Luận văn Phân tích hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn Mỹ Xuyên

1.Sự cần thiết của đề tài: Bất kỳ một tổ chức kinh tế nào khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh cũng cần có lợi nhuận, chính yếu tố lợi nhuận tác động thúc đẩy trở lại làm cho tổ chức kinh tế hoạt động ngày một hiệu quả hơn. Các tổ chức tín dụng nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng cũng không ngoại lệ, hiệu quả hoạt động kinh doanh tốt, lợi nhuận ngày một tăng cao là mong muốn duy nhất của ngành ngân hàng. Chúng ta cũng đã biết, ngân hàng là một tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh bằng tiền tệ của người khác, họ vay của công chúng, của ngân hàng bạn, của ngân hàng trung ương và cho vay lại các tầng lớp dân cư. Vì thế, hệ thống ngân hàng đã làm cho dòng chu chuyển vốn quay nhanh hơn, qua đó khuyến khích các ngân hàng, các thành phần kinh tế tiếp thu và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động làm ra ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội. Do đó, hệ thống ngân hàng có mối quan hệ với nền kinh tế, nếu có sự sụp đổ của một ngân hàng nào đó, thì làm thiệt hại rất lớn cho nền kinh tế, làm mất lòng tin của khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng của chính họ trong tương lai. Đó là về phía ngân hàng, còn về khía cạnh của khách hàng, nó có thể làm trắng tay của những người cả đời vất vã để có một số tiền tiết kiệm trong ngân hàng, nó làm chậm hoặc dừng lại gây thiệt hại rất lớn cho những ngành sản xuất công nghiệp cũng như sản xuất nông nghiệp. Về mặt xã hội, nó có thể làm cho tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, nền kinh tế đất nước chậm phát triển. Do đó, xét về mặt kinh tế và xã hội, ngân hàng thương mại hay hệ thống ngân hàng đã góp phần làm nên sự phát triển của quốc gia thông qua việc sử dụng nguồn vốn tiết kiệm và tích luỹ trong xã hội. Để góp phần đáng kể này thì bản thân ngân hàng phải hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước ngày càng tăng lên,nên việc cạnh tranh để tồn tại và phát triển là rất cần thiết. Vì vậy, mục tiêu của nhà quản trị ngân hàng cần phải làm gì để có thể nâng hiệu quả kinh doanh, đồng thời hạn chế tối thiểu các rủi ro phát sinh trong quá trình kinh doanh. An Giang là một tỉnh với nền kinh tế nông nghiệp, ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn Mỹ Xuyên ra đời là nhằm cung ứng vốn tín dụng cho sản xuất công - nông nghiệp trong địa bàn tỉnh, góp phần làm giảm tỷ lệ đói nghèo ở thành thị và nông thôn, từng bước làm thay đổi đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Hội các yếu trên, ta thấy rằng việc “phân tích hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn Mỹ Xuyên” là rất cần thiết, qua việc phân tích ta thấy được những điểm mạnh, những điểm cần được phát huy và nâng cao hơn nữa để tối đa hoá lợi nhuận của ngân hàng, đồng thời cũng thấy được những mặt yếu kém, những mặt này cần được khắc phục nhằm hạn chế những rủi ro đến mức có thể chấp nhận được trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng, và nâng cao mức sống của người dân địa bàn tỉnh An Giang nói chung.

pdf38 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn Mỹ Xuyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh số thu nợ ngắn hạn của SXKD và góp chợ giảm vào năm 2004, nhất là góp chợ, đây là điều đáng lo ngại cho ngân hàng vì doanh số cho vay góp chợ luôn tăng, mà doanh số thu nợ lại giảm. Sự giảm này là do giá cả hàng hóa tăng cao, người tiêu dùng hạn chế tiêu dùng, khách hàng của ngân hàng buôn bán nhỏ ở các chợ, khu thương mại bị thất thu, nên quá trình trả nợ còn chậm trể, bên cạnh đó, do nhu cầu vay vốn ở thời điểm gần tết cũng gần thời điểm khóa sổ của ngân hàng nên số tiền vay chưa đến hạn trả. Còn doanh số thu nợ nông nghiệp trung và dài hạn luôn giảm qua 3 năm, một phần là do chưa đến hạn trả nợ, và một phần là do nợ quá hạn gây ra làm thất thu của ngân hàng. Điều này chúng ta có thể tìm hiểu kỷ hơn ở phần nợ quá hạn. Mảng thu góp cán bộ công nhân viên vào năm 2004 có giảm nhẹ không đáng kể lắm, cũng vì doanh số cho vay của góp CB-CNV ở năm 2004 giảm. 2.3 Tình hình dư nợ: Dư nợ của ngân hàng cũng như một bức ảnh chụp nhanh về cả một quá trình cho vay của ngân hàng tại một thời điểm cụ thể, đối với Việt Nam thường là cuối năm. Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc thù do đó, dư nợ của ngân hàng càng cao, cho thấy ngân hàng ngày càng mở rộng quy mô hoạt động, khả năng thu lợi nhuận ngày càng tăng và cũng đi kèm theo là rủi ro tín dụng không ngừng tăng lên. Từ đó, bên cạnh việc mở rộng quy mô hoạt động cũng song hành với việc cải tiến và nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng và hạn chế rủi ro ở mức cho phép. Hiện nay nền kinh tế thị trường thường xuyên biến động, thay đổi không ngừng, các sự kiện kinh tế biến đổi một cách khách quan vừa là cơ hội vừa là thách thức đầy những rủi ro tiềm ẩn, vì thế bỏ qua chất lượng tín dụng, bỏ qua công tác đào tạo cán bộ tín dụng cũng như một thương gia kinh doanh mà không nghĩ đến lãi. GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 20 Luận văn tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Duyên Ta tìm hiểu tình hình dư nợ của Ngân hàng Mỹ Xuyên qua bảng sau: Bảng 5: Tình hình dư nợ của Ngân hàng Mỹ Xuyên (2002-2004) Đvt: triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2002 2003 2004 So sánh 03/02 So sánh 04/03 Số tiền % Số tiền % Tổng dư nợ 89.178 125.420 153.396 36.242 40,6 27.976 22,3 Ngắn hạn 51.827 61.368 94.292 9.541 18,4 32.924 53,7 - Nông nghiệp 46.019 54.800 76.055 8.781 19,1 21.255 38,8 - SXKD 1.158 1.784 11.484 626 54,1 9.700 543,7 - Góp chợ 4.650 4.784 6.753 134 2,9 1.969 41,2 Trung và dài hạn 37.351 64.052 59.104 26.701 71,5 -4.948 -7,7 - Nông nghiệp 5.643 4.939 5.858 -704 -12,5 919 18,6 - SXKD 5.669 9.725 13.988 4.056 71,6 4.263 43,8 - Góp CB-CNV 24.684 47.478 38.041 22.794 92,3 -9.437 -19,9 - Khác 1.355 1.910 1.217 555 41,0 -693 -36,3 Nguồn: Biểu báo cáo tín dụng từ phòng tín dụng Dư nợ cho vay đến cuối năm 2002 là 89.178 triệu đồng đạt 91% so với kế hoạch đề ra. Dư nợ cho vay đến cuối năm 2003 là 125.420 triệu đồng đạt 109% so với kế hoạch đề ra. Năm 2004 dư nợ cuối năm là 153.396 triệu đồng đạt 100% so với kế hoạch đề ra. Nhìn chung ngân hàng hoạt động có hiệu quả, luôn đạt kết quả như kế hoạch đề ra, riêng năm 2002 chỉ đạt 91% so với kế hoạch, nguyên nhân không đạt như mong muốn này là do nông dân trúng mùa, được giá sau vụ Đông Xuân của năm 2002, nên có một số khách hàng không có nhu cầu vốn nên chưa vay lại. Bảng 5.1: Cơ cấu từng loại dư nợ Đvt: tr; % Năm Chỉ Tiêu 2002 2003 2004 Cơ cấu dư nợ 2002 2003 2004 Tổng dư nợ 89.178 125.420 153.396 100,0 100,0 100,0 Ngắn hạn 51.827 61.368 94.292 58,1 48,9 61,4 - Nông nghiệp 46.019 54.800 76.055 88,8 89,3 80,7 - SXKD 1.158 1.784 11.484 2,2 2,9 12,2 - Góp chợ 4.650 4.784 6.753 9,0 7,8 7,2 Trung và dài hạn 37.351 64.052 59.104 41,9 51,1 38,5 - Nông nghiệp 5.643 4.939 5.858 15,1 7,7 9,9 - SXKD 5.669 9.725 13.988 15,2 15,2 23,7 - Góp CB-CNV 24.684 47.478 38.041 66,1 74,1 64,4 - Khác 1.355 1.910 1.217 3,6 3,0 2,1 Dư nợ ngắn hạn cuối năm 2002 đạt 51.827 triệu đồng chiếm 58,1% tổng dư nợ, tỷ lệ này cho thấy ngân hàng đã dàn đều các loại hình cho vay ngắn, trung và dài hạn GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 21 Luận văn tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Duyên để hạn chế rủi ro tín dụng. Năm 2003 dư nợ ngắn hạn đạt 61.368 triệu đồng, chiếm 48,9% tổng dư nợ, cho thấy ngân hàng đã không ngừng phấn đấu vươn lên, chuyển đổi dư nợ ngắn hạn sang trung và dài hạn để có thể tồn tại trước áp lực cạnh tranh của các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn. Sang năm 2004 tình hình có chiều hướng thay đổi, dư nợ ngắn hạn tăng lên 32.924 triệu đồng chiếm 61,5% tổng dư nợ, và đáng chú ý nhất là sự tăng lên nhảy vọt của dư nợ SXKD ngắn hạn, tuy rằng nó chỉ chiếm 12,2% trong tổng dư nợ ngắn hạn, nhưng ở năm 2004 nó tăng lên 543,7% sự đột biến này là do trong năm giá cả hàng hóa tăng cao, những người mua bán, sản xuất kinh doanh có lãi nên họ có nhu cầu mở rộng và đầu tư mới. Trong khi dư nợ trung và dài hạn giảm 4.948 triệu đồng, do năm 2004, một phần cán bộ công nhân viên không có nhu cầu vay vốn do giá cả hàng hóa tăng cao, một phần là do ngân hàng đã hạn chế bớt dần cho vay góp cán bộ công nhân viên vì phần lớn những người có nhu cầu vay vốn là những người mới có việc làm, có nhu cầu cho việc mua sắm các phương tiện đi lại, và việc làm còn mới mẽ nên họ dể bị điều chuyển công tác thì ngân hàng gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn. Nhưng cho vay góp cán bộ công nhân viên là mảng cho vay mang lại hiệu quả cao, nhưng do tính phức tạp ở trên, vì vậy bộ quản lý và cán bộ tín dụng cần quan tâm giám sát chặc chẽ hơn, nhất là khâu thu nợ, việc thu nợ trong tháng phải được thực hiện nghiêm túc, đúng kế hoạch để ngăn chặn nợ quá hạn phát sinh để phát huy ưu thế của loại hình tín dụng này. Với loại hình cho vay truyền thống vẫn là cho vay nông nghiệp, loại hình cho vay này được ngân hàng duy trì và mở rộng, bên cạnh đó ngân hàng cũng đã mở rộng các loại hình cho vay mới như: góp nông thôn theo mùa vụ, góp kinh doanh nông thôn, cho vay góp chợ, cho vay kinh doanh cá thể …, một mặt là giảm thiểu rủi ro tín dụng khi mà tập trung cho vay một loại hình cố định, nhất là nông nghiệp, dể xảy ra rủi ro như thiên tai, lũ lụt, rủi ro này không dự đoán trước được nên dẫn đến thất thu nặng cho ngân hàng, song hành với giảm thiểu rủi ro là làm tăng khả năng cạnh tranh đối với các tổ chức tín dụng cùng địa bàn. Đồng thời ngân hàng cũng hạn chế dần những loại hình cho vay kém hiệu quả. Nhìn chung, với tình hình kinh tế chung của tỉnh nhà có nhiều thuận lợi, cùng với sự nổ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ công nhân viên trong ngân hàng Mỹ Xuyên, nên kết quả hoạt động của ngân hàng rất khả quan: có sự tăng cao trong nguồn vốn cũng như trong dư nợ, góp phần làm tăng lợi nhuận ngân hàng, từ đó khẳng định uy tín chất lượng phục vụ đối với khách hàng, cũng như uy tín và chất lượng tín dụng của ngân hàng Mỹ Xuyên ngày một nâng cao. Để tìm hiểu rõ hơn về chất lượng tín dụng ta phải đi vào thực trạng nợ quá hạn, để thấy được các biện pháp và kế hoạch tín dụng mà ngân hàng đã áp dụng trong những năm qua có nâng cao chất lượng tín dụng?. Ta nghiên cứu ở phần dưới đây. 2.4. Tình hình nợ quá hạn: GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 22 Luận văn tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Duyên Bất kỳ một ngân hàng nào khi đi vào hoạt động đều phải gặp những rủi ro nhất định. Sự hoàn trả gốc và lãi đúng hạn của khách hàng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của ngân hàng vì nó đảm bảo sự luân chuyển vốn của ngân hàng được tuần hoàn, liên tục và sinh lợi, nếu khách hàng hoàn trả gốc và lãi chậm hoặc không có khả năng hoàn trả thì đây là rủi ro lớn nhất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đó là rủi ro tín dung, rủi ro này là loại rủi ro không thu được nợ khi đến hạn. Nợ quá hạn của ngân hàng Mỹ Xuyên thường xuất phát từ nguyên nhân sau: Do là loại hình ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, nên đại đa số khách hàng là những hộ nông dân, họ có tâm lý là phụ thuộc rất lớn vào giá nông phẩm, sau vụ thu hoạch họ thường không bán liền mà chờ có cơ hội cho giá tăng cao hơn mới bán, do đó họ thường trễ hạn và chấp nhận mức lãi suất phạt. Cũng không loại trừ yếu tố khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, những dự án sản xuất kinh doanh không khả thi do ảnh hưởng bất ngờ của thời tiết, thiên tai… Bên cạnh đó về phía ngân hàng cũng làm cho nợ quá hạn phát sinh: Đối với một số khách hàng cũ, khi họ vay lại, việc thẩm định hồ sơ vay của một số cán bộ tín dụng còn quá qua loa mang tính chủ quan, thẩm định từ xa, nhờ người làm thay hoặc không khảo sát thẩm tra cụ thể tình hình hoạt động của khách hàng. Bảng 6: Tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng Mỹ Xuyên (2002-2004). Đvt: triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2002 2003 2004 So sánh 2003/2002 So sánh 2004/2003 Số tiền % Số tiền % Nợ quá hạn 1.057 497 416 -560 -53,0 -81 -16,3 - Ngắn hạn 1.010 375 133 -635 -62,9 -242 -64,5 - Trung hạn 47 122 283 75 159,6 161 132,0 Nguồn: Biểu báo cáo tín dụng từ phòng tín dụng. Tổng nợ quá hạn của ngân hàng giảm liên tục qua 3 năm, năm 2002 nợ quá hạn là 1.057 triệu đồng, năm 2003 giảm 560 triệu tức còn 497 triệu, năm 2004 giảm còn 416 triệu. Công tác quản lý nợ xấu trong những năm qua có tiến triển tốt đẹp, kết quả hoạt động của ngân hàng rất khả quan. Đạt được điều này ngoài yếu tố trúng mùa được giá của năm 2002-2003, còn phải nói đến sự nổ lực quyết tâm của đội ngũ cán bộ tín dụng rất năng động, sáng tạo và kiên trì trong công tác. Vì ngân hàng cũng đã sử dụng biện pháp chỉ đạo cán bộ tín dụng bám sát địa bàn, xử lý nợ một cách cương quyết, loại bỏ dần những khách hàng yếu kém và loại bỏ dần những địa bàn có dư nợ quá hạn cao như: Tịnh Biên, Tri Tôn, Châu Phú. Và cùng với việc tăng cường nhân sự đối với một số địa bàn trọng điểm, kết quả hoạt động của ngân hàng đạt như mong muốn, làm tăng chỉ tiêu lợi nhuận. Tổng nợ quá hạn thì giảm liên tục qua 3 năm, sự giảm này là do thu hồi chủ yếu nợ quá hạn ngắn hạn. Năm 2003 giảm 635 triệu đồng so với năm 2002, năm 2004 giảm 242 triệu đồng so với năm 2003. Nhưng nợ quá hạn trung và dài lại tăng lên liên tục, năm 2003 tăng 75 triệu đồng so với năm 2002, năm 2004 lại tăng 161 triệu đồng so với GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 23 Luận văn tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Duyên năm 2003 tức nợ quá hạn năm 2004 đạt 283 triệu đồng. Ở năm 2004 nợ quá hạn trung và dài hạn tăng cao, nhất là mảng cho vay SXKD như góp kinh doanh nông thôn, góp sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân chủ yếu là năm 2004 giá cả hàng hóa tăng cao, kèm theo những biến động lớn về giá vàng và giá dolla, một số khách hàng thì “ăn nên làm ra”, còn một số thua lỗ, chính những khách hàng hoạt động không hiệu quả này đã làm nợ quá hạn phát sinh cao, cùng với những khách hàng làm ăn không hiệu quả, những khách hàng hoạt động hiệu quả cũng làm phát sinh nợ quá hạn do nhu cầu vốn cho việc mở rộng sản xuất đấu tư nên dẫn đến góp không đúng hạn. Xét về mặt nợ quá hạn thì ta phải xem xét đến hai mảng của nó là nợ quá hạn có khả năng thu hồi và nợ quá hạn không có khả năng thu hồi. Ta cùng xem xét ở bảng sau: Bảng 6.1: Thống kê nợ quá hạn của Ngân hàng Mỹ Xuyên Đvt: triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2002 2003 2004 So sánh 2003/2002 So sánh 2004/2003 Số tiền % Số tiền % Nợ quá hạn 1.057 497 416 -560 -53,0 -81 -16,3 -Có khả năng thu hồi 678 372 371 -306 -45,1 -1 -0,3 -Không có khả năng thu hồi 379 125 45 -254 -67,0 -80 -64,0 Nguồn : Biểu báo cáo tín dụng từ phòng tín dụng. Điều đáng chú ý nhất là nợ không có khả năng thu hồi, nó luôn giảm, giảm 67,0% ở năm 2003 so với năm 2002, và tiếp tục giảm 64,0% ở năm 2004 so với năm 2003, tức cuối năm 2004 nợ quá hạn không có khả năng thu hồi chỉ còn 45 triệu đồng, khả năng hoạt động của ngân hàng rất tốt, nhất là công việc thu hồi nợ quá hạn của cán bộ tín dụng, cán bô tín dụng thường xuyên đôn đốc khách hàng trả nợ, tích cực đòi các khoản nợ cũ khi khách hàng có điều kiện trở lại. Còn nợ quá hạn có khả năng thu hồi, ở cuối năm 2004 không giảm nhiều so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn 1 triệu đồng, điều này cho thấy tình trạng nợ quá hạn chưa giảm hẳn, nó chỉ giảm ở phần thu hồi nợ cũ. Mặc dù doanh số cho vay tăng cao, nợ quá hạn giảm nhưng ngân hàng cần phấn đấu hơn nữa để giảm nợ quá hạn tối thiểu ở mức có thể được, như thế mới có khả năng cạnh tranh mạnh được vào những năm tiếp theo, nhất là khi tình trạng pháp luật luôn thay đổi để phù hợp với thông lệ quốc tế. Xét về rủi ro tín dụng, nhất là các tỷ số phản ánh tình hình tín dụng qua bảng dưới đây: Bảng 7: Rủi ro tín dụng của Ngân hàng Mỹ Xuyên (2002-2004). Đvt: triệu đồng ; % GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 24 Luận văn tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Duyên Năm Chỉ tiêu rủi ro tín dụng 2002 2003 2004 Dự phòng phải thu khó đòi 983 304 161 DSCV 133.524 216.169 221.070 Cho vay ròng 132.541 215.865 220.909 Nợ quá hạn 1.057 497 416 Rủi ro tín dụng 0,8 0,2 0,2 Nguồn: Bảng cân đối kế toán và bảng báo cáo tín dụng Nhìn chung, kèm theo nợ quá hạn ngày càng giảm cộng với doanh số cho vay ngày càng tăng, hai chỉ tiêu này đã làm cho rủi ro tín dụng giảm đáng kể. Cuối năm 2004 rủi ro tín dụng chỉ ở mức 0,2% chỉ tiêu này không đáng lo ngại, kết quả đạt được là do ngân hàng có nhiều cố gắng thực hiện tốt công tác tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn ngày càng tăng của khách hàng, song song đó ngân hàng cũng luôn tuân thủ các nguyên tắc tín dụng để hạn chế tối đa rủi ro tín dụng, cũng như ngày càng thu hẹp các khoản nợ xấu của ngân hàng, vì thế ngân hàng nên duy trì hoặc giảm hơn nữa đến mức thấp nhất mà ngân hàng có thể thực hiện được. Như thế mới có khả năng cạnh tranh lại các tổ chức tín dụng khác cùng địa bàn, và nhất là Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam cho ra đời một quyết định mới, quyết định 127/2005/QĐ-NHNN. Quyết định này ban hành ngày 03/02/2005, sửa đổi và bổ sung một số điều của quy chế cho vay hiện hành. Bởi theo quyết định này chất lượng tín dụng không còn như các ngân hàng tưởng là tốt như hiện nay. Vì theo quyết định này “Đối với khoản nợ vay không trả đúng hạn, các tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng trả nợ đúng hạn và không chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ, thì số dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng đó là nợ quá hạn ....” (khoản 4 điều 1 của quyết định 127 sửa đổi và bổ sung khoản 2 điều 13 của quyết định 1627). Ngay cả trong trường hợp các khoản nợ không được trả đúng hạn và được các tổ chức tín dụng cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ thì toàn bộ số dư nợ vay gốc cũng bị coi là nợ quá hạn. Điều 1 khoản 6 của quyết định 127 có nêu: “Các tổ chức tín dụng tự quyết định việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, trên cơ sở khả năng tài chính của mình và kết quả đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng vay. Toàn bộ số dư nợ vay gốc của khách hàng có khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ được coi là nợ quá hạn ...”. Điều này sẽ làm nợ quá hạn của các ngân hàng tăng lên đáng kể và số nợ quá hạn phải được phân loại vào nhóm nợ cần chú ý (từ nhóm 2 đến nhóm 5), và phải trích lập dự phòng rủi ro theo từng nhóm, điều này sẽ khiến cho lợi nhuận của ngân hàng bị suy giảm đáng kể bởi họ dành những khoản tiền khá lớn vào dự phòng rủi ro mà không được hạch toán vào thu nhập. Nợ quá hạn tăng, lợi nhuận giảm là thách thức đối với tất cả các tổ chức tín dụng, còn đối với ngân hàng thương mại cổ phần, thì vấn đề không dừng lại ở đây mà khi lợi nhuận giảm sẽ làm cổ tức giảm, giá cổ phần giảm theo. Vì thế ngân hàng buộc phải quan tâm hơn đến chất lượng tín dụng và hoạt động lành mạnh hơn. 3. phân tích hiệu quả tín dụng: GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 25 Luận văn tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Duyên Như ở phần cơ sở lý luận ta đã nêu, để hiểu rõ hơn về hoạt động của ngân hàng ta phân tích hiệu quả tín dụng thông qua các chỉ tiêu: Hệ số thu nợ, vòng quay vốn tín dụng, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. thông qua bảng sau: Bảng 8: Số liệu tổng hợp: Đvt: triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Doanh số thu nợ 123.342 179.100 195.478 Tổng dư nợ 89.178 125.420 153.396 Doanh số cho vay 133.524 216.169 221.070 Dư nợ bình quân 77.880 99.587 137.500 Nợ quá hạn 1.057 497 416 Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động và báo cáo tín dụng Bảng 9: Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng: Đvt: % Năm Chỉ tiêu 2002 2003 2004 03/02 03/04 Hệ số thu nợ (%) 92,4 82,9 88,4 -10,3 6,7 Vòng quay vốn (lần) 1,6 1,8 1,4 13,6 -21,0 Nợ quá hạn/ tổng dư nợ (%) 1,2 0,4 0,3 -66,6 -31,6 ♦ Hệ số thu nợ: Hệ số thu nợ của năm 2003 là 82,9% giảm 10,3% so với năm 2002 và năm 2004 hệ số này lại tăng lên 6,7% tức là 88,4%. Năm 2003 hệ số thu nợ giảm không phải doanh số thu nợ giảm, mà do tốc độ tăng doanh số thu nợ và doanh số cho vay chưa tương xứng, doanh số cho vay năm 2003 tăng rất mạnh vào thời điểm cuối năm, do đó nợ chưa đến hạn, chưa thể thu hồi được. Hệ số này qua 3 năm đều trên 80% thể hiện khả năng thu nợ tốt của ngân hàng, vì doanh số cho vay ngắn hạn và trung và dài hạn tương đương nhau, mà doanh số cho vay trung và dài hạn lại có thời hạn thu nợ dài, nên nó thể hiện khả năng tuần hoàn vốn tốt. Qua năm 2004 hệ số thu nợ lại có phần tăng lên là do, doanh số thu nợ năm 2004 tăng 9,1% nhưng doanh số cho vay chỉ tăng 2,3%, điều này thể hiện khả năng thu nợ tốt, nhưng nó chỉ mang tính chất tượng trưng, thực chất khó xác định được hệ số thu nợ bao nhiêu là tốt mà còn tùy thuộc vào những yếu tố khác nữa mới có thể đánh giá được hiệu quả tín dụng, vì hệ số thu nợ là con số phản ánh ở thời điểm, còn doanh số thu nợ và doanh số cho vay là những con số phản ánh thời kỳ. Do đó, việc đảm bảo về chỉ tiêu hệ số thu nợ là không phải làm cho hệ số này càng cao càng tốt, mà phải đảm bảo sự cân bằng về mức độ tăng lên của doanh số cho vay và doanh số thu nợ khi đến hạn. Do đó chúng ta không thể kết luận hiệu quả hoạt động của ngân hàng khi chỉ có một chỉ tiêu riêng lẻ như thế. Chỉ tiêu này chẳng qua là cho ta biết được số tiền ngân GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 26 Luận văn tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Duyên hàng bỏ ra bao nhiêu và thu hồi lại được bao nhiêu trong năm, chứ không phản ánh lợi nhuận cũng như hiệu quả hoạt động của ngân hàng. ♦ Vòng quay vốn tín dụng: Vòng quay vốn của năm 2003 là 1,8 lần tăng 13,6% so với năm 2002, nhưng sang năm 2004 chỉ còn 1,4 lần giảm 21,0%. Tuy năm 2004 có giảm, nhưng nhìn chung tổng thể qua 3 năm vòng quay vốn tín dụng đều ở mức cao (trên 1 lần). Điều này thể hiện khả năng luân chuyển vốn của ngân hàng nhanh. Tuy nhiên ở mức 1,4 lần trong năm 2004 là chưa cao, chưa hiệu quả, chưa hiệu quả vì năm 2004 doanh số cho vay phần lớn là ngắn hạn (chiếm 78,9%). Mà ngắn hạn thì có thời gian thu hồi vốn trên 1 lần trong năm. Đi đôi với các biện pháp nhằm làm vòng quay vốn tín dụng tăng lên và ổn định, ngân hàng còn phải có những biện pháp làm tăng doanh số cho vay để làm cho khả năng sinh lợi từ đồng vốn đầu tư sẽ nhanh và cao hơn tạo điều kiện tăng thêm lợi nhuận. ♦ Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ: Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ luôn giảm, nó thể hiện chất lượng tín dụng ngày một tăng, cụ thể năm 2003 là 0,4% giảm so với năm 2002 là 66,6%, và năm 2004 tiếp tục giảm 31,6% tức tỷ lệ này chỉ còn 0,3%. Ngân hàng hoạt động với mức độ khá ổn định và ngày càng hoàn thiện hơn các rủi ro tín dụng, cùng với doanh số cho vay ngày càng tăng lên, tỷ lệ nợ quá hạn ngày một giảm xuống, hoạt động với mức độ như thế này thì thật là lý tưởng. Với đà phát triển như thế này thì rất tốt , nhưng khi quyết định 127 ra đời, đây là phần khó khăn rất lớn mà các tổ chức tín dụng phải tuân theo, do đó ngân hàng cần phải phấn đấu hơn nữa để đảm bảo một tỷ lệ như mong muốn. Vì thế ngân hàng phải thường xuyên giám sát các khoản vay theo từng đối tượng, cán bộ tín dụng phải nắm rõ tình hình tổng thể của khách hàng, nhất là hộ nông dân, để có biện pháp thu hồi nợ đúng lúc và cho vay một cách hợp lý nhất, tránh tình trạng phải phụ thuộc nhiều vào tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị vay vốn. 4. Báo cáo kết quả kinh doanh của ngân hàng: Ba mục tiêu chủ yếu và cơ bản mà bất kỳ ngân hàng nào cũng muốn đạt được là: - Tối đa hóa lợi nhuận, - Giảm thiểu các rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh, - Đảm bảo khả năng thanh toán. Với mục tiêu cơ bản hàng đầu là tối đa hóa lợi nhuận, đây là một đòn bẩy quan trọng khuyến khích cán bộ nhân viên và lãnh đạo phải nổ lực phấn đấu để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của đơn vị, cũng như nâng cao mức cổ tức và giá cổ phần. Sau đây chúng ta sẽ đi vào nghiên cứu các yếu tố tạo thành lợi nhận của ngân hàng Mỹ Xuyên qua bảng dưới đây: GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 27 Luận văn tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Duyên Bảng 10: Báo cáo kết quả kinh doanh của Ngân hàng Mỹ Xuyên (2002-2004). Đvt: triệu đồng Năm Chỉ Tiêu 2002 2003 2004 So sánh 03/02 So sánh 04/03 Số tiền % Số tiền % I. Thu từ lãi 11.043 14.743 23.080 3.700 33,5 8.337 56,6 1. Thu lãi cho vay 10.948 14.547 22.839 3.599 32,9 8.292 57,0 2. Thu lãi tiền gửi 94 196 241 102 108,5 45 23,0 3. Thu lãi góp vốn mua CP 1 - - -1 -100,0 - - II. Chi trả lãi 6.337 8.860 11.705 2.523 39,8 2.845 32,1 1. Chi trả lãi tiền gửi 4.805 6.380 7.138 1.575 32,8 758 11,9 2. Chi trả lãi tiền đi vay 1.532 2.480 4.567 948 61,9 2.087 84,1 III. Thu nhập ròng từ lãi 4.706 5.883 11.375 1.177 25,0 5.492 93,4 IV. Thu nhập khác ngoài lãi 1.878 1.723 540 -155 -8,3 -1.183 -68,7 1. Thu từ dịch vụ thanh toán 55 77 103 22 40,0 26 33,8 2. Thu khác - - - - - - - 3. Thu từ DV ngân quỹ 1 - 1 -1 -100,0 1 - 4. Thu nhập bất thường 1.822 1.646 436 -176 -9,7 -1.210 -73,5 V. Chi phí khác ngoài lãi 3.794 3.505 5.266 -289 -7,6 1.761 50,2 1. Chi hoạt động TT & NQ 11 14 18 3 27,3 4 28,6 2. Chi hoạt động khác 188 374 535 186 98,9 161 43,1 3. Chi nộp thuế, phí, lê phí 1 4 4 3 300,0 0 0,0 4. Chi cho nhân viên 1.166 1.573 2.368 407 34,9 795 50,5 5. Chi hoạt động quản lý 791 1.043 1.555 252 31,9 512 49,1 6. Chi khấu hao TSCĐ 221 212 274 -9 -4,1 62 29,3 7. Chi khác về TS 161 186 338 25 15,5 152 81,7 8. Chi dự phòng 1.168 - 46 -1.168 -100,0 46 - 9. Chi BH, bảo toàn tiền gửi 87 99 128 12 13,8 29 29,3 Thu nhập ròng ngoài lãi -1.916 -1.782 -4.726 134 -7,0 -2.944 165,2 Thu nhập trước thuế 2.790 4.101 6.649 1.311 47,0 2.548 62,1 Nguồn: Bảng báo cáo kết quả kinh doanh Nhìn chung tổng thu của ngân hàng luôn tăng (tổng thu bằng thu từ lãi cộng thu nhập khác ngoài lãi) năm 2002 đạt 12.921 triệu đồng, 2003 đạt 16.466 triệu đồng, năm 2004 đạt 23.620 triệu đồng. Trong đó thu nhập chủ yếu là thu từ lãi cho vay, thu lãi tiền gửi và thu từ lãi góp vốn mua cổ phần, nhất là thu từ lãi cho vay, đây là nguồn thu nhập chính của ngân hàng, sở dĩ, nguồn thu này tăng lên liên tục là do: - Ngân hàng hạn chế cho vay đối với hộ gia đình cá nhân không tạo uy tín tốt ở những năm trước đối với ngân hàng, hạn chế cho vay khi hộ gia đình, cá nhân không đáp ứng đủ điều kiện trong vay vốn của ngân hàng vì ngân hàng luôn muốn nâng cao chất lượng tín dụng. GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 28 Luận văn tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Duyên Thu khác ngoài lãi bao gồm: thu nhập từ dịch vụ thanh toán, thu khác, thu từ dịch vụ ngân quỹ, thu nhập bất thường. Mặc dù nguồn thu này chiếm tỷ lệ rất nhỏ nhưng nó cũng góp phần đáng kể, thể hiện lĩnh vực, khả năng hoạt động của ngân hàng, cũng như thu từ dịch vụ thanh toán, nó chiếm một tỷ lệ không đáng kể mà nó cũng nói lên ngoài việc cung ứng tín dụng ngân hàng còn hoạt động dịch vụ thanh toán cho ngân hàng, hiện nguồn thu này ngày càng tăng và ngân hàng đang cố gắng mở rộng dịch vụ này để tăng thêm thu nhập. Bên cạnh nguồn thu này ngân hàng còn có nguồn thu bất thường, khoản thu nhập này ngày càng giảm, cùng với khoản nợ quá hạn giảm, điều này do ngân hàng hoạt động hiệu quả, ít rủi ro nhờ vào năm 2002-2003 lúa trúng mùa được giá, các loại nông sản khác có giá cao ... dẫn đến thu nhập của người dân tăng làm giảm đáng kể nợ quá hạn, nhất là nợ không có khả năng thu hồi từ hững năm trước đã chuyển sang nợ ngoại bảng cũng được thu hồi. Về chi phí của ngân hàng bao gồm chi cho việc trả lãi tiền gửi, lãi đi vay và chi phí khác ngoài lãi, mà khoản chi cao nhất là chi trả lãi tiền gửi, nó luôn tăng qua 3 năm, điều này thể hiện ngân hàng ngày càng tạo được lòng tin, sự cảm nhận tiện lợi và an toàn nơi khách hàng, cùng với chính sách huy động vốn khá hấp dẫn đối với khách hàng như có quà tặng, tiết kiệm dự sổ số ..., nên thu hút ngày càng nhiều tiền gửi do đó chi trả lãi tiền gửi ngày càng tăng. Được sự tín nhiệm của khách hàng, hội sở tăng nguồn vốn từ việc huy động nhằm phục vụ cho các hình thức tín dụng ngày càng phát triển đa dạng, linh hoạt và quy mô tín dụng ngày càng tăng, do nhu cầu vay vốn của nông dân vẫn còn nhiều, nên ngân hàng phải tăng nguồn vốn từ việc vay từ các tổ chức tín dụng khác.Chi trả lãi tiền vay ngày một tăng tương ứng với tiền vay tăng, khoản chi này thường đắt hơn khoản chi từ lãi tiền gửi, do đó nó tăng lên cho thấy ngân hàng tuy có số dư tiền gửi tăng nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của khách hàng. Còn chi khác ngoài lãi tất cả đều tăng theo quy mô hoạt động của ngân hàng, ta chỉ tập trung vào chi cho nhân viên, chi dự phòng rủi ro và chi cho hoạt động, chi cho nhân viên tăng do số lượng nhân viên tăng lên theo nhu cầu hoạt động của ngân hàng, đặc biệt ngân hàng có nhu cầu tăng nhân viên cho chi nhánh Châu Đốc, nhất là chi nhánh Tân Châu mới đi vào hoạt động từ cuối năm 2004 số lượng nhân viên tăng qua các năm là: năm 2002 là 67 người, năm 2003 là 72 người, năm 2004 là 90 người. Do hoạt động của ngân hàng mở rộng do đó chi hoạt động cũng tăng theo. Còn chi cho dự phòng rủi ro, ở năm 2002 là 1.168 triệu đồng nhưng sang năm 2003 khoản chi phí này không có, chất lượng tín dụng tăng rõ rệt, do doanh số cho vay tăng mà chi cho dự phòng không có, qua năm 2004 khoản chi này tăng lên, đây là điều đáng ngại cho ngân hàng mặc dù khoản tăng này không đáng kể, nhưng nó làm cho chi phí tăng lên vì khoản chi cho dự phòng không được hạch toán vào tu nhập. Do đó, ngân hàng không ngừng đảm bảo chất lượng tín dụng cũng như đảm bảo khả năng thu nợ, có như thế ngân hàng mới đảm bảo được khả năng hoạt động cũng như khả năng cạnh tranh đối với các tổ chức tín dụng khác cùng địa bàn. Cùng với sự tăng lên của doanh số cho vay, sự đa dạng hóa các hình thức cho vay, dịch vụ thanh toán cho khách hàng, điều này làm cho chi phí của ngân hàng tăng lên. GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 29 Luận văn tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Duyên Tổng quan, tổng thu và tổng chi của ngân hàng luôn tăng qua các năm nhưng tốc độ tăng của tổng thu luôn tăng cao hơn tốc độ của tổng chi cụ thể: năm 2003 tổng thu tăng 27,4% với số tiền là 3.545 triệu đồng, tổng thu tăng 22,1% với số tiền là 2.234 triệu đồng so với năm 2002, sang năm 2004 tổng thu tăng 43,5% với số tiền là 7.154 triệu đồng, tổng chi tăng 37,3% với số tiền là 4.606 triệu đồng so với năm 2003. Chính điều này đã làm gia tăng đáng kể lợi nhuận của ngân hàng và cùng với những nguyên nhân sau: - Ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động, với chi nhánh Châu Đốc vào năm 2003 và chi nhánh cấp II Tân Châu vào cuối năm 2004. - Ảnh hưởng của chính sách lãi suất thỏa thuận do thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam ban hành vào ngày 01/06/2002 đã góp phần mở rộng khoản cách chênh lệch giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra của ngân hàng. - Nợ quá hạn giảm mạnh góp phần làm giảm chi phí dự phòng, cùng với việc thu hồi các khoản nợ xấu tồn đọng trong năm cũ, góp phần làm tăng lợi nhuận trong năm. 5. Phân tích các chỉ tiêu sinh lợi: Lợi nhuận là mục đích cuối cùng mà bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào cũng muốn đạt được, nó càng cao càng tốt, nhưng thế nào để đạt là lợi nhuận cao nhất, mà cao nhất là bao nhiêu? Câu hỏi này chưa có một nhà quản trị nào trả lời một cách chính xác, mà tùy vào từng loại hình hoạt động và những giới hạn vốn có của loại hoạt động đó. Ta cùng đi vào tìm hiểu khả năng lợi nhuận của Ngân hàng Mỹ Xuyên. Bảng 11: Số liệu tổng hợp để đánh giá chỉ tiêu sinh lợi của Ngân hàng Mỹ Xuyên (2002-2004) Đvt: triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Lợi nhuận ròng 1.897 2.789 4.787 Tổng tài sản 99.162 140.223 171.444 Lợi nhuận ròng 1.897 2.789 4.787 Vốn tự có 10.467 15.362 24.111 Tài sản có 99.162 140.223 171.444 Tiền mặt 909 479 621 TSCĐ 2.600 2.525 4.631 Tài sản sinh lời 95.653 137.219 166.192 Thu nhập ròng từ lãi 4.706 5.883 11.375 Tổng thu nhập 12.921 16.466 23.620 Nguồn: Bảng cân đối kế toán & báo cáo KQKD từ phòng hành chánh tổng hợp. Bảng 12: Các chỉ tiêu sinh lợi của Ngân hàng Mỹ Xuyên (2002-2004) Đvt: % Năm Chỉ tiêu 2002 2003 2004 So sánh 03-02 04-03 GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 30 Luận văn tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Duyên ROA 1,9 2,0 2,8 0,1 0,8 ROE 18,1 18,2 19,9 0,1 1,7 Mức lãi biên tế 4,9 4,3 6,8 -0,6 2,5 Tổng thu nhập/tổng tài sản 13,0 11,7 13,8 -1,3 2,1 ♦ ROA Như chúng ta đã biết, đây là chỉ tiêu đo lường khả năng tạo ra lợi nhuận ròng của tổng tài sản. Một đồng tài sản sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Qua 3 năm ta thấy ROA ngày một tăng. Năm 2003 ROA tăng so với năm 2002 nhưng tăng rất ít chỉ có 0,1 đồng lợi nhuận ròng cho 1 đồng tài sản. Đến năm 2004 thì một đồng tài sản tạo ra được 2,8 đồng lợi nhuận ròng, tăng 0,8 đồng so với năm 2003. Tuy nhiên, năm 2003 ROA tăng nhẹ, nhưng xét về bản chất ngân hàng hoạt động rất hiệu quả, ta thấy rằng tổng tài sản luôn tăng kèm theo đó là lợi nhuận ròng tăng cao, tổng tài sản tăng, quy mô hoạt động của ngân hàng đang mở rộng, cho thấy khả năng tạo ra lợi nhuận trong tương lai ngày càng cao. Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động hiệu quả mới dám bành trướng quy mô hoạt động của mình, ngân hàng cũng vậy. Điều này được chứng tỏ ở năm 2004, ROA tăng cao, bên cạnh việc tăng lên là do kết quả đạt được ở năm 2003 còn do những nguyên nhân ở năm 2004 là: yếu tố lợi nhuận tăng cao do tỷ lệ tăng của tổng thu nhập cao hơn tỷ lệ tăng của tổng chi phí, và nhất là luật thuế thu nhập doanh nghiệp mới ra đời, giảm từ 32% xuống còn 28% chính điều này đã làm cho lợi nhuận ròng tăng cao, đẩy ROA tăng theo. ♦ ROE ROE là tỷ lệ hoàn vốn chủ sở hữu, sự khác nhau giữa ROE và ROA là do ngân hàng sử dụng vốn huy động từ các tầng lớp dân cư. Nếu không có nguồn vốn huy động thì 2 tỷ số này sẽ bằng nhau. Cũng như ROA, ROE đo lường khả năng tạo ra lợi nhuận ròng của vốn chủ sở hữu. ROE ở năm 2003 tăng so với năm 2002 là 0,03 đồng cho 1 đồng vốn chủ sở hữu, sự tăng không đáng kể này như ta đã nói ở ROA là do ngân hàng mở rộng quy mô bằng cách tăng tài sản, và đây cũng là tăng vốn chủ sở hữu. Qua năm 2004 tỷ số này tăng lên rõ rệt, năm 2003 1 đồng vốn chủ sở hữu tạo ra được 18,2 đồng lợi nhuận ròng, sang năm 2004 thì nó tăng lên 1,7 đồng. Tác động ảnh hưởng của ROE và ROA là như nhau nhưng có sự chênh lệch rất lớn về 2 tỷ số này là ROE tăng cao hơn rất nhiều lần so với ROA, điều này cho thấy rằng ngân hàng đã sử dụng vốn huy động có hiệu quả nên đã phóng đại được tỷ suất lợi nhuận trên vốn cổ phần lên cao hơn tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản. Vì thế, khả năng sử dụng vốn huy động càng nhiều thì khả năng tạo ra lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ngày càng cao. Tuy nhiên vấn đề này còn có giới hạn ở khả năng thanh toán của ngân hàng. Vì vậy ngân hàng nên cân nhắc việc huy đông vốn sao cho phù hợp với nguồn vốn chủ sở hữu. ♦ Mức lãi biên tế GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 31 Luận văn tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Duyên Đây cũng là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nó đo lường khả năng sinh lợi của tài sản. Ta thấy rằng mức lãi biên tế năm 2003 giảm so với năm 2002 là 0,6%. Sự giảm này không phải là ngân hàng hoạt đông đang đi xuống mà là do chi trả lãi tăng cao. Chi trả lãi tăng 39,8% còn thu từ lãi tăng 33,5% so với năm 2002, cùng với tài sản sinh lợi tăng cao. Qua năm 2004 mức lãi biên tế là 6,8% tăng so với năm 2003 là 2,5%, do thu lãi năm 2004 cao hơn nhiều so với chi lãi, thu lãi tăng 56,6% chi lãi tăng 32,1%. Nguyên nhân là do ngân hàng áp dụng lãi suất thỏa thuận được ban hành vào 01/06/2002 của Thống Đốc ngân hàng nhà nước, đã góp phần mở rộng khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra của ngân hàng. ♦ Tổng thu nhập/tổng tài sản Chỉ tiêu này đo lường hiệu quả sử dụng tài sản của ngân hàng, chỉ số này càng cao chứng tỏ ngân hàng đã phân bổ tài sản đầu tư một cách hợp lý và hiệu quả. Ta thấy rằng năm 2003 chỉ số này giảm 1,3% so với năm 2002 nguyên nhân là do tốc độ tăng của tài sản có nhanh hơn tốc độ tăng của thu nhập. Sang năng 2004 tỷ lệ này tăng lên ta thấy rằng ngân hàng có sự phân bổ một cách hợp lý và hiệu quả, tạo nền tảng cho việc tăng lợi nhuận cho ngân hàng. 6. Đánh giá sơ bộ kết quả hoạt kinh doanh của ngân hàng: 6.1 Cơ cấu vốn: Ngân hàng Mỹ Xuyên trong thời qua đã có định hướng đúng đắn trong hoạt động của mình về cơ cấu vốn, nguồn vốn huy động tăng lên liên tục qua 3 năm cùng với sự tăng lên của vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, cơ cấu vốn có những biến động chưa được lý tưởng, nhất là tỷ trọng tiền gửi trên tổng nguồn vốn giảm dần qua các năm, tỷ trọng nguồn vốn vay tăng mạnh vào năm 2003 , do sự không tương xứng về nhu cầu vay vốn của khách hàng, vì thế ngân hàng tăng cơ cấu nguồn tiền vay. Điều này làm cho mức lãi biên tế, tổng thu nhập trên tổng tài sản giảm ở năm 2003. Sang năm 2004, chiều hướng có tiến triển tốt đẹp hơn, tiền vay từ các tổ chức tín dụng khác giảm nhẹ, và có sự tăng lên của vốn điều lệ, cùng với mức thuế thu nhập doanh nghiệp giảm. Điều này làm cho lợi nhuận ròng tăng mạnh, kéo theo là sự tăng lên của ROE, ROA, mức lãi biên tế và tổng thu nhập trên tổng tài sản. Vốn điều lệ ngày một tăng phù hợp với định hướng phát triển, mở rộng quy mô hoạt động, tăng cường khả năng kinh doanh của ngân hàng. Vốn chủ sở hữu trên tổng vốn huy động cũng không ngừng tăng lên, chứng tỏ ngân hàng hoạt động an toàn, đảm bảo được khả năng thanh toán. Tuy nhiên tỷ lệ này ở năm 2004 là 14,1% là cao, do đó, ngân hàng nên tăng cường nguồn vốn huy động hơn nữa đặc biệt là tiền gửi trong dân cư. 6.2 Chất lượng tài sản Có: Cùng với sự tăng lên của vốn chủ sở hữu là sự tăng lên của quy mô hoạt động ngân hàng, kéo theo doanh số cho vay cũng ngày một tăng, và để hạn chế rủi ro tín dụng, ngân hàng đã mở rộng cho vay kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nhất là hộ nông GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 32 Luận văn tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Duyên dân. Bên cạnh đó ngân hàng còn dàn đều các loại hình cho vay để có một cơ cấu cho vay hợp lý. Và chất lượng tín dụng trong những năm vừa qua vẫn tiếp tục được nâng cao, doanh số phát sinh nợ quá hạn luôn giảm trong 3 năm. Riêng về nợ qua hạn trung và dài hạn có chiều hướng xấu. Điều này ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, nhất là vào năm 2005 ngân hàng nhà nước có quy định mới về việc xác định nợ quá hạn. 6.3 Chất lượng quản lý: Nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh ngày một mở rộng, ngoài phòng giao dịch va một chi nhánh Châu Đốc ngân hàng còn mở thêm một chi nhánh cấp 2 Tân Châu vào cuối năm 2004. Công tác quản lý của các phòng ban luôn được thực hiện một cách chặt chẻ đáp ứng phù hợp với quy mô phát triển của ngân hàng. Điều này được thể hiện ở mỗi công nhân viên trong ngân hàng, nhân viên làm việc nhiệt tình, luôn tìm tòi học hỏi để nâng cao nghiệp vụ cũng như về đạo đức tác phong trong công việc. Chính điều này đã góp phần đáng kể cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên, việc quản lý của cấp quản lý trung gian là phòng tín dụng tại hội sở và phòng tín dụng tại chi nhánh chưa có sự quan tâm đúng mức đến công việc của nhân viên thuộc quyền, nhất là tính tự chủ và sự tư duy sáng tạo, vì thế còn có những sai sót chưa hoàn thiện. 6.4 Tiền lãi và thanh khoản: Qua việc phân tích trên ta thấy rằng lợi nhuận của ngân hàng luôn tăng, nó góp phần thúc đẩy mở rộng quy mô của ngân hàng, tác động đến nền kinh tế tỉnh nhà nói chung và làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội nông thôn nói riêng. Qua 3 năm ngân hàng cũng chưa gặp tình khó khăn nào về tính thanh khoản, luôn đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng rút tiền cũng như đi vay. 7. Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng: 7.1 Về nguồn vốn: ♦ Vốn huy động: Đây là nguồn vốn có giá thành tương đối rẻ. Do đó, ngân hàng muốn mở rộng hoạt động tín dụng của mình thì phải mở rộng nguồn vốn huy động, để làm được điều này thì nên sử dụng các biện pháp sau: - Về nhân sự: Tiếp tục cải thiện hơn nữa của cán bộ - kế toán ngân quỹ, nhân viên tác nghiệp phải nhanh gọn chính xác, thường xuyên nhắc nhở, thông báo các thông tin cần thiết kịp thời đến khách hàng, nhất là đối với khách hàng có tiền gửi lớn. Từ đó nâng cao chất lượng phục vụ, tạo được niềm tin cho khách hàng ngày càng cao hơn và cãm thấy giao dịch với ngân hàng Mỹ Xuyên lúc nào cũng an toàn và tiện lợi. - Cơ sở vật chất: Nâng cấp nơi làm việc được khang trang, sạch đẹp, tiện nghi để vừa củng cố niềm tin, vừa tạo sự thoải mái khi khách hàng đến giao dịch. GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 33 Luận văn tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Duyên - Mở rộng phạm vi hoạt động, đa dạng hóa các phương thức huy động vốn bằng cách mở thêm chi nhánh phòng giao dịch ở những nơi có điều kiện huy động tiền gửi. Thực hiện tốt chính sách đối với khách hàng một cách linh hoạt kịp thời, tăng cường cung ứng dịch vụ tiện ích cho khách hàng, luôn điều chỉnh lãi suất phù hợp trên tinh thần có lợi cho khách hàng. Tăng cường công tác tiếp thị, vì hiện nay ngoài các loại hình ngân hàng cùng cạnh tranh với nhau, còn có các tổ chức phi ngân hàng như công ty Bảo Hiểm, công ty Tài Chính, các quỹ đầu tư, các bưu điện cũng đang lao vào cạnh tranh giành khách hàng qua việc cung ứng các loại hình tín dụng và dịch vụ tương tự. Do đó phải lựa chọn công tác tiếp thị sao cho phù hợp với từng đối tượng khách hàng, đồng thời đảm bảo việc cung ứng tín dụng và dịch vụ tốt nhất với rủi ro thấp nhất và mức lợi nhuận cao nhất. Công việc cụ thể của giải pháp này là, mỗi loại hình tiết kiệm mới phải đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, sẽ mở từng đợt huy động tiết kiệm có quà tặng cho mỗi thời điểm thích hợp, tổ chức hội nghị khách hàng định kỳ theo từng nhóm từng khu vực…. ♦ Nguồn vốn đi vay: Đây là nguồn vốn bổ sung quan trọng góp phần làm tăng dư nợ cho vay của ngân hàng, cũng như tăng lượng tài sản có cho ngân hàng. Do đó, phải tạo mối quan hệ tốt và mở rộng đối với các đối tác hiện có như ngân hàng Tân Việt, ngân hàng Đông Á, ngân hàng VP tại thành phố HCM. Đồng thời khắc phục tình trạng thiếu vốn để cho vay vào dịp cuối năm vẫn thường xảy ra, nên tiếp tục tìm đối tác mới có tiềm lực mạnh về nguồn vốn. Tuy nhiên với nguồn vốn đi vay hiệu quả kinh doanh không bằng nguồn vốn huy động từ tiền gửi của các tổ chức, dân cư vì vậy cố gắng hạn chế sử dụng nguồn vốn này, và chỉ sử dụng khi cần thiết. 7.2 Về mặt tín dụng: Tiếp tục thu hồi các khoản nợ xấu và phát triển cho vay mới. Ban Giám Đốc phân phối chỉ tiêu cho vay đến từng bộ phận liên quan một cách phù hợp, và các bộ phận này giao lại cho từng cán bộ tín dụng làm nhiệm vụ trực tiếp để tiến hành thực hiện. Phát triển dư nợ cho vay điều này cũng có nghĩa là nâng cao mức thu nhập, mà phát triển dư nợ cho vay phải đi đôi với chất lượng tín dụng như thế mới có ý nghĩa. Cùng với việc nâng cao dư nợ tín dụng, kèm theo là nâng cao số lượng, chất lượng khách hàng, chứ không có nghĩa là nâng cao định mức, nâng cao số tiền cho vay mà không rõ mục đích sử dụng vốn vay. Vì vậy, việc mở rộng sản phẩm cho vay, cũng như mở rộng địa bàn hoạt động phải là mối quan tâm đặc biệt của mọi thành viên trong ngân hàng. Để tránh thiếu sót trong công tác định giá tài sản thế chấp, cũng như tránh gặp phải những rủi ro trong hoạt động của ngân hàng, ngân hàng phải có đội ngũ cán bộ tín dụng nhiệt tình, đầy đủ năng lực và có chuyên môn sâu. Do đó việc đào tạo nâng cao tay nghề, nâng cao khả năng điều hành, nâng cao hiểu biết về pháp luật và rèn luyện đạo đức nghề nghiệp đối với đội ngũ cán bộ tín dụng là yêu cầu không thể thiếu được. Công tác quản lý tín dụng cần phải thực hiện hết sức chặt chẽ và xuyên suốt, mọi cán bộ nhân viên phải thực hiện nghiêm chỉnh chỉ tiêu kế hoạch đề ra, đặc biệt cán GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 34 Luận văn tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Duyên bộ quản lý trung gian phải theo dõi, giám sát chặt chẽ nhân viên thuộc quyền thực hiện, qua đó hỗ trợ giúp đở kịp thời cấp dưới thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Đa dạng hóa các loại hình cho vay như cho vay kinh doanh cá thể, cho vay góp chợ, góp nông thôn theo mùa vụ, góp kinh doanh nông thôn, đặc biệt nên mở rộng cho vay các doanh nghiệp sản xuất sao phù hợp với nhu cầu khách hàng, đồng thời cũng làm giảm rủi ro trong hoạt động tín dụng. Đẩy mạnh quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như: báo, đài, tivi, tạp chí… và nên giới thiệu kỷ các thủ tục, điều kiện vay vốn và chính sách tín dụng, nêu bậc các tiện ích khi khách hàng đến giao dịch với ngân hàng. Đối với công tác giải quyết nợ xấu, tuy hiện nay nợ xấu chiếm một tỷ trọng không lớn, nhưng đó là yếu tố làm giảm hiệu quả kinh doanh nên rất cần nhanh chóng giải quyết. Để giải quyết nợ xấu có kết quả, cán bộ tín dụng cần phải có quyết tâm, vận dụng linh hoạt đối với trường hợp cụ thể và cần phải bám sát các khoản nợ một cách cương quyết. Cán bộ tín dụng phải bám sát địa bàn, đôn đốc khách hàng trả nợ kịp thời và thu hồi lại vốn khi khách hàng sử dụng vốn sai mục đích và không hiệu quả, phải có công tác giám định khảo sát kỷ phương án xin vay của khách hàng đồng thời phải chọn lọc, lựa chọn khách hàng trước khi phát tiền vay. Phải có chính sách khen thưởng thích đáng nhằm khuyến khích cán bộ nhân viên có thành tích tốt trong công tác, nhất là khuyến khích các các cán bộ nhân viên trong ngân hàng giới thiệu khách hàng đến giao dịch tại ngân hàng mình. Đối với hợp đồng vay sản xuất nông nghiệp, khi cho vay ngân hàng phải xác định được chu kỳ sản xuất, thời vụ thu hoạch và thời gian tiêu thụ sản phẩm để thu hồi vốn. Tùy từng loại hình sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân mà ngân hàng áp dụng cho vay vốn phù hợp với lịch trình sản xuất. Cần phải nắm bắt, điều chỉnh kịp thời lãi suất cho vay khi có biến động nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, đồng thời tạo ra động lực khuyến khích kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp phát triển. 7.3 Giải pháp giảm chi phí hoạt động kinh doanh của ngân hàng: Bên cạnh mở rộng hoạt động tín dụng để nâng cao mức thu nhập, ngân hàng còn phải tích cực giảm chi phí, nhất là những chi phí không cần thiết để tối đa hóa lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng : Tiết kiệm các khoản chi nội bộ, như chi cho công tác thẩm định, chi góp vốn vay, …; Hạn chế việc sử dụng lãng phí vật liệu, giấy tờ, văn phòng phẩm khác, … ; Hạn chế tối đa nợ quá hạn để giảm chi phí dự phòng và tăng thu nhập Ứng dụng công nghệ tin học trong tất cả các khâu của hoạt động ngân hàng để công tác, quản lý một cách hiệu quả. Các hoạt động, công tác phải tiến hành nhanh gọn tốn ít thời gian nhất nhưng mang lại hiệu quả cao nhất. PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 35 Luận văn tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Duyên & 1. Kết luận: Trong công tác đổi mới nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước làm tiền đề cho gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO), thì ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng trong đầu tư vốn tín dụng, đáp ứng kịp thời cho mọi thành phần kinh tế để phục vụ sản xuất kinh doanh. Ngân hàng Mỹ Xuyên cũng là một trong những ngân hàng góp phần quan trọng nói trên, đặc biệt hơn hết là nó góp phần vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của tỉnh nhà. Là một ngân hàng thực hiện mục tiêu chung của tỉnh đề ra, nên hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng tiến triển khá tốt đẹp, điều này được đúc kết như sau: Trong những năm qua ngân hàng đã có nhiều nổ lực phát huy những thế mạnh của mình, sử dụng nhiều biện pháp để thu hút nguồn vốn huy động, kết quả là nguồn vốn huy động qua 3 năm luôn tăng nhưng vẫn không đáp ứng đủ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nên ngân hàng phải vay thêm từ các tổ chức tín dụng khác, và vào cuối năm 2004, nguồn vốn đi vay giảm, kèm theo là nguồn vốn chủ sở hữu tăng lên. Với những cố gắng của toàn thể ngân hàng cùng những chính sách quản lý của hội đồng quản trị và ban Giám đốc, ngân hàng có cơ cấu vốn ngày một hoàn thiện, và ngày một tăng cường nguồn vốn của mình thông qua việc mở việc mở rông mạng lưới giao dịch, mở rộng quan hệ khách hàng, luôn làm mới các sản phẩm đang có, có chính sách lãi suất hấp dẫn để thu hút vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Doanh số cho vay của ngân hàng không ngừng tăng lên qua các năm, đặc biệt là cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng doanh số cho vay, cuối năm 2004 doanh số cho vay ngắn hạn chiếm 78,9%, chủ yếu là đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, góp phần cải thiện đời sống kinh tế, nâng cao mức sống người dân, kinh tế nông nghiệp phát triển hạn chế cho vay nặng lãi ở nông thôn. Với sự đa dạng hóa các loại hình cho vay, điều chỉnh cơ cấu cho vay ở nông thôn, phân tán nguồn vốn cho vay nhiều hộ nông dân nhằm phân tán và hạn chế rủi ro tín dụng. Kết quả là, nợ quá hạn giảm liên tục, ngân hàng cũng đã tích cực thu hồi nợ củ khi khách hàng có khả năng trả nợ, nợ không có khả năng thu hồi đến cuối năm 2004 chỉ còn 45 triệu đồng. Phần lớn nợ quá hạn phát sinh trong sản xuất kinh doanh là do khách quan, vì thế ngân hàng phải phân tích kỹ đối tượng vay vốn để hạn chế nợ quá hạn mới phát sinh, khắc phục nợ quá hạn củ. Cùng với việc huy động vốn ngày một tăng và biện pháp sử dụng vốn ngày càng hiệu quả do đó, lợi nhuận của ngân hàng ngày càng được tăng cao, mà chủ yếu là sự gia tăng từ nguồn thu của lãi, còn việc thu từ dịch vụ có tăng nhưng chiếm tỷ lệ rất nhỏ, ngân hàng nên cố gắng mở rộng các loại hình dịch vụ này như dịch vụ chuyển tiền, để nâng cao hơn nữa mức lợi nhuận đạt được. Bên cạnh đó chi phí từ lãi có sự gia tăng, nhưng tỷ lệ tăng luôn thấp hơn tỷ lệ tăng của thu nhập từ lãi, mặc dù là vậy, nhưng ngân hàng cần cố gắng giảm thấp các loại chi phí ở mức thấp nhất để tạo ra lợi nhuận ngày càng cao hơn. GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 36 Luận văn tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Duyên Bên cạnh những thành tựu đã đạt được ngân hàng Mỹ Xuyên vẫn còn hạn chế về quy mô hoạt động và khả năng cạnh tranh. Vốn chủ sở hữu tuy được nâng lên nhưng vẫn còn thấp, chưa tương ứng với vai trò, vị trí đối với một ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, vì khi xảy ra những biến động của thị trường, ngân hàng dễ bị đưa đến khả năng tổn thương, mất khả năng chi trả, gây thiệt hại cho người gửi tiền. Vì thế ngân hàng hạn chế rất lớn đến khả năng kinh doanh do giới hạn về huy động vốn và khả năng cho vay. 2. Kiến nghị: Qua một thời gian không đủ dài để thực tập ở ngân hàng Thương Mại cổ phần nông thôn Mỹ Xuyên, và với những kiến thức hiểu biết còn hạn hẹp nên những kiến nghị sau đây chỉ mang tích chất tham khảo: Nhiệm vụ đầu tiên của ngân hàng là nhằm bảo vệ tiền gửi của khách hàng, nếu có khoản cho vay nào bị thất thoát thì trước tiên làm cho ngân hàng không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền, bên cạnh đó ngân hàng còn có trách nhiệm với các cổ đông, phải đảm bảo mức chia lãi cổ phần hợp lý, cũng như đảm bảo mức lương của công nhân viên trong ngân hàng. Vì lý do đó ngân hàng phải luôn thận trọng, nhất là khi cho vay nhằm giảm thiểu những thất thoát trong hoạt động tín dụng Khi nghiên cứu các yêu cầu xin vay của khách hàng, ngân hàng phải tiếp cận tốt các yếu tố con người, môi trường, kinh tế, xã hội và tiền tệ, bên cạnh đó còn tiến hành nghiên cứu thị trường, vấn đề sản xuất hoặc các sản phẩm được sản xuất chế biến, tiếp cận nghiên cứu công cụ và phương tiện lao động, chất lượng công cụ… Cán bộ tín dụng không nên chủ quan, duy ý chí, thẩm định và giám sát món vay phải chính xác nhằm hạn chế những rủi ro, nếu không sẽ dễ dàng mang lại tổn thất lớn cho ngân hàng. Vì vậy cán bộ tín dụng cần phải hiểu và thực hiện những nội dung cơ bản có tính nguyên tắc của hoạt động tín dụng do ngân hàng đề ra. Cán bộ tín dụng không ngừng học hỏi và tích lũy kinh nghiệm, nhất là trong điều kiện hiện nay mức độ cạnh tranh ngày càng tăng cao của các tổ chức tín dụng. Ngân hàng nên phổ biến đầy đủ kịp thời chủ trương chính sách tín dụng của Đảng, của chính phủ, của ngân hàng nhà nước và của chính ngân hàng mình. Nên thường xuyên có kế hoạch tập huấn bồi dưỡng về nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tín dụng nhằm cải thiện chất lượng tín dụng ngày một tốt hơn. Nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng trong việc thẩm định cho vay, tuyển chọn cán bộ có trình độ, có trách nhiệm, có đạo đức nghề nghiệp, có khả năng tư vấn, giúp đỡ khách hàng trong việc thực hiện các dự án phương án sản xuất kinh doanh. Nên tăng tỷ trọng cho vay tiều dùng, cho vay các ngành tiểu thủ công nghiêp và công nghiệp chế biến. Cùng với tốc độ tăng trưởng của địa bàn tỉnh ngân hàng cũng nên tham gia cho vay các đối tượng xây dựng, sửa chữa và phát triển các khu thương mại. Cần có chính sách ưu đãi với những khách hàng có tiền gửi tại ngân hàng, như vay lại vốn của ngân hàng thì hưởng mức lãi suất ưu đãi hơn. GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 37 Luận văn tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Duyên Tích cực tuyên truyền giải thích đối với khách hàng vay vốn khi có nhu cầu gửi tiền về ý nghĩa gửi tiền và chính sách ưu đãi của ngân hàng. Cần tạo lập thêm bộ phận marketing nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ dân chúng để mở rộng quy mô. Tăng cường nâng cao hiệu lực của công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ nhằm phát hiện kịp thời những tồn tại thiếu sót trong các mặt nghiệp vụ để có những biện pháp xử lý, chấn chỉnh kịp thời để hạn chế những vi phạm và rủi ro trong hoạt động. GVHD: TS. Nguyễn Tri Khiêm 38

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphan tich hieu qua hoat dong cua ngan hang tmcp nong thon my xuyen.PDF
Tài liệu liên quan