Luận văn Phương hướng và giải pháp bảo đảm vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng xã hội ở Việt nam giai đoạn 2001-2010

Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đầu tư cho các lĩnh vực của cơ sở hạ tầng xã hội nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao trình độ, tư duy, kiến thức và kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ dân trí phục vụ cho hoạt động sản xuất xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội nhu cầu về chất lượng nguồn nhân lực - lực lượng lao động - ngày càng tăng. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội giúp Việt Nam thực hiện các mục tiêu chiến lược mà Đại hội Đảng IX đề ra, phấn đấu tới năm 2020 cơ bản đưa đất nước trở thành nước công nghiệp. Cần phải khai thác và sử dụng nhiều nguồn lực khác nhau phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội. Việc huy động vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội phải được cân nhắc, xem xét cho phù hợp với điều kiện các nguồn lực tài chính của đất nước còn hạn hẹp. Vấn đề đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội là một vấn đề lớn không thể giải quyết ngay được, mà cần phải có thời gian. Trong giai đoạn hiện nay ngân sách Nhà nước vẫn là nguồn đầu tư chủ yếu cho cơ sở hạ tầng xã hội ở Việt Nam. Nhưng cũng rất cần thiết có sự tham gia của các ngành, các cấp và toàn thể xã hội. Chủ trương xã hội hoá các lĩnh vực của cơ sở hạ tầng xã hội, trong đó có xã hội hoá các nguồn lực đầu tư là phù hợp với đường lối phát triển kinh tế xã hội hiện tại cũng như trong chiến lược lâu dài.

doc79 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1546 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phương hướng và giải pháp bảo đảm vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng xã hội ở Việt nam giai đoạn 2001-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại học quốc gia thuộc hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Ba Đại học vùng và hệ thống trường cao đẳng phân bố khắp các tỉnh, thành phố. Toàn xã hội hiện tại có khoảng 20 triệu người đi học chiếm hơn một phần tư dân số trong đó có 17 triệu học sinh, sinh viên. Số người tốt nghiệp PTCS trở lên chiếm tới 46,6% trong tổng nguồn nhân lực. Hiệu quả của việc đầu tư phát triển Giáo dục-Đào tạo biểu hiện trực tiếp qua trình độ của nguồn nhân lực; trình độ kỹ thuật sản xuất; trình độ quản lý; kết quả năng suất lao động tăng lên dẫn tới thu nhập trong dân tăng lên. Có thể khái quát một số kết quả cơ bản sau: Sự gia tăng năng lực phục vụ của cơ sở hạ tầng sẵn có bổ sung năng lực phục vụ mới của cơ sở hạ tầng mới. Mặc dù tỷ trọng cho đầu tư xây dựng cơ bản không lớn trong cơ cấu chi đầu tư cho Giáo dục-Đào tạo song giá trị tài sản cố định mới tăng thêm đã tăng lên đáng kể góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Bảng 17: Giá trị tài sản cố định mới tăng thêm của ngành Giáo dục-Đào tạo, theo giá hiện hành. Đơn vị: Tỷ đồng Toàn xã hội Thuộc vốn đầu tư từ NS Năm 1997 1998 1999 1997 1998 1999 Giáo dục-Đào tạo 1739,9 2232,8 3070 1077,8 1708,7 2457,4 Tỷ trọng tăng thêm theo nguồn ĐT 2,32% 2,67% 2,97% 3,86% 4,01% 4,23% Nguồn: Chương trình quốc gia về giáo dục-Bộ Giáo dục-Đào tạo Hiệu quả từ các chương trình mục tiêu cũng như tăng tỷ lệ vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng, nên hệ thống cơ sở vật chất trường lớp được cải thiện một bước: Sửa chữa nâng cấp phòng học cũ xây mới theo phương thức kiên cố cao tầng chất lượng đảm bảo tiêu chuẩn quy định của Bộ Giáo dục-Đào tạo. Theo thống kê điều tra 100% các xã có trường tiểu học, 77% số xã có trường cấp hai và 85% số trường có đội ngũ giáo viên được đào tạo chính quy khắc phục tình trạng bỏ học của học sinh vùng sâu, vùng xa. Ngoài ra xây dựng được thêm nhiều phòng thí nghiệm, thư viện, nhà tập thể dục…Phục vụ cho công tác dạy và học. Về quy mô Giáo dục-Đào tạo tăng lên không ngừng qua các năm với hình thức đa dạng đã đáp ứng nhu cầu phần lớn học hành của học sinh sinh viên. Số lượng giáo viên và học sinh tăng liên tục qua các năm. Do mạng lưới trường lớp của các cấp Giáo dục-Đào tạo nói chung được phân bổ khắp các vùng trên cả nước nên trình độ dân trí của hầu hết các vùng được nâng lên tỷ lệ biết chữ trong dân cư 93% cho tới năm 2000. Lực lượng lao động qua đào tạo đang hoạt động kinh tế chiếm hơn 15% lực lượng lao động. Nhờ những chính sách cụ thể mà chất lượng nguồn nhân lực từng bước được cải thiện và nâng cao. Số học sinh tốt nghiệp tăng, tỷ lệ sinh viên học Đại học tăng đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nhờ vậy chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta khá cao so với Thế giới đứng thứ 108/173 so với sự xếp hạng. 1.2. Ngành y tế Cùng với ngành Giáo dục-Đào tạo ngành y tế cũng có những thành tựu đáng kể trong giai đoạn vừa qua. Các chính sách nhằm phát triển hệ thống cơ sở vật chất ngành y tế cũng như việc thực hiện các dịch vụ y tế công cộng đã phát huy tác dụng xét về năng lực sản xuất. - Đầu tư cho hai chương trình hệ thống y tế quốc gia về xoá “xã trắng” y tế đã hoàn thành đưa vào sử dụng 1039 các trạm y tế xã thuộc ở tỉnh tăng 73530 m2 sử dụng và 44 trung tâm y tế xã tăng 30800 m2 sử dụng. - Hệ thống khám chữa bệnh cùng với mạng lưới y tế toàn quốc đã hoàn thành hai trung tâm y tế chuyên sâu là thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội và một số trung tâm y tế chuyên sâu khu vực: Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Sơn la… Bảng 18: Kết quả của chương trình nâng cấp trang thiết bị y tế Đơn vị: tỷ đồng Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số 70 100 103 110 100 87 113 Tăng so với 1994 42,8% 47,1% 57,1% 42,8% 84,2% 89,6% Khối các ĐV trực thuộc 18,6 27 43 34,6 30 18,62 32,2 Y tế các ngành 1,4 3 4,4 5,4 5,55 4,5 5,7 Địa phương 50 70 55,6 70 64,47 63,85 72,7 Nguồn: Báo cáo năm 2000 vụ trang thiết bị- Bộ Y tế Hiệu quả qua đầu tư cho thiết bị y tế góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân của Nhà nước ta như: Chuẩn đoán chính xác hơn, hạ thấp số ngày nằm viện, giảm tình trạng quá tải của các bệnh viện lớn. Có được như vậy phải kể đến sự gia tăng chi tiêu của Chính phủ cho việc đầu tư nâng cấp trang thiết bị y tế. Từ đó một số ngành khoa học y học mũi nhọn có trang thiết bị để đầu tư cho nghiên cứu giảng dạy, nâng cao chất lượng trong công tác học tập cho sinh viên nghiên cứu khoa học. Trong quá trình xây dựng và phát triển ngành y tế nước ta đã thiết lập được một mạng lưới y tế rộng khắp từ Trung ương đến các địa phương, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu chương trình y tế. Dự án phòng chống sốt rét làm giảm 50% số mắc bệnh sốt rét và giảm số chết do mắc sốt rét. Dự án phòng chống lao bảo vệ dân số 100% cho nhân dân. Dự án phòng chống biếu cổ làm giảm tỷ lệ bướu cổ ở trẻ em nhỏ hơn 10% vầ có hơn 90% hộ gia đình dùng muối iốt. Dự án phòng chống phong tỷ lệ người mắc bệnh là 3/100 nghìn người dân. Kết quả trên không thể không kể đến vai trò của các chính sách huy động vốn đầu tư cho hệ thống cơ sở vật chất của ngành y tế. 2. Những tồn tại chủ yếu của huy động vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội. Cùng với những thuận lợi và những thành tựu đạt được cũng còn có những khó khăn và tồn tại theo từng lĩnh vực của cơ sở hạ tầng xã hội. Trước hết phải nói tới nguồn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Trong lĩnh vực Giáo dục-Đào tạo: Ngân sách Nhà nước đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội tăng qua các năm song tỷ trọng chi so với các nước khác còn rất thấp. Trong chi tỷ trọng chi cho Giáo dục-Đào tạo từ ngân sách nhà nước của Malayxia, Singapore là 23%, Hàn Quốc là 20%, Thái Lan là 21% và Trung Quốc là 16%. Những năm gần đây dân số tăng nhanh nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá cần Giáo dục-Đào tạo đáp ứng cao hơn chi cho Giáo dục-Đào tạo chỉ đáp ứng được khoảng trên 50% nhu cầu. Tình trạng này dẫn đến nhiều vấn đề đặt ra trong sự nghiệp Giáo dục-Đào tạo như thiếu phòng học, phòng không đạt tiêu chuẩn…Như cầu chưa được đáp ứng sẽ phải huy động vốn từ nguồn khác. Trong lĩnh vực y tế Nguồn đầu tư từ ngân sách Nhà nước tăng chậm hơn so với ngành Giáo dục-Đào tạo thậm chí không tăng. Trong khi nhu cầu đầu tư tương đối lớn do yếu tố vật chất kỹ thuật của ngành lạc hậu và xuống cấp trầm trọng. 2.1. Tồn tại chủ yếu của đầu tư trong Giáo dục-Đào tạo Cơ cấu đầu tư là bất hợp lý bởi vì theo quy định của Bộ Giáo dục-Đào tạo thì cơ cấu chi từ nguồn ngân sách Nhà nước phải bảo đảm 60% quỹ lương và 20% mua sắm tài liệu giảng dạy, 10% bảo dưỡng học đường, 10% chi khác. Song thực tế qua các năm 72% kinh phí đó lại sử dụng cho quỹ lương số còn lại không đủ chi cho nhu cầu khác. Tình hình huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách chưa đạt tới kết quả cao so với tiềm năng thực tế. Biểu hiện của nó là các trường dân lập, tư thục và bán công chưa phổ biến rộng rãi, các doanh nghiệp là nơi sử dụng phần lớn đầu ra của Giáo dục-Đào tạo lại không phải trả chi phí đào tạo nhân viên cho mình. Hiệu quả sử dụng nguồn ODA thấp: Chưa chú ý, tranh thủ nhập các công nghệ tiên tiến về Giáo dục-Đào tạo khi sử dụng các nguồn viện trợ mà thiên về nhập các trang thiết bị phần cứng. Trình độ năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ trong thực hiện và quản lý dự án viên trợ còn hạn chế chưa phát huy tối đa các nguồn lực hỗ trợ cho đầu tư trong Giáo dục-Đào tạo. Những tồn tại trong vấn đề hiệu quả đầu tư: - Khả năng tiếp cận Giáo dục-Đào tạo ở các vùng nông thôn, vùng núi, vùng sâu, xa rất thấp: Số học sinh bỏ học và lưu ban còn cao tập trung chủ yếu vào cấp tiểu học tương ứng là 6,42% và 4,36% rất cao ở các vùng tây nguyên. - Hiệu quả đào tạo tuy đã tăng hơn so với năm 1994-1995 song vẫn còn thấp cấp tiểu học đạt 73,5% mục tiêu( so với 68%-1995) trung học cơ sở 70,08% mục tiêu ( so với 68%-1995), phổ thông trung học là 80,84% mục tiêu ( so với 83%- 1995) và chênh lệch lớn theo vùng. - Cơ cấu đào tạo bất hợp lý: Mất cân đối giữa các thể loại cán bộ đại học, trung học chuyên nghiệp công nhân kỹ thuật, tỷ kệ này là 1/1,76/2,3 có nghĩa là đầu ra của quá trình đào tạo là 1 sinh viên đại học với 1,76 sinh viên trung học 2,3 công nhân kỹ thuật. Trong khi tỷ lệ này giữa các nước là 1/4/10. - Chất lượng đào tạo chưa phù hợp với nhu cầu: Đến nay các loại hình đào tạo chưa đáp ứng đủ lực lượng lao động sao cho phù hợp với công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Trình độ chỉ trên lý thuyết còn khả năng thực hành là rất hạn chế. - Công bằng trong Giáo dục-Đào tạo: Do sự phát triển không đồng đều giữa các vùng thành thị và nông thôn dẫn đến việc phân phối nguồn đầu tư từ ngân sách Nhà nước không công bằng. Các trường lớp ở khu vực thành thị có lợi thế hơn nhiều so với nông thôn, vùng sâu vùng xa. Điều này dẫn tới sự tụt hậu trong cơ sở vật chất, đồ dùng dạy và học ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng Giáo dục-Đào tạo so với trung bình trung của cả nước. Người nghèo không có khả năng cho con đi học. 2.2. Tồn tại trong đầu tư cho ngành y tế Ngoài sự đóng góp không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng dân cư nguồn nhân lực. Khả năng đáp ứng chất lượng dịch vụ còn bất cập so với sự phát triển của đất nước, có sự chênh lệch khá lớn về chất lượng dịch vụ được hưởng thụ giữa các nhóm dân cư. - Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng mang tính chất chắp vá, sửa chữa lớn. Nhiều bệnh viện quá cũ kỹ chưa được xây dựng lại chỉ cải tạo, đầu tư không đồng bộ vì vậy tuy có đầu tư nhưng chưa đạt yêu cầu. Đầu tư còn phân tán chưa tập trung dứt điểm, nhiều dự án công trình còn kéo dài. Thời kỳ 1991-1995 đầu tư không đồng bộ giữa xây dựng bệnh viện và trang thiết bị. Trong những năm gần đây Nhà nước đã giành hơn 100 tỷ đồng để đầu tư cho trang thiết bị y tế một số bệnh viện lớn nhằm lấy lại sự cân bằng. Hàng năm Nhà nước đầu tư từ 20-30 tỷ đồng cho chương trình xoá “xã trắng” về y tế cho vùng sâu vùng xa và các tỉnh biên giới tây nguyên đã có kết quả tốt. Song công tác cán bộ y tế ở các vùng này yếu kém nhiều sinh viên Y sau khi tốt nghiệp làm việc ở nông thôn ở miền núi. - Đầu tư từ nước ngoài: Thời gian qua nguồn viện trợ từ nước ngoài cho y tế đã tăng nhanh song tiến độ đầu tư từ các dự án là chậm. Dự án lớn nhất cho ngành y tế là dự án hỗ trợ y tế quốc gia, tổng số vốn là 1400 tỷ đồng bắt đầu có hiệu lực từ năm 1996 tới nay vẫn chưa rút được vốn theo hiệp định ký kết với đối tác. Phía Việt Nam chưa chuẩn bị tốt thủ tục đầu tư triển khai dự án. -Đầu tư trang thiết bị y tế: Đầu tư mua sắm trang thiết bị y tế nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ y tế cho nhân dân. Nhìn chung hệ thống trang thiết bị y tế của Việt Nam là thiếu về số lượng không đồng bộ, chất lượng thấp. Các nhà cung cấp trang thiết bị y tế còn rất hạn chế về số lượng nên hợp tác quan hệ với nước ngoài trong lĩnh vực này còn lúng túng. Mặt khác do thiếu vốn còn yếu trong nghiệp vụ thương mại và trình độ kỹ thuật về trong thiết bị y tế. Năng lực quản lý điều hành của hệ thống quản lý đầu tư xây dựng từ cơ quan Bộ tới ban quản lý các dự án có nhiều biểu hiện của sự yếu kém. Nhiều dự án do không có sự điều hành tốt lên kế hoạch triển khai chậm, có dự án gần tới hết năm mới tổ chức được đấu thầu. 3. Kết luận Những phân tích đánh giá thực trạng của vấn đề đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội ta có thể có những kết luận sau: - Mặc dù còn thiếu khó khăn song Đảng và Chính phủ ta đã rất cố gắng dành nguồn đầu tư cho công tác huy động nguồn lực cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng. Điển hình là 2 lĩnh vực chủ yếu của cơ sở hạ tầng xã hội: Giáo dục-Đào tạo, y tế, tỷ trọng ngân sách Nhà nước cho lĩnh vực này tăng qua các năm nhưng do điều kiện hạn chế về nhiều mặt nên chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. - Hệ thống chính sách đã đi vào thực tế nhưng để có một sự cụ thể hoá hơn thì phải được xây dựng thành chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, chương trình dự án. Khi đó sự đồng bộ trong vấn đề đầu tư sẽ nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư . Các vấn đề đặt ra: + Nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng xã hội tăng do sức ép tăng dân số và yêu cầu đòi hỏi cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. + Trước yêu cầu mới phải có những giải pháp về mặt chính sách huy động vốn đầu tư từ nhiều nguồn: ODA, ngân sách Nhà nước, đầu tư tư nhân… + Công bằng xã hội trong lĩnh vực này đặt ra là khoảng cách cung cấp dịch vụ giữa các vùng nhóm dân cư lớn. + Khả năng tiếp cận của hệ thống hay còn gọi là khả năng lựa chọn dịch vụ khác nhau ở những vùng khác nhau phụ thuộc vào thu nhập. + Vấn đề xã hội hoá về đầu tư cho các lĩnh vực cơ sở hạ tầng xã hội phải được nhìn nhận đúng mức cần thiết của xã hội hoá là do điều kiện của đất nước, quy mô ngân sách hẹp, phải chi cho nhiều vấn đề. + Sự hình thành phát triển và phân bố hệ thống các cơ sở Giáo dục-Đào tạo, y tế chất lượng còn thấp. Có sự khác biệt giữa các cấp, đơn vị trong nội bộ ngành, giữa các vùng lãnh thổ. + Hệ thống trang thiết bị, cơ cấu chắp vá thiếu đồng bộ dẫn tới hiệu quả đầu tư thấp. Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội Việt nam trong giai đoạn tới ******************************** I. Các căn cứ xác định phương hướng bảo đảm vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội 1. Phương hướng và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2010 Mục tiêu tổng quát và nhiệm vụ chủ yếu thể hiện các quan điểm phát triển chiến lược cho 10 năm tới là: "Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp tương đối hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của đất nước trên trường quốc tế được nâng cao".(1) Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2001- 2005. Trích văn kiện Đại hội IX Mục tiêu chung của xã hội là xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội với quy mô ngày càng mở rộng, đa dạng, chất lượng cao có khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển của con người. Chất lượng tốt của hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội sẽ đào tạo con người toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần góp phần tạo ra con người có đầy đủ bản lĩnh và tri thức để xây dựng một nước Việt nam theo hướng CNH-HĐH, thấm đượm bản sắc dân tộc, giàu mạnh, công bằng văn minh. Các mục tiêu chung: Về kinh tế mục tiêu tăng tổng GDP năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995 bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm 2001- 2005 là 7,5%. Trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,3% công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%, dịch vụ tăng 6,2%. Về xã hội mục tiêu tiếp tục củng cố và duy trì mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học. Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở. - Tỷ lệ học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi đạt 80%, tỷ lệ học sinh phổ thông trung học đi học trong độ tuổi đi học đạt 45% vào năm 2005. - Cơ bản xoá hộ đói, giảm tỷ lệ nghèo xuống còn 10% vào năm 2005. - Đáp ứng 40% nhu cầu thuốc chữa bệnh sản xuất trong nước. - Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 22- 25% vào năm 2005, nâng tuổi thọ bình quân năm 2005 là 70 tuổi. - Cung cấp nước sạch cho 60% dân số nông thôn. Các mục tiêu cụ thể: Ngành giáo dục- đào tạo. - Hình thành một hệ thống trường lớp mầm non đa dạng với chất lượng được cải thiện đạt chuẩn mực quốc gia năm 2010. - Hệ thống các trường tiểu học hình thành với chương trình học 2 buổi ngày ở những nơi có điều kiện (2005) và hoàn thiện hệ thống vào năm 2010. Tập trung xoá bỏ phòng học 3 ca, phòng học tạm vào năm 2005. - Tất cả các quận huyện đều có trung tâm giáo dục thường xuyên Hệ thống được hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ phát triển kinh tế xã hội theo hướng CNH-HĐH, nâng cao mức hưởng thụ phúc lợi và nhu cầu ngày càng cao về giáo dục- đào tạo của nhân dân. - Hệ thống trường THCS đạt tiêu chuẩn Quốc gia bảo đảm phổ cập vào năm 2010, phổ cập THPT vào năm 2020. - Mở rộng đào tạo nghề, mở rộng hợp lý giữa Đại học và cao đẳng, phát triển đào tạo cao học và nghiên cứu sinh năm 2020. Phấn đấu 50-60% lực lượng lao động đã qua đào tạo. -Hệ thống các trường Cao đẳng và đại học đa dạng về lĩnh vực, ngành, cấp đào tạo và trình độ chất lượng trên khắp cả nước. Có khả năng đáp ứng nhu cầu nhân lực ngày càng lớn với quy mô và cơ cấu hợp lý phục vụ phát triển đất nước. + Theo các chương trình mục tiêu: - Chương trình phổ cập giáo dục Trung học cơ sở vào năm 2010 ở các vùng trên cả nước nói chung và hoàn thành tại các vùng thành thị nói riêng vào năm 2005 - Chương trình xoá mù chữ: Xoá triệt để mù chữ trong cả nước nói chung và quan tâm đặc biệt tới vùng nông thôn nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo. - Nâng cao tỷ lệ người có trình độ đại học và cao đẳng trong lực lượng lao động +Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội học tập, tiếp tục phát triển các trường phổ thông nội trú dành cho con em dân tộc thiểu số có chính sách hỗ trợ với những học sinh có năng khiếu chú ý đặc biệt tới con em công nhân và nông dân. Ngành y tế Hệ thống y tế được gắn với địa bàn dân cư mở rộng khả năng đáp ứng và cải cách chất lượng dịch vụ đặc biệt các vùng chậm phát triển, vùng dân tộc ít người. Phấn đấu đến năm 2010 có 100% số xã có bác sỹ đồng thời nâng cấp từng bước hiện đại hoá các trạm y tế cơ sở. Mục tiêu chung: phấn đấu mọi người dân được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, có điều kiện tiếp cận các dịch vụ y tế có chất lượng. Mọi người đều được sống trong cộng động an toàn, phát triển tốt về thể chất tinh thần, giảm tỷ lệ mắc bệnh tăng tuổi thọ phát triển giống nòi. - Nâng cao một bước chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. - Thực hiện tiến bộ công bằng xã hội trong cả nước về hưởng thụ dịch vụ y tế giữa các nhóm dân cư nói chung và các vùng lãnh thổ nói riêng (công bằng trong tiếp cận các dịch vụ y tế, quyền được khám chữa bệnh của mỗi công dân). - Nâng cao tính hiệu quả và công bằng của các dịch vụ y tế xoá bỏ bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo, giữa thành thị và nông thôn. Song song nâng cao các dịch vụ chữa bệnh, củng cố nâng cấp mạng lưới y tế phấn đấu có bác sỹ làm việc ở tất cả các trạm y tế đồng bằng và trung du. - Từng bước hiện đại hoá trang thiết bị y tế ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại. Phấn đấu đến năm 2020 trên một số lĩnh vực ta có thế mạnh trở thành trung tâm khu vực. - Thanh toán một số bệnh xã hội và bệnh dịch như HIV và các bệnh lao, sốt rét, viêm lão và các bệnh bại liệt, uốn ván ở trẻ sơ sinh. 2. Yêu cầu và nhiệm vụ đẩy mạnh CNH- HĐH hội nhập với thế giới. Yếu tố con người là một yếu tố quan trọng nếu không nói là quyết định cho sự nghiệp CNH- HĐH. Việt nam đang trong quá trình CNH đất nước dân số tăng nhanh nhu cầu về giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao ngày một gia tăng đáp ứng nhu cầu phát triển toàn diện của con người, cần thiết nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại của thế giới áp dụng vào trong quá trình sản xuất tăng năng xuất lao động. Hệ thống kết cấu hạ tầng xã hội lại là điều kiện thiết yếu để bảo đảm hoạt động có hiệu quả các ngành có liên qua trực tiếp tới nguồn nhân lực - động lực chính của quá trình CNH-HĐH, hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh CNH-HĐH chính là giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và cơ sở hạ tầng xã hội. Để thực hiện mục tiêu và phương hướng mà Đại hội đảng IX đề ra là tiếp tục chính sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển, tích cực chuẩn bị các điều kiện về kinh tế , thể chế, cán bộ …để thực hiện thành công quá trình hội nhập trên cơ sở phát huy nội lực. Thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết trong quá trình hội nhập… Ngoài ra chính sách kinh tế mở sẽ mở rộng quan hệ hợp tác với bạn bè trên thế giới giúp tăng nguồn đầu tư từ nước ngoài cho hầu hết các lĩnh vực và cả cơ sở hạ tầng xã hội. 3. Thực trạng huy động vốn đầu tư những năm qua và khả năng huy động vốn đầu tư trong thời gian tới. Từ phân tích thực trạng huy động vốn từ chương trước có thể thấy được còn nhiều vấn đề cần đề cập trong huy động vốn cho cơ sở hạ tầng xã hội. Khả năng huy động vốn đầu tư trong giai đoạn tới của Việt nam nói chung có rất nhiều khả quan. Trước hết nói tới nguồn chủ yếu để đầu tư đó là ngân sách nhà nước. Khi nền kinh tế phát triển thêm một bước thì thu nhập mang lại từ đó cũng tăng thêm. Với dự kiến tổng sản phẩm trong nước trong 5 năm tới tăng 7,5% năm dự kiến tổng ngân sách nhà nước là 720 - 750 nghìn tỷ đồng, trong đó dự kiến chi đầu tư phát triển chiếm 25 –26%. Hơn nữa, chủ trương chi ngân sách cho các ngành thuộc cơ sở hạ tầng xã hội sẽ được cụ thể hoá hơn nữa bằng các chính sách ưu tiên đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội. Cần phải có những biện pháp cụ thể phát huy tối đa hiệu qủa của đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội 4. Dự báo nhu cầu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội. Xã hội càng phát triển nhu cầu thoả mãn về tinh thần, vật chất của con người đòi hỏi ngày càng cao. Đáp ứng nhu cầu đó, vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội có liên quan trực tiếp tới con người tăng là một tất yếu. Dự báo vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng sẽ dành khoảng 65-70% tổng nguồn vốn tập trung đầu tư cho một số lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế và khoảng 30-35% cơ sở hạ tầng xã hội. Riêng với các ngành: giáo dục, y tế, văn hoá xã hội đầu tư khoảng 8% tổng vốn đầu tư cho toàn xã hội.Trong phần này em chỉ xin đề cập tới xu hướng nhu cầu đầu tư của hai ngành: giáo dục- đào tạo và y tế thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội Ngành giáo dục- đào tạo Nhu cầu vốn đầu tư cho giáo dục- đào tạo đến năm 2010 khoảng từ 100000 tỷ đến 200000 tỷ đồng. Trong đó Ngân sách nhà nước chiếm 77%, ODA chiếm 3% còn lại là nguồn đóng học phí và đóng góp của nhân dân. Bảng 19: Nhu cầu đầu tư cho ngành giáo dục- đào tạo Đơn vị: tỷ đồng Năm 2001-2005 2006-2010 Nhu cầu đảm bảo chất lượng GD 80000 - 100000 170000 - 200000 Trong đó: - Chi thường xuyên - Chi xây dựng cơ bản 65587,91 - 81980 14416 - 18020 78652,3 - 96457,6 91347,7 - 103542.4 Nguồn: Mục tiêu phát triển giáo dục đến năm 2020, Bộ GD&ĐT Hậu quả do lũ lụt mang lại làm cho hệ thống trường lớp cần khôi phục lại rất lớn, hiện tại vấn đề vốn đầu tư cần được bổ sung thêm như sau: - Sửa chữa 2500 phòng học (30 tỷ đồng). - Xây mới 750 phòng học (45,6 tỷ đồng). - Khôi phục bàn ghế (6,6 tỷ đồng). - Sửa chữa phòng thí nghiệm (15 tỷ đồng). - Hỗ trợ sách giáo khoa, bút giấy (5 tỷ đồng). Nhu cầu vốn đầu tư phụ thuộc vào các nhu cầu sau: - Quy mô học sinh các cấp học: điều này lại phụ thuộc vào tốc độ tăng dân số và nhu cầu chất lượng nguồn nhân lực cho quá trình phát triển. Dân số Việt nam dự báo khoảng 88,6 triệu người vào năm 2010. Dân số tăng nhanh dẫn tới nhu cầu phòng học các cấp tăng, nhu cầu đất xây dựng phòng học cũng tăng. Ngành y tế: Nhu cầu vốn đầu tư cho ngành y tế phụ thuộc vào: - Số trạm y tế cần xây dựng thêm. - Nhu cầu bác sỹ tăng thêm. - Dân số tăng, nhu cầu chăm sóc sức khoẻ tăng. - Bệnh hiểm nghèo xuất hiện ngày một nhiều. Xuất phát từ cơ sở đó nhu cầu vốn được dự kiến trong bảng sau: Bảng 20: nhu cầu đầu tư cho ngành y tế. Đơn vị: tỷ đồng. Năm 1998-2000 2001-2010 2011-2020 Số trạm cần xây dựng 919 858 471 Nhu cầu đầu tư (tỷ đồng) 85,467 79,794 43,803 Trong đó: - Xây dựng nhà trạm - Dụng cụ y tế 73,520 11,947 68,64 11,154 37,680 6,123 Nguồn : Mục tiêu phát triển y tế đến năm 2020, Bộ Y Tế Kết quả dự báo trên đây chỉ là bước đầu. Trong tương lai còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Thực tế dân số nước ta phân bố không đều giữa các vùng trên cả nước. Vì thế nếu chỉ dừng lại ở các điểm dân cư thuần tuý theo dân số mà không tính đến yếu tố không gian địa lý, rất khó có thể giải quyết tốt mục tiêu công bằng trong phân bổ nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội. Ngoài ra đất nước ta luôn có hạn hán bão lụt cho nên nhu cầu vốn đầu tư cho tương lai chỉ mang tính tương đối, nếu như đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật thì yêu cầu đặt ra là phải có nguồn vốn bổ sung. Tiến hành xây dựng và cải tạo lại song song với việc xây mới. II. Quan điểm và phương hướng bảo đảm vốn cho cơ sở hạ tầng xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng xã hội trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đảng và nhà nước ta đã có những phương hướng, chính sách, quan điểm chủ yếu liên quan trực tiếp đến việc thúc đẩy sự hình thành và phát triển hệ thống mạng lưới các cơ sở giáo dục, y tế như chính sách đầu tư phân bổ và trợ cấp. Thích hợp cho từng giai đoạn phát triển của đất nước. 1.1. Quan điểm Quan điểm bảo đảm vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng xã hội được thể hiện thông qua các văn bản có hiệu lực trong thời gian qua. Đại hội đảng toàn quốc lần IX đã thông qua phương hướng như sau: - Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho một đất nước công nghiệp là yêu cầu cấp thiết. Trong nền kinh tế thị trường đất nước tồn tại nhiều thành phần kinh tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế tập trung sức phát triển kinh tế để xây dựng đồng bộ cho một nước công nghiệp theo hướng hiện đại với những nội dung chủ yếu: Xây dựng tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất- kỹ thuật đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH, bao gồm: cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội. Trên cơ sở hiệu quả tổng hợp về kinh tế – xã hội, trước mắt và lâu dài, triển khai xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu. Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng và cấp thiết có điều kiện về vốn phát triển nguồn lực con người Việt Nam. Đây là chủ trương đúng đắn của nhà nước ta trong thời kỳ CNH-HĐH, có huy động sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế mới đem lại kết quả cho hoạt động đầu tư. - Phát triển cơ sở hạ tầng xã hội là công việc thường xuyên và chung của toàn xã hội. Do đặc điểm của cơ sở hạ tầng xã hội, song song với việc phát triển xã hội việc đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng xã hội là thường xuyên nâng cao nhu cầu toàn xã hội mà không chỉ của nhà nước phải có sự quan tâm của mọi thành phần kinh tế, của mọi đối tượng. Đẩy mạnh việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở nông thôn như trường học, bệnh viện, trạm y tế, điện, nước sạch, chợ và đường giao thông. đầu tư nhiều hơn cho những xã đặc biệt khó khăn - Kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu của bất kỳ nước nào, do điều kiện địa lý, kinh tế nên có sự khác biệt đáng kể giữa các vùng, địa phương. Do vậy giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội luôn được xác định rõ ràng về mặt tư tưởng trước khi ra các quyết định của nhà nước ta. - Nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Trong điều kiện nguồn lực cho sự phát triển còn có hạn thì việc nâng cao hiệu quả trong đầu tư là rất cần thiết. Tránh lãng phí trong điều kiện đất nước còn khó khăn, đây là một chủ trương suyên suốt của Đảng và nhà nước ta. 2.1. Phương hướng bảo đảm vốn Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt về dân số, sự nghiệp CNH-HĐH và nhu cầu vốn đầu tư cho những năm tới cho hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội của Việt nam, phát triển con người là mục tiêu hàng đầu hơn nữa phải tạo ra nguồn vốn đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng xã hội phục vụ phát triển con người. Phương hướng giai đoạn tới là: - Nâng dần tỷ trọng chi cho cơ sở hạ tầng xã hội so với chi cho các lĩnh vực xã hội. Tăng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn. Quy hoạch hợp lý và nâng cao hiệu quả việc sử dụng quỹ đất, nguồn nước,vốn rừng gắn với bảo vệ môi trường. - Đa dạng hoá các nguồn đầu tư bao gồm: Vốn ngân sách nhà nước, vốn huy động từ nhân dân, vốn đầu tư tư nhân, vốn vay nước ngoài nhà nước dành tỷ lệ ngân sách thích đáng, kết hợp đẩy mạnh xã hội hoá các lĩnh vực của cơ sở hạ tầng xã hội. Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đẩy mạnh hoạt động quốc tế về giáo dục, y tế, văn hoá… + Hướng cho khai thác nguồn đầu tư - Nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước: Trong những năm tới, ngân sách nhà nước vẫn là nguồn đầu tư chủ yếu cho cơ sở hạ tầng xã hội nói chung và y tế nói riêng. Đứng trước tình trạng bệnh tật, yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực của xã hội thì chi cho đầu tư cơ sở hạ tầng xã hội cần phải gia tăng đáng kể. Đại hội Đảng IX đề ra hướng khai thác nguồn từ ngân sách nhà nước như sau: Tăng đầu tư cho tất cả các ngành thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội: giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao,…ngân sách nhà nước tập trung nhiều hơn cho các bậc giáo dục phổ cập, cho vùng nông thôn, miền núi, cho đào tạo trình độ cao và những ngành khó thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước. -Vốn đầu tư trong nhân dân Xây dựng đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội không chỉ nhà nước mà quan điểm của nhà nước ta là nhà nước và nhân dân cùng làm, đẩy mạnh xã hội hoá các lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng xã hội về vốn đầu tư. Khuyến khích mạnh mẽ các cá nhân, tổ chức đầu tư phát triển các lĩnh vực thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng có hướng cụ thể để huy động nguồn này. Đối với 2 ngành giáo dục và y tế, nguồn này thông qua các khoản sau: - Viện phí: phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như sức khoẻ, dân số, thu nhập, không phải là nguồn ổn định lâu dài. Do tính chất bệnh viện tự cân đối chi từ nguồn này nên xu hướng chung là tăng. Nhưng còn phải căn cứ vào từng vùng cụ thể, đối tượng cụ thể từ đó có mức thu viện phí phù hợp. Bảo đảm huy động được tối đa nguồn vốn từ viện phí nhưng tính công bằng trong việc hưởng thụ phúc lợi xã hội từ các lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng xã hội vẫn được duy trì. - Học phí: Hướng thu học phí từ học sinh trực tiếp của nhân dân trong thời gian tới: Nâng dần mức học phí cho học sinh sống ở khu vực 3 trở nên, tỷ lệ cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với từng cấp học đối với cấp học cao như đại học và sau đại học. - Bảo hiểm y tế: Bảo đảm mục tiêu công bằng và hiệu quả trong hưởng thụ y tế. Trong thời gian tới thực hiện chế độ bảo hiểm y tế bắt buộc đối với những người có thu nhập cao, tương đối ổn định trong xã hội, nhằm tăng cường nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực y tế. Trước mắt, hướng cho các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mua bảo hiểm cho người lao động. Khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân tham gia bảo hiểm tự nguyện. - Vốn nước ngoài. Hướng huy động trong thời gian tới là tiếp tục thu hút vốn viện trợ nước ngoài trong đó đặc biệt chú ý tới nguồn ODA, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các dự án đầu tư cho cơ sở hạ tầng. Giám sát chặt chẽ công tác giải ngân ODA và tìm vốn đối ứng cho các dự án có vốn FDI. III. Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội Qua phân tích thực trạng ở chương II luận văn này kết hợp với những quan điểm mang tính chiến lược có thể đưa ra một vài giải pháp sau đây: 1. Tăng cường vốn ngân sách và điều chỉnh hợp lý cơ cấu đầu tư Tăng cường vốn ngân sách cho cơ sở hạ tầng xã hội, nhà nước cần phải nâng dần tỷ trọng chi ngân sách nhà nước cho các ngành thuộc cơ sở hạ tầng xã hội đặc biệt chi giáo dục và y tế. Kinh nghiệm của các nước cho thấy khi nền kinh tế đã phát triển thì cần thiết phải nâng cao mức chi ngân sách cho cơ sở hạ tầng xã hội. Do vậy nhà nước cần phải nâng cao sao cho ngang tầm với các nước trung bình trong khu vực hiện nay bởi vì trong giai đoạn tới vốn ngân sách nhà nước vẫn là chủ yếu nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng xã hội. Giáo dục và y tế là hai lĩnh vực có liên quan trực tiếp tới chất lượng nguồn nhân lực góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội thì ngân sách nhà nước luôn giữ vai trò quan trọng nếu không nói là quyết định. Vì vậy trong hiện tại cũng như trong thời gian tới đề nghị nhà nước tăng chi cho cơ sở hạ tầng xã hội khoảng 1,5 - 2% GDP, nhằm từng bước bắt kịp với tốc độ phát triển của các nước trong khu vực cũng như thế giới trong lĩnh vực này. Về điều chỉnh cơ cấu đầu tư Cơ cấu vốn đầu tư theo đúng tinh thần Đại hội Đảng IX đề ra: Tăng nhanh vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội hoàn chỉnh một bước cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng, nâng tỷ trọng chi đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội lên khoảng 8% so với tổng chi đầu tư của toàn xã hội. Trong điều kiện nguồn lực của đất nước còn khó khăn vẫn phải duy trì 30-35% tổng số vốn đầu tư của xã hội cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội và tiếp tục nâng tỷ trọng đầu tư cho các ngành quan trọng chủ yếu của cơ sở hạ tầng xã hội là giáo dục và y tế. Trong tổng số ngân sách dành cho cơ sở hạ tầng xã hội, phân bổ cơ cấu đầu tư cho phù hợp. Tăng chi cho xây dựng cơ bản trong các ngành giáo dục - đào tạo lên 15 % so với trước đây, năm 2000 cao nhất là 9,62%. Ngành y tế tăng khoảng 25% so với trước đó, năm 2000 là 19% trong tổng ngân sách chi cho lĩnh vực này. 2. Xã hội hoá trong đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội Sẽ là một gánh nặng quá lớn cho nhà nước nếu như xã hội ngày càng phát triển mà chi cho cơ sở hạ tầng xã hội lại chỉ tập trung vào từ ngân sách nhà nước. Đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với thu hút vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội. Cả xã hội phải quan tâm đến lĩnh vực này, tiến tới các cá nhân, tổ chức, các thành phần kinh tế... phải tham gia bằng các hành động cụ thể, có trách nhiệm hơn trong vấn đề này. Trong 10 năm tới với dự báo tăng trưởng kinh tế đạt 5-7% đồng thời phải tập trung ngân sách Nhà nước cho đầu tư nhằm tăng tốc độ phát triển. Nguồn ngân sách Nhà nước dành cho lĩnh vực Giáo dục-Đào tạo, y tế, văn hoá phải được tăng cường cùng với nhu cầu vốn của các lĩnh vực nói trên. Nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước là nguồn vốn đầu tư của xã hội cho các lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng xã hội sẽ buộc và cần phải được huy động bằng mọi cách để tăng nhanh đạt tỷ trọng 30-50% so với nguồn vốn ngân sách Nhà nước trong 3-5 năm đầu và càng tăng nhanh trong các năm tiếp theo có thể gấp hai đến năm lần nguồn ngân sách Nhà nước. Cụ thể xin nêu ra vấn đề xã hội hoá trong đầu tư của hai ngành giáo dục- đào tạo và y tế: 2.1. Ngành giáo dục- đào tạo 2.1.1. Học phí trong giáo dục Với giáo dục: Ngân sách Nhà nước tập trung chi cho Giáo dục tiểu học và cơ sở. Đối với giáo dục mầm non, ngân sách Nhà nước chỉ hỗ trợ cho những vùng nào có khó khăn còn đối với những vùng khác thì chủ yếu cha mẹ và địa phương đóng góp khuyến khích phát triển nhanh mạng lưới cơ sở ngoài công lập để trong một vài năm tới chuyển toàn bộ giáo dục mầm non sang cho khu vực ngoài công lập. Đối với các cấp giáo dục phổ thông, ngân sách Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần để đầu tư nâng cấp sửa chữa trường học và trang thiết bị dạy học. Thực hiện thu học phí và đóng góp xây dựng trường lớp để tạo nguồn chủ yếu cho đầu tư, tăng dần tỷ lệ học sinh chuyển sang học các trường bán công và dân lập, phấn đấu đạt tỷ lệ 30-50% vào năm 2005 và cao hơn vào các năm tiếp theo. Một mặt để giảm sức ép về kinh phí dành cho giáo dục- đào tạo từ ngân sách nhà nước, mặt khác thể hiện trách nhiệm của bản thân gia đình đối với sự nghiệp giáo dục- đào tạo của đất nước. Tuy nhiên để xác định mức thu học phí phù hợp phải mang tính điều tiết của những người, vùng khó khăn. Theo thống kê chưa đầy đủ thì hiện nay thu học phí cùng các cấp học là như nhau trừ một số trường. Phân chia học phí theo khu vực, chưa khuyến khích được các gia đình nghèo cho con đi học. Với đào tạo Các trường có thể tự tạo thêm vốn để tăng cường thêm kinh phí bằng cách tổ chức các lớp học nghề tạo ra sản phẩm kết hợp giữa học và hành. Sinh viên tiếp thu kiến thức lại tạo thêm kinh phí cho nhà trường nhất là đối với các trường dạy nghề. Mặt khác tạo mối liên kết giữa nhà trường và các doanh nghiệp rất thiết thực thông qua các đơn đặt hàng 2.1.2. Các loại quỹ Hiện nay trong giáo dục- đào tạo có nhiều loại quỹ nhưng tản mạn phạm vi hẹp do vậy cần thiết có một loại qũy Quốc gia để hỗ trợ phát triển giáo dục- đào tạo trên phạm vi cả nước. Quỹ này được hình thành từ các nguồn rộng rãi trong xã hội. Nội dung của quỹ này bao gồm: hỗ trợ có mục tiêu việc xây dựng trường lớp, trường bán công, hỗ trợ đào tạo tài năng trẻ cho học sinh nghèo học giỏi vay vốn ăn học 2.2. Ngành y tế Về đầu tư cho y tế bao gồm đầu tư của Nhà nước, đóng góp của cộng đồng tranh thủ viện trợ quốc tế…trong đó đầu tư của Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Phấn đấu tăng chi thường xuyên cho y tế trong tổng chi ngân sách Nhà nước. Ưu tiên đầu tư cho vùng nghèo vùng nông thôn, vùng sâu về các hoạt động y tế dự phòng các hoạt động chăm sóc sức khoẻ ban đầu tại y tế cơ sở. Khám chữa bệnh cho người nghèo và đối tượng chính sách. Thực hiện thí điểm cơ chế chính sách tài chính mới tại một số bệnh viện ở thành phố lớn, tiến tới tự cân dối thu chi thường xuyên dựa trên bảo hiểm y tế và viện phí. Đầu tư và kỹ thuật và trình độ chuyên môn và phù hợp với khả năng đóng góp của nhân dân ở từng vùng và khả năng chi trả của từng loại đối tượng. Tỷ lệ đầu tư cho lĩnh vực y tế hiện nay dưới 4% tổng chi ngân sách Nhà nước, thấp xa so với nhu cầu. Song song với việc nâng tỷ lệ đầu tư từ ngân sách Nhà nước trong giai đoạn 2001-2005 nhằm đẩy mạnh tốc độ hiện đại hoá của ngành y tế, cần phải đẩy nhanh sự hình thành và phát triển hệ thống cơ sở y tế ngoài công lập có tiềm năng phát triển mạnh, kể cả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài khắc phục tình trạng quá tải của các bệnh viện hiện nay. Tăng cường huy động và điều phối các nguồn viện trợ, đặc biệt là các khoản viện trợ không hoàn lại và các khoản vay ưu đãi hỗ trợ kỹ thuật đầu tư phát triển. 2.2.1. Viện phí Đây là khoản phí khi thu phải cân nhắc sao cho công bằng với từng đối tượng song có thể giảm bớt chi ngân sách nhà nước từ nguồn này bằng cách tăng đáng kể nguồn thu từ viện phí. Tỷ trọng thu một phần viện phí so với tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm tăng lên. Tuy vậy việc thu không đủ chi khám chữa bệnh 2.2.2. Bảo hiểm y tế Để đảm bảo được mục tiêu công bằng và hiệu quả trong hưởng thụ y tế như đã nêu ở phần trước một trong nhiều số dân tham gia bảo hiểm y tế cũng như đầu tư cho hệ thống y tế. Có như thế mọi người dân mới được hưởng lợi như nhau trong chăm sóc y tế và đồng thời việc dân số tham gia bảo hiểm y tế làm tăng nguồn thu bảo hiểm y tế đóng góp đáng kể cho ngân sách y tế nói chung. Nguồn thu từ bảo hiểm y tế bắt buộc hiện tại mới chỉ bảo vệ được 10% dân số. Định hướng sắp tới là phát triển hệ thống bảo hiểm y tế tự nguyện, tăng dần nguồn thu để có thể bảo vệ được 25-30% dân số. Mở rộng bảo hiểm y tế tự nguyện củng cố quỹ bảo hiểm y tế bắt buộc tiến tới bảo hiểm y tế bắt buộc toàn dân. Đối với người nghèo thuộc diện chính sách mà đời sống thực sự còn nhiều khó khăn nhà nước nên có chính sách thích hợp theo hướng xét cấp sổ khám chữa bệnh hoặc không mất tiền, hoặc mua bảo hiểm cho họ. 3. Mở rộng hình thức đầu tư đối với tư nhân trong nước cho cơ sở hạ tầng xã hội. Nhà nước có thể huy động vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hôị bằng cách mở rộng các hình thức đầu tư, khuyến khích đầu tư tư nhân tham gia đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng xã hội. Cho phép tư nhân xây dựng các trường học tư, trường dân lập, bán công đưa vào hoạt động. Có thể áp dụng cả ba phương thức BOT, BTO, BT để khuyến khích đầu tư tư nhân trong nước. Về phía tư nhân, tự bỏ vốn xây dựng các công trình thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội: mở trường dân lập, tư thục, bệnh viện tư, cơ sở y tế… nhà nước căn cứ vào từng loại công trình mà áp dụng các hình thức kinh doanh hay chuyển giao ngay. Hiện tại tư nhân trong nước có nhiều khả năng tham gia đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng. Để khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này nhà nước phải đặt ra một tỷ lệ lãi suất hấp dẫn đối với cả ba hình thức đầu tư. Với hình thức BOT sau khi xây dựng xong công trình tư nhân được phép kinh doanh, thì thời gian thu hồi vốn phải đảm bảo cho nhà đầu tư có mức lợi nhuận thoả đáng. Với hình thức BTO khi xây dựng xong công trình đó nhà nước cho phép tư nhân xây dựng và kinh doanh một công trình khác trong một thời gian đủ để thu hồi vốn và có lãi. Cả hai hình thức này áp dụng trong đầu tư cho các bệnh viện, cơ sở y tế là phù hợp. Còn đối với hình thức BT nên áp dụng trong lĩnh vực giáo dục, xây dựng các trường học tư thục và bán công, các trường dân lập. Khi xây dựng xong nhà nước sẽ cùng tư nhân quản lý điều hành để công trình mang lại hiệu quả cao nhất. Nhưng với điều kiện tư nhân phải là người có kiến thức, trình độ nhất định nhất là trong lĩnh vực giáo dục. 4. Giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Giải pháp huy động nhanh nhất vốn đầu tư nước ngoài là nhà nước cho phép các ngành, các đơn vị thuộc cơ sở hạ tầng xã hội chủ động mở rộng quan hệ giao lưu quốc tế với nước ngoài tạo nguồn vay ODA và các nguồn viện trợ không hoàn lại. Mỗi đơn vị có thể kết nghĩa với đơn vị ở nước ngoài để từ đó mở rộng tri thức và khai thác các nguồn hợp tác, liên kết nước ngoài. Với giáo dục- đào tạo - Hợp tác với các chuyên gia và các cơ sở đào tạo của nước ngoài trong việc xây dựng các chương trình, giáo trình, nội dung và phương pháp giảng dạy - Có chính sách động viên Việt kiều ở nước ngoài dưới các lĩnh vực lưu chuyển vốn về đầu tư liên doanh, nhận đỡ đầu học sinh, sinh viên lập ra quỹ từ thiện. - Khuyến khích các trường đại học trong nước nhận học sinh nước ngoài hoặc khuyến khích chính sinh viên ta đi học tự túc hay nhà nước cấp học bổng cho những người học giỏi. -Khai thác các khả năng của các công ty nước ngoài vào công tác đào tạo đội ngũ chuyên gia cán bộ kỹ thuật của chúng ta, hình thức đào tạo thông qua các hợp đồng giữa các bên. Với y tế -Tranh thủ hơn nữa nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế bổ sung vốn đầu tư đổi mới trang thiết bị theo hướng hiện đại hoá, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có để phục vụ tốt hơn công tác khám sức khoẻ cho nhân dân và các chương trình mục tiêu quốc gia. - Tranh thủ tài trợ để đào tạo đội ngũ cán bộ y tế có đủ phẩm chất, chuyên môn và y đức theo kịp nền y học tiên tiến của các nước. - Có chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư nước ngoài, tranh thủ vốn công nghệ góp phần cải thiện tốt việc khám chữa bệnh. - Xây dựng cơ sở dữ liệu đủ tin cậy và có khả năng đáp ứng yêu cầu cần thiết cho việc xây dựng kế hoạch điều phối nguồn viện trợ nước ngoài, số liệu phải được cập nhật kịp thời nhằm đáp ứng những thông tin cần thiết trong việc khai thác và sử dụng viện trợ. 5. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho các dự án của cơ sở hạ tầng xã hội Trong điều kiện đất nước ta nguồn lực hạn chế cần thiết phải có kế hoạch sử dụng vốn đó theo đúng mục đích, hợp lý có hiệu quả tiết kiệm. - Xác định các thứ tự ưu tiên trong việc sử dụng vốn đầu tư cho các ngành thuộc cơ sở hạ tầng xã hội, cụ thể hơn nữa trong từng ngành trong điều kiện nguồn vốn cho đầu tư không thể tăng trưởng nhanh trong một thời gian nhất định. Ưu tiên cho những lĩnh vực trọng tâm trọng điểm tránh đầu tư dàn trải. - Thực hiện tiết kiệm chống lãng phí nhất là không chi phần lớn ngân sách cho bộ máy hành chính, hay trong mua sắm thiết bị không cần thiết - Hoàn thiện các phương thức quản lý các nguồn vốn gồm: nguồn ngân sách nhà nước, nguồn ODA, nguồn từ học phí trong giáo dục và viện phí trong y tế. Yêu cầu các cơ quan có chức trách phải tuân thủ theo cơ chế quản lý tài chính hiện hành thông qua các khâu lập kế hoạch phân bổ tổ chức điều phối kiểm tra việc thực hiện sử dụng các nguồn vốn đó. - Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, thanh tra tài chính trong ngành y tế, ngành giáo dục cũng như các ngành khác thuộc cơ sở hạ tầng xã hội trong việc quản lý vốn đầu tư cho các dự án cũng như thu thường xuyên. Kiểm tra thường xuyên công tác tài chính trong các khâu: dự toán, chấp hành dự toán hàng năm trong giáo dục y tế. - Nâng cao năng lực sử dụng vốn vay ODA cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội. Xây dựng và quản lý ODA giáo dục, y tế nhằm thực hiện giải ngân đúng tiến độ. Trong quá trình điều hành cần lồng ghép các dự án trong nước để sử dụng hiệu quả vốn vay và quan trọng hơn là nâng cao trình độ và năng lực của cán bộ Việt nam trong thực hiện và quản lý dự án tài trợ. 6. Một vài kiến nghị khác 6.1. Tăng cường công tác quản lý của nhà nước “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là quan điểm xuyên suốt quá trình phát triển của đất nước điều này đã được khẳng định trong các văn kiện đại hội Đảng. Lĩnh vực cơ sở hạ tầng hạ xã hội là do nhà nước trực tiếp quản lý do tính chất của nó quy định. Vậy để tăng cường hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước dành cho lĩnh vực này ngoài việc phân phối công bằng hợp lý còn cần phải làm tốt công tác kiểm tra sử dụng ngân sách đó. Các đơn vị trực tiếp chi tiêu, các Bộ, ngành chịu trách nhiệm thực hiện các chế độ chi và quản lý ngân sách. Cần thiết phải có kế hoạch kiểm tra, duyệt quyết toán thu chi đặc biệt là trong các dự án đầu tư Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật trong các ngành thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội, điều chỉnh hệ thống luật giáo dục, luật y tế,…Song song với tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách của nhà nước về khuyến khích, ưu đãi đối với đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội. Bộ giáo dục- đào tạo, Bộ y tế... cùng các cơ sở phối hợp với cơ quan tài chính kiểm tra việc thực hiện phân bổ kế hoạch ngân sách, chi ngân sách 6.2. Về nguồn lực Thực tế cho thấy trình độ của đội ngũ này còn rất hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Cần phải có kế hoạch cụ thể trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý dự án trong lĩnh vực này. Yêu cầu các ban quản lý dự án hàng tháng, hàng quý phải tổ chức mở các lớp tập huấn, nghiệp vụ kịp thời rút kinh nghiệm và chấn chỉnh các trường hợp cá nhân trong ban quản lý dự án có trình độ nghiệp vụ thấp, hoặc ý thức chấp hành kỷ luật kém - Tổ chức các cán bộ của nhóm có năng lực đi tham quan công tác học tập kinh nghiệm ở trong và ngoài nước hoặc ở các dự án có tính chất tương tự - Có kế hoạch đào tạo đội ngũ chuyên ngành về y tế, giáo dục về trình độ quản lý dự án tổ chức thực hiện đầu tư, thẩm định dự án, quyết toán dự án đầu tư 6.3. Về hình thức thu hút vốn đầu tư tư nhân Cho phép tư nhân tham gia vào đầu tư cơ sở hạ tầng xã hội như trong hệ thống giáo dục, y tế, cho phép xây dựng các bệnh viện tư nhân, xây dựng các trường dân lập, tư thục... thông qua các biện pháp sau: Cho phép huy động mọi nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế và mọi cá nhân để xây dựng các cơ sở y tế, được tư nhân cũng như các trường học tư cho phép vay ngân hàng với lãi suất ưu đãi để đầu tư cho lĩnh vực này Cho phép công nhân viên chức nhà nước góp vốn thành lập các cơ sở y tế Cho phép cá nhân, tổ chức nước ngoài được kinh doanh hành nghề thuộc các lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng xã hội: mở phòng khám, đầu tư xây dựng bệnh viện, xây dựng trường học nhưng trong khuôn khổ pháp luật quy định của nhà nước 6.4. Cơ chế chính sách Cần phải có chính sách hay khung pháp lý tạo điều kiện cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng xã hội . Đặc biệt là các dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Các địa phương phải có trách nhiệm cung cấp đất mặt bằng, giải phóng mặt bằng... và việc đền bù giải phóng mặt bằng phải do địa phương đảm nhiệm. Kết luận Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đầu tư cho các lĩnh vực của cơ sở hạ tầng xã hội nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao trình độ, tư duy, kiến thức và kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ dân trí…phục vụ cho hoạt động sản xuất xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội nhu cầu về chất lượng nguồn nhân lực - lực lượng lao động - ngày càng tăng. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội giúp Việt Nam thực hiện các mục tiêu chiến lược mà Đại hội Đảng IX đề ra, phấn đấu tới năm 2020 cơ bản đưa đất nước trở thành nước công nghiệp. Cần phải khai thác và sử dụng nhiều nguồn lực khác nhau phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội. Việc huy động vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội phải được cân nhắc, xem xét cho phù hợp với điều kiện các nguồn lực tài chính của đất nước còn hạn hẹp. Vấn đề đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội là một vấn đề lớn không thể giải quyết ngay được, mà cần phải có thời gian. Trong giai đoạn hiện nay ngân sách Nhà nước vẫn là nguồn đầu tư chủ yếu cho cơ sở hạ tầng xã hội ở Việt Nam. Nhưng cũng rất cần thiết có sự tham gia của các ngành, các cấp và toàn thể xã hội. Chủ trương xã hội hoá các lĩnh vực của cơ sở hạ tầng xã hội, trong đó có xã hội hoá các nguồn lực đầu tư là phù hợp với đường lối phát triển kinh tế xã hội hiện tại cũng như trong chiến lược lâu dài. Đây là một đề tài lớn, đề cập tới một vấn đề tương đối phức tạp nhưng được nghiên cứu trong thời gian khá ngắn, do đó luận văn chỉ đề cập tới những gì cơ bản nhất của vấn đề huy động vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng xã hội. Hy vọng luận văn sẽ góp phần làm rõ những vướng mắc của lĩnh vực quan trọng này. tài liệu tham khảo *********************** Tạp chí: Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 10/1996. Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 36/2000. Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 5/1999, số 9/1999 Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 4/2000, số9/2000, số10+11/2000. Tạp chí Con số và Sự kiện số 5/1999, số6/2000 Thông tin kinh tế xã hội số 5/1997, số 36(29/9/2000). Tài liệu nghiên cứu: “Nghiên cứu các giải pháp tài chính huy động vốn đầu tư trong nước”. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ-Viện chiến lược phát triển - Bộ KH&ĐT. “Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta đến năm 2010-2020”. Đề tài nghiên cứu cấp nhà nước -Viện chiến lược phát triển - Bộ KH&ĐT. Kỷ yếu toạ đàm khoa học "Cơ sở khoa học hình thành hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội trong quá trình CNH-HĐH”. Ban nguồn nhân lực & Xã Hội - Viện chiến lược phát triển - Bộ KH&ĐT. Việt Nam nghiên cứu tài chính cho Giáo dục - Ngân hàng thế giới-Phòng Dự án nguồn nhân lực - Vụ quốc gia I. Sách tham khảo: Dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam. Kinh tế phát triển- Khoa Kinh tế phát triển -Trường ĐHKTQD. Kinh tế đầu tư - Khoa Kinh tế đầu tư -Trường ĐHKTQD. 35 năm Viện chiến lược phát triển - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 5. Việt Nam- Quản lý tốt hơn nguồn lực nhà nước đánh giá chi tiêu công 2000. Báo cáo của nhóm công tac chung giữa Chính phủ Việt Nam và các nhà tại trợ về Đánh giá chi tiêu công. 6. Niên giám thống kê năm 1997, 1998, 1999,2000 -Nhà xuất bản thống kê Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29806.doc
Tài liệu liên quan