ chế chính sách về quản lý, huy động và sử dụng vốn nước ngoài thường quá chậm, tình trạng vay nợ khá phân tán. + Tồn tại tình trạng lấn sân trong việc chỉ đạo, điều hành các khoản tự vay, tự trả của các doanh nghiệp. + Ngân hàng nhà nước chưa có văn bản hướng dẫn về quản lý vay thương mại ngắn hạn nước ngoài. - Trong việc huy động các khoản vay và viện trợ không xác định rõ mục tiêu, hiệu quả kinh tế theo quan điểm thúc đẩy sản xuất hàng hoá, xuất khẩu tạo lợi nhuận và có ngoại tệ để trả nợ nước ngoài. - Chưa kiểm soát một cách đầy đủ tình hình vay, sử dụng và trả nợ đối với tất cả các khoản vay thương mại trong toàn bộ nền kinh tế. - Công tác quản lý toàn bộ hoạt động vay, trả nợ nước ngoài chưa nhất quán và đồng bộ. Những bài học cần lưu ý là phải xây dựng được chiến lược huy động và sử dụng vốn nước ngoài toàn diện, trong đó phải xác định cơ cấu vay thương mại hợp lý, phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế dài hạn, cần tạo môi trường vĩ mô phù hợp, thuận lợi, đảm bảo một cơ chế quản lý nợ tập trung, hiệu quả để tạo khả năng hoàn trả nợ khi đến hạn, phải cải tiến công tác triển khai các dự án có vốn vay nước ngoài, đào tạo cán bộ quản lý nhằm sớm tiếp cận những bí quyết công nghệ và bí quyết quản trị kinh doanh của nước ngoài. 3.2.5 Các biện pháp điều chỉnh chi tiêu. Để điều chỉnh cán cân thanh toán, ngoài biện pháp kiểm soát trực tiếp, nhà nước cần phải áp dụng một cách đồng bộ những giải pháp dài hạn liên quan đến điều hành kinh tế vĩ mô như: chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá. Chính sách tiền tệ liên quan đến cung tiền của ngân hàng nhà nước và chính sách tài khoá liên quan đến những thay đổi trong chi tiêu của chính phủ và thuế quan. Cơ chế điều chỉnh chi tiêu được trình bày ở chương I, nghiên cứu ảnh hưởng của tiêu dùng đến cán cân vãng lai đã đưa ra công thức : Cán cân vãng lai (CA) = Thu nhập quốc dân (GNP) - Mức hấp thụ (C+I+G) Như vậy, cán cân vãng lai có thể được cải thiện bằng cách tăng thu nhập quốc dân, giảm mức hấp thụ hoặc cả hai. Để thực hiện được yêu cầu trên, nhà nước phải áp dụng chính sách tài khoá thắt chặt: tăng thuế và giảm chi tiêu của chính phủ. Việc tăng thuế sẽ khiến cho nhu cầu tiêu dùng giảm dẫn đến sự gia tăng trong tiết kiệm tư nhân. Đồng thời, giảm chi tiêu của chính phủ có nghĩa là giảm chi đầu tư và chi thường xuyên của chính phủ. Như vậy, chính sách tài khoá thắt chặt hay còn gọi là chính sách thắt lưng buộc bụng sẽ làm tăng tiết kiệm quốc gia, giảm đầu tư quốc gia và cán cân vãng lai theo đó được cải thiện. Bên cạnh đó, những người theo nhóm lý thuyết tiền tệ lại cho rằng sự mất cân bằng cán cân thanh toán là hiện tượng tiền tệ, phản ánh sự mất cân đối trên thị trường tiền tệ. Vì vậy, để cải thiện cán cân thanh toán các quốc gia có thể sử dụng chính sách tiền tệ làm tăng cầu tiền hay giảm cung tiền. Khi có hiện tượng thâm hụt cán cân thanh toán, các quốc gia phải làm giảm cung tiền bằng cách áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt. Khi nguồn cung tiền giảm, lãi xuất sẽ làm tăng tiết kiệm trong nước và thu hút nguồn vốn nước ngoài. Nhờ đó, cán cân vãng lai và cán cân vốn được cải thiện để bù đắp cán cân thanh toán. Tuy nhiên, mục tiêu của các biện pháp điều chỉnh là hướng tới cân đối bên ngoài và cân đối bên trong. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế đang chững lại: biểu hiện ở năm 1999, tốc độ tăng trưởng kinh tế là 4.8%/năm, thấp nhất trong suốt thập kỷ qua. Chúng ta lại đang đối mặt với xu hướng thiểu phát (giá cả giảm mạnh) và mức thất nghiệp đang ở con số cao. Nếu chính phủ áp dụng chính sách tiền tệ và tài khoá thắt chặt, mục tiêu cân đối bên ngoài sẽ đạt được nhưng đồng thời làm tăng sự mất cân đối bên trong do tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng, sản lượng càng giảm và xu hướng thiểu phát sẽ đe doạ trực tiếp nền kinh tế. Nếu áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt vào bối cảnh Việt Nam hiện nay, chính sách này sẽ gây ra những tác động tiêu cực do việc giảm cung tiền sẽ làm tăng lãi suất và giảm đầu tư trong nước. Hiện nay, ở các ngân hàng có hiện tượng ứ đọng tiền do lãi suất của Việt Nam giai đoạn này tương đối cao theo ý kiến của nhiều nhà kinh tế. Vì vậy, nếu tăng lãi suất sẽ gây ra hiện tượng trì trệ trong sản xuất do giảm đầu tư nội địa đồng thời làm tăng số dư tiết kiệm đang nằm tại các ngân hàng chưa có nơi đầu tư. Mặt khác, lãi suất tăng sẽ gây sức ép làm giá trị trao đổi của VNĐ so với ngoại tệ tăng, gây ảnh hưởng xấu tới xuất khẩu. Năm 1998, tốc độ tăng trưởng GDP giảm sút đột ngột, ngược lại, tỷ lệ lạm phát tăng quá cao nên ngay từ đầu năm 1999 các nhà hoạch định chính sách đã quá thiên về thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Tư tưởng chỉ đạo điều hành kiềm chế lạm phát kéo dài cho đến những tháng giữa năm. Khi thấy động thái tiền tệ diễn ra không lạm phát mà lại giảm phát, chính phủ đã sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng thông qua một số biện pháp như: hạ lãi suất cho vay của nền kinh tế xuống 5 lần, từ 1.25%/tháng đến 0.85%/tháng ở thành thị và 0.95%/tháng ở nông thôn nhằm cung ứng thêm tiền vào lưu thông qua kênh tín dụng, hạ lãi suất cho vay tái cấp vốn, hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc đồng thời mua một lượng ngoại tệ lớn của các ngân hàng thương mại. Những biện pháp này đã khiến lượng cung tiền tăng đáng kể (20%). Tuy nhiên, sự tăng cung tiền lại gây hiện tượng ứ đọng vốn trong hệ thống ngân hàng. Nguyên nhân là do tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, giá cả không tăng nên cầu tiền giảm. Bên cạnh đó, điều kiện cho vay của ngân hàng đối với khu vực tư nhân quá khe khắt nên không thể tăng cầu tiền khu vực này. Như vậy, việc thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng còn phải đi kèm với những biện pháp làm tăng cầu tiền như giảm lãi suất cho vay và cải thiện các điều kiện cho vay, và quan trọng hơn là phải mở rộng đối tượng cho vay, quy định thời hạn cho vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách vay. Có như vậy, chính sách này mới phát huy được, mặt tích cực là tăng đầu tư, tiêu dùng dẫn đến tăng tổng cầu kích thích sản xuất, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm. Mục tiêu chủ yếu của chính sách tiền tệ là phải đảm bảo ổn định tương đối về giá cả, sức mua của đồng tiền và từ đó đảm bảo một môi trường kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, tạo điều kiện cho nền kinh tế trong nước phát triển. Trong giai đoạn hiện nay, việc áp dụng chính sách tiền tệ mở rộng là thích hợp. Cụ thể: giảm lãi suất sẽ hạn chế thu hút vốn ngắn hạn và tăng đầu tư trong nước (vốn dài hạn như ODA và FDI ít nhạy cảm với lãi suất); giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm lãi suất nội địa và giảm chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Đối với chính sách tài khoá: trong giai đoạn hiện nay của Việt Nam, nếu áp dụng chính sách tài khoá thắt chặt sẽ càng làm xấu đi tình hình kinh tế. Việc tăng thuế sẽ khiến cho nhu cầu tiêu dùng giảm, giá cả giảm dẫn đến hiện tượng sản xuất trì trệ. Hơn nữa, nếu giảm chi đầu tư của chính phủ sẽ gây tình trạng bất ổn cho xã hội vì chính phủ thường đầu tư vào những ngành phục vụ phát triển xã hội như cơ sở hạ tầng, các công trình công cộng... ở Việt Nam hiện nay, chính sách tài khoá mở rộng được áp dụng thông qua: Giảm thuế nhưng mở rộng diện nộp thuế (vì ở Việt Nam còn nhiều nguồn thu bị bỏ qua như thuế từ thị trường bất động sản, thu nhập cá nhân...) giúp tăng thu ngân sách; tăng chi tiêu cho đầu tư vào xã hội để phát triển kinh tế bền vững lâu dài đồng thời là biện pháp làm tăng tổng cầu và tạo việc làm trong ngắn hạn; bán công trái và trái phiếu kho bạc để bù đắp thâm hụt ngân sách đồng thời thu nguồn vốn nhàn rôĩ trong nhân dân. Mặc dù áp dụng chính sách tiền tệ và tài khoá mở rộng không trực tiếp cải thiện cán cân thanh toán nhưng nó hướng tới mục tiêu cân đối bên trong của nền kinh tế và cải thiện các chỉ số của nền kinh tế vĩ mô đảm bảo khả năng chịu đựng thâm hụt cán cân vãng lai. 3.2.6 Biện pháp điều chỉnh tỷ giá Tỷ giá hối đoái là một vấn đề hết sức quan trọng nhưng cũng rất phức tạp.Ngày nay, tỷ giá trở thành một vũ khí lợi hại trong cuộc chiến tranh thương mại hết sức khốc liệt trên thế giới, nhất là giữa Mỹ - Nhật - Tây Âu. ở Việt Nam, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường mở cưả hội nhập với nền kinh tế thế giới, tỷ giá cũng là một vấn đề hết sức nóng bỏng và được nhiều người quan tâm. Chính sách tỷ giá đã được Nhà nước ta sử dụng như một công cụ quản lý vĩ mô. Nếu không có quyết sách về tỷ giá kịp thời phù hợp sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực, kìm hãm quá trình đầu tư trong nước, làm thâm hụt cán cân thương mại và khó có thể thực hiện thành công những mục tiêu và nhiệm vụ cuả sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Dưới đây là một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam. Thời kỳ trước năm 1989, Việt Nam áp dụng chính sách tỷ giá cố định. Hệ thống tỷ giá này đã gây khó khăn cho việc quản lý, điều hành trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, kinh tế đối ngoại và để lại hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Nhận thức được điều này, từ tháng 3/1989, Nhà nước cho phép áp dụng chế độ một tỷ giá hối đoái duy nhất cho mọi hình thức thanh toán giữa ngân hàng và khách hàng. Tỷ giá đó do ngân hàng nhà nước công bố chủ yếu dựa vào quan hệ cung cầu về tiền tệ để xác lập. Tuy nhiên, mặc dù được điều chỉnh linh hoạt theo tín hiệu của thi trường nhưng tỷ giá không hoàn toàn được thả nổi. Ngân hàng nhà nước thường xuyên đưa ra các biện pháp để ngăn chặn yếu tố đầu cơ, nâng giá, ép giá làm cho giá cả không phản ánh được bản chất thực sự của nó. Vì vậy, từ 26/02/1999, Việt Nam bắt đầu áp dụng cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt, cho phép tỷ giá của đồng Việt Nam được hình thành bởi giao dịch trên thị trường tiền tệ và phản ánh một cách khách quan sức mua của đồng Việt Nam so với ngoại tệ, trong khi ngân hàng nhà nước vẫn chủ động quản lý được tỷ giá. Việc ngân hàng nhà nước đã nhiều lần chủ động điều chỉnh tỷ giá và thay đổi cơ chế điều chỉnh tỷ gía có tác động nhất định đến cán cân thương mại nói riêng và cán cân thanh toán nói chung. Bên cạnh những tác động tích cực như: thể hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước là tăng xuất khẩu thu ngoại tệ, tăng nhập khẩu máy móc thiết bị để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; giữ ổn định giá cả, đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á vừa qua, giữ ổn định chung toàn bộ nền kinh tế - xã hội của đất nước, sử dụng tốt nhất mọi khả năng, tiềm năng sản xuất; chính sách tỷ giá cũng gây ra một số tác động tiêu cực góp phần làm thâm hụt cán cân thanh toán như: tỷ giá giảm thấp làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, do đó cũng làm giảm thu ngoại tệ cho đất nước đồng thời làm giảm đầu tư trực tiếp nước ngoài và giảm khả năng xuất khẩu. Vì vậy, trong thời gian tới, chính sách tỷ giá cần được thực hiện theo các giải pháp sau để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu, cân đối cán cân thanh toán. A. Duy trì chế độ tỷ giá linh hoạt có sự can thiệp của Nhà nước. Chính sách tỷ giá phải đem lại hiệu quả cao, phải điều chỉnh tỷ giá cho phù hợp với cung cầu ngoại tệ trên thị trường hối đoái; phải tính đến quan hệ về sức mua của VNĐ với USD, cơ cấu nợ và khối lượng nợ nước ngoài, khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích huy động vốn nước ngoài đầu tư vào thị trường trong nước, vào sản xuất kinh doanh. Theo quan điểm của ngân hàng nhà nước, tỷ giá nên được điều chỉnh dần theo mức tăng của giá cả để khuyến khích xuất khẩu đồng thời hướng tỷ giá chính yhức của VNĐ sát với giá cả của nó. Làm như vậy sẽ vừa tránh được sự bất ổn định vừa tránh được những lãng phí tài nguyên không đáng có mà vẫn đáp ứng được những đòi hỏi của sự thay đổi thị trường, đảm bảo được mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, không nên áp dụng chính sách phá giá để bù dắp thâm hụt cán cân thanh toán thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu. Bởi vì để đẩy mạnh xuất khẩu ngoài vấn đề tỷ giá còn phụ thuộc vào những nhân tố khác như: chất lượng, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, thủ tục về xuất nhập khẩu...mà ở Việt Nam những vấn đề này còn rất bức xúc. Chẳng hạn như: chất lượng cà phê của ta còn thua kém nhiều so với của ấn Độ, Inđônêxia nên khả năng cạnh tranh kém. Giá một tấn cà phê của ta thấp hơn hàng trăm USD so với các nước trên. Do vậy khả năng xuất khẩu của Việt Nam sẽ thấp và bị thua thiệt nhiều. Mặt khác việc tăng tỷ giá sẽ làm giá thành sản phẩm sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tăng lên, giảm sức cạnh tranh và đến lượt nó lại là yếu tố cản trở tăng xuất khẩu. Bởi vì trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam thì hàng nguyên vật liệu, máy móc chiếm tỷ trọng lớn. Như mặt hàng gạo chẳng hạn, xuất khẩu gạo có thể tăng nhờ giảm giá VNĐ, nhưng tổng thể chưa chắc đã có lợi, vì nếu tính tới việc nhập phân bón theo giá VNĐ thì giá gạo trong nước đã bị đẩy lên. Hơn nữa, do độ co giãn xuất nhập khẩu cũng như điều kiện kinh tế cụ thể của Việt Nam, hiệu ứng tăng xuất khẩu, giảm nhập khẩu khi phá giá Việt Nam đồng không thể hiện ngay và khó kiểm chứng hiệu quả của chúng. Bên cạnh đó, chính sách phá giá gây tâm lý bất ổn trong nền kinh tế, giảm uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Mặt khác, tỷ giá tăng lên trước mắt nó là nguyên nhân trực tiếp làm cho gánh nặng về nợ của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các nhà đầu tư tăng lên. Trong giai đoạn hiện nay, việc lựa chọn chế độ tỷ giá linh hoạt có sự quản lý, điều tiết của nhà nước là thích hợp với tiến trình đổi mới nền kinh tế nước ta hiện tại và tương lai, cho phép chúng ta thực hiện một chính sách tiền tệ độc lập, vừa theo quy luật cung cầu tiền tệ, vừa phát huy vai trò quản lý, điều tiết linh hoạt của nhà nước để đạt được mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh tế tạo sự hài hoà giữa lợi ích xuất khẩu và lợi ích nhập khẩu, tác động tích cực tới cán cân thanh toán. B. Xác định giá trị thực của đồng Việt Nam Khi có được tỷ giá thực, ngân hàng nhà nước mới có thể linh hoạt điều chỉnh tỷ giá một cách có hiệu quả theo hướng ưu tiên cho xuất khẩu thay cho nhập khẩu thích ứng trong từng thời kỳ, tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu phát triển có hiệu quả, góp phần đạt được trạng thái cân bằng của cán cân thanh toán. Tuy nhiên, việc tính toán tỷ giá thực rất khó khăn. C. Tỷ giá đảm bảo lợi ích hài hoà cho doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất nhập khẩu Nhà nước cần duy trì ổn định mức tỷ giá cần thiết trung hoà giữa tỷ giá xuất khẩu và tỷ giá nhập khẩu. Đồng thời, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần được bình đẳng tham gia vào thị trường hối đoái nhằm thực hiện các nhu cầu liên quan đến ngoại tệ của mình. Từ đó, hoạt động xuất nhập khẩu sẽ mang lại hiệu quả cao tạo ra những tác động tích cực đến cán cân thanh toán. D. Nâng cao hoạt động của chính phủ (mà trực tiếp là ngân hàng nhà nước) trên thị trường ngoại hối. Thông qua cơ chế chính sách, các biện pháp quản lý hành chính của chính phủ có thể tác động đến hoạt động của thị trường hối đoái, quản lý các nguồn ngoại tệ trôi nổi trên thị trường, chống những hiện tượng đầu cơ, buôn bán trái phép ngoại tệ, góp phần ổn định tỷ giá hối đoái. Để triển khai, hỗ trợ điều hành cơ chế tỷ giá trên, việc củng cố phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng - một kênh quan trọng để nhà nước điều tiết can thiệp mua, bán ngoại tệ nhằm cân đối cung cầu và thực hiện chính sách tỷ giá theo định hướng của nhà nước - là một yêu cầu có tính then chốt. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cần được hoạt động thông suốt, không bị giới hạn bởi không gian, thời gian để tạo điều kiện cho các ngân hàng trong hoạt động mua bán ngoại tệ, qua đó giải quyết nhanh chóng nhu cầu thanh toán ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đảm bảo tính an toàn và hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu. Đồng thời các ngân hàng thương mại với tư cách là một ngành kinh tế tổng hợp cần phân tích, dự đoán và tư vấn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu về tỷ giá cũng như đưa ra các công cụ chống rủi ro trong thanh toán đối ngoại và cung cấp dịch vụ mua bán ngoại tệ có kỳ hạn, hoán đổi...cho các nhà xuất nhập khẩu nhằm bảo vệ kết quả kinh doanh của họ. 3.2.7 Những biện pháp tăng tiết kiệm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: "Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước chủ trương huy động mọi nguồn vốn trong nước và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể tranh thủ bên ngoài..." Theo ước tính của các chuyên gia kinh tế, nguồn vốn trong dân hiện nay có khoảng 6 tỷ USD. Qua điều tra của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục thống kê nguồn vốn này dược phân bố thành : - 44% tiền để dành của dân là mua vàng và ngoại tệ. - 17% tiền để dành của dân gửi tiết kiệm, chủ yếu là tiết kiệm ngân hàng. - 20% tiền để dành của dân để mua nhà, đất, cải thiện điều kiện sinh hoạt. - 19% tiền để dành của dân đầu tư vào các dự án, phần lớn là ngắn hạn. Như vậy, chính phủ mới huy động được 36% vốn hiện có trong dân dành cho đầu tư phát triển. Nguyên nhân là do: - Một số người dân có tiền không biết đầu tư trực tiếp vào đâu có hiệu quả nên khuynh hướng chọn đầu tư gián tiếp tốt hơn. Họ thích gửi tiết kiệm hơn là mở doanh nghiệp kinh doanh. - Hình thức và biện pháp huy động vốn trong doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, các hộ kinh doanh cá thể còn nghèo nàn do : + Tuy nhà nước cho phép các doanh nghiệp huy động vốn trong dân với nhiều hình thức nhưng thực tế còn nhiều hạn chế. + Nhà nước cho phép doanh nghiệp nhà nước được phát hành trái phiếu doanh nghiệp nhưng mới ở dạng thí điểm chưa triển khai được đại trà. + Doanh nghiệp huy động vốn của cán bộ công nhân viên, trả lãi cao hơn lãi xuất ngân hàng để hỗ trợ thêm cho người lao động không được cơ quan quản lý cấp trên đồng ý. - Các hình thức huy động khác như tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm đảm bảo bằng vàng, trái phiếu ngân hàng, ngân hàng nhận vốn uỷ thác đầu tư chưa phát huy tác dụng. Xem xét những nguyên nhân trên, việc khuyến khích tiết kiệm trong nước cần được thực hiện thông qua các giải pháp sau: A. Giải pháp khuyến khích tiết kiệm trong nước. - Duy trì lạm phát ở mức một con số. - Thực hiện chính sách lãi suất dương. Có vậy người dân mới yên tâm gửi tiết kiệm. - áp dụng hình thức tiết kiệm bắt buộc, bằng chủ trương đúng, rõ ràng và thông qua thuế nhằm hạn chế tiêu dùng. Ví dụ: ở Singapo, người dân phải nộp 40% lương vào quỹ dự phòng. - Củng cố hoàn thiện hệ thống chính sách tiền tệ an toàn, hiệu quả. B. Giải pháp huy động vốn bằng tiền. - Tạo niềm tin trong người dân từ sự ổn định của nền kinh tế và tạo môi trường đầu tư thuận lợi theo quy định của pháp luật để người dân yên tâm bỏ vốn vào đầu tư. - Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, để mọi người dân ở bất cứ nơi nào đều có cơ hội bỏ vốn của mình vào đầu tư phát triển kinh tế, đa dạng hoá về thời gian, lãi suất trái phiếu, phương thức phát hành, đa dạng hoá hình thức trái phiếu vô danh. - Tăng lãi suất tiết kiệm và thực hiện chính sách lãi suất ưu đãi cho đầu tư. - Cần áp dụng rộng rãi tài khoản cá nhân, thực hiện chế độ thanh toán linh hoạt để mọi người gửi tiền ở một vài nơi và rút ra ở bất cứ nơi nào. - Tạo điều kiện cho nhà đầu tư trong nước đăng ký hành nghề thuận lợi. - Khuyến khích các hộ gia đình ở các vùng nông thôn mạnh dạn bỏ vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh, nhằm khai thác tối đa lợi thế so sánh ở từng vùng. - Khuyến khích tư nhân trong nước đầu tư 100% vốn, góp vốn cổ phần xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội. - Thực hiện chính sách xã hội hóa, đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, y tế nhằm huy động thêm nguồn lực của người dân. - Giáo dục lòng tự hào dân tộc để người dân sẵn sàng bỏ ra những đồng bạc cuối cùng gửi vào ngân hàng để từ nguồn sức dân này, chính phủ xây dựng những tập đoàn kinh tế lớn, chống đỡ với những dao động đột biến và làm chủ được nền kinh tế. C. Giải pháp huy động vốn bằng vàng trong dân cư. - Huy động vốn bằng vàng tạo được nguồn vốn ổn định hơn cho đầu tư, thời gian dài hơn so với huy động bằng tiền tiết kiệm. - Huy động vốn bằng vàng thì cho vay bằng vàng, vốn thu hồi nợ và lãi cũng bằng vàng. - Tạo điều kiện thuận lợi, đơn giản cho người gửi vàng, ngân hàng cần chứng minh cho người dân thấy lượng vàng ấy được đảm bảo an toàn tuyệt đối và không gặp nhiều phiền hà khi khách hàng muốn rút vàng ra. - Tạo niềm tin cho người dân về sự bền vững của pháp luật có tính chất quyết định để người dân chuyển hoá vàng. Tóm lại, việc huy động vốn sử dụng trong dân và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đó cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là thể hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2010, đòi hỏi chính phủ phải hỗ trợ tích cực cả bằng cơ chế, chính sách và những giải pháp cụ thể trong thời kỳ phát triển của đất nước. Kết luận Cán cân thanh toán quốc tế là một trong những tài khoản kinh tế vĩ mô quan trọng, phản ánh toàn bộ hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước với phần còn lại của thế giới. Nó có mối quan hệ rất chặt chẽ với các tài khoản kinh tế vĩ mô khác. Chính vì vậy, cán cân thanh toán quốc tế là một công cụ quan trọng để hoạch định các chính sách kinh tế trong từng thời kỳ. Việc thiết lập và điều chỉnh cán cân thanh toán ở Việt Nam là một vấn đề rất mới mẻ. Cán cân thanh toán của Việt Nam mới được thành lập từ năm 1990 theo Pháp lệnh ngân hàng. Từ đó đến nay, chất lượng của các nguồn số liệu trong bảng cán cân thanh toán ngày càng được nâng cao và trở thành công cụ hữu ích giúp chính phủ đưa ra được những chính sách hữu hiệu trong việc điều chỉnh các hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng và hoạt động kinh tế nói chung của đất nước. Trong giai đoạn từ năm 1990 đến nay, cán cân thanh toán của Việt Nam luôn thiếu hụt. Việc thiếu hụt cán cân thanh toán thường xuyên và dai dẳng đã làm cho các khoản nợ nước ngoài của Việt Nam ngày càng tăng. Trước mắt, Việt Nam chưa gặp phải khó khăn về gánh nặng nợ nước ngoài nhưng trong tương lai, nếu Việt Nam không có các biện pháp điều chỉnh thích hợp để cải thiện cán cân thanh toán đi đôi với quản lý nợ nước ngoài thì Việt Nam sẽ khó có thể tránh khỏi khủng hoảng về nợ nước ngoài. Trong những năm qua, để cải thiện cán cân thanh toán, Việt Nam chủ yếu sử dụng các biện pháp kiểm soát trực tiếp như : các biện pháp hạn chế nhập khẩu (thuế nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu...), các biện pháp khuyến khích xuất khẩu (mở rộng thị trường xuất khẩu, giảm và xoá bỏ thuế xuất khẩu...), các biện pháp hạn chế luồng tư bản ra (quản lý ngoại hối chặt chẽ...), và khuyến khích các luồng vốn vào (bỏ thuế đối với kiều hối chuyển về nước, khuyến khích luồng vốn FDI...). Tuy nhiên, hầu hết các biện pháp kiểm soát trực tiếp mà Việt Nam áp dụng để điều chỉnh cán cân thanh toán là không thể thực hiện được trong tương lai khi Việt Nam tham gia vào AFTA, WTO... Để điều chỉnh có hiệu quả cán cân thanh toán, chính phủ cần tăng cường sử dụng các biện pháp điều chỉnh vĩ mô như các chính sách tiền tệ, tài khoá và chính sách tỷ giá.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34243.doc
Tài liệu liên quan