Luận văn Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng -Lắp đặt ở công ty Tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam

Tóm lại, qua ba phần ở trên ,luận văn đã nêu bật những nét cơ bản của TBH nói chung, thực tiễn của TBH XDLĐ tại VINARE. Qua đó, luận văn đã cho thấy những bất cập hiện tại của hoạt động TBH XDLĐ xét trên các mặt cơ sở pháp lý, thị trường TBH và kỹ thuật TBH. Từ những bất cập đó, với những xu hướng phát triển của nhu cầu TBH XDLĐ tại Việt nam ,luận văn đã đề ra một số giải pháp cơ bản mang tính khả thi nhằm củng cố và phát triển hoạt động BH cũng như TBH XDLĐ. Ngành BH đối với mọi quốc gia là một ngành kinh tế hết sức nhạy cảm với những thách thức của quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Những thách thức sẽ càng lớn đối với một nước có nền kinh tế đang phát triển với ngành BH non trẻ như Việt nam.

doc76 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1459 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng -Lắp đặt ở công ty Tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hần rất nhỏ của hợp đồng mức dôi đầu tiên (10%-15%) .Trong năm 1999, hợp đồng với các công ty trong nước được thu xếp dưới hình thức mức dôi với mức giữ lại là mức giữ lại thuần của VINARE (800.000 $) với mức trách nhiệm tối đa là 1.700.000 $ ( 2.125 lần). Đây là mức dôi thứ nhất. Mức dôi thứ hai thì cơ bản là duy trì với các công ty nước ngoài ( Munich Re, Swiss Re, Tokio Marine...), mức dôi thứ ba với Swiss Re. Cấu trúc hợp đồng nhượng tái như vậy được lãnh đạo công ty đánh giá rất cao. Thực tế, cấu trúc như vậy là hết sức hợp lý. Một mặt ,VINARE không cần tăng mức giữ lại thuần của VINARE. Mặt khác, mức dôi thứ nhất với các công ty trong nước, như vậy, vừa phù hợp với khả năng tái chính của các công ty trong nước vừa nhận được nhiều dịch vụ bởi vì đa số các dịch vụ trong nước rơi vào mức đó. Cấu trúc hợp đồng như vậy vẫn đảm bảo VINARE tăng được số phí giữ lại cho mình bởi vì mức giữ lại thuần của VINARE không biến động lớn. Cấu trúc hợp đồng như vậy đạc biệt được các công ty trong nước đánh giá cao bởi vì các công ty này được tham gia vào phần lớn dịch vụ với tỉ lệ cao. Một cách khách quan mà đánh giá trong những năm qua các cán bộ nghiệp vụ kỹ thuật của VINARE luôn nỗ lực tìm mọi biện pháp để nâng cao mức giữ lại cho thị trường trong nước. Các công ty trong nước luôn được ưu tiên chuyển nhượng với những điều kiện điều khoản tốt nhất. Và những cố gắng đó thực sự có hiệu quả. Hoa hồng nhận được từ nhượng TBH nhìn chung khá ổn định, tỉ lệ hoa hồng mà các công ty nước ngoài trả khá cao, thường dao động từ 30-34%. Tỉ lệ hoa hồng nhận được của các công ty trong nước có thấp hơn một chút. Tỉ lệ hoa hồng như trên nếu so sánh với mặt bằng chung của thị trường TBH nghiệp vụ là khá cao. Lí do, như đã nói là vì nghiệp vụ bảo hiểm XDLĐ ở Việt Nam là một nghiệp vụ có kết quả tốt, mang lại lợi nhuận cao cho các công ty nhận tái. Như đã phân tích ở trên các công ty nhận tái thường là các công ty có khả năng tài chính mạnh, có uy tín nên việc thực hiện trách nhiệm bồi thường của các công ty này luôn theo đúng thoả thuận trong hợp đồng. Có thể nói hoạt động nhượng tái của VINARE nghiệp vụ TBH XDLĐ trong nhứng năm qua là rất thành công, vừa đảm bảo an toàn lại vừa nâng cao được mức giữ lại của thi trường trong nước - một chức năng quan trọng của VINARE. 5. Kết quả nghiệp vụ. Đánh giá một hoạt động kinh doanh tất yếu phải đánh giá kết quả đạt được. Ngoài việc đánh giá việc thực hiện chức năng- nhiệm vụ của VINARE trong nghiệp vụ TBH XDLĐ thì cũng cần thiết phải đánh giá kết quả kinh doanh của nghiệp vụ trong các năm triển khai. Kết quả kinh doanh là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh quá trình thực hiện tất cả các khâu của qui trình nghiệp vụ từ nhận TBH đến giám định bồi thường, nhượng TBH . Để có thể đánh giá được kết quả nghiệp vụ hãy xem xét tổng hợp thu chi các năm và kết quả sé là phần chênh lệch giữa tổng thu và tổng chi. Tất nhiên ,kết quả này chỉ có tính qui ước. Tổng số thu của nghiệp vụ bao gồm: + Phí nhận TBH. + Thu từ hoạt động nhượng tái: hoa hồng nhượng tái và bồi thường của công ty nhận tái + Thu khác bao gồm: thu bồi hoàn, các khoản có thể thu hồi sau khi bồi thường . Tổng chi bao gồm: + Phí nhượng TBH + Chi hoa hồng nhận tái. + Chi bồi thường nhận tái + Chi khác: bao gồm các khoản chi như chi phí cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất ( đây là phần chủ yếu, chiếm 80-90%), một phần chi phí quản lý tính vào hoa hồng theo lãi. Bảng 8: Tổng thu kinh doanh. Đơn vị: USD Năm Phí nhận tái Thuhoahồng nhượng TBH Thubồithường nhượng TBH Thu khác Tổng thu 1995 731.057,4 163.541 0 780 895.378,4 1996 1.438.891,8 379.646 0 2.795 1.821.332,8 1997 1.633.598,9 451.812 5.504,2 3.510 2.094.425,1 1998 1.090.643,9 259.750 5.422,95 21.190 1.377.006,9 1999 1.180.329,3 273.535 4.257,5 22.315 1.480.436,8 2000 1.441.646,4 315.909 19.500 25.572 1.802.627,4 Nguồn:Phòng Kĩ thuật –Dỗu khí, VINARE Bảng 9: Tổng chi kinh doanh Đơn vị :USD Năm Phí nhượng TBH Chi hoa hồng Bồi thường Chi khác Tổng chi 1995 567.586,8 139.852,7 13.714,35 4.355 725.508,9 1996 1.251.522,5 341.303,3 71.520,15 7.930 1.672.276, 1997 1.601.719,1 401.763,9 33.777,25 11.895 2.049.155,3 1998 880.879,2 277.054,7 177.754,85 11.635 1.347.323,8 1999 893.091,8 319.225,9 188.548,75 13.241 1.414.106,9 2000 979.536,9 382.266,3 45.514,95 13.867 1.421.185,2 Nguồn:Phòng Kĩ thuật –Dỗu khí, VINARE Bảng 10 : Kết quả kinh doanh Đơn vị: USD Năm Tổng thu Tổng chi Kết quả 1995 895.378,4 725.508,9 169.870 1996 1.821.332,8 1.672.276, 149.056,8 1997 2.094.425,1 2.049.155,3 45.269,8 1998 1.377.006,9 1.347.323,8 29.683,1 1999 1.480.436,8 1.414.106,9 63.319,9 2000 1.802.627,4 1.421.185,2 381.442,2 Nguồn:Phòng Kĩ thuật –Dỗu khí, VINARE . Kết quả nghiệp vụ phụ thuộc vào tổng thu và tổng chi. Trong đó tổng thu phụ thuộc chủ yếu vào phí nhận TBH, các khoản thu khác dù có ảnh hưởng đến tổng thu nhưng phụ thuộc phần lớn vào phí nhận tái. Có thể thấy, trong các năm kết quả kinh doanh đều rất tốt. Năm nào cũng có lãi. Kết quả kinh doanh, xét về mặt tuyệt đối đều tăng năm sau cao hơn năm trứơc. Năm 98 ,nền kinh tế chịu ảnh hưởng sâu sắc của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực. Tốc độ tăng trưởng giảm mạnh, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm mạnh do các nhà đầu tư nước ngoài e ngại môi trường đầu tư bất ổn định vì sự tác động của cuộc khủng hoảng; nhiều dự án đang tiến hành phải tạm ngừng, một số dự án bị huỷ bỏ do các chủ đầu tư mà chủ yếu là các chủ đầu tư châu á gặp khó khăn về mặt tài chính. Bảo hiểm XDLĐ là một trong những nghiệp vụ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của tình hình đó.Chính vì vậy , năm 1998, kết quả cuả nghiệp vụ không cao.Tuy nhiên , tới năm 2000, kết quả của nghiệp vụ đạt kết quả cao nhất từ khi thành lập tới nay.Một nguyên nhân quan trọng để đạt được kết quả cao như vậy là do nền kinh tế của khu vưc đã trảI qua cuộc khủng hoảng kinh tế.Chính vì vậy, các nhà đầu tư lại tiếp tục đầu tư mạnh vào Việt Nam .Các công trình xây dựng lại tiếp tục được xây dựng nhiều.Chính vì vậy , mưc phí bảo hiểm XDLĐ lại tiếp tục phát triển. Nghiệp vụ TBH XDLĐ là một trong những nghiệp vụ luôn đạt hiệu quả kinh doanh cao trong các nghiệp vụ của VINARE, được lãnh đạo công ty đánh giá cao. Đây là kết quả của việc thực hiện một cách có hiệu quả tất cả các khâu của qui trình nghiệp vụ, phản ánh những nỗ lực của các cán bộ nghiệp vụ . Qua tám năm triển khai nghiệp vụ TBH XDLĐ, năm nào VINARE cũng đạt kết quả rất tốt. Tuy nhiên ,để thích ứng với những biến đổi của thị trường và các điều kiện kinh tế xã hội thì trong các năm tới VINARE cần thiết phải có những chiến lược biện pháp thích ứng. Phần thứ ba Một số biện pháp nhằm phát triển nghiệp vụ TBH XÂY DựNG -LắP ĐặT ở cômg ty TBH quốc gia Việt Nam ( VINARE ) I. Xu hướng phát triển nhu cầu TBH XDLĐ ở Việt Nam Xu hướng phát triển nhu cầu TBH XDLĐ ở Việt Nam trong những năm tới phụ thuộc vào các yếu tố sau: Thị trường bảo hiểm XDLĐ ở Việt Nam là thị trường hết sức non trẻ. Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm ra đời sớm nhất vào năm 1964 với thời gian hoạt động khá lâu nhưng kinh nghiệm, trình độ chuyên môn về bảo hiểm XDLĐ lại rất ít ỏi bởi bảo hiểm XDLĐ mới chỉ xuất hiện ở Việt Nam vào những năm cuối thập kỷ 80. Các DNBH khác cũng vừa mới được thành lập trong những năm gần đây. Khả năng khai thác bảo hiểm XDLĐ của các DNBH đang được hoàn thiện dần .Do vậy, doanh thu phí bảo hiểm XDLĐ khai thác được sẽ tăng lên. Về phía người dân và các tổ chức doanh nghiệp nhận thức về bảo hiểm XDLĐ lại quá ít ỏi, đặc biệt là nhận thức của các chủ thầu, chủ đầu tư trong nước. Do vậy, có nhiều công trình không được mua bảo hiểm XDLĐ. Tuy nhiên, những nỗ lực tuyên truyền của các DNBH cũng như những thiệt hại vật chất xảy ra trong thực tế thức tỉnh mối quan tâm của người đầu tư, người chủ thầu quan tâm đến bảo hiểm XDLĐ. Doanh thu phí bảo hiểm XDLĐ nhờ đó cũng được nâng lên. Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển hết sức thuận lợi, tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm khoảng 7%. Nhu cầu XDLĐ các công trình cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế ngày càng lớn nhu cầu mua bảo hiểm XDLĐ sẽ tăng lên. So sánh với các nước xung quanh trong khu vực, các nước phát triển ta có thể thấy tỉ trọng chi phí cho bảo hiểm ở những nước phát triển khoảng 10-14%GDP và ở các nước xung quanh trong khu vực khoảng 3-5%GDP .Trong khi đó, ở Việt Nam tỉ trọng chi phí bảo hiểm mới chỉ đạt là 0.54% GDP ( năm 1999). Mức chi phí bảo hiểm như vậy là rất thấp . Do vậy, tiềm năng của thị trường bảo hiểm sẽ rất lớn trong tương lai. Tỉ trọng chi phí BH nói chung cũng như chi phí bảo hiểm XDLĐ tính trên GDP sẽ tăng lên đồng thời do tổng GDP cũng tăng lên nên doanh thu phí bảo hiểm XDLĐ sẽ tăng lên rất nhiều. Theo số liệu thống kê bồi thường BH XDLĐ từ năm 1995 trở lại đây thì tỉ lệ tổn thất ngày một cao. Nguyên nhân chủ yếu là do tình hình thiên tai, lũ lụt tại Việt Nam ngày càng trở nên thường xuyên hơn, nghiêm trọng hơn ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh BH XDLĐ. Theo phân tích và đánh giá của các tổ chức, chuyên gia các ngành khí tượng thuỷ văn, ngành TBH trên thế giới thì tình hình thiên tai ở khu vực châu á Thái bình dương ngày một xấu đi, nguyên nhân chủ yếu là do hiện tượng El Nino diễn ra tại khu vực này .Trong khi đó, các công trình XDLĐ ngày một nhiều hơn xét trong từng khu vực làm cho nguy cơ tích tụ rủi ro tăng dần. Thiên tai lũ lụt nghiêm trọng hơn, khả năng tích tụ rủi ro lớn hơn là những lý do khiến các doanh nghiệp BH phải nghĩ tới biện pháp phải mua TBH để bảo vệ cho phần trách nhiệm giữ lại của mình. Theo lộ trình đã cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Mỹ, trong vòng 5 năm sau khi Hiệp định được ký kết, tỉ lệ TBH bắt buộc sẽ được xoá bỏ hoàn toàn .Vai trò của VINARE khi đó sẽ khó khăn hơn rất nhiều vì khả năng cạnh tranh của VINARE so với các công ty TBH nước ngoài chắc chắn sẽ yếu hơn. Các doanh nghiệp BH trong nước có thể sẽ ưa thích TBH cho các công ty TBH nước ngoài hơn với mức hoa hồng TBH cao hơn và khả năng nhận TBH cao hơn. Muốn giành giật thị trường với các công ty TBH nước ngoài VINARE buộc phải tìm được thị trường TBH có khả năng đem lại cho VINARE một khả năng nhận TBH cao và hoa hồng TBH cao không kém mức mà các đối thủ cạnh tranh của VINARE có thể trả. Cũng theo cam kết của Việt Nam trong Hiệp định này, thị trường BH Việt Nam sẽ được mở rộng cho các doanh nghiệp BH Mỹ và nhiều nước châu âu. Không những vậy, Việt Nam là một thành viên trong khối ASEAN và theo cam kết chung trong khối thị trường BH của quốc gia thành viên sẽ được mở cửa tự do cho các thành viên khác đầu tư kinh doanh. Trong tương lai không xa thị trường BH Việt Nam sẽ trở nên là một thị trường cạnh tranh gay gắt. Nếu không có một chương trình TBH có hạn mức trách nhiệm TBH đủ cao và hiệu quả thì các doanh nghiệp BH Việt Nam không thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp BH có vốn đầu tư nước ngoài vì các doanh nghiệp này không gặp phải hạn chế về hạn mức trách nhiệm TBH nên có thể chấp nhận BH các công trình có giá trị rất lớn. Thị trường BH, TBH quốc tế vốn luôn chứa đựng những điều bất ổn không ngờ. Rủi ro khủng bố vừa xảy ra ở Mỹ là một ví dụ. Theo đánh giá của công ty môi giới BH, TBH hàng đầu thế giới là Aon thì Mỹ là một nước có rủi ro chính trị thấp nhất và Việt Nam là nước có rủi ro chính trị ở mức khá cao nhưng sau khi rủi ro khủng bố xảy ra tại Mỹ thì Mỹ lại trở thành một nước có rủi ro chính trị thuộc loại cao nhất và Việt Nam lại là một nước có rủi ro chính trị rất thấp. Sau khi vụ khủng bố xảy ra, thị trường BH và TBH thế giới thay đổi hoàn toàn. Một số công ty BH, TBH phá sản hoặc thu hẹp hoạt động kinh doanh bằng cách đóng cửa văn phòng chi nhánh tại các quốc gia hay chám dứt toàn bộ hoạt động nhận TBH tạm thời hoặc vĩnh viễn. Khả năng nhận TBH của thị trường quốc tế giảm đột ngột. Thu xếp TBH trở nên hết sức khó khăn vì khả năng nhận TBH trên thị trường quốc tế giảm mạnh, các công ty nhận TBH yêu cầu tăng tỉ lệ phí BH lên trung bình 30% trong khi người mua BH trong nước lại yêu cầu giảm phí BH xuống rất thấp. Hiện nay, mức phí BH trong nước thấp hơn mức phí BH của các thị trường BH khu vực châu á. Đối với loại hình BH tài sản mức phí BH trong nước chỉ bằng 1/3 mức phí BH của thị trường khu vực. áp lực do giảm khă năng nhận TBH và giảm tỉ lệ phí BH khiến các công ty BH trong nước một mặt phải nâng dần mức phí BH lên, mặt khác phải tìm cách thu xếp hợp đồng TBH để đáp ứng yêu cầu của khách hàng mua BH. Yêu cầu này đặt ra nhiều khó khăn phải vượt qua đối với các công ty BH trong nước. Nhiều trường hợp công ty BH phải thu xếp TBH cho những công ty nhận TBH có khả năng tài chính thấp nên công ty BH có thể gặp phải rủi ro khó đòi được bồi thường TBH do công ty nhận TBH phá sản hoặc gặp khó khăn về tài chính. Như vậy nhu cầu TBH XDLĐ trong những năm tới sẽ tăng lên nhiều nhưng cũng khó khăn hơn trước. II.Mục tiêu phương hướng phát triển nghiệp vụ TBH xây dựng -lắp đặt của VINARE. Trong các năm qua VINARE thực hiện tốt nhiệm vụ của mình là một công ty TBH quốc gia và luôn đạt kết quả kinh doanh tốt. Tuy nhiên, tình hình kinh tế xã hội đang có nhiều thay đổi. VINARE có chiến lược mới cho hoạt động của mình. Đối với nghiệp vụ TBH XDLĐ, mục tiêu, phương hướng của VINARE trong những năm tới là : + Tiếp tục giúp đỡ các công ty bảo hiểm gốc, đặc biệt các công ty mới ra đời triển khai nghiệp vụ, qua dó tranh thủ khai thác phần nhận tái tự nguyện + Tham gia vào thị trường TBH khu vực và thế giới bằng cách nhận tái từ nước ngoài. + Nâng cao mức giữ lại cho thị trường trong nước bằng cách tăng cường chuyển nhượng cho các công ty trong nước giảm chuyển nhượng phí ra nước ngoài III. Một số kiến nghị về chế độ chính sách. 1. Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Những tiêu cực trên thị trường bảo hiểm trong những năm qua xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân quan trọng là sự thiếu vắng một hành lang pháp lý có hiệu lực, năng lực quản lý và giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm còn hạn chế. Vì vậy, trong thời gian tới để thúc đẩy thị trường bảo hiểm nói chung bảo hiểm và TBH XDLĐ nói riêng cần tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý và đẩy mạnh công tác quản lý giám sát của Nhà nước. Cụ thể là: 1.1. Tăng cường công tác giám sát. - Bộ Tài chính với vai trò là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm cần phải nghiên cứu các văn bản pháp quy ban hành và nhanh chóng soạn thảo các văn bản hướng dẫn thực hiện tránh để xảy ra hiện tượng hiểu sai một cách vô tình hoặc cố ý rồi thực hiện không đúng, phát sinh tranh chấp như trong thời gian vừa qua. - Tăng cường quản lý, giám sát các vấn đề sau: + Điều kiện, điều khoản, đặc biệt là phí bảo hiểm trong hoạt động bảo hiểm đối ngoại như bảo hiểm cháy, bảo hiểm xây lắp. + Hoạt động của các văn phòng đại diện của các tổ chức bảo hiểm nước ngoài, không để các văn phòng này thao túng hoạt động bảo hiểm đối ngoại, gây khó khăn cho các công ty bảo hiểm Việt Nam. + Hoạt động môi giới trên thị trường bảo hiểm. + TBH bắt buộc. - Xử lý nghiêm minh các công ty bảo hiểm vi phạm các quy định của Nhà nước về bảo hiểm. - Nâng cao trình độ và bổ sung thêm các cán bộ quản lý, giám sát hoạt động bảo hiểm. Khách quan mà đánh giá thì đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, giám sát bảo hiểm thuộc Phòng quản lý bảo hiểm, Bộ Tài chính hiện nay vừa thiếu về số lượng, vừa hạn chế về trình độ, không đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành bảo hiểm. Vì vậy, đi đôi với việc bổ sung thêm cần phải nâng cao trình độ cho lực lượng giám sát, quản lý này. 1.2. Thay đổi quy định về TBH bắt buộc. Quy định về TBH bắt buộc cùng với sự ra đời của VINARE có tác dụng rất lớn đến sự phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam. Mức giữ lại phí bảo hiểm tăng lên, chặn được sự chảy phí bảo hiểm sang nước ngoài. Quy định về TBH bắt buộc ngày càng chặt chẽ. Tuy nhiên, theo em quy định về điều kiện phải TBH bắt buộc như hiện nay là không rõ ràng. Nghị định 100/CP, Nghị định 74/CP sửa đổi Nghị định 100/CP và Thông tư 78/1998/BTC đều quy định: "Trong trường hợp TBH cho các tổ chức bảo hiểm nước ngoài, các doanh nghiệp bảo hiểm phải TBH một phần trách nhiệm theo hợp đồng hoặc đơn bảo hiểm gốc cho công ty TBH quốc gia Việt Nam" Như vậy, có thể hiểu điều kiện doanh nghiệp bảo hiểm phải TBH cho VINARE là khi phát sinh TBH cho các tổ chức bảo hiểm nước ngoài. Nếu vậy trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm đủ khả năng để giữ lại rủi ro hoặc doanh nghiệp bảo hiểm TBH cho một doanh nghiệp bảo hiểm khác hoạt động ở Việt Nam thì sẽ không phải TBH cho VINARE. Với cách hiểu như vậy thì dễ dàng thấy có hai vấn đề nảy sinh: - Việc kiểm soát TBH bắt buộc sẽ rất phức tạp, thậm chí không thể kiểm soát nổi. - VINARE sẽ không nhận được đủ dịch vụ để kinh doanh nếu các doanh nghiệp bảo hiểm không nhượng cho VINARE mà nhượng cho một công ty bảo hiểm khác được phép hoạt động tại Việt Nam. Điều này rất có thể xảy ra khi các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài được phép hoạt động ở Việt Nam. Trường hợp này hoàn toàn có thể xảy ra và không biết VINARE có thể đứng vững không. Quy định TBH bắt buộc hiện nay có tác dụng đảm bảo quyền chủ động của doanh nghiệp bảo hiểm, thuận tiện cho việc thu xếp các chương trình TBH của mình; khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm chuyển nhượng TBH cho nhau. Song quy định như vậy sẽ gây khó khăn cho hoạt động của VINARE cũng như việc quản lý nhà nước về hoạt động TBH. Kinh nghiệm thành công của các nước đi trước như Malaysia cho thấy nên quy định nghĩa vụ phải tái cho công ty TBH quốc gia một tỉ lệ nhất định trên tổng phí gốc, bất kể có phát sinh TBH hay không. Công ty bảo hiểm quốc gia Malaysia MNRB (Malaysia National Reinsurance Berhad) được phép nhân 10% tổng phí gốc đối với nghiệp vụ xe cơ giới, 15% đối với nghiệp vụ hàng hải; đối với nghiệp vụ cháy và các nghiệp vụ có thể tính được tổn thất tối đa tỉ lệ này còn cao hơn nữa. Quy định như vậy không những giúp cho việc kiểm soát hoạt động bảo hiểm, TBH của Nhà nước thuận tiện mà còn thúc đẩy sự lớn mạnh của công ty bảo hiểm quốc gia. ở Việt Nam hiện nay, hầu hết các công ty bảo hiểm trong nước đều có một hợp đồng TBH cố định số thành với mức chuyển nhượng là 20%. Đây là sự hợp tác tốt giữa các công ty với VINARE. Các công ty trong nước chưa nhượng và nhận TBH cho nhau vì lí do chính là phương châm kinh doanh "ăn cây nào rào cây ấy" và sợ lộ bí mật kinh doanh. Tuy nhiên, khi xuất hiện các công ty bảo hiểm nước ngoài 100% thì tình hình hoạt động TBH sẽ khác đi, chắc chắn là rất phức tạp. Để thuận tiện cho việc quản lý, giám sát hoạt động bảo hiểm, TBH cũng như phù hợp với thông lệ quốc tế nên quy định doanh nghiệp bảo hiểm phải tái một phần trách nhiệm (20%) của hợp đồng hoặc đơn bảo hiểm gốc cho VINARE dù có hay không phát sinh TBH. 2. Vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam cần phải được nâng cao. Để giải quyết những tiêu cực phát sinh khi thị trường bảo hiểm còn ở giai đoạn đầu phát triển theo cơ chế cạnh tranh, theo kinh nghiệm của các nước đi trước, bên cạnh việc hoàn thiện môi trường pháp lý và tăng cường công tác quản lý giám sát của Nhà nước, hoạt động tự quản lý giữa các doanh nghiệp bảo hiểm thông qua tổ chức Hiệp hội bảo hiểm đóng vai trò rất quan trọng, Hiệp hội bảo hiểm là một tổ chức dân sự nghề nghiệp hoạt động trên cơ sở tham gia tự nguyện và đóng góp kinh phí của các hội viên. Hoạt động của Hiệp hội là tự quản lý của các tổ chức bảo hiểm trên thị trường nhằm các mục tiêu: - Cung cấp thông tin về bảo hiểm, thiết kế sản phẩm, phối hợp trong công tác đề phòng hạn chế tổn thất, công tác đào tạo và trong hoạt động bảo hiểm, TBH giữa các doanh nghiệp trong cùng thị trường bảo hiểm. - Tập hợp tiếng nói chung của các doanh nghiệp bảo hiểm để phản ánh hoặc đề xuất với chính phủ và cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm những vấn đề liên quan đến chính sách, chế độ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. - Tham gia đóng góp ý kiến với cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm trong việc nghiên cứu, xây dựng định hướng chiến lược phát triển và quản lý ngành bảo hiểm. - Liên kết các tổ chức bảo hiểm trong một tổ chức thống nhất để có thể thực hiện tốt hơn việc hợp tác với các tổ chức nghề nghiệp khác trong nền kinh tế cũng như các tổ chức nghề nghiệp bảo hiểm trên phạm vi thế giới. ở những nước có thị trường bảo hiểm phát triển, các Hiệp hội bảo hiểm được thành lập rất sớm và đóng góp tích cực cho việc phát triển tích cực. ở Việt Nam, kể từ khi ban hành Nghị định 100/CP, thị trường bảo hiểm bước vào giai đoạn cạnh tranh với sự tham gia của các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Trong quá trình kinh doanh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm tất yếu phát sinh sự cạnh tranh và hợp tác. Tuy nhiên, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm ngày càng quyết liệt và có biểu hiện không lành mạnh còn sự hợp tác giữa các doanh nghiệp rất hạn chế và không thường xuyên. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp bảo hiểm quay lưng lại với nhau và hoạt động theo kiểu mạnh ai người nấy chạy, không nhằm mục đích phát triển tổng thể ngành. Lợi dụng sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước các tổ chức nước ngoài có những hoạt động bất hợp pháp gây thiệt hại rất lớn cho các công ty trong nước, cho thị trường bảo hiểm và Nhà nước. Như vậy, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm như hiện nay không chỉ làm thiệt hại cho bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm mà còn làm suy yếu thị trường bảo hiểm nói chung; Nhà nước thất thoát một nguồn ngoại tệ lớn do phí bảo hiểm chảy ra nước ngoài. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam có những vai trò rất lớn. Nó thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp, đẩy mạnh hoạt động đồng bảo hiểm và TBH giữa các doanh nghiệp qua đó nâng cao mức giữ lại cho thị trường, ngăn chặn phí bị chảy ra nước ngoài cũng như ngăn chặn được những hoạt động thao túng thị trường của các tổ chức bảo hiểm nước ngoài. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam sẽ hoà nhập vào Hiệp hội bảo hiểm ASEAN và các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam có thể tham gia vào các hoạt động của các công ty bảo hiểm ASEAN và hội nhập vào thị trường bảo hiểm thế giới. Như vậy, Hiệp hội bảo hiểm mang lại lợi ích to lớn, có tính chất quyết định đến sự phát triển của thị trường bảo hiểm trong cơ chế cạnh tranh và chỉ khi đó VINARE mới thực sự phát huy được vai trò của một công ty TBH quốc gia. 3. Tăng cường vốn cho VINARE. Trong những năm qua, VINARE đã cố gắng đến mức tối đa để nâng cao mức giữ lại phí bảo hiểm cho thị trường trong nước. Nếu như năm 1995 trong nghiệp vụ TBH XDLĐ, tỉ trọng phí nhượng ra nước ngoài là 89% thì đến năm 1998, chỉ còn khoảng 65%. Có thể nói đây là nỗ lực lớn của công ty cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước. Tuy nhiên, phần chuyển ra nước ngoài như vậy vẫn còn là quá lớn. Nguyên nhân chủ yếu là do khả năng tài chính của VINARE còn quá nhỏ. Trong kinh doanh TBH, về mặt lý thuyết mức giữ lại tối đa của một tổ chức bảo hiểm được xác định theo công thức: Z= trong đó: Z: là mức giữ lại tối đa F: toàn bộ vốn tự có (vốn +dự trữ) P: doanh thu phí và thu nhập khác C: những chi phí phát sinh S: số lượng thiệt hại (xác định bằng các lấy số lượng rủi ro nhân với xác suất xảy ra thiệt hại). Việc xác định mức giữ lại thực tế tất nhiên còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác song không được quá sai lệch so với mức giữ lại xác định theo công thức trên. Từ công thức ta thấy muốn tăng mức giữ lại thì tổ chức bảo hiểm phải tăng vốn tự có F. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế. Trên thực tế, khi xác định mức giữ lại tổ chức bảo hiểm cần phải căn cứ và khả năng tài chính của mình. Vốn lớn thì tổ chức bảo hiểm có thể ấn định mức giữ lại lớn. VINARE bắt đầu hoạt động với số vốn ban đầu là 40 tỉ VNĐ, tương đương 4 triệu USD. Sau 4 năm hoạt động, đến hết năm 1998 công ty đã nâng mức vốn hoạt động lên 150 tỉ VNĐ.Và cho tới cuối năm 2002 ,công ty đã nâng mức vốn hoạt động lên gần 300 tỷ VNĐ. Đây là cố gắng lớn của công ty. Song so với số vốn của công ty bảo hiểm, TBH trong khu vực như công ty TBH quốc gia Malaysia (75 triệu USD) thì số vốn của công ty vẫn còn quá nhỏ. Số vốn nhỏ lại phải dàn trải cho các nghiệp vụ, chủ yếu là nghiệp vụ bảo hiểm đối ngoại mà trách nhiệm bảo hiểm rất lớn, có khi lên tới hàng trăm triệu USD. Chính vì vậy, mức giữ lại của VINARE đối với nghiệp vụ TBH XDLĐ cũng như các nghiệp vụ khác rất thấp. Để tồn tại khi thị trường có các công ty bảo hiểm nước ngoài cần phát triển vốn. Để VINARE thực hiện tốt chức năng của mình thì Nhà nước cần phải bổ sung thêm vốn cho VINARE và các công ty bảo hiểm nhà nước khác. Vậy tăng vốn cho VINARE bằng cách nào? Nhà nước không thể tăng vốn trực tiếp bằng cách cấp thêm vốn bởi vì cấp thêm vốn bổ sung thì phải nhận thêm nhiệm vụ và như vậy hầu như không có tác dụng. Mặt khác, trong điều kiện vốn ngân sách eo hẹp, việc bổ sung thêm vốn cũng khó khăn. Có ý kiến cho rằng nên cổ phần VINARE trong đó Nhà nước nắm cổ phần chi phối, phần còn lại sẽ do các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước nắm giữ. Với biện pháp như vậy có thể đạt được 2 mục tiêu: - Tăng nguồn vốn đáng kể cho VINARE. - Thắt chặt quan hệ giữa các công ty bảo hiểm trong nước do sự ràng buộc về lợi ích. Các công ty bảo hiểm gốc có những đóng góp tích cực cho hoạt động của VINARE như ưu tiên TBH phần tự nguyện qua VINARE. Song theo em giải pháp như vậy là chưa thích hợp trong điều kiện hiện nay khi mà thị trường chứng khoán Việt Nam mới hoạt động và thị trường bảo hiểm Việt Nam, hoạt động kinh doanh TBH vẫn còn cần phải được Nhà nước kiểm tra, giám sát qua một tổ chức như VINARE. Giải pháp cho vấn đề này là Nhà nước nên bỏ thuế vốn và miễn thuế thu nhập cho công ty trong 7-10 năm. Việc thu thuế vốn đối với ngân sách cấp cho doanh nghiệp nhà nước nói chung, VINARE như hiện nay là không hợp lý. Nhà nước không thể đánh thuế trên chính vốn của Nhà nước. Thực chất thuế vốn là biện pháp mang tính chất thu hồi vốn của Nhà nước. Việc trừ thuế vốn vào lãi sau thuế làm cho VINARE không có điều kiện bổ sung các quỹ dự phòng kỹ thuật và quỹ phát triển kinh doanh. Ngoài việc bỏ thuế vốn thì Nhà nước cần miễn thuế thu nhập cho VINARE. VINARE không thuần tuý là một tổ chức kinh doanh mà còn đóng vai trò của một cơ quan quản lý nhà nước đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam. Để tăng cường năng lực cho VINARE thì Nhà nước phải miễn thuế thu nhập trong khoảng thời gian nhất định (10 năm). Năm 2001, VINARE đóng góp vào ngân sách nhà nước gần 5 tỉ đồng.Nếu như được miễn thuế trong 10 năm thì công ty được bổ sung thêm khoảng 50 tỉ đồng. Số vốn bổ sung đó cộng với cố gắng tăng cường các quỹ dự phòng kỹ thuật, quỹ phát triển kinh doanh, công ty sẽ tăng cường đáng kể tiềm lực tài chính của mình. Nhờ đó, VINARE có thể đứng vững trên thị trường trong điều kiện cạnh tranh có sự tham gia hoạt động của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Là một công ty TBH chuyên nghiệp trong nước, ở một chừng mực nào đó, VINARE có những lợi thế cạnh tranh tự nhiên: nhận thức đầy đủ và hiểu biết rõ hơn về ngôn ngữ, môi trường cùng với những đặc điểm về chính trị, xã hội và pháp lý trong nước, tập quán, cách xâm nhập thị trường, mối quan hệ cá nhân lâu dài với các công ty khác trên thị trường và các cơ quan giám sát IV. Một số biện pháp nhằm nâng cao nghiệp vụ TBH xây dựng lắp đặt ỏ VINARE 1. Tăng tỉ lệ hoa hồng. Như đã trình bày ở phần thứ nhất, phương pháp TBH được sử dụng trong TBH XDLĐ là phương pháp tỉ lệ. Trong TBH tỉ lệ, các giá mà người nhận tái phải trả để nhận được dịch vụ chính là hoa hồng phí. Tỉ lệ hoa hồng trong nước do VINARE trả và tỉ lệ hoa hồng do các công ty nước ngoài trả chênh nhau ít nhất là 5%. Đó là lí do chính để các công ty bảo hiểm gốc không muốn nhượng cho VINARE phần ngoài bắt buộc mà thường nhượng ra nước ngoài. Để đạt được mục tiêu giành được phần tự nguyện từ các công ty bảo hiểm gốc thì VINARE phải đưa ra tỉ lệ hoa hồng cạnh tranh. Cụ thể: - Tăng tỉ lệ hoa hồng, thậm chí có thể ngang bằng với tỉ lệ các công ty nước ngoài trả. Cho đến nay, thì nghiệp vụ bảo hiểm XDLĐ vẫn là nghiệp vụ có kết quả rất tốt hoàn toàn cho phép VINARE tăng tỉ lệ hoa hồng. Mặc dù tăng tỉ lệ hoa hồng có thể làm giảm kết quả kinh doanh của từng dịch vụ nhưng xét tổng thể VINARE sẽ thu được tổng lợi nhuận lớn hơn do số lượng dịch vụ tăng lên. Hiệu ứng này giống như chính sách giảm giá bán sản phẩm trong lĩnh vực sản xuất nhằm tăng lượng sản phẩm bán ra. Tăng tỉ lệ hoa hồng là việc làm tất yếu nếu muốn giành được thêm nhiều dịch vụ tự nguyện. Tỉ lệ hoa hồng cạnh tranh cộng với những lợi thế của công ty chắc chắn sẽ giúp nhận được nhiều dịch vụ tự nguyện hơn từ các công ty trong nước. - Bổ sung điều khoản hoa hồng theo lãi vào các hợp đồng nhận tái. Các công ty bảo hiểm gốc khi nhượng cho các công ty bảo hiểm nước ngoài thì ngoài hoa hồng cố định thông thường ( thủ tục phí ) còn nhận thêm được hoa hông theo lãi với tỉ lệ 15- 17% lãi của hợp đồng TBH. trong khi đó trong các hợp đồng TBH cố định của VINARE thì chỉ có hoa hồng thông thường. Vì vậy, cùng với việc tăng tỉ lệ hoa hồng thì trong thời gian tới để thu hút được phần tự nguyện từ các công ty bảo hiểm gốc thì cũng cần thiết đưa điều khoản hoa hồng theo lãi vào trong các hợp đồng TBH. Tác dụng của biện pháp này cũng tương tự như việc tăng tỉ lệ hoa hồng. Ngoài ra,còn có tác dụng như một biện pháp giữ khách hàng bởi vì điều khoản này đảm bảo tỉ lệ lãi thích hợp giữa người nhượng và người nhận, khiến cho người nhượng quan tâm đến chất lượng của dịch vụ. Công ty chưa đưa điều khoản này vào hợp đồng nhận tái là do mới thành lập, nghiệp vụ TBH XDLĐ cũng như các nghiệp vụ khác mới triển khai (ở Việt Nam chủ yếu là bảo hiểm xây lắp là dài hạn), cho đến nay vẫn chưa xác định được kết quả của các hợp đồng nhận tái do vậy chưa có số liệu thống kê để xác định tỉ lệ thích hợp. Trong thời gian tới cần phải đưa điều khoản này vào hợp đồng đối với những khách hàng nhượng cho công ty phần TBH ngoài bắt buộc lớn, đặc biệt là những công ty mới ra đời- những công ty mà VINARE sẽ có điều kiện nhận được phần tự nguyện lớn để thực hiện tốt chiến lược giữ khách. Tóm lại, việc tăng hoa hồng phí hiện nay là cần thiết. Nó không những cho phép công ty đạt được kết quả kinh doanh tốt hơn mà còn đảm bảo cho công ty thực hiện tốt chức năng của mình: giảm lượng phí chuyển ra nước ngoài, tăng mức giữ lại cho thị trường bởi vì mức chuyển nhượng lại cho các công ty trong nước tỉ lệ thuận với lượng phí mà công ty nhận được. 2. Chú trọng chính sách giữ khách hàng: Muốn duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh nói chung, nghiệp vụ TBH XDLĐ nói riêng trong điều kiện thị trường bảo hiểm cạnh tranh, trước hết công ty phải bảo vệ được phần thị trường hiện có của mình. Nhất là trong điều kiện hiện nay khi VINARE mất một phần đáng kể phần TBH tự nguyện từ các công ty bảo hiểm gốc do khách hàng cũng không duy trì các hợp đồng TBH như những năm đầu các công ty này hoạt động. VINARE phải hết sức chú trọng tới việc giữ khách hàng, đảm bảo các hợp đồng ký kết được tái tục ngầm, không để xảy ra tình trạng các công ty bảo hiểm gốc không tái tục phần TBH tự nguyện. Có thể dễ dàng thấy được lợi ích của việc giữ một khách hàng cũ so với có một khách hàng mới ở các điểm sau: - Tiết kiệm được chi phí: để có một khách hàng mới công ty phải bỏ ra các chi phí nhất là những chi phí ban đầu như chi phí thông tin để lôi kéo khách hàng, chi phí cho hoạt động thương mại, thậm chí cả chi phí "chiêu đãi khách hàng" và cuối cùng là chi phí quản lý gắn với việc lập một khách hàng mới v.v... Tất nhiên công ty sẽ tiết kiệm được những chi phí này nếu nhu khách hàng cũ tái tục hợp đồng. - Xác định được các kết quả kỹ thuật: đối với các công ty bảo hiểm- các khách hàng cũ VINARE sẽ xác định được các kết quả kỹ thuật như phí gốc thu được, tỉ lệ tổn thất v.v... từ dó có chiến lược thích hợp cho việc kinh doanh. Việc giữ khách hàng cũng góp phần ổn định các đảm bảo đã kí kết, ổn định số phí nhận tái và điều quan trọng là quan hệ tin cậy - một nguyên tắc hàng đầu cần coi trọng trong TBH. - Tăng mức nhượng tái của khách hàng: tuỳ thuộc vào tiến triển về kinh tế, những thay đổi liên quan; chính sách; thái độ của công ty, công ty bảo hiểm gốc sẽ có nhu cầu kí kết các đảm bảo mới, tăng phần nhượng TBH tự nguyện cho công ty. - Lôi kéo khách hàng mới: việc giữ khách hàng không những làm ổn định và tăng doanh số phí nhận tái của công ty mà còn có tác dụng mang lại cho công ty những khách hàng mới, nhất là những công ty bảo hiểm gốc mới ra đời mà khách hàng cũ là một cổ đông hoặc có phần vốn góp lớn. Mối liên hệ này sẽ như một dây chuyền nếu được mở rộng hoặc khuyến khích bằng các công cụ hay đòn bẩy kinh tế liên quan đến lợi ích của khách hàng. Để giữ được khách hàng, công ty cần quan tâm đến những yếu tố có ảnh hưởng đến mối quan hệ với khách hàng nhằm tìm ra những điểm hạn chế có ảnh hưởng đến sự ổn định của khách hàng. Cụ thể công ty cần phải chú trọng tới các vấn đề vấn đề sau: + Chính sách giá: chính sách giá trong TBH XDLĐ chính là chính sách chi trả hoa hồng. Để giữ khách công ty cần luôn điều chỉnh tỉ lệ hoa hồng cho phù hợp với hoàn cảnh các khách hàng theo hướng làm cho tỉ lệ hoa hồng ngày càng hấp dẫn hơn (có cả hoa hồng theo lãi). Tuy nhiên, nói chung khách hàng thường quan tâm hơn tới dịch vụ mà công ty đưa lại. Công ty phải chú ý đến chính sách dịch vụ. + Chính sách dịch vụ: nói tới chính sách dịch vụ tức là nói tới chất lượng dịch vụ TBH mà VINARE cung cấp cho khách hàng. Để nâng cao chất lượng dịch vụ TBH cung cấp cho khách hàng trong bảo hiểm XDLĐ, trên cơ sở phân tích, đánh giá dịch vụ TBH đã cung cấp các cán bộ nghiệp vụ cần: - Luôn chủ động tiếp xúc với các công ty bảo hiểm gốc khi các hợp đồng TBH sắp sửa kết thúc để thảo luận, trao đổi với các công ty về việc thực hiện hợp đồng, sửa đổi, bổ sung các điều kiện, điều khoản của hợp đồng cho phù hợp với sự biến đổi của thị trường và các yếu tố có liên quan nhằm đảm bảo lợi ích giữa hai bên. - Thu xếp các hợp đồng nhanh chóng, đặc biệt là các hợp đồng nhận tạm thời để khách hàng chủ động trong khai thác dịch vụ. Khi nhận được bản chào tái phải lập tức xem xét kỹ và nhanh để ra quyết định. - Giải quyết bồi thường nhanh gọn, cố gắng tối đa trong việc phối hợp, giúp đỡ các công ty bảo hiểm gốc giải quyết khiếu nại lớn, phức tạp. + Tăng cường công tác tư vấn, giúp đỡ các công ty bảo hiểm gốc trong khai thác dịch vụ: Sự trung thành của khách hàng phải dựa trên việc xây dựng mối quan hệ tích cực và thường xuyên giữa công ty và khách hàng. Mối quan hệ giữa VINARE và các công ty bảo hiểm gốc không chỉ hạn chế ở mối quan hệ gọi phí và thanh toán bồi thường mà bên cạnh đó VINARE cần tăng cường vai trò của công ty TBH chuyên nghiệp: giúp đỡ tư vấn cho các công ty bảo hiểm gốc về các vấn đề có liên quan, đặc biệt là việc khai thác dịch vụ. Việc khai thác các dịch vụ bảo hiểm XDLĐ rất khó khăn và phức tạp. Nó đòi hỏi các chuyên gia với trình độ cao, đáp ứng được chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, do kinh nghiệm và chuyên môn còn hạn chế, các công ty bảo hiểm trong nước gặp rất nhiều khó khăn trong việc khai thác dịch vụ. Hầu hết các dịch vụ bảo hiểm XDLĐ trong thời gian vừa qua, đặc biệt là của dịch vụ bảo hiểm cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài hoặc từ nguồn vốn vay từ nước ngoài do các công ty bảo hiểm nước ngoài môi giới bảo hiểm và ngoài nước khai thác sau đó mới chuyển cho các công ty bảo hiểm Việt Nam. Các công ty bảo hiểm Việt Nam chịu thiệt thòi rất lớn vì môi giới phí rất cao, có khi chiếm 12 - 15% tổng chi phí gốc. Hơn nữa các công ty này lại thừơng phải TBH theo chỉ định cho công ty TBH nước ngoài với tỉ lệ rất cao mà chỉ nhận được hoa hồng rất thấp, chỉ 5 - 7%, chỉ để lại lượng phí rất nhỏ cho thị trường bảo hiểm trong nước. Như vậy, không riêng gì các công ty bảo hiểm gốc trong nước mà ngay cả VINARE cũng thiệt thòi. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng của các cán bộ nghiệp vụ của công ty là với năng lực, trình độ và kinh nghiệm của mình cố gắng tối đa giúp các công ty bảo hiểm gốc khai thác dịch vụ một cách trực tiếp, mở rộng thị phần bảo hiểm XDLĐ cho các công ty này. Làm được như vậy có 2 tác dụng: - Củng cố mối quan hệ giữa VINARE và các công ty gốc thực hiện chính sách trung thành hoá khách hàng. - Tăng được phần TBH bắt buộc do tăng phí gốc và tăng được phần TBH tự nguyện bởi vì các công ty bảo hiểm gốc khi khai thác được dịch vụ với sự giúp đỡ của VINARE chắc chắn sẽ ưu tiên tái cho VINARE một tỉ lệ không nhỏ. 3. Mở rộng phạm vi nhận tái ra ngoài nước. Bản chất của TBH đã mang tính quốc tế. Vì vậy, để tăng doanh số phí nhận tái cũng như phân tán rủi ro trong nước ra ngoài khu vực và thế giới thì VINARE cần phải đẩy mạnh hoạt động nhận tái từ ngoài nước. Tất nhiên công việc này không phải là đơn giản bởi vì thị trường TBH thế giới và khu vực hiện nay có tính cạnh tranh rất cao do năng lực TBH dư thừa. Các công ty TBH lớn như Munich Re, Swiss Re có chi nhánh ở khắp nơi trên thế giới và đặc biệt đang rất quan tâm đến các thị trường đang phát triển Đông Nam á. Các nước này đều ưu tiên cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng làm tiền đề cho phát triển kinh tế vì vậy tiềm năng của bảo hiểm XDLĐ là rất lớn. Tuy nhiên, VINARE có thể tăng cường nhận TBH từ nước ngoài bằng cách: Tăng cường trao đổi dịch vụ với các công ty nhận TBH nước ngoài, nhất là các nước châu á và ASEAN. Trao đổi dịch vụ là việc một công ty TBH nhượng lại một phần dịch vụ mà công ty này nhận được cho một công ty khác, đổi lại công ty đó cũng nhượng lại một phần tương ứng mà công ty nhận được cho công ty kia. Trao đổi dịch vụ thường được tiến hành theo hợp đồng số thành. Đây là quan hệ có đi có lại nhằm phân tán rủi ro của một khu vực nhất định. Trong năm 1998, VINARE có thực hiện trao đổi dịch vụ với một công ty bảo hiểm nước ngoài. Đây là bước thử nghiệm trong kinh doanh TBH quốc tế, phản ánh những cố gắng lớn của các cán bộ nghiệp vụ và lãnh đạo. Trong thời gian tới, cần phải mạnh dạn đẩy mạnh trao đổi dịch vụ nhằm đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, đa dạng hoá khách hàng và tăng doanh số phí nhận tái. Để làm tốt việc đó các cán bộ nghiệp vụ cần phải được cung cấp thông tin tốt để có thể đánh giá được rủi ro và tính được hiệu quả kinh doanh. Lãnh đạo công ty và Bộ Tài chính cần phải có những trợ giúp để có thể thực hiện tốt việc nhận tái từ bên ngoài- một hoạt động mà Bộ Tài chính rất khuyến khích. Mở văn phòng đại diện ở khu vực. Kinh nghiệm thành công của Công ty TBH quốc gia Hàn Quốc Korean Re - công ty TBH đứng thứ 37 trong thị trường TBH thế giới theo xếp hạng của S&P cho thấy để mở rộng hoạt động nhận tái cần phải mở các chi nhánh hoặc văn phòng đại diện ở nhiều nước. Korean Re thành lập năm 1963, đến năm 1969 đã thành lập chi nhánh đầu tiên ở Việt Nam (tuy nhiên bị đóng cửa vào 4/1975). Korean Re có chi nhánh ở Singapore và văn phòng đại diện ở hầu hết các nước trong khu vực cũng như trên thị trường Luân Đôn và New York. Với tiềm lực như hiện nay, VINARE không có tham vọng lớn thành lập ngay chi nhánh hay văn phòng đại diện ở các nước ngoài khu vực. Trước mắt cần thành lập văn phòng ở khu vực, có thể đặt ở Singapore hoặc Malaysia- những quốc gia có thị trường BH tương đối phát triền. Chi nhánh được thành lập sẽ có nhiều tác dụng: - Nghiên cứu thị trường bảo hiểm và TBH khu vực, thu thập thông tin cần thiết cho hoạt động nhận tái. - Có điều kiện tiếp xúc, khai thác các dịch vụ phù hợp. - Tiến hành giao dịch nhượng TBH, nhất là các dịch vụ bảo hiểm tạm thời. Văn phòng đại diện sẽ hoạt động có hiệu quả trong tương lai không xa khi mà việc hợp tác về tài chính trong đó có hợp tác về bảo hiểm giữa các thành viên ASEAN ngày càng được đẩy mạnh. Một thị trường bảo hiểm khu vực rộng lớn cùng những quy định thống nhất về các điều kiện, điều khoản, biểu phí tạo điều kiện cho văn phòng này khai thác nhiều dịch vụ. 4. Triển khai phương pháp TBH mới. Xuất phát từ đặc thù của bảo hiểm XDLĐ mà phương pháp TBH chủ yếu được sử dụng trong TBH XDLĐ là phương pháp tỉ lệ. Nói như vậy không có nghĩa là không thể sử dụng phương pháp phi tỉ lệ. Nghiệp vụ XDLĐ là một nghiệp vụ có kết quả tốt, tỉ lệ tổn thất thường rất thấp vì thế hầu hết các công ty bảo hiểm gốc triển khai nghiệp vụ này đều ấn định mức giữ lại khá cao. Việc ấn định mức giữ lại cao như vậy sẽ rất nguy hiểm cho công ty bảo hiểm nếu xảy ra tổn thất lớn do sự tích tụ tập trung rủi ro hoặc do rủi do thiên tai. Để không ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh các công ty bảo hiểm trong nước chắc chắn sẽ muốn có những đảm bảo cho mức giữ lại bằng cách tìm đến hợp đồng phi tỉ lệ, mà thông thường là hợp đồng vượt mức.Nhưng mặt khác, công ty bảo hiểm gốc (trừ Bảo Việt) có doanh số phí thu được từ nghiệp vụ bảo hiểm XDLĐ không lớn lắm trong cơ cấu phí. Và như vậy sẽ không kinh tế nếu thu xếp một hợp đồng vượt mức chỉ để bảo vệ cho một số ít dịch vụ. Các công ty bảo hiểm gốc sẽ phải tìm tới giải pháp thu xếp hợp đồng vượt mức bảo vệ cho nghiệp vụ XDLĐ và một nghiệp vụ khác có tính chất tương đối gần với bảo hiểm XDLĐ. Thực tế cho thấy, nghiệp vụ bảo hiểm cháy có tính chất gần giống với bảo hiểm XDLĐ. Từ những phân tích trên có thể thấy, VINARE có thể triển khai TBH phi tỉ lệ cung cấp sự bảo về mức giữ lại nghiệp vụ bảo hiểm XDLĐ và bảo hiểm cháy cho các công ty bảo hiểm gốc. Phòng nghiệp vụ TBH kỹ thuật cần phải phối hợp với phòng TBH phi hàng hải để soạn ra các điều kiện, điều khoản hợp đồng TBH vượt mức để đáp ứng nhu cầu khách hàng. Như vậy, vừa cạnh tranh được sự đơn điệu trong hoạt động kinh doanh lại tăng thêm phí nhận tái cho nghiệp vụ TBH XDLĐ và phi hàng hải. 5. Xây dựng hệ thống môi giới của công ty. Trong hoạt động TBH, các môi giới đóng vai trò rất quan trọng. Nghiệp vụ TBH chủ yếu được giải quyết thông qua môi giới TBH, đó là cách làm thông thường và thành công trên thế giới. ở Việt Nam hiện nay, chỉ có duy nhất một công ty môi giới chuyên nghiệp được phép hoạt động là AON - liên doanh giữa Bảo Việt với AON-một công ty môi giới lớn nhất thế giới. Trong nghiệp vụ TBH XDLĐ, VINARE vẫn nhận tái trực tiếp từ các công ty bảo hiểm gốc mà không thông qua môi giới. Nhưng các công ty bảo hiểm trong nước chỉ chiếm 30 - 40% thị trường bảo hiểm XDLĐ trong khi đó phần còn lại (60-70%) là của các công ty bảo hiểm nước ngoài dù các công ty này chưa được phép hoạt động tại Việt Nam. Phần 60-70% này về mặt danh nghĩa là do các công ty bảo hiểm bảo hiểm trong nước tái theo chỉ định nhưng thực ra chính các công ty bảo hiểm nước ngoài mới là người bảo hiểm chính bởi vì các công ty này thực hiện khai thác bất hợp pháp rồi giới thiệu cho một công ty bảo hiểm trong nước cấp đơn với điều kiện, điều khoản, biểu phí do họ áp đặt và phải ưu tiên TBH cho họ. Như vậy VINARE đã mất đi một phần lớn các dịch vụ trên thị trường. Môi giới TBH là người được người bảo hiểm uỷ quyền thu xếp TBH. Sau khi cùng với người bảo hiểm thương lượng về các điều kiện điều khoản cần đạt được, các môi giới sẽ tìm cách “bán” được dịch vụ với các điều kiện tốt nhất. Các môi giới mang lại dịch vụ cho các nhà nhận tái và người nhận tái phải trả hoa hồng môi giới cho môi giới mặc dù môi giới được người bảo hiểm uỷ thác. Vai trò các môi giới giống như chiếc cầu giữa người bảo hiểm với người nhận tái. Thông thường một môi giới tiến hành cả môi giới bảo hiểm và môi giới TBH. Trong nhiều trường hợp sau khi được khách hàng uỷ thác các môi giới chào dịch vụ và kèm theo điều kiện phải TBH cho một công ty nào đó ( TBH chỉ định ) Nhận TBH qua môi giới "đắt" hơn việc nhận trực tiếp vì phải trả hoa hồng môi giới. Tuy nhiên, môi giới là người am hiểu thị trường và thường được các khách hàng uỷ thác. Đây là ưu thế mà các công ty nhận TBH, công ty bảo hiểm không có được. Chính các môi giới đem lại nhiều dịch vụ cho các công ty nhận tái hoặc công ty bảo hiểm. Như vậy các môi giới có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các công ty nhận tái cũng như các công ty bảo hiểm. Khi thị trường bảo hiểm phát triển, quan hệ TBH chủ yếu thực hiện qua các môi giới TBH, môi giới bảo hiểm. Vì thế để tăng được nguồn dịch vụ VINARE cần thiết phải có kế hoạch xây dựng cho mình hệ thống môi giới. Các môi giới có vai trò như những người khai thác dịch vụ cho công ty nhưng tất nhiên vẫn phải theo đúng nguyên tắc hoạt động môi giới: đạt được điều kiện tốt nhất cho khách hàng. Các môi giới riêng các công ty tất nhiên luôn ưu tiên mang lại dịch vụ cho công ty đến mức tối đa có thể. Việc xây dựng được một hệ thống môi giới riêng như vậy không đơn giản. Công ty phải nghiên cứu kỹ những môi giới có uy tín và xác lập mối quan hệ trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Môi giới sẽ ưu tiên mang dịch vụ cho VINARE, đổi lại VINARE cũng phải có những ưu tiên cho môi giới. 6. Tiếp tục hoàn thiện hoạt động nhượng tái. Hoạt động nhượng tái về bản chất là việc TBH một lần nữa của người nhận TBH nhằm phân tán rủi ro. Nhượng tái cũng là một chức năng quan trọng của VINARE. Phương châm của hoạt động nhượng tái là ưu tiên chuyển nhượng tối đa dịch vụ cho các công ty bảo hiểm trong nước và phải đạt hiệu quả cao nhất.Cụ thể cần: * Tiếp tục tăng tỉ lệ nhượng cho các công ty trong nước, giảm tỉ lệ nhượng cho các công ty nước ngoài. Thực tế cho thấy khả năng tài chính của các công ty trong nước càng ngày càng tăng lên, có đủ khả năng để nhận thêm dịch vụ. Các cán bộ nghiệp vụ tiếp tục thay đổi cấu trúc hợp đồng nhượng tái theo hướng giảm phần của các công ty nước ngoài, tăng phần nhượng cho các công ty trong nước. Nhượng cho các công ty trong nước không những là biện pháp để thực hiện tốt nhiệm vụ của công ty mà còn có tác dụng thắt chặt mối quan hệ với các công ty trong nước, tăng cường trao đổi dịch vụ. * Thu xếp hợp đồng bảo vệ cho mức giữ lại của nghiệp vụ. Mức giữ lại thuần nghiệp vụ TBH XDLĐ tăng dần và với mức như hiện nay là khá cao. Sự gia tăng mức giữ lại kéo theo sự gia tăng rủi ro. Nếu như có một sự cố thiên tai xảy ra thì trách nhiệm bồi thường của VINARE sẽ rất lớn. Vì vậy, trước khi tính tới việc phát triển nghiệp vụ, mở rộng thị trường cần phải chú trọng đến sự ổn định, bảo toàn vốn. Sự bất ổn định về thời tiết và sự xuất hiện của các cơn bão với sự tàn phá lớn là những nguy cơ đe doạ tới hoạt động kinh doanh nghiệp vụ TBH XDLĐ. Công ty cần phải thu xếp một hợp đồng vượt mức cho sự cố thiên tai để bảo vệ phần giữ lại của công ty tránh để ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh nghiệp vụ. 7. Nâng cao trình độ cán bộ nghiệp vụ. Trong mọi hoạt động thì vai trò của nhân tố con người giữ vị trí quyết định. Vì vậy, để phát triển nghiệp vụ TBH XDLĐ không thể không nói đến nhân tố con người. Như đã nhiều lần nói đến trong các phần trên TBH đòi hỏi phải có những chuyên gia có trình độ kỹ thuật nghiệp vụ cao đáp ứng được chuẩn mực quốc tế. Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ của VINARE phần lớn còn rất trẻ kinh nghiệm chưa có nhiều trong khi đó trình độ còn hạn chế. Trong những năm tới công ty cần phải chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nghiệp vụ trẻ này. Công ty cần tạo điều kiện cho các cán bộ này có cơ hội đào tạo ở các nước có trình độ bảo hiểm phát triển để tiếp thu những kiến thức nghiệp vụ hiện đại, học hỏi được những kinh nghiệm của các chuyên gia có trình độ. Đi đôi với đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cần phải tạo điều kiện cho các cán bộ nâng cao trình độ ngoại ngữ, đặc biệt là ngoại ngữ chuyên ngành bảo hiểm. 8. Nâng cấp hệ thống thông tin Trong thời đại bùng nổ thông tin, vai trò của công nghệ thông tin hết sức quan trọng. Trong kinh doanh bảo hiểm ngày nay không thể không nói đến vài trò quan trọng của hệ thống thông tin. Công nghệ thông tin với sự xuất hiện của máy tính đã góp phần rất lớn vào việc giảm nhẹ sức lao động trong ngành bảo hiểm. Hiện nay, hầu hết các công ty bảo hiểm đều sử dụng các chương trình tính phí trên máy tính, dùng máy tính để quản lý các hợp đồng và xử lý thông tin. VINARE đưa máy tính vào giải quyết công việc xử lý nghiệp vụ, quản lý hợp đồng ngay từ khi thành lập. Nghiệp vụ TBH XDLĐ là nghiệp vụ áp dụng tin học nhiều và có hiệu quả .Nhờ vậy khối lượng công việc được giảm đáng kể mà chất lượng xử lý nghiệp vụ rất cao, nhanh chóng. Tuy nhiên, do kinh phí còn hạn hẹp công ty không có điều kiện đổi mới hệ thống máy tính đa phần là cũ và chưa có chính sách khuyến khích hợp lý nên hệ thống thông tin chậm được cải tiến, hoạt động thiếu ổn định gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của nghiệp vụ. Vì vậy, theo em, công ty nên: - Đầu tư đổi mới hệ thống máy tính : thay thế các máy tính đã cũ bằng các máy mới của các hãng danh tiếng, đặc biệt là máy chủ. Sự ổn định của máy chủ quyết định tới toàn bộ hoạt động của hệ thống xử lý thông tin. - Có biện pháp khuyến khích hoàn thiện, cải tiến các chương trình máy tính,tận dụng tiềm năng chất xám của những cán bộ có trình độ tin học Kết luận Tóm lại, qua ba phần ở trên ,luận văn đã nêu bật những nét cơ bản của TBH nói chung, thực tiễn của TBH XDLĐ tại VINARE. Qua đó, luận văn đã cho thấy những bất cập hiện tại của hoạt động TBH XDLĐ xét trên các mặt cơ sở pháp lý, thị trường TBH và kỹ thuật TBH. Từ những bất cập đó, với những xu hướng phát triển của nhu cầu TBH XDLĐ tại Việt nam ,luận văn đã đề ra một số giải pháp cơ bản mang tính khả thi nhằm củng cố và phát triển hoạt động BH cũng như TBH XDLĐ. Ngành BH đối với mọi quốc gia là một ngành kinh tế hết sức nhạy cảm với những thách thức của quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Những thách thức sẽ càng lớn đối với một nước có nền kinh tế đang phát triển với ngành BH non trẻ như Việt nam. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Thạc sỹ Phạm Thị Định, giảng viên bộ môn Kinh tế bảo hiểm, trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà nội cùng toàn thể cán bộ nghiệp vụ phòng TáI bảo hiểm kĩ thuật dầu khí ,cong ty TáI bảo hiểm Quốc gia Việt Nam . Tài liệu tham khảo Chương XVI: “Tái bảo hiểm” .Giáo trình Kinh tế bảo hiểm , trường Đại học Kinh tế Quốc dân ,Hà Nội,Nhà xuất bản Thống kê,2000. Tạp chí : “Thông tin thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm”, Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam,năm 1999,2000, 2001. Tài liệu Tái bảo hiểm Kĩ thuật của công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (bản tiếng Anh). Tài liệu về Bảo hiểm Xây dựng lắp đặt của công ty Tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam . Các tạp chí về Tái bảo hiểm của MUNICH RE và SWESS RE. Baó cáo Tài chính năm 1999, 2000 của VINARE.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34293.doc
Tài liệu liên quan