Luận văn Phát triển thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Đối với phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam, một khi phát sinh nhu cầu về vốn để đầu tư máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển nhằm đổi mới công nghệ hay mở rộng nhà xưởng, mở rộng thị phần đều nghĩ đến việc huy động nguồn vốn từ bà con, họ hàng, bạn bè . Và tiếp theo đó là một kênh thông thường và phổ biến nhất: sử dụng tín dụng từ các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, liệu đây có phải là những giải pháp duy nhất và hiệu quả nhất cho doanh nghiệp hay không? Câu trả lời sẽ dẫn chúng ta đến một khái niệm khá mới với đa phần các doanh nghiệp, đó chính là khái niệm về một nghiệp vụ của các TCTD: Nghiệp vụ Cho thuê tài chính (CTTC). Vốn đã xuất hiện rất lâu từ những năm trước Công Nguyên, chính vì vậy, hoạt động CTTC trên thế giới đã có một tiền đề phát triển rất vững chắc. Và cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, của khoa học kỹ thuật, CTTC đã khẳng định những thế mạnh của mình để trở thành một trong những nghiệp vụ thường xuyên nhất, quan trọng nhất trong hành trình phát triển của doanh nghiệp, của nền kinh tế. Hoạt động CTTC tại một số nước phát triển chiếm một con số khá ấn tượng, ví dụ như Mỹ thì tỷ trọng CTTC tính trên GDP ước khoảng 1,9%, của Ý là 2%, Đức là 2,3%, Nhật Bản là 1,7%, Slovakia là 4,3% . Và như vậy, mức độ xâm nhập của CTTC vào thị trường các nước phát triển là rất lớn. Trên cơ sở kế thừa và học tập kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển, nhằm khắc phục nhược điểm nghiệp vụ cho vay và khuyến khích Doanh nghiệp đổi mới máy móc thiết bị, áp dụng công nghệ mới để đẩy mạnh sản xuất, hoạt động CTTC tại Việt nam đã được hình thành trên cơ sở tín dụng thuê mua, và chính thức đi vào hoạt động từ 1995 theo Nghị định 64/CP của Chính phủ. Nay là Nghị định 16/CP, Nghị định 65/CP sửa đổi, bổ sung NĐ 16 và một số thông tư hướng dẫn khác. Trải qua hơn 10 năm, các công ty cho thuê tài chính hoạt động trong nước đã phần nào đáp ứng được những mục tiêu mà nền kinh tế đã đặt ra và đòi hỏi. Đó là tạo ra một kênh dẫn vốn mới với những đặc trưng và tiện ích riêng, giúp các Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có thể sử dụng để phát triển sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, so với một thị trường được đánh giá là rất tiềm năng cho hoạt động CTTC phát triển thì thị phần mà các Cty CTTC đã khai thác được là không đáng kể. Tỷ lệ <0.7%/GDP là rất xa so với đánh giá của các chuyên gia: “Thị trường CTTC của Việt Nam sẽ rất nhộn nhịp trước và trong suốt lộ trình hội nhập”. Trước thực tế trên, tôi quyết định chọn đề tài: “PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM” để có cơ hội tiếp cận và hiểu sâu hơn hoạt động của các Công ty CTTC tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, hiểu được vì sao hoạt động CTTC tại Việt Nam vẫn chưa thể phát triển nhanh và mạnh, và vì sao phần lớn các doanh nghiệp vẫn chưa mặn mà với hình thức được đánh giá là chứa nhiều ưu điểm này. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Bằng việc chọn đề tài này, với cơ hội tiếp cận và tìm hiểu rõ hoạt động CTTC tại Việt Nam, tôi muốn đưa ra một số kiến nghị với mong muốn góp phần đưa hoạt động CTTC tại Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn, thực tiễn hơn để thị trường CTTC thực sự trở thành một kênh cung vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp và cho nền kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời những giải pháp đề ra trong nghiên cứu này cũng là những giải pháp thiết thực để các công ty CTTC trên thị trường hiện nay có thể tham khảo và thực hiện nhằm mở rộng hơn nữa phạm vi, quy mô hoạt động cũng như phát huy vai trò của mình trong quá trình phát triển của nền kinh tế nước ta. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP DỮ LIỆU Để phục vụ cho công tác nghiên cứu, tôi đã thu thập tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau. Cụ thể như sau: ã Nguồn tài liệu đã được phổ biến rộng rãi trên các phương tiện truyền thông đại chúng: sách báo, tạp chí chuyên ngành, internet . Có liên quan đến lĩnh vực CTTC. ã Nguồn tài liệu sử dụng trong các hội thảo về nghiệp vụ CTTC mà tôi đã tham dự: Hội thảo “Cho thuê tài chính – Giải pháp hiệu quả cho các Doanh nghiệp vừa và nhỏ” do Công ty Cho thuê Tài Chính Ngân hàng Sài gòn Thương Tín tổ chức tháng 03/2007, Hội thảo “ Cho thuê Tài chính đối với các doanh nghiệp trong Khu Chế xuất” tại triển lãm các Khu Chế Xuất Tp. HCM tháng 05/2007 ã Các tài liệu về số liệu hoạt động của Công ty Cho Thuê Tài Chính của các công ty CTTC trên thị trường Việt Nm, các số liệu do Ngân Hàng Sài Gòn Thương Tín đã được cung cấp trong quá trình nghiên cứu. ã Và một số nguồn tài liệu khác như: Các văn bản pháp luật quy định về hoạt động CTTC, các nhận xét, ý kiến của một số chuyên gia trong ngành 3.2. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH DỮ LIỆU ã Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng khá thường xuyên để thấy được xu hướng biến động cũng như tương quan giữa các trường hợp để từ đó rút ra nhận xét về mức độ phát triển, mức độ xâm nhập của hoạt động CTTC vào các thị trường khác nhau. ã Phương pháp tỷ lệ cũng được kết hợp với phương pháp so sánh để thấy được sự thay đổi về tỷ lệ phần trăm giúp cho người đọc dễ nhận thấy được hiệu quả của các nội dung, các khía cạnh mà nghiên cứu đề cập đến. ã Phương pháp chuyên gia có sử dụng trong nghiên cứu qua việc tham khảo các nhận định, ý kiến của các chuyên gia trong ngành nhằm mang lại giá trị thực tiễn cũng cố cho các nhận định của cá nhân về các nội dung nghiên cứu đã trình bày. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Với mục đích nghiên cứu đã đề ra, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là tổng quan chung về thị trường CTTC tại Việt Nam và có bổ sung một góc nhìn cụ thể dựa vào việc xâm nhập thực tế hoạt động CTTC tại Công ty Cho Thuê Tài Chính Ngân hàng Sài gòn Thương Tín. 5. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI Qua các số liệu và thông tin thu thập được, kết hợp các phương pháp nghiên cứu và kiến thức đã được trang bị, đề tài đưa ra những nhận định liên quan đến thị trường CTTC cũng như hoạt động CTTC của các Công ty CTTC tại Việt Nam. Từ đó, đề ra những giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường CTTC tại Việt Nam trong thời gian tới. 6. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Để đạt được mục đích nghiên cứu mà đề tài đã đề ra, nội dung của đề tài sẽ bao gồm các nội dung sau: ã Tìm hiểu về sự phát triển của hoạt động CTTC trên thế giới ã Sự thâm nhập của hoạt động CTTC vào Việt Nam và đánh giá tiềm năng phát triển. ã Hoạt động thực tế của các Công ty CTTC tại Việt Nam và đánh giá những thành tựu, hạn chế. ã Trên cơ sở hoạt động thực tế của các Công ty CTTC đã nêu trên, kiến nghị những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của hoạt động CTTC tại Việt Nam trong thời gian tới. 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN: Với nội dung đã đề cập trên, Luận văn bao gồm 4 chương như sau: ã Chương 1: TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH ã Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA ã Chương 3: NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG: CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG SÀI GÒN THƯƠNG TÍN ã Chương 4: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI.

pdf85 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1556 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thời điểm 30/06/2007, số liệu huy động của SBL đạt 20,88 tỷ VNĐ - chỉ chiếm 11% nguồn vốn hoạt động. Điều này có nghĩa là mức huy động tiết kiệm tại SBL còn quá ít so với nhu cầu về vốn. Nếu so sánh với số dư nợ cam kết đến cùng thời điểm này là 189 tỷ thì tổng số vốn hiện tại của SBL không đủ để đáp ứng. Một nguồn vốn khác mà các công ty CTTC đang có là nguồn vốn từ các khoản ký quỹ của khách hàng. Như đã trình bày, hầu hết các công ty CTTC đều yêu cầu các khách hàng của mình có một khoản ký quỹ, thông thường là từ 5-10% trên giá trị tài sản thuê, để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng CTTC. Và khoản ký quỹ này các công ty CTTC chỉ hoàn trả khi hợp đồng CTTC kết thúc, sau khi khách hàng đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ liên quan. Đây là một khoản chiếm dụng vốn của công ty CTTC nhằm mục đích cải thiện tỷ suất lợi nhuận thực tế. Và ở SBL, số vốn chiếm dụng này đang là 11,95 tỷ chiếm 7% nguồn vốn hoạt động. Như vậy, giải pháp cho các công ty CTTC là tìm đến các nguồn vốn khác như: đi vay, tìm kiếm nguồn tài trợ có lãi suất thấp từ các tổ chức nước ngoài. Tuy nhiên, đơn giản và thông dụng hơn cả là đi vay từ các Chi nhánh của NHTM. Và SBL cũng vậy, Công ty này đang thực hiện một hợp đồng vay vốn và giải ngân theo tiến độ với 1 chi nhánh của Sacombank. Tìm kiếm một nguồn vốn vay tại Chi nhánh của ngân hàng mẹ tỏ ra là một giải pháp hết sức đơn giản. Tuy nhiên, điều này lại chưa thỏa đáng: NHTM huy động vốn từ dân cư và tổ chức kinh tế, vì vậy, khi cho vay đối với Công ty con, tất nhiên với lãi suất ưu đãi nhưng vẫn phải đảm bảo một mức lãi suất đủ để đảm bảo trang trải các khoản chi phí và một tỉ lệ lợi nhuận nhất định. Chính vì vậy, với giải pháp đi vay, chi phí đầu vào của SBL đang bắt đầu tăng và đây sẽ là điều kiện bắt buộc SBL phải gia tăng lãi suất cho vay. Điều này sẽ đẫn đến rất nhiều khó khăn trong việc thu hút khách hàng cũng như gia tăng rủi ro tín dụng cho Công ty. Trang 62 3.6. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Là công ty CTTC, kết quả hoạt động kinh doanh của công ty tạo ra từ nguồn duy nhất là khoản thu lãi các hợp đồng CTTC. Cuối năm 2006, số liệu lợi nhuận trước thuế của Cty đạt 1.209 triệu đồng và sáu tháng đầu năm 2007, lợi nhuận trước thuế đạt 5.740 triệu đồng. Đây là một tín hiệu rất đáng khích lệ vì hàng loạt các công ty CTTC khác như Kexim, ANZ-VTRACK… đều phải chịu lỗ trong năm đầu tiên, thậm chí là cả những năm tiếp theo. Mặc dù phải thừa nhận rằng SBL có một thuận lợi lớn về công tác tiếp cận khách hàng từ ngân hàng mẹ hỗ trợ trong giai đoạn mới thành lập nhưng đây cũng là một thành công của sự phấn đấu toàn thể CBNV công ty. Sự gia tăng lợi nhuận mạnh mẽ trong 6 tháng đầu năm 2007 đã chứng tỏ rằng SBL vẫn đang thực hiện tốt kế hoạch phát triển của mình. 3.7. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CTTC TẠI SACOMBANK LEASING VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 3.7.1. NHỮNG DẤU HIỆU TÍCH CỰC 3.7.1.1. Dư nợ cho thuê của công ty tăng trưởng khả quan Năm 1998, giai đoạn mới bước vào thị trường CTTC của 5 công ty CTTC của trực thuộc Ngân hàng thương mại (VCBLC, ALC I, ALC II, BIDVLC, ICBLC) dư nợ cho thuê chỉ đạt 79,7 tỷ đồng (Nguồn: Hoạt động CTTC của các NHTM Việt Nam -Thực trạng và giải pháp phát triển. Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng, số 5/2003 [2]). Như vậy dư nợ của Sacombankleasing ngay sau sáu tháng hoạt động (tính đến cuối năm 2006) đã đạt khoảng 42% so với tổng dư nợ của 5 công ty CTTC năm 1998. Mức dư nợ như trên đối với một công ty CTTC trên thì trường Việt Nam là một thành quả. Rõ ràng nếu so sánh với các công ty CTTC khác như đã nêu trên ở giai đoạn mới thành lập thì SBL có lợi thế hơn do ra đời sau, như vậy, thị trường CTTC đã phần nào phát triển hơn và khác hàng đã dần quen với khái niệm CTTC nhưng điều đó chưa phải là tất cả. Một số công ty CTTC, kể cả các công ty mới ra đời sau cũng rất chật vật để tăng trưởng dư nợ trong thời điểm hiện nay. SBL đã rất năng động, tích cực trong việc tận dụng những lợi thế do Ngân hàng mẹ mang lại (danh tiếng, khách hàng, mạng lưới…) cùng với việc tự tìm ra những bước đi riêng như dịch vụ CTTC xe ô tô cho khách hàng cá nhân là một ví dụ. Trang 63 Tính đến tháng 07/2007, SBL đã đạt dư nợ cam kết gần 200 tỷ đồng tương đương với dư nợ tín dụng của một chi nhánh ngân hàng có quy mô trung bình. Với dư nợ này, SBL đã đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra và trở thành một trong những Công ty CTTC được khá nhiều người biết đến. 3.7.1.2. Chưa phát sinh dư nợ quá hạn Với quy định về phân loại nợ và trích lập rủi ro theo Quyết định số 493/2005/QĐ- NHNN, các công ty CTTC cũng đang thực hiện một chế độ phân loại nợ khá “gay gắt” và rất gần với thông lệ quốc tế. Điều này đem lại một cái nhìn chính xác và toàn diện hơn về chất lượng dư nợ tín dụng của một tổ chức tín dụng. Thực hiện theo quy định này, SBL đang sở hữu một chỉ tiêu rất đẹp, 100% dư nợ đang thực hiện đều ở nhóm 1 – nhóm dư nợ đủ tiêu chuẩn. Điều này có thể là do SBL là công ty mới thành lập do đó dư nợ trong thời gian đầu thường rất ít phát sinh vấn đề. Tuy nhiên, cũng phải đề cập đến công tác quản lý nợ của SBL đang được thực hiện khá chặt chẽ. Các NVKD đều có trách nhiệm lập và gửi thông báo nợ đến hạn trước 5 ngày và sau đó là nhắc nợ qua điện thoại. Hết ngày đến hạn, nếu khách hàng chưa thanh toán gốc lãi, NVKD phải tìm hiểu ngay nguyên nhân và báo cáo lãnh đạo để có hướng giải quyết. Sau 3 ngày nếu khoản nợ vẫn chưa được thanh toán thì Bộ phận Thẩm định và Lãnh đạo Phòng Kinh doanh phải trực tiếp giải quyết. Chính điều này đã buộc các khách hàng của Công ty phải có trách nhiệm trả nợ đúng thời hạn. Một giải pháp cũng đang được Công ty thực hiện để đảm bảo tỷ lệ nợ quá hạn bằng 0 là thu gốc + lãi kỳ đến hạn bằng số tiền ký quỹ của khách hàng (thông thường số tiền ký quỹ vào khoảng 5%/tổng giá trị tài sản thuê). Điều này giúp cho khoản nợ của khách hàng không bị chuyển nhóm nợ. Và khi khách hàng thanh toán, số tiền thanh toán sẽ được hoàn trả lại vào tài khoản ký quỹ của khách hàng. Tuy nhiên, trên thực tế việc xử lý như vậy chưa phù hợp. Khoản ký quỹ là một khoản đảm bảo thực hiện hợp đồng chứ không phải là một khoản thanh toán và chỉ được xử lý khi nào có phát sinh tranh chấp hoặc xử lý hợp đồng thuê. Hơn nữa, nếu khách hàng biết việc này thì tình trạng nợ quá hạn sẽ trở nên rất thường xuyên. Vì vậy, đây không nên được xem như một giải pháp để giảm bớt số liệu nợ quá hạn. Trang 64 3.7.1.3. Tài sản cho thuê có mức rủi ro thấp Như đã trình bày, với tỷ trọng tài sản thuê phần lớn là phương tiện vận chuyển, SBL đang có một cơ cấu tài sản thuê với mức độ rủi ro thấp. Thêm vào đó, với tỷ lệ tham gia hiện tại của khách hàng thuê tài chính trung bình từ 25 – 30% và thời hạn thuê từ 03 – 04 năm, SBL sẽ mau chóng thu hồi đủ giá trị đầu tư cũng như hạn chế được rủi ro tín dụng. 3.7.1.4. Lãi suất cho thuê cao đem lại khoản lợi nhuận hoạt động cao Đây là yếu tố rất tích cực nhất góp phần mang lại lợi nhuận cao cho SBL kể từ khi đi vào hoạt động. Với lãi suất cho thuê đạt trung bình 1.18%/ tháng, cộng với khoản chiếm dụng vốn vào khoảng 5%/giá trị tài sản cho thuê, SBL đã đạt được một mức lãi suất cho vay khá cao so với các NHTM cũng như các công ty CTTC khác trên thị trường. Công ty tiếp cận khách hàng với phương châm “thời gian là yếu tố cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ”, do đó, mặc dù lãi suất khá cao so với mặt bằng chung nhưng hầu hết các khách hàng đều thỏa mãn với đội ngũ nhân viên nhiệt tình và năng động. Vì vậy, SBL vẫn duy trì mức lãi suất cho vay như trên và vẫn tăng trưởng dư nợ qua các tháng. 3.7.1.5. Cơ chế hoạt động linh hoạt Là công ty con của một ngân hàng TMCP năng động có cổ phần của các tổ chức nước ngoài, SBL có cơ sở để hình thành một cơ chế hoạt động linh hoạt. Bên cạnh hàng loạt các quy định rất chặt chẽ để tạo hành lang cho các NVKD tuân thủ trong họat động là những khu vực mở rất linh hoạt. Với các khu vực mở này, NVKD có quyền đưa ra các đề xuất nằm ngoài khung khổ đã quy định nếu hợp lý để trình lên lãnh đạo xem xét và quyết định. Các quy định do SBL đã ban hành là rất linh động để sửa đổi để phù hợp với thực tiễn họat động. Chính vì vậy, SBL có điều kiện tốt hơn để vừa phù hợp với thị trường, thỏa mãn khách hàng lại vừa đạt được mục tiêu hoạt động của mình. 3.7.1.6. Chủ động mở rộng thị phần sớm Mặc dù trụ sở hoạt động đóng tại Tp. Hồ Chí Minh nhưng hệ thống khách hàng của SBL lại không hạn chế khu vực. Vì vậy, SBL đang có cả những khách hàng ở miền Bắc, miền Trung, miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là khách hàng ở các tỉnh lân cận Tp. Hồ Chí Minh như Bình Dương, Đồng Nai, Vũng Tàu. Trang 65 Không dừng lại ở đó, để chủ động khai thác sớm thị phần ở các tỉnh, SBL đang thực hiện kế hoạch mở các Tổ cho thuê theo khu vực đặt tại các trung tâm là Tp. Hải Phòng (khu vực phía Bắc), Tp. Đà Nẵng (khu vực miền Trung), Tp. Cần Thơ (khu vực miền Tây Nam Bộ) và Tp. Biên Hòa để khai thác khách hàng ở các khu công nghiệp và khu chế xuất rất năng động của Bình Dương và Đồng Nai. Với việc mở các Tổ cho thuê, ngoài mục tiêu thu hút khách hàng và giành thị phần sớm, SBL còn có điều kiện để thực hiện các nghiên cứu sâu về thị trường từng khu vực để phục vụ công tác mở chi nhánh sau khi đã đáp ứng yêu cầu đủ hai năm hoạt động mà NHNN đã quy định. 3.7.1.7. Cơ chế quản lý chi phí hiệu quả Thừa hưởng cơ chế được xây dựng từ ngân hàng mẹ, SBL có được những cách thức quản lý các khoản chi phí hoạt động như: chi phí lương, chi phí điện, nước, chi phí bán hàng, quảng bá… rất chặt chẽ nhưng vẫn đảm bảo được hiệu quả. Các phòng ban, bộ phận cho đến từng nhân viên được giao khá chi tiết công việc của mình cũng như quyền lợi và trách nhiệm để tránh được tình trạng thực hiện công việc chồng chéo cũng như việc khai thác không hết, không đúng năng lực từng người dẫn đến tình trạng “vừa thừa vừa thiếu” như nhiều công ty đang vướng mắc. Các khoản chi phí đều được xây dựng định mức ngay từ đầu. Cơ chế giao khoán kế hoạch lợi nhuận đi kèm với kế hoạch chi phí cũng giúp Công ty có ý thức trong việc tiết kiệm chi phí. 3.7.1.8. Hoạt động PR và Marketing mạnh Tuy là một công ty CTTC ra đời muộn nhưng SBL đã sớm ghi dấu trong thị trường CTTC bằng hàng loạt các họat động quảng bá thương hiệu khá nổi bật như: Tổ chức hội thảo CTTC đến các Doanh nghiệp trên địa bàn Tp.HCM, Cần Thơ, Các KCN; Tham gia ký kết các hợp đồng liên kết với các nhà cung ứng máy móc thiết bị, xe cộ trên khắp cả nước; Tham gia quảng cáo trên các báo chí, phương tiện truyền thông; Đưa thông cáo báo chí các sự kiện quan trọng như: ký kết hợp đồng lớn với khách hàng, tổ chức các dịp ưu đãi về lãi suất, thời hạn thuê, các lễ kỷ niệm của công ty… Trong đó, các buổi hội thảo là cách thức rất mới và cũng rất hiệu quả mà SBL đã thực hiện được. Các buổi hội thảo này luôn được sự quan tâm của khách hàng cũng như thực tế đã mang lại cho SBL nhiều hợp đồng. Trang 66 Chủ động là tiêu chí của SBL trong hoạt động quảng bá thương hiệu. Các thư ngỏ, brochure của công ty được gửi đến khách hàng để tự giới thiệu và hướng dẫn khách hàng quen với loại hình tín dụng tuy cũ mà mới này. Các thông tin về đầu tư của doanh nghiệp trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng được công ty coi là một nguồn khách hàng tiềm năng để phát triển thị phần. Khi có thông tin, công ty đều chủ động liên hệ với các khách hàng này để tìm kiếm khả năng hợp tác. Nhờ vậy, phạm vi tìm kiếm khách hàng của Công ty được mở rộng không ngừng. Các chương trình chăm sóc đối với hệ khách hàng hiện tại cũng được SBL chú trọng. Các thiệp mừng nhân dịp sinh nhật hoặc các sự kiện lớn của khách hàng…luôn được SBL thực hiện để tạo mối quan hệ giữa Công ty với khách hàng. Vì vậy, các khách hàng này luôn dành phần trong các dự án đầu tư mới của mình cho SBL. 3.7.2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM “Sinh sau“, đồng thời là công ty trực thuộc của một NHTM đã có mạng lưới hoạt động rộng khắp nên SBL thực sự có những điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động của mình. Nhưng nói như vậy không có nghĩa đây là những điều kiện tiên quyết cho thành công của SBL mà điều này chỉ góp một phần rất nhỏ trong kết quả hoạt động mà SBL có được. Để đạt được những thành công như trên, SBL đã vận dụng rất nhiều những cái mới trong cách thức quản lý hoạt động mà đặc biệt là trong cách thức để quảng bá, tiếp cận khách hàng nhằm đem lại hiệu quả cho hoạt động của mình. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đó, vẫn còn những điều mà nếu SBL làm được, có thể kết quả hoạt động kinh doanh của họ chưa dừng lại ở những con số đã trình bày trên. Từ những cái được và chưa được của SBL, chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích cho các công ty CTTC khác. Cụ thể như sau: ¾ Khai thác tốt những lợi thế có được để đẩy mạnh thành công của hoạt động marketing và mở rộng thị phần Đây là một bài học mà SBL đã sử dụng rất tốt để tìm kiếm khách hàng và gia tăng doanh số cho thuê trong giai đoạn mới thâm nhập vào thị trường. Hệ khách hàng từ ngân hàng mẹ và các chính sách hoa hồng giới thiệu cho các chi nhánh của ngân hàng mẹ đã đem đến Trang 67 cho SBL những khách hàng đầy tiềm năng và điều này giúp SBL sớm gia nhập vào thị trường CTTC mặc dù mới ra đời. Bên cạnh đó, sử dụng danh tiếng của Ngân hàng mẹ để thực hiện các chương trình quảng bá hình ảnh cũng là một phương pháp mà SBL đã sử dụng và ít nhiều gặt hái thành công và trở thành một công ty sớm được biết đến trên thị trường. Phải ghi nhận rằng SBL đã thực hiện khá nhiều cuộc hội thảo, kể cả tổ chức chung với ngân hàng mẹ và tổ chức độc lập, với thành phần khách mời là giới doanh nghiệp – lực lượng khách hàng chủ lực nhất trên thị trường Việt Nam hiện nay cho sản phẩm này. Nhờ đó, loại hình sản phẩm CTTC mới được biết đến nhiều hơn và trở nên phổ biến hơn. Song song các hoạt động trên, SBL cũng là công ty CTTC tiên phong trong việc thực hiện các chương trình quảng cáo trên các phương tiện truyền thông về các chương trình giảm lãi suất, các chương trình ưu đãi cho khách hàng trong từng thời kỳ. Chính các hoạt động này vừa mang lại khách hàng cho SBL cũng vừa là cách thức để SBL marketing cho mình. Đây là những cách thức mà rõ ràng các công ty CTTC khác có thể học tập từ SBL. ¾ Xây dựng cơ chế quản lý chi phí hiệu quả Như đã đề cập đến, các công ty CTTC trên thị trường có một mức khác biệt khá cao về tỷ suất lợi nhuận trên doanh số cho thuê. Với chênh lệch lãi suất cho thuê cạnh tranh không khác biệt nhiều thì rõ ràng, việc quản lý chi phí của một số các công ty CTTC, đặc biệt là các công ty trực thuộc khối NHTM Nhà nước hiện nay chưa thật sự hiệu quả. Chính vì vậy, rất cần có một cơ chế quản lý chi phí hiệu quả để mang lại kết quả hoạt động tốt hơn cũng như để tạo điều kiện cho việc cắt giảm lãi suất nhằm tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm CTTC so với tín dụng trung dài hạn của NHTM. ¾ Đa dạng hóa nguồn vốn hoạt động Với nguồn vốn tự có hữu hạn và nguồn vốn vốn huy động rất ít ỏi, SBL cũng như phần lớn các công ty CTTC khác đang ở trong tình trạng phải sử dụng nợ vay trung – dài hạn tại Ngân hàng mẹ để thực hiện nghiệp vụ CTTC. Và điều này rõ ràng chứa đựng rất nhiều bất cập, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, huy động vốn từ dân cư vẫn còn rất tiềm năng. Thực tế cho thấy các NHTM vẫn gia tăng đều đặn các khoản tiền tiết kiệm tạm thời nhàn rỗi, đặc biệt là trong điều kiện thị trường chứng khoán đã dần bảo hòa. Trang 68 Có huy động vốn tốt thì khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh của công ty CTTC mới đáp ứng được. Chính vì vậy, đòi hỏi các công ty CTTC phải có những cách thức tích cực hơn nữa để gia tăng lượng tiền gửi này. ¾ Xác định một tỷ lệ tài trợ hợp lý nhằm mang lại lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm CTTC Với sản phẩm CTTC hiện tại, thông thường các công ty CTTC yêu cầu khách hàng tham gia trung bình là 25 đến 30% tính trên tổng giá trị tài sản thuê. Điều này mang lại một mức an toàn cao hơn trong hoạt động tín dụng nhưng lại ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của sản phẩm CTTC so với tín dụng trung dài hạn của các NHTM. Trên thế giới, mức tài trợ qua hình thức cho thuê tài chính thường rất cao vì so với tín dụng ngân hàng, bản thân CTTC đã an toàn hơn cho TCTD. Vì vậy, với một tỉ lệ tài trợ thấp, trong điều kiện hiện nay thì chắc chắn rằng tín dụng của NHTM sẽ là một giải pháp ưu việt hơn cả. ¾ Hoàn chỉnh hệ thống thông tin phục vụ công tác thẩm định Để phục vụ công tác thẩm định hồ sơ tín dụng, TCTD luôn cần đến các nguồn thông tin đa dạng và đáng tin cậy. Tuy nhiên hiện nay, với SBL và nhiều công ty CTTC khác, ngoài các nguồn thông tin do CIC cung cấp và các nguồn thông tin phổ biến trên internet, các công ty chưa xây dựng được cho mình một hệ thống thông tin và hệ thống đánh giá khách hàng theo các tiêu chí cụ thể để làm cơ sơ cho các quyết định tín dụng. Điều này ảnh hưởng đến thời gian để hoàn thành công tác thẩm định hồ sơ cũng như ảnh hưởng đến tính chính xác của các phán quyết. Bên cạnh tiện ích cung cấp thông tin một cách rộng rãi thì những thông tin trên mạng internet cũng không dễ dàng để sử dụng. Việc truy cập và tìm kiếm những số liệu này phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của cán bộ tín dụng như yêu cầu phải đọc tốt ngoại ngữ, có trình độ kiến thức căn bản về tài chính, về kinh tế xã hội,…. Những biến số quan trọng nhất, quyết định đến tính khả thi của dự án như: giá thành nguyên vật liệu, giá bán, công suất thực tế của máy, khả năng tiêu thụ…lại luôn là nguồn khó kiểm chứng nhất trong quá trình thẩm định. Vì vậy, vấn đề hệ thống thông tin phục vụ thẩm định khách hàng, thẩm Trang 69 định tính khả thi của dự án đang là vấn đề cần giải quyết để mang lại chất lượng hoạt động CTTC tốt hơn. Xây dựng một hệ thống các tiêu chí xếp loại khách hàng để có cơ sở đánh giá ban đầu là một công cụ hỗ trợ rất tích cực mà đến thời điểm này, nhiều NHTM của Việt Nam đã xây dựng và áp dụng. ¾ Có chính sách nhân sự tốt để giảm thiểu sự biến động Nằm trong ảnh hưởng chung của khu vực có biến động nhân sự gần như lớn nhất là khu vực tài chính – ngân hàng, SBL cũng như các công ty CTTC khác rất khó có thể giữ chân nhân sự được lâu. Chính vì vậy, việc tuyển dụng mới luôn là vấn đề tiêu tốn nhiều thời gian đào tạo, công sức và tiền bạc cũng như ảnh hưởng không nhỏ đến kế hoạch kinh doanh của các công ty. Quan trọng hơn, điều này còn ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Các khách hàng, đặc biệt là khách hàng tín dụng, thường đã quen giao dịch với CBTD ngay từ những ngày đầu của dự án. Chính vì vậy họ không thích thú khi Công ty lại giới thiệu lại một người mới phụ trách dự án và tâm lý không an tâm rất dễ nảy sinh cho khách hàng. Chưa kể các rắc rối khác có thể xảy ra vì công tác bàn giao hồ sơ khách hàng giữa nhân viên cũ và nhân viên mới chưa hoàn chỉnh. Chính vì vậy, hạn chế biến động nhân sự cũng là một trong những bài toán để đảm bảo chất lượng dịch vụ cung cấp của các công ty CTTC. Nghiệp vụ CTTC không chỉ yêu cầu nhân viên kinh doanh giỏi về công tác thẩm định doanh nghiệp, thẩm định tình hình tài chính là đủ mà còn đòi hỏi phải nắm vững các nghiệp vụ marketing, nghiệp vụ xuất nhập khẩu, có hiểu biết chuyên môn trong từng loại công nghệ riêng…. Chính vì vậy, việc đào tạo một NVKD giỏi là rất khó. Cho đến nay, SBL cũng như các Công ty CTTC khác chưa có được một đội ngũ NVKD đáp ứng các yêu cầu này. Trang 70 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Ở chương này, đề tài đã trình bày những nét chính trong hoạt động CTTC tại Công ty CTTC Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín. Qua đó, đánh giá được những thành quả, những điểm mạnh, điểm yếu của một công ty đang hoạt động trong thị trường CTTC Việt Nam để kiểm chứng lại những ý kiến đã đưa ra ở chương 2 cũng như rút ra những bài học kinh nghiệm trong hoạt động của các công ty CTTC. Là một công ty CTTC trực thuộc của một ngân hàng thương mại có mang lưới rộng lớn, công ty CTTC Ngân hàng Sài gòn Thương Tín đã tận dụng được ưu thế này và sớm tạo dựng cho mình một hình ảnh trẻ và năng động để thâm nhập vào thị trường CTTC. Tuy nhiên, cũng như các công ty CTTC khác đang hoạt động trên thị trường, Công ty CTTC Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín cũng đang vướng phải rất nhiều những khó khăn để có thể phát triển hoạt động của mình. Và xuất phát từ thực trạng này, chương tiếp theo của luận văn sẽ đưa ra quan điểm và giải pháp để góp phần phát triển thị trường CTTC của Việt Nam trong thời gian tới. Trang 71 CHƯƠNG 4 CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 4.1. QUAN ĐIỂM ¾ Phát triển thị trường CTTC thành một kênh dẫn vốn hiệu quả cho nền kinh tế bên cạnh kênh tín dụng của hệ thống NHTM Cầu về vốn để phát triển hoạt động SXKD luôn là một đòi hỏi thúc bách đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Sự kiện nước ta gia nhập WTO càng tạo một áp lực lớn hơn cho các đòi hỏi này. Chính vì vậy, có được nguồn tài trợ vốn trở thành một điều kiện rất thiết yếu để giúp các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, đổi mới máy móc thiết bị và cải tiến kỹ thuật sản xuất để đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh cả trên sân nhà và tiến dần ra thế giới. Khi đó, nguồn tài trợ từ các công ty CTTC sẽ san sẻ bớt gánh nặng cho hệ thống NHTM. Và điều này đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp cũng có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận với các nguồn tài trợ. Tuy nhiên, xét thị trường tài chính nước ta hiện nay, mức độ xâm nhập của CTTC vào mục đích tài trợ cho đầu tư và tiêu dùng còn quá thấp. Và hậu quả tất yếu là các NHTM đang phải gánh gần như toàn bộ sức ép về vốn cho nền kinh tế. Trong khi đó, nếu xem xét tại thị trường các quốc gia phát triển thì CTTC đã thực hiện tài trợ đến 20% nhu cầu tín dụng và như vậy, áp lực cho các NHTM đã được gia giảm đáng kể. Xuất phát từ thực trạng nói trên, trong thời gian tới đòi hỏi thị trường CTTC phải phát triển hơn nữa để phát huy vai trò của mình. Thực tế hoạt động các công ty CTTC trong hơn 10 năm qua cũng đã cho thấy rằng phát triển thị trường CTTC là một hướng đi hoàn toàn phù hợp với nhu cầu thị trường tài chính – tín dụng của nước ta. Chính vì vậy, rất cần có những giải pháp thiết thực để hướng đến một thị trường CTTC có doanh số cho thuê đạt mức tối thiểu là 15% tính trên tổng tài trợ vốn của nền kinh tế. Đồng thời, CTTC tồn tại bên cạnh kênh tín dụng của NHTM như một sản phẩm với đầy đủ lợi thế so sánh để các khách hàng có thể so sánh và lựa chọn một cách phù hợp nhất với các điều kiện của mình. Trang 72 ¾ Các giải pháp phát triển thị trường CTTC phải được thực hiện đồng bộ cả trên phương diện quản lý vĩ mô nền kinh tế và cả từ các công ty CTTC trên thị trường hiện nay Để đưa ra lời giải cho sự phát triển của thị trường CTTC trong thời gian tới, đòi hỏi sự cải tiến phải được thực hiện đối với tất cả các bộ phận của thị trường CTTC đó là chủ thể tham gia thị trường, hàng hóa trên thị trường, phương thức giao dịch CTTC,… cho đến những chính sách điều tiết thị trường CTTC như chính sách thuế, chính sách kế toán và những quy định pháp luật có liên quan khác. Một điều rất cơ bản là cơ hội luôn đi kèm với những thách thức và cơ hội chỉ biến thành thành quả khi chúng ta vượt qua những thách thức này. Thách thức ở đây chính là những tồn tại và vướng mắc mà các công ty CTTC hiện nay đang lúng túng trong việc tìm cách giải quyết như đã nêu ở chương 2 của luận văn này. Hàng loạt các khó khăn trong việc tạo ra và duy trì lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm CTTC, trong việc hoạch định chiến lược phát triển, trong việc khơi thông nguồn vốn cả đầu vào và đầu ra, trong việc ổn định nguồn nhân lực… đặt ra cho các công ty CTTC rất nhiều điều phải làm mà đơn phương các công ty CTTC chỉ có thể hoàn thành được một phần. Phần còn lại rất cần có thêm sự trợ lực của các nhà hoạch định chính sách, các nhà làm luật với việc thực thi nhóm những giải pháp có liên quan đến lĩnh vực quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trên quan điểm đó, tôi xin đề ra một số giải pháp. Cụ thể: 4.2. NHÓM GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÁC CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH 4.2.1. ĐA DẠNG HÓA NGUỒN VỐN HOẠT ĐỘNG Chủ động được nguồn vốn hoạt động với giá rẻ sẽ tạo ưu thế quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như lợi nhuận cho chính các công ty CTTC. Chính vì vậy, ngoài giải pháp sử dụng vốn vay, các công ty CTTC cần phải tìm ra cho mình những giải pháp căn cơ hơn để tạo dụng nguồn vốn lâu dài và ổn định với giá rẻ hơn nhằm thúc đẩy sự phát triển của mình. Nhìn vào thực tế hiện nay, các Cty CTTC có thể sử dụng các phương thức sau: Trang 73 4.2.1.1. Phát hành trái phiếu dài hạn để huy động vốn Việc phát hành trái phiếu để huy động vốn trên thị trường đã được nhiều doanh nghiệp lựa chọn trong thời gian qua và chứng tỏ được những ưu điểm của nó. Với việc phát hành trái phiếu huy động vốn, doanh nghiệp vừa có được nguồn vốn để họat động, vừa đảm bảo được việc sử dụng vốn theo đúng kế hoạch đã xây dựng của mình. Tuy nhiên, thành công của việc phát hành trái phiếu phụ thuộc nhiều vào uy tín của doanh nghiệp, vào tính hấp dẫn của trái phiếu (về lãi suất, về tính thanh khoản đối với các trái phiếu niêm yết…). Từ các đặc tính trên, có thế thấy các công ty CTTC đang rất thuận tiện để có thể huy động vốn bằng phương thức này. Trước hết, thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển sôi động và trở thành kênh huy động vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp. Hơn thế nữa, các công ty CTTC là các công ty thuộc khối Tài chính – Ngân hàng, một lĩnh vực đang rất được ưa chuộng. Chính vì vậy, các công ty CTTC cần tận dụng thời điểm này để phát triển nguồn vốn hoạt động của mình. Bên cạnh việc tận dụng lợi thế của thị trường, của lĩnh vực hoạt động, các công ty CTTC nên bổ sung vào đó những phương thức hiệu quả mà nhiều chuyên gia tài chính đã đề cập để tăng tính hấp dẫn của trái phiếu như: chia lãi suất trái phiếu thành hai phần, bao gồm phần lãi suất cơ bản được tính theo lãi suất huy động tiền gửi dài hạn và phần lãi suất thả nổi được trả thêm tùy thuộc vào kết quả hoạt động của công ty. Hoặc một số ưu đãi về việc chuyển đổi thành cổ phiếu trong tương lại… để kích thích sự tham gia của những người đang sở hữu các nguồn tiền nhàn rỗi. 4.2.1.2. Tận dụng nguồn vốn từ các định chế tài chính ở nước ngoài Các nguồn vốn có tính chất hỗ trợ với lãi suất rất thấp từ các định chế tài chính ở nước ngoài nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp Việt nam thông qua các TCTD đang khá đa dạng. Chính vì vậy, tận dụng được nguồn vốn này cũng là một cách thức để đa dạng hóa các hình thức huy động vốn cho các TCTD nói chung và các công ty CTTC nói riêng. Hiện nay, các TCTD đã sử dụng rất hiệu quả các nguồn vốn theo các dự án như FMO, RDF, BIC… do đó, các Cty CTTC cần có những phương thức để tiếp cận và khai thác các nguồn vốn này. Trang 74 4.2.1.3. Liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp, các TCTD để thu hút thêm nguồn vốn Liên doanh, liên kết với các TCTD nước ngoài là một phương thức mà các Ngân hàng của Việt Nam đã và đang thực hiện rất tốt. Thông qua liên doanh, liên kết, năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của TCTD được nâng lên rất nhiều. Ngoài ra, các ngân hàng còn học hỏi được nhiều kỹ năng, nghiệp vụ cũng như chiến lược kinh doanh của các tổ chức nước ngoài. Góp phần đem lại những đợt sóng mới trong chiến lược quản trị kinh doanh cho các ngân hàng thương mại phù hợp hơn với cơ chế kinh tế hội nhập. Tận dụng thời cơ trên, các công ty CTTC của Việt nam cũng có thể tiếp thu những kinh nghiệm này để lựa chọn cho mình một đối tác thích hợp. Để có thể thực hiện điều này, trước hết các công ty CTTC cần chuyển đổi mô hình hoạt động vì hiện nay, hầu hết các công ty CTTC 100% vốn trong nước là các công ty TNHH MTV trực thuộc ngân hàng mẹ. Kế tiếp đó là xây dựng một chiến lược cụ thể để có thể thành công trong việc thương lượng được những điều khoản có lợi cho cả đôi bên trong việc hợp tác liên doanh, liên kết với đối tác nước ngoài. Có như vậy, việc đa dạng hóa nguồn vốn họat động từ liên doanh liên kết mới đem lại kết quả tốt cho công ty. 4.2.1.4. Duy trì tỷ lệ ký quỹ hợp lý để góp phần gia tăng nguồn vốn hoạt động Mức ký quỹ trong nghiệp vụ CTTC giúp các công ty có được một khoản vốn hoạt động với lãi suất bằng 0, vì vậy, hầu hết các công ty CTTC đều khai thác nguồn vốn này. Tuy nhiên, phải nhận định rõ rằng đây không phải là một nguồn huy động dễ dàng vì khi đi kèm với tỷ lệ ký quỹ, nghiệp vụ CTTC đã mất đi một ưu thế cạnh tranh so với tín dụng các NHTM. Vì vậy, các công ty CTTC phải đưa ra được một mức ký quỹ hợp lý có tính toán đến lãi suất đang áp dụng của Hợp đồng CTTC. Có như vậy mới đảm bảo thỏa mãn được cả khía cạnh lợi ích và cạnh tranh. 4.2.1.5. Tận dụng nguồn vốn chậm trả trong thanh toán với nhà cung ứng Các công ty CTTC có thể tận dụng được nguồn vốn thông qua việc chậm trả trong quá trình thanh toán tiền mua máy móc thiết bị từ các nhà cung ứng. Thông qua mối quan hệ giữa công ty CTTC và các nhà cung ứng tài sản, công ty CTTC có thể ký một hợp đồng nguyên tắc trong đó có điều khoản ưu đãi thời hạn thanh toán cho nhà cung ứng. Thời hạn Trang 75 này tùy thuộc chủ yếu vào mức độ tín nhiệm giữa nhà cung ứng và công ty CTTC, khả năng tài chính của nhà cung ứng… Và trong khoảng thời gian đó, nguồn vốn phải thanh toán của công ty CTTC có thể được sử dụng một cách hiệu quả hơn đem lại lợi nhuận cho công ty CTTC. 4.2.2. MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG CHO THUÊ Trong kinh doanh, việc xác định thị trường mục tiêu có ý nghĩa quan trọng, thị trường mục tiêu chính là nơi tạo lợi nhuận đáng kể cho công ty. Trong điều kiện cạnh tranh, mở rộng mạng lưới hoạt động ra thị trường mục tiêu là chiến lược cần thiết. Trên thị trường CTTC hiện nay, các công ty CTTC chủ yếu tập trung ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, mức độ cạnh tranh tại 2 thành phố này đang rất cao trong khi đó, nhiều thị trường tiềm năng vẫn đang bị bỏ ngỏ. Xác định được vấn đề trên, các vùng mở rộng nên tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm đã được Chính Phủ định hướng phát triển như: vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (Tp Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai, Long An…), vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh…); Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định…) và ĐBSCL. Và như vậy, các công ty CTTC nên mạnh dạn mở rộng hoạt động ra khu vực này bằng các hình thức như: mở chi nhánh mới hoặc mở các tổ cho thuê (tùy thuộc vào quy mô và kế hoạch tiếp cận thị trường của từng công ty CTTC) để khai thác tốt nhất tiềm năng này, biến nhu cầu của khách hàng thành sản phẩm của mình. Mỗi vùng có nguồn lực phát triển (lao động, dân số, tài nguyên thiên nhiên…) đặc trưng của vùng đó, vì thế trình độ kinh tế từng vùng, địa phương cũng khác nhau. Với nguồn lực riêng của mình, mỗi vùng, địa phương đã lựa chọn ngành có thế mạnh nhất để làm ngành mũi nhọn. Lấy ví dụ đối với khu vực các tỉnh thành phía Bắc, lợi thế về khai thác các mỏ tài nguyên thiên nhiên (than đá, đá vôi, quặng sắt thép….) thì nhu cầu về đầu tư các phương tiện khai thác như máy đào, máy xúc, máy lật, hệ thống dây chuyền sản xuất thép, phôi, hệ thống chuyền sàng khai thác than, đá… sẽ là những tài sản thuê có nhiều tiềm năng. Trang 76 Để làm được điều này, trước khi thành lập chi nhánh hoặc tổ kinh doanh, công ty CTTC cần nhận định đâu là ngành có thế mạnh phát triển của vùng. Từ đó xác định được đâu là loại tài sản thuê phổ biến để tổ chức bồi dưỡng cho nhân viên kinh doanh những kiến thức liên quan đến ngành nghề và đến các loại tài sản thuê này cũng như tìm kiếm các đơn vị cung ứng tài sản thuê mang lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động CTTC mà công ty sẽ cung cấp. Về mở rộng hệ thống khách hàng: So với thị trường CTTC trên thế giới, phạm vi khách hàng sử dụng dịch vụ CTTC và loại hình tài sản thuê tài chính còn rất hạn hẹp. Chính vì vậy, các Cty CTTC nên xem xét mở rộng thêm dịch vụ CTTC với các ngành mới với các sản phẩm cho thuê mới để đa dạng hóa và khuyếch trương thị phần của mình. Lấy ví dụ cụ thể như một số tài sản phục vụ ngành du lịch, khách sạn: đây là ngành có tiềm năng khá lớn. Việt Nam đã từng bước khẳng định là điểm đến an toàn, hấp dẫn với du khách nước ngoài, lượng khách nước ngoài đến Việt Nam tăng bình quân 15% (giai đoạn 2000-2006). Từ thuận lợi đó, các công ty CTTC có thể tập trung vào các loại xe du lịch, thiết bị phòng phục vụ khách sạn có giá trị cao… để giới thiệu đến khách hàng và thực hiện leasing các tài sản này. Một nhóm hàng hóa khác cũng có ý nghĩa rất lớn trên thị trường CTTC đó là nhóm hàng hóa máy móc, thiết bị văn phòng. Trong giai đoạn hiện nay, khi mà trụ sở, văn phòng ngày càng có vai trò như là “bộ mặt” của doanh nghiệp, thì nhu cầu có văn phòng làm việc ở nơi thuận tiện, được trang bị thiết bị hiện đại phục vụ tốt cho hoạt động công ty…ngày càng tăng. Đó không những là cơ hội kinh doanh của công ty bất động sản, cho thuê cao ốc, văn phòng…mà đó cũng là cơ hội kinh doanh của các công ty CTTC với những tài sản có thể cho thuê như: máy tính, máy in, máy photocopy, máy fax, và các thiết bị cao cấp khác. 4.2.3. KHAI THÁC TỐT CÁC LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM CTTC Như đã trình bày, với tiêu chí an toàn, các công ty CTTC thường yêu cầu khách hàng tham gia vào dự án với một mức độ tham gia khá cao. Điều này đã triệt tiêu phần lớn lợi thế cạnh tranh của dịch vụ CTTC. Vì vậy, các công ty CTTC cần nghiên cứu thật kỹ từng dự án để có thể quyết định mức độ tài trợ phù hợp hơn. Với tính chất sở hữu thuộc về công ty CTTC, loại hình nghiệp vụ CTTC luôn đảm bảo được một mức độ an toàn nhất định cho Trang 77 Cty CTTC trong hoạt động tín dụng. Do đó, các công ty CTTC không nên đẩy hết mọi rủi ro về phía khách hàng. Thẩm định tốt tình hình tài chính của khách hàng và của từng dự án để nâng cao tỷ lệ tài trợ sẽ đem đến cho nghiệp vụ CTTC một lợi thế cạnh tranh hết sức to lớn cho hoạt động CTTC. Một khía cạnh khác đó là các công ty CTTC cần đầu tư nhiều hơn nữa để nâng cao chất lượng của các dịch vụ đi kèm như dịch vụ tư vấn về công nghệ, thiết bị, tư vấn về quản trị cho khách hàng. Tận dụng vị thế là trung gian trong các giao dịch mua bán tài sản thuê để phát triển quan hệ với các tổ chức cung ứng lớn trong và ngoài nước, các viện nghiên cứu… nhằm đem lại những lợi ích thiết thực cho các khách hàng về giá cả, về thời gian giao dịch cũng như các điều khoản bảo hành, sửa chữa và thay thế khi có sự cố xảy ra với tài sản thuê. Khi đó, các khách hàng sẽ được cung cấp một dịch vụ hoàn chỉnh từ các công ty CTTC với thời gian và chi phí thấp nhất cho dự án đầu tư của mình. Hiện nay, với các hợp đồng thuê tài chính mà khách hàng thuê có nhu cầu tất toán trước hạn, các công ty CTTC thường áp dụng một mức phí phạt hợp đồng khá cao. Lý giải cho khoản phạt này là sự bị động trong việc sử dụng vốn của Công ty CTTC khi khách hàng tất toán trước thời hạn quy định. Tuy nhiên, trong thời điểm hiện nay, điều này gây ra rất nhiều phản ứng không thoải mái cho khách hàng và làm giảm sút vị thế cạnh tranh của sản phẩm CTTC vì một lý do đơn giản là các khoản tín dụng tại các NHTM trên thị trường hiện nay hầu hết đều không áp dụng khoản phạt này, nếu có thì cũng là một mức rất nhỏ. Chính vì vậy, các công ty CTTC rất cần nghiên cứu và điều chỉnh khoản phí phạt này để tạo tính cạnh tranh cho sản phẩm cũng như giữ chân các khách hàng của mình. 4.2.4. ĐA DẠNG HÓA CÁC PHƯƠNG THỨC TÀI TRỢ Mỗi phương thức tài trợ nghiệp vụ CTTC đều có những ưu điểm nhất định. Mỗi phương thức sẽ ứng với nhu cầu của một đối tượng khách hàng cụ thể nào đó. Khách hàng sẽ chọn phương thức phù hợp nhất với điều kiện của họ. Chính vì vậy, việc đa dạng hóa các phương thức tài trợ sẽ giúp Cty CTTC đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng và phân tán được rủi ro trong quá trình CTTC. Ngoài phương thức CTTC 3 bên, các công ty nên mạnh dạn áp dụng các phương thức CTTC phổ biến khác để gia tăng cơ hội thâm nhập thị trường cũng như nâng cao vị trí, vai trò là một kênh cung vốn quan trọng và hiệu quả cho nền kinh tế. Trang 78 4.2.5. ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG MARKETING Hoạt động marketing của các công ty CTTC trong thời gian qua mới ở mức sơ khai, tự phát, chưa tiến hành một cách quy mô, bài bản. Vì vậy, hiệu quả mang lại chưa cao. Trong các công ty CTTC trên thị trường hiện nay, có thể nói SBL là công ty CTTC thực hiện các chiến lược marketing một cách khá bài bản nhất. Chính vì vậy, tuy chỉ mới hoạt động trên dưới 1 năm nhưng SBL đã có một thị phần và danh tiếng khá ổn định. Tuy nhiên, cần phải lưu ý ở đây rằng chiến lược marketing không chỉ gói gọn trong việc quảng bá mà cần mang đến các tiện ích thiết thực cho khách hàng như: chất lượng dịch vụ, các điều kiện thuê… Có như vậy, thị phần CTTC của các công ty mới có thể tăng trưởng một cách bền vững và ổn định. 4.2.6. PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Yếu tố con người luôn là yếu tố mang tính quyết định đến thành công hay thất bại của một tổ chức. Do đó, không riêng gì các công ty CTTC, phát triển nguồn nhân lực luôn là một yếu tố bắt buộc phải thực hiện để tạo tiền đề cho hoạt động của một tổ chức. Với hoạt động CTTC thì yêu cầu về nhân lực còn phải nâng cao hơn nữa do nghiệp vụ này khá mới nên công tác đào tạo tại các trường, lớp cũng như tính thực tiễn của nó cũng chưa được biết đến nhiều trong xã hội. Chính vì vậy, trách nhiệm của các công ty CTTC trong việc phát triển nguồn nhân lực nhằm phục vụ cho hoạt động của mình càng khó khăn hơn. Phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi các công ty phải thực hiện tốt từ khâu tuyển dụng, đào tạo cho đến vấn đề giữ chân nhân sự. Vì vậy, cần có những cách thức phù hợp hơn với chế độ đãi ngộ và môi trường thăng tiến bên cạnh một cơ chế đào tạo nghiệp vụ hiệu quả. Có như vậy mới đảm bảo được một đội ngũ cán bộ nhân viên tâm đắc với nghề và gắn bó lâu dài với công ty. 4.2.7. HOÀN THIỆN QUY TRÌNH VÀ NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP THẨM ĐỊNH DỰ ÁN THUÊ Đây là một yêu cầu hết sức thực tiễn để sự phát triển của các công ty CTTC được giới hạn trong một hành lang an toàn, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, với đội ngũ nhân viên của các công ty CTTC còn quá trẻ và luôn biến động. Và để thực hiện được yêu cầu này, chính bản thân từng công ty CTTC phải nỗ lực để hòan thiện quy trình và nội dung, Trang 79 phương pháp thẩm định phù hợp với thực tế của xã hội cũng như các tiêu chuẩn của quốc tế. Có như vậy, chất lượng của hoạt động CTTC mới thực sự được đảm bảo để hướng tới một sự phát triển lớn mạnh và an toàn trong tương lai. 4.2.7. THAM GIA TÍCH CỰC ĐỂ NÂNG CAO VỊ THẾ, PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA HIỆP HỘI CHO THUÊ TÀI CHÍNH. Trước khi Hiệp hội CTTC Việt Nam ra đời, có rất nhiều những kỳ vọng đã được đặt vào tổ chức này. Tuy nhiên, sau một thời gian đi vào hoạt động, Hiệp hội CTTC Việt Nam chưa phát huy được vai trò đúng như mong muốn. Chính vì vậy, để góp phần vào việc đưa ngành CTTC Việt Nam phát triển thì Hiệp hội CTTC, mà thực chất là các công ty thành viên trong Hiệp hội, phải tham gia tích cực hơn nữa để đưa những mục tiêu của Hiệp hội trở thành hiện thực và Hiệp hội thực sự trở thành cầu nối giữa các thành viên trong Hiệp hội và giữa các thành viên với các cơ quan Nhà nước. 4.3. NHÓM GIẢI PHÁP VĨ MÔ 4.3.1. HOÀN THIỆN HỆ THỐNG LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG CTTC CTTC là một lĩnh vực liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như: ngân hàng, xuất nhập khẩu, thương mại, tài chính, giao thông vận tải…Sự thiếu thống nhất và chưa đồng bộ giữa các quy định của văn bản pháp luật về các lĩnh vực này đang là một trở ngại lớn cho sự phát triển các hoạt động CTTC. Sự hoàn thiện về môi trường pháp lý là bước đi quan trọng trong tiến trình đưa hoạt động CTTC phát triển đúng như tiềm năng của nó tại Việt Nam. Nhà nước cần quan tâm đến việc hoàn thiện môi trường pháp lý tạo tiền đề cho hoạt động CTTC phát triển như: • Các cơ quan có thẩm quyền cần nhanh chóng chỉnh sửa, ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể liên quan đến hoạt động CTTC nhằm đồng bộ hóa các quy định trực tiếp điều chỉnh hoạt động này. Cụ thể như các quy định về việc cho phép đăng kiểm lưu hành xe tại nơi khách hàng có trụ sở đăng ký kinh doanh, việc công chứng và lưu hành bản sao giấy chứng nhận đăng ký các phương tiện giao thông vận tải,... • Sớm bổ sung các điều khoản quy định việc thực hiện Luật kế toán theo hướng tăng hiệu lực pháp lý và cưỡng chế, buộc các doanh nghiệp phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật nhà nước về hạch toán kế toán. Doanh nghiệp nào vi phạm cần phải Trang 80 áp dụng chế tài kịp thời. Đây là biện pháp cần thiết đảm bảo cho việc cung cấp thông tin, số liệu thống kê chính xác nhằm tránh rủi ro cho bên cho thuê. Trên thực tế “Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường xây dựng báo cáo tài chính mang tính chất đối phó với cơ quan thuế; báo cáo chính thức (báo cáo được pháp luật công nhận) thường thấp hơn tình trạng thực tế, không đảm bảo đủ điều kiện vay vốn ngân hàng” (Lê Đào Nguyên, PGĐ Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam- Nguồn: http:// www.vnn.vn/kinhte/taichinhnganhang/2003 [8]). Nhân viên thẩm định khó nhận biết tình trạng thực của doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính. Ở một số doanh nghiệp tồn tại đến 3 báo cáo tài chính: một, dùng để nộp cơ quan thuế (kết quả thường thấp hơn thực tế); hai, dùng để làm hồ sơ vay tiền ngân hàng, các tổ chức tín dụng (kết quả thường cao hơn thực tế); ba, dùng cho nội bộ doanh nghiệp (được đánh giá là phản ánh đúng tình hình thực tế). 4.3.2. TẠO MÔI TRƯỜNG BÌNH ĐẲNG ĐỂ HOẠT ĐỘNG CTTC PHÁT TRIỂN 4.3.2.1. Về chính sách thuế Chính sách thuế phải tạo ra sự bình đẳng cho các khách hàng giữa việc tiếp cận vốn từ các ngân hàng với việc tiếp cận vốn từ các công ty CTTC. Cụ thể ở đây là phải cho phép doanh nghiệp thuê tài sản khấu trừ thuế GTGT ngay từ đầu giống như trường hợp doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mua tài sản. Theo quy định hiện hành về thuế GTGT, doanh nghiệp tự đầu tư vào tài sản hoặc vay tiền để đầu tư tài sản thì doanh nghiệp được khấu trừ thuế GTGT ngay từ đầu, nhưng nếu tài sản do công ty CTTC mua và cho doanh nghiệp thuê thì doanh nghiệp chỉ được khấu trừ thuế GTGT dần phần nợ gốc đã thanh toán cho Cty CTTC theo hợp đồng. Điều này xuất phát từ lý do công ty CTTC không phải là đối tượng chịu thuế GTGT, nên khoản thuế GTGT sẽ được hạch toán chính thức vào trong giá trị tài sản cho khách hàng thuê và khấu trừ dần khi bên thuê thanh toán tiền nợ gốc. Như vậy doanh nghiệp thuê tài chính sẽ chịu khoản chi phí do lãi tính trên thuế GTGT chưa được hoàn trả. Vô hình chung, điều này ảnh hưởng đến cả công ty CTTC và doanh nghiệp thuê tài chính. Sẽ có không công bằng trong cạnh tranh tín dụng giữa ngân hàng và công ty CTTC. Hơn thế nữa, thuế giá trị gia tăng là thuế đánh vào hàng hóa chứ không đánh vào chủ thể mua hàng hóa, chính vì vậy, bất kể Trang 81 hàng hóa này được mua bởi chủ thể nào đều phải được thực hiện một chính sách thuế như nhau. 4.3.2.2. Mở rộng danh mục tài sản được phép CTTC Việc quy định tài sản thuê chỉ nằm trong phạm vi động sản đã hạn chế rất nhiều khả năng cạnh tranh của công ty CTTC. Hiện nay, các NHTM đang đầu tư rất nhiều vào thị trường này nhưng quy mô cung vẫn không đáp ứng đủ cầu. Vì vậy, quy định này vừa tạp ra khó khăn cho người có nhu cầu vừa làm thu hẹp thị phần của các công ty CTTC. Hơn thế nữa, khi được phép cho thuê đối với các tài sản là bất động sản, công ty CTTC sẽ có điều kiện để tài trợ trọn gói các tài sản trên đất như: máy móc, phương tiện hoạt động… để vừa tăng trưởng thị phần, vừa quản lý tài sản thuê một cách chặt chẽ hơn. Mặt khác, theo thông lệ quốc tế, các tài sản thuê bao gồm cả động sản và bất động sản. Chính vì vậy, trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, Nhà nước cần sửa đổi quy định này để phù hợp theo đúng thông lệ cũng như tạo điều kiện tốt hơn cho phát triển hoạt động của các công ty CTTC và cho thị trường CTTC. 4.3.3. CÓ CÁC CHÍNH SÁCH THÔNG THOÁNG HƠN ĐỂ TẠO ĐIỀU KIỆN HỖ TRỢ CHO HOẠT ĐỘNG CTTC PHÁT TRIỂN 4.3.3.1. Về chính sách thuế nhập khẩu Ở Việt Nam, chi phí mua sắm máy móc thiết bị của các công ty CTTC nói chung thường bị đội lên cao do không được miễn thuế nhập khẩu (ở các nước khác như Trung Quốc, Hàn Quốc thì được miễn các khoản thuế nhập khẩu đối với tài sản CTTC). Nếu trong giai đoạn này, Chính phủ cho phép thực hiện một số ưu đãi như trên để kích thích các doanh nghiệp sử dụng hình thức tài trợ này thì trong thời gian tới, các công ty CTTC và các doanh nghiệp sẽ cùng tận hưởng những ưu thế này để tăng trưởng và phát triển. 4.3.3.2. Quy định về chính sách khấu hao Khấu hao tài sản thuê nhanh để tiết kiệm thuế vốn là một lợi thế của CTTC và được cái doanh nghiệp rất quan tâm. Tại Việt Nam, mặc dù theo quy định hạch toán kế toán hiện hành, doanh nghiệp có thể thực hiện trích lập và hạch toán khấu hao theo đúng thời gian thuê tài sản. Tuy nhiên, khi thực hiện quyết toán thuế, cơ quan thuế buộc doanh nghiệp phải tính lại số khấu hao bình thường như các TSCĐ khác do doanh nghiệp tự đầu tư. Vì Trang 82 vậy, việc khấu hao nhanh không mang lại lợi ích về thuế. Và vì vậy, điều này triệt tiêu đi lợi thế khấu hao nhanh theo thời gian thuê của các tài sản thuê tài chính. 4.3.4. QUY ĐỊNH CÁC CHẾ TÀI CỤ THỂ TRONG TRƯỜNG HỢP BÊN THUÊ VI PHẠM HỢP ĐỒNG CTTC Theo quy định tại Nghị định 16, khi bên thuê có phát sinh vi phạm hợp đồng CTTC (trả nợ trễ hạn, không thực hiện đúng các thỏa thuận về việc sử dụng, quản lý tài sản thuê…), công ty CTTC được quyền thu hồi tài sản thuê của mình. Tuy nhiên, trong thực tế, việc thu hồi tài sản thuê thường gặp rất nhiều trở ngại từ bên cho thuê dẫn đến tình trạng công ty CTTC vừa mất nhiều thời gian, chi phí để thu hồi tài sản thuê và hơn thế nữa, tài sản thuê thu hồi được cũng không còn nguyên trạng. Chính vì vậy, pháp luật về CTTC cần phải có những chế tài rõ ràng, cụ thể hơn để buộc các khách hàng vi phạm hợp đồng CTTC thực hiện nghiêm quy định về việc hoàn trả tài sản cho bên cho thuê để hạn chế tối đa rủi ro cho các công ty CTTC. 4.3.5. PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG MÁY MÓC THIẾT BỊ CŨ Để kích thích hoạt động CTTC phát triển, Nhà nước cần giải quyết đầu ra của các tài sản CTTC. Hiện nay, Việt Nam chưa có thị trường mua bán máy móc, thiết bị cũ, nên việc xử lý các tài sản khi hợp đồng chấm do đối tác vi phạm hợp đồng gặp rất nhiều khó khăn. Thông thường khi hợp đồng chấp dứt đúng hạn thì khách hàng được mua lại tài sản thuê với giá tượng trưng nhưng khi hợp đồng chấm dứt trước thời hạn do khách hàng vi phạm hợp đồng (chẳng hạn như khách hàng bị phá sản…) thì công ty CTTC được thu tài sản về để xử lý thu hồi vốn. Đối với các tài sản là máy móc, công nghệ sản xuất chuyên biệt thì việc xử lý thật sự gặp khó khăn do thị trường máy móc cũ ở nước ta rất kém phát triển. Chính vì vậy mà các công ty CTTC chủ yếu tập trung vào cho thuê ô tô, phương tiện vận tải. Và điều này làm cho hoạt động CTTC vừa mất đi cơ hội phát triển vừa phải gánh chịu mức độ rủi ro tập trung hơn. Trang 83 KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 Mặc dù đã xuất hiện trên thị trường hơn 10 năm nhưng rõ ràng hoạt động CTTC tại Việt Nam vẫn đang trên con đường định hình và phát triển. Môi trường kinh tế năng động và đang phát triển mạnh mẽ của Việt Nam chính là một thị trường hết sức rộng lớn cho các công ty CTTC. Thêm vào đó, với việc gia nhập vào Tổ chứcThương mại Thế giới WTO, cả sản xuất và tiêu dùng của Việt Nam cũng sẽ có cơ sở tăng trưởng mạnh mẽ. Chính vì vậy, việc nhận định rằng thị trường CTTC rất tiềm năng là hoàn toàn thực tế. Tuy nhiên, trong một môi trường được đánh giá là nhiều cơ hội đó thì những gì đạt được chưa làm thỏa mãn cả người trong cuộc là các công ty CTTC, các khách hàng sử dụng CTTC và cả người ngoài cuộc là các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu. Như vậy, bài toán đặt ra là làm sao để phát huy vai trò của kênh cung cấp vốn được đánh giá là rất hiệu quả này đối với nền kinh tế là một việc không đơn giản. Để tìm ra lời giải cho bài toán này đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của cả các nhà làm luật, các nhà quản lý vĩ mô nền kinh tế và cả từ bản thân các công ty CTTC với những giải pháp thiết thực và hiệu quả. Có như vậy, hoạt động CTTC mới phát huy được vai trò và vị trí của mình trong quá trình phát triển của nền kinh tế. Nếu những giải pháp ở tầm vĩ mô được các nhà làm luật quan tâm, hy vọng rằng trong thời gian tới, hoạt động CTT tại Việt Nam sẽ thực sự khởi sắc và các công ty CTTC ở Việt Nam sẽ có được nhiều điều kiện thuận lợi hơn để phát triển. Khi đó, với những cải cách thực hiện ở góc độ vi mô của mình, các công ty CTTC sẽ thực sự góp phần rất quan trọng trong việc san sẽ gánh nặng về tài trợ vốn cho nền kinh tế để các NHTM tập trung vào phát triển các hoạt động dịch vụ khác. Đưa trình độ phát triển tài chính của Việt nam phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Và điều này cũng là một xu thế tất yếu phù hợp với quy luật phát triển. Trang 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Các Báo cáo hoạt động kinh doanh của Công ty CTTC Ngân hàng Sài gòn Thương tín. 2. “Hoạt động CTTC của các NHTM Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển”, Tạp chí Khoa học& Đào tạo Ngân hàng (số 5/2003). 3. Nguyễn Đình Quế (10/2006), “Vấn đề thiếu vốn kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp Chí Phát triển kinh tế (số 192). 4. Trần Tô Tử – Nguyễn Hải Sản, “ Tìm hiểu và sử dụng Tín dụng thuê mua”, Nhà xuất bản Trẻ 5. Thông tin Tín dụng CIC (số tháng 3/2007). 6. Tài liệu các cuộc hội thảo về CTTC do Công ty CTTC Ngân hàng Sài gòn Thương tín cung cấp. 7. Website Công ty CTTC Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: 8. Website công ty CTTC Ngân hàng Sài gòn Thương tín: 9. Website Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Website Tổng cục Thống kê: Trang 85

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf47525.pdf
Tài liệu liên quan