Luận văn Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh

MỤC LỤC Lời cam đoan . . 1 Mục lục 2 Danh mục các chữ viết tắt . 4 Danh mục các bảng biểu . . 5 Lời mở đầu CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Thị trường tài chính . 1.1.1. Thị trường tiền tệ 1.1.2. Thị trường vốn 8 1.2. Thị trường chứng khoán 9 1.2.1. Lịch sử thị trường chứng khoán . 9 1.2.2. Tổng quan về thị trường chứng khoán . 10 1.2.2.1. Khaùi nieäm veà TTCK . � �� 10 1.2.2.2. Phaân loaïi thò tröôøng chöùng khoaùn 10 1.2.2.3. Haøng hoùa cuûa thò tröôøng chöùng khoaùn . 11 1.2.2.4. Các tỷ số tài chính của các công ty cổ phần 14 1.2.2.5. Các chủ thể tham gia TTCK 17 1.2.2.6. Nguyên tắc hoạt động của TTCK . 18 1.3. Giá chứng khoán và các nhân tố hình thành, ảnh hưởng đến giá CK . 19 1.3.1. Sự hình thành giá chứng khoán 19 1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá chứng khoán 20 1.3.2.1. Các nhân tố nội sinh � � . 20 1.3.2.2. Các nhân tố ngoại sinh � � . 21 1.3.2.3. Các nhân tố can thiệp CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA TTCK VIỆT NAM 2.1. Giới thiệu TTCK Việt Nam . 24 2.1.1. Giới thiệu trung tâm giao dịch chứng khoán Tp. HCM 24 2.1.2. Giới thiệu trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội . 24 2.1.3. TTCK Việt Nam sau 7 năm hoạt động . 25 2.2. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến giá chứng khoán trên TTCK . 26 2.2.1. Diễn biến thị trường qua ba giai đoạn . 26 2.2.1.1. Giai đoạn 1: “Sốt cao rồi đột quỵ” từ 28/7/00 đến 5/10/01 26 2.2.1.2. Giai đoạn 2: “Trầm lắng” từ 5/10/01 đến 31/12/05 . . 29 2.2.1.3. Giai đoạn 3: “Thăng hoa” từ 2/1/06 đến 21/9/07 . 33 2.2.2. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến VNIndex qua ba giai đoạn 37 2.2.2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến VNIndex trong giai đoạn 1 . 37 2.2.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến VNIndex trong giai đoạn 2 . 42 2.2.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến VNIndex trong giai đoạn 3 52 2.3. Một số nhận định về TTCK Việt Nam thời gian qua . . 67 2.3.1. Những nhận định chung . 67 2.3.2. Những thành quả đạt được trong 7 năm hoạt động 69 2.3.3. Những hạn chế của TTCK Việt Nam CHƯƠNG 3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ CHỨNG KHOÁN TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1. Các nhân tố nội sinh . � � . 72 3.1.1. Việc tăng cung hàng hóa cho TTCK 72 3.1.2. Kết quả từ hoạt động SXKD của các công ty niêm yết . 76 3.2. Các nhân tố ngoại sinh 78 3.2.1. Tăng trưởng kinh tế � � . 78 3.2.2. Chủ trương phát triển TTCK của Chính phủ Việt Nam . 81 3.2.3. Ảnh hưởng của các kênh đầu tư khác 3.3. Các nhân tố can thiệp . 84 3.3.1. Tâm lý nhà đầu tư trong nước . . 84 3.3.2. Yếu tố đầu tư nước ngoài . 88 KẾT LUẬN � � 92 Tài liệu tham khảo � � . 93

pdf95 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1805 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dao động cùng tần số) thì sẽ xảy ra hiện tượng hợp lực thăng hoa. Trong giai đoạn 1 “Sốt cao rồi đột quỵ”, mặc dù các nhân tố nội sinh và nhân tố ngoại sinh đều mang tính tích cực nhưng hai lực đẩy này không đủ lớn để điều khiển hướng đi của VNIndex. Các nhân tố can thiệp là lực đẩy tác động quá mạnh đã đưa giá chứng khoán sốt cao rồi sau đó khi lực đẩy này đổi chiều khiến giá chứng khoán đột quỵ. Thời kỳ sốt cao VNIndex chịu sự tác động của tổng lực. Thời kỳ đột quỵ VNIndex lao dốc theo lực kéo của các nhân tố can thiệp. Trong giai đoạn 2 “Trầm lắng”, một lần nữa các nhân tố nội sinh và nhân tố ngoại sinh dù rất tích cực nhưng vẫn không đủ mạnh để dẫn dắt VNIndex. Hai lực 71 đẩy này đã bị triệt tiêu bởi lực kéo quá mạnh từ các nhân tố can thiệp khiến VNIndex có xu hướng đi xuống hoặc đi ngang. Suốt giai đoạn trầm lắng, có đôi lần lực đẩy vùng dậy mạnh mẽ đẩy VNIndex đi lên nhưng sau đó cũng bị lực kéo dìm xuống hoặc tiếp tục đi ngang tạo nên sự trầm lắng suốt 4 năm dài. Giai đoạn 3 “Thăng hoa”, các nhân tố nội sinh, nhân tố ngoại sinh và nhân tố can thiệp cùng là lực đẩy và chúng cùng hội tụ tạo thành tổng lực rất lớn đưa TTCK “thăng hoa”. Hơn nữa, các lực đẩy này lại cộng hưởng với nhau tạo nên hiện tượng thăng hoa của TTCK. Đây là giai đoạn phát triển vượt bậc của TTCK Việt Nam. 2.3.2. Những thành quả đạt được trong 7 năm hoạt động Bảy năm là một thời gian rất ngắn đối với việc phát triển một thị trường. Nhưng với TTCK Việt Nam, sau 7 năm đã có những kết quả tích cực có thể tóm tắc qua 5 điểm nổi bật nhất. Thứ nhất, đã hình thành được thị trường vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Thứ hai, là tính công khai, minh bạch trong công bố thông tin và tính chuyên nghiệp trong quản trị doanh nghiệp. Thứ ba là TTCK đã tạo một kênh hiệu quả trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài, tạo điều kiện tài trợ cho các mục tiêu phát triển của doanh nghiệp. Thứ tư là tác động tích cực tới quá trình cổ phần hóa DNNN. Thứ năm, sự góp phần của TTCK trong việc thúc đẩy các doanh nghiệp, nền kinh tế Việt Nam hội nhập nhanh hơn với thế giới. 2.3.3. Những hạn chế của TTCK Việt Nam Sau hơn 7 năm hoạt động và phát triển, TTCK Việt Nam đã bộc lộ một số hạn chế có ảnh hưởng đến sự biến động chỉ số giá chứng khoán VNIndex. Cung cầu chứng khoán nhiều lúc mất cân đối Ở giai đoạn 1, khi lượng cầu chứng khoán quá lớn mà lượng cung lại quá ít đã tạo nên tình trạng “sốt cao” rồi sau đó giá chứng khoán “đột quỵ” như là một tất yếu của quy lật nhân quả. 72 Giai đoạn 2, lượng cầu chứng khoán ngày càng giảm trong khi lượng cung ngày một tăng đã góp phần làm nên một giai đoạn “trầm lắng” trên TTCK Việt Nam. Ở giai đoạn 3, lượng cầu chứng khoán tăng mạnh trong khi lượng cung chứng khoán tăng không kịp đã khiến giá chứng khoán tăng cao và TTCK đã “thăng hoa”. Hạn chế về kiến thức chứng khoán của nhà đầu tư Việt Nam Trên TTCK có đến 90% các nhà đầu tư là các cá nhân người Việt Nam và không ít trong số họ là những nhà đầu tư nghiệp dư có trình độ hiểu biết về TTCK còn hạn chế. Họ thường là những người mua bán theo tâm lý đám đông. Còn nhớ thời kỳ TTCK mới ra đời, người người xếp hàng chờ mua cổ phiếu mà không ít trong số họ không biết cổ phiếu là gì. Rồi sau đó, khi giá chứng khoán rơi tự do họ lại tiếp tục xếp hàng đặt lệnh bán những cổ phiếu mình đã mua được. Giai đoạn 2 là giai đoạn “trầm lắng” kéo dài, thị trường trở nên vắng vẻ. Những nhà đầu tư nhỏ lẻ bán ra cổ phiếu. Điều này đã làm cho giá chứng khoán có một vùng đáy thấp nhất trong lịch sử chứng khoán Việt Nam. Ở giai đoạn 3, nhà đầu tư mới đến với TTCK quá đông và kiến thức chứng khoán của họ cũng hạn chế. Một lần nữa, những nhà đầu tư nhỏ lẻ lại góp phần không nhỏ làm cho TTCK “thăng hoa”. Nhưng ẩn mình bên trong sự thăng hoa đó còn hàm chứa không ít rủi ro có thể ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển lành mạnh của TTCK Việt Nam trong thời gian tới. 73 TÓM TẮT CHƯƠNG 2 TTCK Việt Nam đã ra đời từ tháng 7 năm 2000 và hoạt động liên tục từ đó đến nay đã được hơn 7 năm. Các giao dịch chứng khoán chính thức được thực hiện thông qua 2 TTGDCK thuộc UBCKNN là HOSTC (thành lập năm 2000) và HASTC (thành lập năm 2005). Xét về chỉ số giá chứng khoán - VNIndex, có thể chia diễn biến thị trường qua 7 năm thành 3 giai đoạn với những đặc điểm riêng có của từng giai đoạn như sau: Giai đoạn 1 “Sốt cao rồi đột quỵ”, giai đoạn 2 “Trầm lắng” và giai đoạn 3 “Thăng hoa”. Các nhân tố chính ảnh hưởng đến chỉ số giá chứng khoán trên TTCK Việt Nam qua từng giai đoạn có thể tóm tắt như sau: Giai đoạn 1: Nguyên nhân chính ảnh hưởng đến VNIndex trong giai đoạn này thuộc về những nhân tố can thiệp: yếu tố tâm lý nhà đầu tư. Nhà đầu tư (chủ yếu là nhà đầu tư nhỏ lẻ) mua bán chứng khoán theo tâm lý đám đông: khi mua cùng mua đã tạo ra thời kỳ “sốt cao” rồi khi bán cùng bán đã tạo ra thời kỳ “đột quỵ” sau đó. Giai đoạn 2: Hậu quả của giai đoạn 1 để lại, yếu tố đầu tư nước ngoài và tâm lý nhà đầu tư trong nước (đều thuộc các nhân tố can thiệp) được coi là những nguyên nhân chính tạo nên diễn biến “trầm lắng” của VNIndex trong giai đoạn 2 trong khi các nhân tố nội sinh cũng như các nhân tố ngoại sinh đều tích cực. Giai đoạn 3: Là giai đoạn có sự hội tụ và cộng hưởng của tất cả các nhân tố tích cực ảnh hưởng đến thị trường: từ những nhân tố nội sinh đến những nhân tố ngoại sinh đều thuận lợi cộng hưởng với những nhân tố can thiệp rất tốt đã giúp cho TTCK Việt Nam “thăng hoa”. Qua hơn 7 năm hoạt động liên tục, trải nghiệm không ít những thăng trầm, TTCK Việt Nam đã đạt được những thành quả rất đáng tự hào. Bên cạnh đó, TTCK Việt Nam vẫn còn tiềm ẩn trong mình những hạn chế nhất định có ảnh hưởng đến sự biến động chỉ số giá chứng khoán – VNIndex – cũng như sự phát triển lành mạnh của TTCK Việt Nam trong thời gian tới. 74 CHƯƠNG 3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ CHỨNG KHOÁN TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1. CÁC NHÂN TỐ NỘI SINH Khi một TTCK đã phát triển ổn định thì các nhân tố nội sinh phải là những nhân tố ảnh hưởng quyết định đến sự biến động giá chứng khoán. Đối với TTCK Việt Nam, trong số những nhân tố nội sinh có ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán trong thời gian tới phải kể đến là việc tăng cung hàng hoá cho TTCK và kết quả từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty niêm yết. Đây được xem là hai yếu tố chính có ảnh hưởng lớn đến sự biến động giá chứng khoán trên TTCK Việt Nam trong tương lai. 3.1.1. Việc tăng cung hàng hoá cho TTCK Quy mô TTCK Việt Nam tuy có sự tăng mạnh trong 1 năm gần đây, nhưng xét về con số tuyệt đối thì còn nhỏ (17,5 tỷ USD). Tại nhiều TTCK lân cận, tổng giá trị vốn hoá thị trường của họ lớn gấp hàng chục đến hàng trăm lần Việt Nam, như TTCK Hồng Kông (tổng giá trị vốn hoá 1.465 tỷ USD); TTCK Hàn Quốc (787 tỷ USD); TTCK Singapore (335 tỷ USD)… Thực tế này cho thấy, con đường trước mắt của TTCK Việt Nam còn rất dài và đến nay, chúng ta mới đi được chặng đầu tiên. Nói cách khác, việc tiếp tục tăng cung hàng hóa có chất lượng cao, đa dạng và phong phú cho TTCK là việc cần làm trong hiện tại cũng như trong tương lai nhằm tăng quy mô của TTCK Việt Nam. Trong thời gian tới, cung hàng hóa cho TTCK sẽ tăng qua các nguồn: cổ phần hóa (CPH) DNNN, các công ty cổ phần tham gia niêm yết trên TTCK, các công ty đang niêm yết phát hành thêm cổ phiếu mới, thành lập mới các công ty cổ phần. Nguồn cung từ cổ phần hóa DNNN Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cho biết, qua hơn 15 năm thực hiện chủ trương CPH DNNN, đến nay các DNNN mới cổ phần hoá khoảng 20 ngàn tỷ đồng (tương ứng khoảng14%) so với 300 ngàn tỷ đồng vốn nhà nước hiện có. Số vốn còn lại 75 đang nằm ở các tổng công ty, các ngân hàng, tương ứng với 70 - 80% sẽ tiếp tục được CPH và sau đó các doanh nghiệp này cũng sẽ được niêm yết trên sàn chứng khoán. Vào ngày 29-12-2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định phê duyệt danh sách 53 tập đoàn, tổng công ty nhà nước sẽ tiến hành CPH trong giai đoạn 2007 – 2010 trong đó có các "đại gia" vừa lớn về vốn, vừa có tỷ suất lợi nhuận cao, vừa có thương hiệu mạnh như Vietcombank, Incombank, BIDV, MHB, Sabeco, Habeco, Vinatex, các tổng công ty 91 và các công ty lớn khác trực thuộc các bộ. Hai đại gia bia rượu lớn (Sabeco – vốn điều lệ 5.500 tỷ đồng, Habeco – 2.000 tỷ đồng) sau khi CPH và lên sàn chắc chắn sẽ tạo ra sự kiện lớn hơn nhiều sự kiện Vinamilk và Sacombank lên sàn trong năm 2006. Năm 2007 cũng có thể sẽ là năm “đại náo” cổ phiếu của 4 ngân hàng quốc doanh lớn nhất Việt Nam: Vietcombank (15.000 tỷ đồng), BIDV (7.477 tỷ đồng) Incombank (3.405,705 tỷ đồng) và MHB (700 tỷ đồng). Như vậy, nguồn cung chứng khoán từ CPH DNNN đang được chính phủ đẩy nhanh tốc độ thông qua kế hoạch chào bán cổ phần ra công chúng rộng rãi lần đầu tiên (IPO) của các doanh nghiệp lớn giai đoạn 2007 – 2010. Việc IPO các doanh nghiệp hiện nay nhằm mục đích thứ nhất là để nhà nước thu được nhiều thặng dư đầu tư vào những lĩnh vực khác; mục đích thứ hai là cải cách quản trị doanh nghiệp nói riêng và cải cách nền kinh tế Việt Nam nói chung. Xét trên nhiều mặt thì vấn đề hiện nay là nhà nước cần cân nhắc đến thời điểm và hình thức IPO. Lựa chọn thời điểm và hình thức IPO thế nào để giá bình quân đấu giá không quá thấp gây thất thu cho nhà nước, để TTCK không bị bội thực cổ phiếu mà tiến trình cải cách doanh nghiệp cũng không bị chậm trễ. Hãy xem lại việc IPO Đạm Phú Mỹ gần đây diễn ra vào cuối tháng 4/2007 với giá đấu thầu bình quân thực tế là 54.400 đồng/1CP (giá khởi điểm là 54.000 đồng) được nhiều người cho là do chọn không đúng thời điểm. Việc IPO của Đạm Phú Mỹ đã từng được hy vọng sẽ mang về cho ngân sách mười mấy ngàn tỉ đồng. Song với giá trúng thầu bình quân chỉ nhỉnh hơn giá khởi điểm không bao nhiêu, số tiền ngân sách thu được chỉ khoảng 7.000 tỉ đồng. 76 Cùng ngược dòng thời gian, xem lại việc CPH Vinamilk vào tháng 10/2003, khi quy mô vốn điều lệ của 22 công ty niêm yết chỉ là 1.100 tỷ đồng. Vinamilk khi đó với vốn điều lệ là 1.500 tỷ đồng. Nếu CPH Vinamilk hết trong 1 đợt e rằng thị trường sẽ bị bội thực cổ phiếu, ảnh hưởng không tốt đến thị trường và giá bình quân đấu giá sẽ không cao. Lúc đó, việc CPH Vinamilk đã được thực hiện làm ba đợt: đợt 1 vào tháng 10/2003, đợt 2 vào tháng 2/2005, đợt 3 vào tháng 11/2005 với việc giảm tỉ lệ sở hữu nhà nước qua mỗi đợt đấu giá tương ứng xuống còn: 80%; 60,47%; 50,01%. Sau mỗi đợt, giá bình quân tăng lên rõ rệt, nếu đợt 1 giá bình quân chỉ là 155.000 đ/1 CP thì đến đợt 3, giá bình quân tăng lên 488.000 đồng/1CP (với mệnh giá 100.000 đ/1CP). Cổ phiếu Vinamilk đã thu hút được sự tham gia mạnh mẽ của các tổ chức đầu tư nước ngoài, kể cả các tổ chức chưa có văn phòng đại diện ở Việt Nam. Thị trường niêm yết đã có bước nhảy vọt khi chỉ số VNIndex tăng từ mức 130 điểm khi Vinamilk bắt đầu CPH (vào tháng 10/2003) lên mức 310 điểm khi Vinamilk niêm yết (vào ngày 19/01/2006). Rõ ràng, với điều kiện khiêm tốn của thị trường lúc đó, việc CPH Vinamilk theo từng bước đã mang lại sự thành công toàn diện. Tóm lại, chúng tôi kiến nghị việc IPO các doanh nghiệp lớn hiện nay, nhà nước nên lựa chọn kỹ thời điểm đấu giá (chọn lúc thị trường hưng phấn) và nên thực hiện IPO theo từng phần như trường hợp của Vinamilk là giải pháp tốt nhất. Nguồn cung từ các công ty cổ phần tham gia niêm yết trên TTCK TTCK niêm yết hiện nay có quy mô chỉ bằng khoảng 10% so với thị trường chưa niêm yết (OTC), trong khi thị trường cho cổ phiếu chưa niêm yết chưa được quản lý, vẫn đang hoạt động theo kiểu tự phát, nên tính bền vững chung của TTCK Việt Nam là không cao. Vả lại, các nhà đầu tư tổ chức nước ngoài khi tham gia vào TTCK Việt Nam, họ chủ yếu đầu tư vào các cổ phiếu trên thị trường niêm yết chứ ít đầu tư vào thị trường OTC do đó việc khuyến khích các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK nhằm tăng cung hàng hóa chất lượng cao cho thị trường là vấn đề thật sự cần thiết. Với khối doanh nghiệp, cách đây 7 năm, việc vận động lên sàn là câu chuyện quá khó, còn bây giờ, lên sàn đã trở thành đích đến của nhiều doanh nghiệp. TTCK 77 không chỉ giúp doanh nghiệp xây dựng nên hình ảnh đẹp và chuyên nghiệp, mà đã trở thành công cụ hữu ích giúp doanh nghiệp huy động vốn hiệu quả. Những doanh nghiệp đủ mạnh đều tự giải quyết được đòi hỏi về vốn thông qua việc phát hành chứng khoán ra công chúng. Thông qua TTCK, Việt Nam đã có một loạt doanh nghiệp cổ phần đầu tiên có giá trị thị trường trên 1 tỷ USD như Sacombank, FPT, PVDrilling, Nhiệt điện Phả Lại, Vinamilk. Nếu các doanh nghiệp khi lên sàn đều "bắt" được đà phát triển chung của lớp doanh nghiệp đi trước, chắc chắn việc mở rộng số doanh nghiệp niêm yết sẽ có đóng góp đáng kể để nâng cao tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam. Khi các doanh nghiệp nhận thức được những lợi ích của việc niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch thì số lượng các công ty niêm yết sẽ ngày càng nhiều. Trong thời gian tới, đây cũng là một nguồn tăng cung đáng kể cho TTCK. Nguồn cung từ các công ty niêm yết phát hành thêm cổ phiếu mới Các công ty đang niêm yết trên TTCK có thể tăng cung chứng khoán cho thị trường bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới để tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp. Huy động vốn cho các dự án đầu tư mới thông qua TTCK giúp doanh nghiệp phát triển tốt hơn, tính rủi ro thấp hơn khi có thêm nhiều đối tác tham gia. Phần thặng dư vốn qua phát hành thêm cổ phiếu giúp giảm chi phí huy động vốn của doanh nghiệp. Thời gian qua, trong số các công ty niêm yết phát hành cổ phiếu tăng vốn phải kể đến là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), với mã chứng khoán STB, đã tăng vốn từ 2.080 tỷ lên 4.400 tỷ đồng; Nhiệt điện Phả Lại tăng vốn từ 3.107 tỷ đồng lên 3.262,35 tỷ đồng; Vinamilk tăng vốn từ 1.500 tỷ đồng lên 1.752,7567 tỷ đồng; PVD tăng vốn từ 680 tỷ lên 1.101,3973 tỷ đồng; FPT tăng vốn từ 608,1023 tỷ lên 918,99459 tỷ đồng... Trong năm 2007, hầu kết các công ty niêm yết trên TTCK đều đã có kế hoạch phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ nhằm tăng cung cổ phiếu cho TTCK. Đặc biệt là các công ty nhỏ vì phải chạy đua với mốc thời gian áp dụng quy định vốn điều lệ tối thiểu trên HOSE là 80 tỷ đồng. 78 Việc phát hành thêm cổ phiếu nhằm tăng vốn điều lệ của các công ty là một trong những nguồn cung hàng hóa đáng kể cho TTCK. Vấn đề cần quan tâm ở đây là làm thế nào để khi doanh nghiệp tăng quy mô phải đi kèm với việc tăng hiệu quả sử dụng vốn. Phần này, chúng tôi xin kiến nghị UBCKNN chỉ cấp phép cho các doanh nghiệp nộp đơn xin phát hành cổ phiếu tăng vốn khi đơn vị có phương án khả thi nhằm sử dụng vốn hiệu quả để tạo thêm giá trị gia tăng cho nền kinh tế chứ không phải huy động vốn qua TTCK rồi lại đổ số tiền đó trở lại TTCK (hiện tượng lạm dụng tín dụng) làm đe dọa đến sự tăng trưởng của chính công ty phát hành và đe dọa cả sự phát triển lành mạnh và bền vững của TTCK trong dài hạn. Ngoài ra, việc tăng cung hàng hoá cho TTCK còn có thể tăng qua nguồn thành lập mới các công ty cổ phần. Theo định hướng của chính phủ đến năm 2010, cả nước sẽ có 500.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ (hiện nay có hơn 300.000). Trong số những doanh nghiệp thành lập mới sẽ có không ít doanh nghiệp hoạt động theo hình thức công ty cổ phần và sẽ niêm yết trên TTCK. Nếu chúng ta có chính sách khuyến khích hợp lý thì đây sẽ là một nguồn cung hàng hóa đáng kể cho TTCK trong tương lai. 3.1.2. Kết quả từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty niêm yết Kết thúc năm 2006, hầu hết các doanh nghiệp niêm yết đã có kết quả sản xuất kinh doanh rất ấn tượng và đây được xem là một trong những nhân tố chính làm cho giá cổ phiếu tăng vọt nhiều phiên liền trong những ngày đầu năm 2007. Từ đầu năm 2007, hàng loạt các doanh nghiệp niêm yết đã có kế hoạch phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ trong đó không ít doanh nghiệp có lượng cổ phiếu phát hành tăng thêm trên 100% vốn điều lệ. Với các công ty blue–chips hiện nay ở Việt Nam là lớn, nhưng so với các nước trong khu vực vẫn là nhỏ, do đó theo đà tăng trưởng kinh tế chung, trong những năm tới, các công ty này vẫn phải tiếp tục tăng vốn để tăng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng nếu kế hoạch tăng vốn của các công ty không đi kèm với kế hoạch tăng lợi nhuận hay thực tế tỷ lệ tăng lợi nhuận thấp hơn tỷ lệ tăng vốn thì EPS bình quân toàn thị trường trong những năm tới sẽ giảm. Điều này sẽ dẫn đến chỉ số 79 P/E chung của thị trường sẽ ở mức cao và TTCK Việt Nam sẽ trở nên kém hấp dẫn nhà dầu tư so với các TTCK lân cận và lúc đó TTCK Việt Nam khó giữ được phong độ để tiếp tục thăng hoa trong thời gian tới. Hiện tại, để minh chứng cho nhận định giá cổ phiếu tại Việt Nam không hấp dẫn, nhóm nghiên cứu của Merrill Lynch đưa ra chỉ số P/E theo tính toán của họ lên tới 39,5 trong khi các thị trường khu vực chỉ dưới 20. Theo các chuyên gia Merrill Lynch thói quen phát hành thêm cổ phiếu mới của các doanh nghiệp Việt Nam khiến chỉ số EPS bình quân chỉ đạt 10% trong năm 2007. Nhưng theo tính toán của quỹ Dragon Capital, P/E ở Việt Nam trong năm nay sẽ ở mức 26 và sang năm 2008 sẽ là 22. “Đây là một chỉ số rất đáng để đầu tư”, ông Dominic nói. Theo công ty Quản lý tài sản PXP Việt Nam, với mức 900 điểm, VNIndex bằng khoảng 22 lần mức EPS của năm 2008. Với 5 cổ phiếu có mức vốn hóa lớn nhất thị trường là VNM, STB, FPT, PVD và PPC (chiếm khoảng 50% thị trường) thì chỉ số chung bằng khoảng 21 lần EPS 2008. Chỉ số P/E hiện nay của các cổ phiếu nhiều người cho rằng là cao nhưng kết quả kinh doanh sáu tháng đầu năm đã cho thấy một sự tăng trưởng đáng kể trong thu nhập (EPS) của các công ty niêm yết. Với khả năng này, EPS của các công ty vượt trên 10% như cảnh báo của Merrill Lynch. Điều đáng vui mừng là tính đến thời điểm này, qua kết quả quý II và kết quả 8 tháng đầu năm, thành tích của các công ty niêm yết trong chất lượng tăng trưởng đã gây ngạc nhiên cho cả thị trường. Theo nhận định của nhiều công ty chứng khoán, đa số công ty blue-chip sẽ thực hiện đạt và vượt kế hoạch kinh doanh năm 2007. Điều này đồng nghĩa với tốc độ tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận năm 2007 là từ 20% - 50% tùy doanh nghiệp. Tốc độ tăng trưởng cao cũng là cơ sở để giúp chỉ tiêu P/E của các công ty niêm yết được cải thiện từ mức quá cao hồi cuối quý I (theo nhận định của nhiều tổ chức nước ngoài) xuống mức hợp lý để đầu tư (theo các báo cáo cuối quý III). HSBC cho rằng EPS của doanh nghiệp Việt Nam đang tăng mạnh, như mức lợi nhuận ròng ước tính 6 tháng đầu năm của 12 cổ phiếu có giá trị vốn hóa lớn nhất 80 thị trường đã tăng trung bình 83% so với cùng kỳ, còn EPS cơ bản 2 quý đầu năm tăng 30% - 35%. Thực tế, trong thời gian này, tuy nhà đầu tư nước ngoài giảm mua qua thị trường niêm yết nhưng giá trị danh mục của họ vẫn đang tăng lên đều đặn. Hiện chưa có thông tin cụ thể về kết quả kinh doanh quý III/2007, tuy nhiên nhà đầu tư có thể có sự kỳ vọng dựa vào mức lợi nhuận công bố của một số doanh nghiệp lớn niêm yết trên HOSE. Điều này đã giúp giải tỏa phần nào những lo lắng về nguy cơ của việc phát hành tăng vốn đồng loạt giai đoạn đầu năm. Kinh doanh trên TTCK là kinh doanh niềm tin. Đôi khi niềm tin sẽ mang lại cho nhà đầu tư sự thành công lớn. Tóm lại, trong thời gian tới, việc tăng cung hàng hoá cho TTCK và kết quả từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty niêm yết sẽ ảnh hưởng quyết định đến sự biến động giá chứng khoán trên TTCK Việt Nam. 3.2. CÁC NHÂN TỐ NGOẠI SINH Các nhân tố ngoại sinh ảnh hưởng mạnh đến sự biến động giá chứng khoán trong thời gian tới có thể kể đến là sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, chủ trương phát triển TTCK của Chính phủ và ảnh hưởng của các kênh đầu tư khác. 3.2.1. Tăng trưởng kinh tế Hướng tăng trưởng Theo dự báo của EIU (Economist Intelligence Unit) trong báo cáo có tên “Dự báo năm 2020” thì tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010 đạt 7%, chỉ đứng sau Trung Quốc với 7,8%. Nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 sẽ bị sụt giảm đáng kể, chỉ còn 4,6%. Trong 10 năm này, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam thậm chí còn thua Philippines, Thái-lan (4,7%), Malaysia (4,8%), Indonesia (5%)…, những nước mà giai đoạn trước đó đều đứng sau Việt Nam. Dù kinh tế Việt Nam và một số nước tăng trưởng chậm lại sau năm 2010, nhưng báo cáo của EIU khẳng định mức tăng trưởng trung bình gần 6% trong 15 năm tới vẫn rất ấn tượng. Hơn mười năm qua, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước, với mức tăng bình quân hàng năm 7,5%. Theo kế 81 hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010 của Chính phủ đã được Quốc hội thông qua, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân cho mỗi năm tới là 7,5 - 8%/năm, phấn đấu đạt trên 8%/năm. Riêng năm 2008, chỉ tiêu tăng trưởng GPD từ 8,5 đến 9%. Như vậy, hướng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới là tốt. Nhưng vấn đề đặt ra là chất lượng tăng trưởng bởi tăng trưởng có thể với chất lượng cao hoặc chất lượng thấp. Chất lượng tăng trưởng Trong những năm qua, kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng cao nhưng sự tăng trưởng đạt được chủ yếu do tăng vốn đầu tư và lao động sống chứ không phải là do nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư. Tăng trưởng cao, nhưng hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế rất thấp. Chỉ số đầu tư tăng trưởng ICOR của cả nền kinh tế tăng nhanh qua các năm. ICOR tăng nhanh là điều đáng lo ngại cho quá trình phát triển bền vững của mọi nền kinh tế. Năm 1995, ICOR của Việt Nam là 3,39 đến năm 2006 ICOR là 5,02 và bình quân từ năm 2000 đến nay lên đến 5,11. Nguồn: vi%E1%BB%87t-nam-m%E1%BB%99t-nam-nhin-l%E1%BA%A1i/ Theo Giáo sư David Dapice, Nhà kinh tế trưởng Chương trình Việt Nam tại Đại học Harvard: Tốc độ tăng trưởng đạt được trong năm 2006 nói riêng, một vài năm gần đây được cho là cao, nhưng so với số tiền đầu tư 399 nghìn tỷ đồng bỏ ra, chiếm đến 41% GDP thì cần phải nhìn nhận khách quan hơn. Cũng với tỷ lệ đầu tư so với GDP tương đương với Việt Nam, nhưng Trung Quốc đạt được mức tăng trưởng trên 10%, trong khi Việt Nam chỉ có thể duy trì ở mức 7-8%. Điều này có nghĩa là với quy mô nền kinh tế hiện tại, hàng năm Việt Nam mất đi khoảng 1 tỷ đô-la. Mặt khác, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đa phần là nguyên liệu thô (dầu thô), nông sản (gạo, cà phê) chưa qua chế biến hay mới sơ chế (hàm lượng chất xám ít) nên giá trị gia tăng chưa cao. Các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn như dệt may, giày da, điện tử chủ yếu là gia công nên phụ thuộc vào nguyên vật 82 liệu nhập khẩu và giá cả trên thị trường thế giới. Nếu giá cả thế giới có xu hướng gia tăng thì kinh tế Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng mạnh dẫn đến khả năng lạm phát sẽ cao đe dọa tăng trưởng kinh tế bền vững. Để thúc đẩy xuất khẩu trong thời gian tới, cần tập trung xuất khẩu các mặt hàng công nghệ cao, có giá trị giá tăng lớn. Đối với nhóm hàng nông lâm thủy sản cần tăng cường đầu tư chế biến hợp tiêu chuẩn và nâng cao hàm lượng chế biến, giảm xuất khẩu thô. Tóm lại, chất lượng tăng trưởng là vấn đề cần quan tâm giải quyết nhằm đảm bảo sự tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế. Khi nền kinh tế tăng trưởng bền vững sẽ ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của TTCK Việt Nam. Tình trạng tham nhũng và lãng phí Ở Việt Nam hiện nay, tham nhũng và lãng phí có lẽ là vấn đề đau đầu nhất. Nếu không có những quyết sách đúng đắn thì tham nhũng và lãng phí sẽ ảnh hưởng rất lớn đến phát triển dài hạn. Tham nhũng và lãng phí có tác động tiêu cực đối với nền kinh tế. Hiện nay, tình trạng tham nhũng và lãng phí vẫn còn rất bức xúc, tình trạng cửa quyền nhũng nhiễu của cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính các cấp chậm được khắc phục. Cơ chế phòng ngừa tham nhũng, thất thoát, lãng phí tiền và tài sản của Nhà nước phát huy hiệu quả còn hạn chế. Các vụ việc chậm được phát hiện vẫn là vấn đề gây bức xúc trong nhân dân. Có ý kiến cho rằng nếu chống tham nhũng tốt và thực hành kiết kiệm từ lãng phí được 30 – 40% thì sẽ tạo thêm 1% trong tăng trưởng GDP. Giảm thiểu được tham nhũng sẽ dẫn đến đầu tư có hiệu quả, sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng, kinh tế sẽ phát triển. Tác động của quản lý kém, sự phiền nhiễu mang tính quan liêu và tham nhũng đi ngược lại và làm tổn hại đến tăng trưởng bền vững. Như vậy, tham nhũng và lãng phí là vấn đề cần quyết tâm giải quyết góp phần vào sự tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế. Khi nền kinh tế tăng trưởng bền vững sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho TTCK Việt Nam phát triển trong tương lai. Tăng trưởng với lạm phát Kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao, nhưng vấn đề người dân quan tâm là sự tăng trưởng đó gắn với sự bền vững, nâng cao chất lượng sống của người 83 dân như thế nào trong khi chỉ số giá (CPI) tăng cao hơn nhiều so với những năm gần đây, dự kiến dừng ở mức 8,2% - 8,3% , đang gây khó khăn cho đời sống nhân dân và nền kinh tế. Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), lạm phát trung bình của Việt Nam là 8,3% (2005), 7,5% (2006) và 7,3% (trong tháng 8/2007). Dự kiến, 7,8% là con số cho Việt Nam trong năm nay. ADB khẳng định GDP của Việt Nam sẽ tăng 8,3% trong năm nay và lạm phát ở mức 7,8%. Con số trên được ADB đưa ra trong Báo cáo Triển vọng Phát triển Châu Á 2007 (ADO) - Bản cập nhật, được công bố vào sáng nay, 17/9 tại Hà Nội. Dự kiến của ADB về tăng trưởng và lạm phát của Việt Nam trong năm nay thấp hơn so mục tiêu tăng GDP của Chính phủ Việt Nam đã đề ra là 8,5% và kiềm chế lạm phát thấp hơn tốc độ tăng GDP. Báo cáo cập nhật của ADB cũng dự kiến, kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng 8,5%, còn lạm phát sẽ giảm xuống 6,8% vào năm 2008. Dù lạm phát gia tăng, dự kiến 7,8% trong năm nay, nhưng ADB cho rằng lạm phát của Việt Nam vẫn trong tầm kiểm soát, Giám đốc Quốc gia của ADB tại Việt Nam, ông Ayumi Konishi nhận định. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát cao trong thời gian qua như giá cả thế giới tăng cao mà kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào giá thế giới do ta nhập khẩu nguyên vật liệu từ thị trường thế giới. Một nguyên nhân nữa là cơ cấu kinh tế của Việt Nam chưa hợp lý vì hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của ta có hàng lượng chất xám không cao dẫn đến giá trị gia tăng thấp. Lạm phát cao trong thời gian tới sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam nói chung, tăng trưởng của các doanh nghiệp niêm yết và TTCK Việt Nam nói riêng. 3.2.2. Chủ trương phát triển TTCK của Chính phủ Việt Nam Ngày 20 tháng 02 năm 2006, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ký Quyết định số 898/QĐ-BTC, ban hành Kế hoạch phát triển TTCK Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010. Theo đó, phấn đấu đến năm 2010 tổng giá trị vốn hóa TTCK đạt 10 – 15% GDP cả nước. Nhưng thực tế tính đến ngày 27/7/2007 đã có 196 doanh nghiệp niêm yết tại hai Trung tâm (HOSTC và HASTC) với tổng giá trị cổ phiếu niêm yết tính 84 theo giá trị trường ngày 27/7/2007 đạt 17,5 tỷ USD; chiếm 28,8% GDP năm 2006 và tăng gần 20 lần so với cuối năm 2005. Tức TTCK đã phát triển đạt và vượt những chỉ tiêu đề ra cho mục tiêu 2010 của Chính phủ. Để thay đổi kế hoạch cho phù hợp với sự phát triển của TTCK thời gian gần đây, ngày 2/8/2007, Thủ tướng chính phủ đã ký Quyết định 128/2007/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Theo đề án này, mục tiêu tổng quát là phát triển nhanh, đồng bộ, vững chắc thị trường vốn Việt Nam, trong đó TTCK đóng vai trò chủ đạo. Mục tiêu cụ thể là phấn đấu đến năm 2010 giá trị vốn hóa TTCK đạt 50% GDP và đến năm 2020 đạt 70% GDP. Đây quả là những chỉ tiêu thách thức đối với một TTCK non trẻ mới hơn 7 tuổi. 3.2.3. Ảnh hưởng của các kênh đầu tư khác Trong một nền kinh tế, những kênh đầu tư như bất động sản, vàng, ngoại tệ luôn cùng chia sẻ và cạnh tranh dòng vốn đầu tư trong xã hội với kênh đầu tư chứng khoán. Đây chính là sự vận động mang tính quy luật của dòng vốn đầu tư trong nền kinh tế thị trường. Trên thực tế hai thị trường bất động sản và chứng khoán luôn có những tác động mạnh mẽ đến nhau. Sự tác động này luôn tạo nên những rủi ro đồng thời cũng kèm theo những cơ hội cho sự phát triển của một trong hai thị trường. TTCK đi lên sẽ vực dậy thị trường bất động sản và khi thị trường bất động sản suy sụp sẽ ảnh hưởng xấu đến TTCK. Vì thế, mỗi biến động trên thị trường này sẽ đều có những tác động cụ thể lên thị trường kia, và rõ ràng, hai thị trường này sẽ ngày càng phải “nhìn nhau” để tự điều chỉnh. Mối quan hệ giữa TTCK và thị trường bất động sản ngày càng khăng khít hơn là dấu hiệu tốt cho thị trường bất động sản, đồng thời mối quan hệ này cũng giúp các nhà đầu tư bảo toàn vốn, bởi rất nhiều nhà đầu tư vào TTCK cũng chính là nhà đầu tư trên thị trường bất động sản. Các chuyên gia dự báo: thị trường bất động sản đang tăng trưởng và sẽ tiếp tục tăng trưởng trong 50 năm nữa. Tuy nhiên, sự hấp dẫn của thị trường lại nằm trong vòng 10 năm tới với mức tăng trưởng dự báo khoảng 50 - 100%. Hầu hết các 85 nhà đầu tư cả trong và ngoài nước đều có nhận định: thị trường bất động sản đang là lĩnh vực kinh doanh "hốt bạc". Gần đây, thị trường vàng cũng hết sức hấp dẫn khi liên tục lập các kỷ lục mới về giá. Cụ thể năm 2005 tăng 11,3%, năm 2006 tăng 27,1%; 9 tháng đầu năm 2007 tăng tới 15%. Vàng được xem là tài sản phòng ngừa rủi ro hiệu quả nhất nên giới đầu tư tài chính đang có xu hướng tích trữ. Hiện nay đầu tư vào vàng đang vẫn có lãi, tính thanh khoản cao, nên hấp dẫn nhà đầu tư. Không chỉ bất động sản, mà một lượng lớn tiền từ TTCK đã được đổ ra mua vàng. Những ngày qua, giá vàng cứ như một mũi tên thẳng tiến, khiến không chỉ người nhiều tiền, mà người không có tiền cũng sốt ruột không kém. Và người ta đổ xô đi mua vàng mặc dù đã có nhiều kênh thông tin cảnh báo rằng giá vàng đã lên quá cao, mua vào có thể rủi ro, nhưng mọi người vẫn đổ xô đi mua. Thông thường giá vàng dịch chuyển cùng chiều với giá dầu thô và ngược chiều với đồng USD. Mà USD vẫn đang xuống giá nên giới chuyên gia dự báo vàng sẽ còn tiếp tục đà tăng giá. Việc USD vẫn đang giảm giá sẽ nhường thế ưu tiên về đầu cơ cho vàng như một món đầu tư an toàn hơn. Mặt khác, một số quốc gia đang âm thầm tăng lượng dự trữ vàng; hoặc các quốc gia sản xuất vàng hàng đầu trên thế giới như Nam Phi, Nga... đang giảm sản lượng khai thác làm cho vàng sẽ còn tiếp tục tăng giá trong thời gian tới. Bên cạnh bất động sản và vàng đang nóng lên thì đồng USD tiếp tục yếu đi do hậu quả xấu của khủng hoảng tín dụng nhà ở của Mỹ và tác động của nó đã lan sang châu Âu... Nếu gửi tiết kiệm bằng USD với lãi suất bình quân 4%/năm thì mức thu được vẫn thấp hơn nhiều so với đầu cơ vào vàng. Còn nếu đem vàng gửi ngân hàng thì lãi còn cao hơn vì được hưởng lãi gần 2%/năm. Mỹ đã phải cắt giảm lãi suất, từ đó giá đôla trên thị trường thế giới giảm mạnh, giá vàng, dầu, euro, bảng Anh tăng lên vùn vụt. Tất cả biến động đó đều dội vào thị trường tiền tệ Việt Nam gây nên tình trạng thừa USD buộc ngân hàng nhà nước phải mua vào để tăng dự trữ USD. Trong khi nền kinh tế Mỹ vẫn chưa khởi sắc, xung đột chính trị ở một số khu vực trên thế giới vẫn chưa giảm, giá dầu và giá 86 vàng tiếp tục leo thang thì đồng đôla Mỹ vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi trong thời gian tới. Tóm lại, TTCK Việt Nam chịu ảnh hưởng không nhỏ từ các kênh đầu tư như vàng, bất động sản, ngoại tệ vì chúng sẽ cùng chia sẻ và cạnh tranh dòng vốn đầu tư của xã hội. Dòng chảy này sẽ rút vốn từ những vùng cao (lĩnh vực đầu tư có khả năng sinh lời ít) và đổ mạnh vào những vùng trũng nhất (kênh đầu tư có khả năng sinh lời cao nhất). Khi nền kinh tế phát triển bình thường thì các kênh đầu tư trên sẽ ổn định. 3.3. CÁC NHÂN TỐ CAN THIỆP Các nhân tố can thiệp có thể ảnh hưởng nhiều đến sự biến động giá chứng khoán trong thời gian tới có thể kể đến là tâm lý nhà đầu tư trong nước và yếu tố đầu tư nước ngoài. 3.3.1. Tâm lý nhà đầu tư trong nước Trong thời gian qua, tâm lý nhà đầu tư đã ảnh hưởng nhiều đến sự biến động giá chứng khoán qua những biểu hiện như tâm lý đám đông, tâm lý quá hưng phấn, tâm lý theo chân nhà đầu tư nước ngoài đến tâm lý đón gió, tâm lý sợ hãi… Trong thời gian tới, tâm lý nhà đầu tư trong nước cũng sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến giá chứng khoán trên thị trường qua những biểu hiện tương tự như trong thời gian qua nhưng xu hướng có phần tự tin hơn, vững vàng hơn và chuyên nghiệp hơn. Chứng khoán là một loại hàng hoá đặc biệt không giống với các hàng hoá thông thường khác. Đối với những hàng hóa thông thường, khi mua người ta căn cứ vào chuỗi giá trị mà hàng hoá đó mang lại cho họ. Đôi khi quyết định mua hàng phụ thuộc nhiều vào giá trị vô hình của hàng hóa. Còn trên TTCK, nhà đầu tư mua chứng khoán thường chỉ quan tâm đến khả năng kiếm lời khi chứng khoán đó tăng giá. Đây là một đặc điểm quan trọng dẫn đến việc hình thành tâm lý nhà đầu tư trên TTCK. Kinh doanh trên TTCK là kinh doanh niềm tin. Khi tin tưởng vào sự phát triển của thị trường, các nhà đầu tư sẳn sàng bỏ tiền ra mua chứng khoán. Khi mất niềm tin ở chứng khoán, các nhà đầu tư sẽ rời bỏ TTCK. Một trong những yếu tố 87 Đầu tư chứng khoán được xem như là một trò chơi trí tuệ dành cho các nhà kinh tế tri thức. Trong trò chơi này, nếu giá chứng khoán trên thị trường có xu hướng tăng giảm theo sức khỏe của các công ty niêm yết thì trò chơi chứng khoán có tổng dương. Tức nhà đầu tư chứng khoán sẽ hưởng lợi dựa trên sự tăng trưởng của các công ty niêm yết. Nếu giá chứng khoán trên thị trường tăng quá nóng dẫn đến hiện tượng bong bóng (giá chứng khoán vượt quá giá trị nội tại của chứng khoán) rồi sau đó nổ tung hay rơi tự do bất chấp tình hình hoạt động của các công ty tốt hay xấu thì trò chơi chứng khoán có tổng bằng không. Tức khoản lợi nhuận mà một số nhà đầu tư này có được từ kinh doanh chứng khoán sẽ đúng bằng khoản thua lỗ mà các nhà đầu tư khác bị mất. Lúc này kinh doanh chứng khoán sẽ trở thành lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro và các nhà đầu tư chứng khoán sẽ dễ bị tổn thương đặc biệt là những nhà đầu tư nhỏ lẻ thiếu kiến thức chứng khoán và kinh nghiệm đầu tư. Trong thời gian tới, những việc cần làm để ổn định giá chứng khoán, hạn chế những ảnh hưởng không tốt nhằm tạo niềm tin và tâm lý vững vàng cho nhà đầu tư là khuyến khích phát triển nhà đầu tư tổ chức, minh bạch hóa thông tin chứng khoán, đào tạo phổ cập kiến thức cho công chúng dưới các hình thức khác nhau. Phát triển nhà đầu tư tổ chức Nhà đầu tư cá nhân thường là những nhà đầu tư bán chuyên nghiệp, nghiệp dư, nguồn vốn của từng người thường nhỏ, trình độ hiểu biết về thị trường tài chính còn hạn chế, tầm nhìn ngắn hạn. Họ thường mua bán theo tâm lý đám đông nên có ảnh hưởng lớn đến biến động của thị trường. Trong khi nhà đầu tư tổ chức là những người chuyên nghiệp, trường vốn và có tầm nhìn dài hạn trong đầu tư. Để đảm bảo tính ổn định cho thị trường tránh những biến động lớn gây tổn thương nhà đầu tư, cần xây dựng cơ sở nhà đầu tư trong đó các nhà đầu tư có tổ chức (trong và ngoài nước) làm nòng cốt. Đặc biệt khuyến khích và đẩy mạnh việc tham gia của các định chế đầu tư chuyên nghiệp vào TTCK như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu tư vào TTCK Việt Nam. 88 Minh bạch hóa thông tin chứng khoán Minh bạch hóa thông tin chứng khoán là một trong những việc làm nhằm tạo dựng lòng tin của nhà đầu tư, kéo nhà đầu tư đến với TTCK, tăng lượng cầu cho TTCK. Việc công bố thông tin không chính xác, thiếu kịp thời, không đầy đủ khiến các nhà đầu tư nhiều khi phải đầu tư theo phong trào, theo tin đồn và gặp nhiều rủi ro, mạo hiểm gây thiệt hại, tổn thất cho nhà đầu tư. Khi TTCK trở nên sôi động, các doanh nghiệp đua nhau lên sàn đã mở ra một cuộc đua mới về giá cổ phiếu. Muốn hấp dẫn các nhà đầu tư trước hết đó phải là doanh nghiệp làm ăn có lãi. Không những thế mà còn phải lãi lớn, lãi hấp dẫn. Không chỉ là lãi trước thuế mà còn lãi sau thuế, chính sách lợi tức... Tất cả những thứ đó đều được thể hiện trong báo cáo tài chính được cơ quan kiểm toán xác nhận. Ngoài ra còn phải công khai những dự án, những triển vọng phát triển, càng minh bạch càng chinh phục được nhà đầu tư, càng thu hút được nhà đầu tư đến với TTCK. Để thực hiện minh bạch hóa thông tin chứng khoán, cần phải có chế tài đủ mạnh buộc các công ty tham gia TTCK phải công khai, minh bạch hoá báo cáo tài chính nhằm cung cấp cho nhà đầu tư những thông tin khách quan, phản ánh trung thực giá trị doanh nghiệp cũng như giá trị cổ phiếu trên thị trường. Phổ cập kiến thức chứng khoán cho công chúng Phổ cập kiến thức chứng khoán là làm cho công chúng đầu tư, các doanh nghiệp hiểu được các nội dung của TTCK, các nghiệp vụ liên quan, thậm chí cần trang bị các kiến thức về đầu tư, về rủi ro và biện pháp phòng ngừa cũng như khả năng phân tích dự báo tình hình biến động của TTCK. Qua đó, n©ng cao hiÓu biÕt cña c«ng chóng vÒ vai trß, lîi Ých, rñi ro cña h×nh thøc ®Çu t− qua TTCK. Dân trí và kiến thức chứng khoán là một nền tảng rất quan trọng trong quá trình phát triển TTCK. Mặt khác, TTCK là một sân chơi trí tuệ dành cho các nhà kinh tế trí thức. Trong đó, khả năng theo dõi diễn biến của thị trường, phân tích đánh giá của các nhà đầu tư là xương sống của TTCK. Do đó, phải thay đổi lại hệ thống giáo dục để cộng đồng, các nhà đầu tư nhỏ lẻ có sự hiểu biết hơn và biết đầu tư một cách dài hạn hơn. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn giúp các nhà đầu tư chuẩn 89 Vấn đề nâng cao nhận thức cho công chúng về TTCK là điều cần thiết và phải làm ngay. Hiện nay ở Việt Nam chỉ có một số trường kinh tế có giảng dạy về TTCK nhưng cũng rất sơ sài, chủ yếu là lý thuyết. Trong khi đó ở các nước phát triển trình độ cao hơn Việt Nam, đầu tư chứng khoán là một hoạt động hết sức bình thường. “Ở Mỹ, người ta tiếp cận với TTCK từ cấp học phổ thông. Còn ở ta, ngay cả trình độ đại học cũng rất ít người biết. Bản thân trong hệ thống ngân hàng, người hiểu về chứng khoán cũng rất lơ mơ”, ông Hồ Công Hưởng, Giám đốc công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nhận xét. Việc nắm thế độc quyền nhiều năm liền về đào tạo cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán cho các đối tượng tham gia TTCK của Trung tâm Nghiên cứu khoa học và Đào tạo chứng khoán thuộc UBCKNN, gần đây đã gây nên hiện tượng thắt cổ chai trong công tác đào tạo khi TTCK phát triển vượt bậc. Nay đứng trước một bước ngoặt mới phải thực hiện công tác xã hội hoá đào tạo chứng khoán nên đã chia sẻ quyền đào tạo để thi lấy chứng chỉ cơ bản, chứng chỉ phân tích cho 5 trường đại học khối kinh tế. Đây được xem là một bước tiến mới trong đào tạo chứng khoán. Dự báo trong tương lai, nhu cầu trang bị kiến thức chứng khoán của công chúng đầu tư là vô cùng lớn. Qua luận văn này, chúng tôi xin đề xuất việc phổ cập đại chúng kiến thức chứng khoán, trước tiên là ở tất cả các trường cao đẳng, đại học thuộc khối ngành kinh tế, sau đó là ở các khối ngành khác cũng như ở cấp học phổ thông, song song đó là việc mở rộng các loại hình đào tạo cho công chúng đầu tư. Chúng tôi kiến nghị khi phổ cập kiến thức chứng khoán cần chú ý nội dung đào tạo phải mang tính phổ cập, tính chuyên nghiệp và tính thực tiễn. Do đó, ngoài việc cập nhật thông tin TTCK cho những môn học có liên quan như Thị trường chứng khoán, Quản trị tài chính, Phân tích hoạt động kinh doanh… các trường cao đẳng, đại học có thể sử dụng loại hình sinh hoạt Câu lạc bộ chứng khoán để phổ cập kiến thức chứng khoán cho người học, người chơi… 90 Thực tế cho thấy, người học dù được đào tạo ở bất cứ ngành nghề nào, trình độ nào và kể cả công chúng bên ngoài cũng đều có thể trở thành nhà đầu tư trên TTCK. Mỗi nhà đầu tư cá nhân thì giữ rất ít cổ phiếu, nhưng tất cả số này cộng lại sẽ là một khối lượng khổng lồ, thậm chí lớn hơn cả phần nắm giữ của các nhà đầu tư có tổ chức. Nên việc trang bị kiến thức chứng khoán cho công chúng là việc làm rất cần thiết nhằm góp phần làm tăng lượng cầu chứng khoán trên thị trường. Tóm lại, khi nhà đầu tư được trang bị kiến thức chứng khoán một cách tốt nhất sẽ tạo được tâm lý vững vàng, tự tin cho các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư nhỏ lẻ, khuyến khích họ đến với TTCK nhiều hơn. 3.3.2. Yếu tố đầu tư nước ngoài Trong thời gian qua yếu tố đầu tư nước ngoài đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển vượt bậc của TTCK Việt Nam. Cho đến nay, yếu tố đầu tư nước ngoài vẫn chưa có biểu hiện tiêu cực nào. TTGDCK TP.HCM cho biết hiện có trên 5.000 – 6.000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài giao dịch, đa số các nhà đầu tư nước ngoài đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore… Nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường với chiến lược mua và nắm giữ các blue-chips. Thị trường “thăng hoa” trong thời gian qua chủ yếu là do việc tăng giá ở nhóm cổ phiếu này. Lợi nhuận lớn từ thị trường Việt Nam đã tạo nên một hấp lực lớn đối với các tổ chức tài chính nước ngoài. Số liệu đưa ra trong một cuộc hội thảo về tài chính cũng làm nhiều người “giật mình”, rằng có đến 70 quĩ nước ngoài đang chờ để gia nhập thị trường. Riêng ba quĩ đầu tư lớn nhất trên thị trường đang nắm gần 4 tỷ USD. Dragon Capital đang quản lý khoảng 1,5 tỷ USD, kế đến là VinaCapital với gần 1,3 tỷ USD và Indochina Capital với gần 1 tỷ USD. Chính sự lớn mạnh ngoài dự kiến của ba quĩ này đã buộc các tổ chức tài chính nước ngoài khác phải vào cuộc để không quá chậm chân trong trong cuộc chơi này. Hiện nhà đầu tư nước ngoài vẫn đang gia tăng mở tài khoản tại Việt Nam và nhiều khả năng sẽ tăng mạnh khi thị trường có nhiều hàng hoá hơn. Các tổ chức tài chính của Trung Quốc và Hồng Kông cũng đã đặt chân đến Việt Nam thông qua việc thành lập công ty tư vấn đầu tư tài chính. Hầu hết các quỹ 91 Chuyên trang chứng khoán Atpvietnam.com dự báo rằng TTCK Việt Nam chắc chắn sẽ thu hút thêm nhiều vốn nước ngoài trong tương lai gần, khi chợ chứng khoán Việt Nam thành một siêu thị hoành tráng. Một số người thận trọng hơn thì cho rằng, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đầu tư mạnh hơn nữa vào TTCK Việt Nam trong thời gian tới, nhưng nguồn vốn chủ yếu phải đợi từ các quỹ đầu tư lớn của nước ngoài. Hiện nay những quỹ nước ngoài đầu tư mạnh vào TTCK Việt Nam mới chỉ có vài gương mặt như VinaCapital, Dragon Capital, Citigroup… Số lượng quỹ đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài đến tìm hiểu thông tin về TTCK Việt Nam nói chung và từng công ty cụ thể nói riêng tại các công ty chứng khoán cũng đang tăng dần. Nhiều người trong số này thừa nhận rằng họ có cơ hội, bởi so với nước ngoài, TTCK Việt Nam có nhiều điểm hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài, nhất là trong thời gian tới, khi có nhiều “đại gia” chuẩn bị phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng. Ngoài ra, tại một số nền kinh tế lớn như Nhật và Mỹ, còn nhiều nhà đầu tư đang muốn hướng đến Trung Quốc hoặc Việt Nam để không bõ lỡ cơ hội hoá rồng của hai nền kinh tế này. Tại các nước này, chỉ số giá chứng khoán đã lên rất cao nên khó tăng trưởng mạnh nữa, vì vậy nhiều nhà đầu tư nước ngoài tìm đến Trung Quốc hoặc Việt Nam để đầu tư. Theo một báo cáo mới nhất về Việt Nam của ngân hàng ANZ, dòng vốn FPI vào Việt Nam trong năm tới sẽ đạt con số 7,3 tỷ USD (tiền ròng), tăng 30% so với năm 2007. Trong khi đó, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng ước đạt 2,25 tỷ USD (tiền ròng) trong năm 2008, tăng 10% so với năm 2007. Một số điều kiện trong nước đã làm cho dòng vốn FPI và FDI vào Việt Nam tăng chậm, trong đó việc Quốc hội Việt Nam vừa thông qua Luật Thuế thu nhập cá nhân, nhất là việc đánh thuế vào đầu tư chứng khoán. Theo Luật Thuế thu nhập cá nhân mới này (có hiệu lực từ ngày 1/1/2009) thì Chính phủ Việt Nam sẽ đánh thuế 25% đối với các 92 ANZ cũng cho rằng, việc dòng vốn FPI vào Việt Nam tăng mạnh đã khiến TTCK trong nước trở nên sôi động hơn với sự tham gia của nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Hiện các nhà đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 50% tổng giá trị giao dịch tại HOSE, tăng 20% so với hồi đầu năm 2006. Tỷ lệ nhà đầu tư nước ngoài tại TTCK Việt Nam cao hơn ở Indonesia (khoảng 35%) nhưng thấp hơn ở Thái Lan (khoảng 70%). Tóm lại, qua luận văn này, chúng tôi đã đưa ra một số nhận định về các nhân tố ảnh hưởng đến giá chứng khoán trong thời gian tới. Hy vọng trong thời gian tới TTCK Việt Nam sẽ ổn định để tiếp tục phát triển nhanh và bền vững. Như vậy, nếu 7 năm đầu tiên, Việt Nam giải quyết được bài toán thứ nhất là lập nên thị trường và xác định vị thế của nó trong nền kinh tế, thì bài toán thứ hai trong giai đoạn tới là phải phát triển TTCK Việt Nam một cách bền vững, giải quyết được những vấn đề còn tồn tại của thị trường. Và câu chuyện về một TTCK Việt Nam trẻ trung, năng động hôm nay và ngày mai sẽ còn được viết tiếp bằng những nhìn nhận mới, những diễn biến mới, nhưng chắc chắn tốc độ mở rộng cũng như phát triển thị trường sẽ lớn hơn, mạnh hơn những gì mà thị trường đã đạt được trong 7 năm đầu tiên. 93 TÓM TẮT CHƯƠNG 3 Trên cơ sở những phân tích ở chương 2 của luận văn, chúng tôi xin đưa những nhận định mang tính dự báo về các nhân tố ảnh hưởng đến giá chứng trong thời gian tới như sau: Các nhân tố nội sinh Trong số những nhân tố nội sinh có ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán trong thời gian tới phải kể đến là việc tăng cung hàng hoá cho TTCK và kết quả từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty niêm yết. Trong tương lai gần, cung hàng hóa cho TTCK sẽ tăng qua các nguồn: cổ phần hóa DNNN, các công ty cổ phần tham gia niêm yết trên TTCK, các công ty đang niêm yết phát hành thêm cổ phiếu mới, thành lập mới các công ty cổ phần. Dự báo trong thời gian tới các công ty niêm yết sẽ đạt tốc độ tăng trưởng tốt làm cơ sở cho TTCK Việt Nam tiếp tục phát triển. 3.2.2. Các nhân tố ngoại sinh Các nhân tố ngoại sinh ảnh hưởng mạnh đến sự biến động giá chứng khoán trong thời gian tới có thể kể đến là sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, chủ trương phát triển TTCK của Chính phủ và ảnh hưởng của các kênh đầu tư khác như bất động sản, vàng và ngoại tệ. Theo dự báo, trong 15 năm tới mức tăng trưởng GDP trung bình của kinh tế Việt Nam rất ấn tượng. 3.2.3. Các nhân tố can thiệp Các nhân tố can thiệp có thể ảnh hưởng nhiều đến sự biến động giá chứng khoán trong thời gian tới có thể kể đến là tâm lý nhà đầu tư trong nước và yếu tố đầu tư nước ngoài. Những việc cần làm nhằm tạo niềm tin và tâm lý nhà đầu tư là khuyến khích phát triển nhà đầu tư tổ chức, minh bạch hóa thông tin chứng khoán, đào tạo phổ cập kiến thức cho công chúng dưới các hình thức khác nhau. 94 Dự báo trong thời gian tới, TTCK Việt Nam sẽ thu hút thêm nhiều vốn nước ngoài khi chợ chứng khoán Việt Nam thành một siêu thị hoành tráng. KẾT LUẬN Với đề tài “Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh”, luận văn đã kết hợp được những cơ sở lý luận với những diễn biến thực tiễn trên TTCK Việt Nam hơn 7 năm qua để đưa ra những nhân tố chính ảnh hưởng quyết định đến sự biến động giá cổ phiếu niêm yết qua các giai đoạn. Qua đó, tác giả tiếp tục nêu một số nhận định mang tính dự báo về các nhân tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu trong thời gian tới. Trước đây đã từng có nhiều bài viết, bài phân tích những diễn biến của chỉ số giá cổ phiếu và những nhân tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu của nhiều tác giả nhưng những bài viết này chỉ dừng lại ở việc phân tích một hay một vài thời đoạn ngắn và chỉ đưa ra các nhân tố ảnh hưởng chứ chưa đi sâu phân tích, chứng minh các ảnh hưởng của những nhân tố này đến chỉ số giá cổ phiếu như thế nào. Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học có hệ thống toàn bộ quá trình diễn biến thị trường thông qua sự biến động của chỉ số giá cổ phiếu từ khi thị trường mới thành lập cho đến nay. Qua luận văn, người đọc sẽ có cái nhìn tổng quát về TTCK Việt Nam trong hơn 7 năm hoạt động liên tục và không ngừng phát triển. Để dễ tiếp cận, tác giả đã chia những biến động giá chứng khoán trên TTCK Việt Nam thành ba giai đoạn với những đặc trưng riêng biệt của từng giai đoạn. Ở mỗi giai đoạn, tác giả đã nêu lên diễn biến thị trường, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu một cách rất chi tiết, rất sâu với nhiều số liệu, dẫn chứng cụ thể và lập luận trên cơ sở khoa học để khẳng định các đặc điểm riêng có của từng giai đoạn và những nhân tố chính ảnh hưởng đến chỉ số giá cổ phiếu trên TTCK. Tất cả những điều kể trên là những đóng góp mới của luận văn. Luận văn chưa đi vào phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu giao dịch trên thị trường OTC và những ảnh hưởng của chỉ số giá VNIndex đến biến động giá cổ phiếu trên thị trường OTC. Đây có thể sẽ là những đề tài hấp dẫn cho những nghiên cứu tiếp theo về TTCK Việt Nam – một thị trường mới trải qua 95 giai đoạn đầu với hơn 7 năm hình thành và phát triển – một thị trường non trẻ và đầy triển vọng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Hữu Ái (2001), Các giải pháp tạo hàng hóa cho Thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh. 2. Bộ Kế hoạch và đầu tư, Tạp chí Đầu tư chứng khoán. 3. Hoàng Tuấn Cường (2001), Thị trường chứng khoán Việt Nam thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh. 4. Sở giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh, Bản tin Thị trường chứng khoán. 5. Nguyễn Quang Thu (2005), Quản trị tài chính căn bản, Nhà xuất bản Thống kê. 6. Phạm Thị Anh Thư (2006), Chặng đường 6 năm của TTCK Việt Nam thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Tp. HCM. 7. Lê Văn Tư, Thân Thị Thu Thủy (2006), Thị trường chứng khoán, Nxb Tài chính. 8. Một số trang Web: vse.org.vn, bsc.com.vn, acbs.com.vn, vietstock.com.vn, hsc.com.vn, vinafund.com…

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf47550.pdf