Luận văn Quản lý nguồn vốn ODA cho vay lại tại sở giao dịch III – ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Thực trạng và giải pháp

Để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì Việt Nam còn rất nhiều nguồn vốn đầu tư không chỉ có trong nước mà còn từ các nguồn nước ngoài. Qua việc phân tích thực trạng huy động, quản lý và sử dụng vốn ODA trong thời gian gần đây đã cho thấy ODA có một vai trò rất lớn hỗ trợ cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội Việt Nam. Trên thực tế, những chương trình, dự án sử dụng vốn ODA được thực hiện tập trung vào những lĩnh vực, ngành nghề mà Việt Nam đang cần được hỗ trợ: chương trình dự án công cộng, giao thông, phát triển nông nghiệp nông thôn, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường Đó là những lĩnh vực đầu tư có tính xúc tác, vừa có tác dụng trước mắt đồng thời vừa là cơ sở lâu dài cho sự nghiệp phát triển đất nước.

doc75 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1545 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nguồn vốn ODA cho vay lại tại sở giao dịch III – ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
W 0 94 7,53 101,53 21. NH Miền Tây 0 27,22 0 27,22 22. NH An Bình 0 14,56 0 14,56 23. NH VP Bank 0 159,39 0,79 160,18 24. NH Sài Gòn 0 10,81 0 10,81 25. NH Việt Á 0 19,85 0 19,85 Quỹ MLF III 268,05 0 0 268,05 1. NH Nông nghiệp 229,02 0 0 229,02 2. NH Đại Tín 14,15 0 0 14,15 3. NH Kiên Long 23,03 0 0 23,03 4. NH Sgon - Hnoi 0 0 0 0 5. NH Đại Á 0 0 0 0 6. NH Mỹ Xuyên 1,85 0 0 1,85 Tổng dự án 287,49 2.506,95 29,26 2.823,7 (Nguồn: Sở giao dịch III – BIDV) Nhìn vào bảng ta thấy, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn luôn được đánh giá là ngân hàng có uy tín cao nhất. Do vậy có mức vay lớn nhất với tổng số tiền cho cả hai quỹ đạt 992,02 tỷ đồng, chủ yếu là cho vay trung hạn chiếm 77% trong cho vay phát triển nông thôn và 23% cho vay ngắn hạn trong quỹ tài chính vi mô. Hầu hết các ngân hàng vay trung dài hạn là chủ yếu, chứng tỏ các ngân hàng này có tiềm lực khá lớn, đủ để trang trải cho những rủi ro tín dụng. Các ngân hàng còn tùy vào điều kiện của mình mà cho vay ngắn, trung - dài hạn tùy theo chiến lược kinh doanh của mình. Dự án TCNT II có tỷ lệ thu hồi vốn rất cao. Không có nợ quá hạn từ các tổ chức tín dụng đối với sở giao dịch III. Nợ quá hạn cho người vay vốn đến các tổ chức tín dụng ở mức nhở hơn 0,5% (thấp hơn tỷ lệ chung so với các ngân hàng). Điều này cho thấy mức độ an toàn và hiệu quả cao trong cho vay và sử dụng nguồn vốn của dự án. Phía WB và ngân hàng nhà nước cho rằng dự án TCNT nói chung và dự án TCNT II nói riêng là một trong những dự án được thực hiện tốt nhất. Dự án không chỉ bổ sung nguồn vốn lớn để phát triển kinh tế nông thôn mà còn hỗ trợ cho các tổ chức tài chính tham gia về mặt vật chất và kỹ thuật để củng cố năng lực thể chế thông qua xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển thể chế này. Việc trang thiết bị xe ô tô, hệ thống thông tin quản lý, phương pháp quản trị điều hành theo thông lệ quốc tế… và cuối cùng tính đến thời điểm này thì Ngân hàng đầu tư và phát triển đã trả lãi cho bộ tài chính là 402 tỷ đồng. Với những kết quả đạt được ở trên, dự án tài chính nông thôn II được đánh giá là dự án có tiến độ giải ngân nhanh nhất và hiệu quả nhất trong các dự án mà WB đã tài trợ cho Việt Nam. Đồng thời dự án cũng đáp ứng tất cả các tiêu chí về quản lý và thực hiện các dự án. Điều này đã tạo tiền đề thuận lợi để chính phủ và các bộ ngành ủng hộ cho các dự án tiếp theo sẽ được triển khai tới đây. * Những tác động đến nền kinh tế xã hội: Dự án Tài chính nông thôn II đã tạo ra một danh mục đầu tư ở khu vực nông thôn lên đến 12.290 tỷ đồng (tương đương khoảng 740 triệu USD) và tài trợ cho hơn 409.000 tiểu dự án tại 60 tỉnh, thành trong cả nước. Về hoạt động tài chính của các ngân hàng tham gia Dự án, tính đến cuối tháng 3/2009 đã có 25 định chế tài chính được lựa chọn và tham gia giải ngân nguồn vốn Dự án; không có định chế tài chính nào có nợ xấu trên 5% tổng dư nợ. Các hoạt động kiểm tra giám sát được thực hiện chặt chẽ để đảm bảo nguồn vốn Dự án được quản lý và cho vay đúng đối tượng và hiệu quả… Đoàn giám sát Dự án của WB đánh giá, Dự án Tài chính nông thôn II đã đóng góp khoảng 20 - 30% vào việc xoá đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam và mang lại những cải thiện nhất định cho các tỉnh ở khu vực này. Dự án cũng đã đưa ra các hạng mục đầu tư quản lý môi trường, Đoàn giám sát đề nghị, thời gian tới, các đơn vị chức năng cần nghiên cứu tiến hành mở rộng ngành nghề đầu tư, nâng cao ý thức về cải thiện môi trường và nâng cao mức sống cho người dân. 2.2.3. Dự án tài chính nông thôn III  Dự án Tài chính Nông thôn III (TCNT III) được xây dựng trên cơ sở kết quả và kinh nghiệm thành công của Dự án TCNTII, Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư Dự án TCNT III (Hiệp định tín dụng số 4447 - VN ký ngày 14/11/2008). Thời gian Thực hiện Dự án là 5 năm, Dự án sẽ kết thúc vào năm 2013, Tuy nhiên, tương tự như Dự án TCNT II, nguồn vốn Quĩ Quay vòng của Dự án TCNT III (được thành lập từ nguồn trả nợ vốn gốc từ các Ngân hàng tham gia Dự án) sẽ tồn tại đến năm 2032 và được tiếp tục cho vay qua các Tổ chức Tín dụng để thực hiện các mục tiêu của Dự án. * Mục tiêu của dự án: - Tăng cường việc vay vốn của các hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân nông thôn để phát triển kinh tế, đầu tư hiệu quả thông qua việc nâng cao khả năng quản lý và lập kế hoạch kinh doanh, tăng cường năng lực của các định chế tài chính - Xây dựng năng lực phát triển sản phẩm mới: + Đào tạo kỹ năng quản trị và hoạt động ngân hàng hiện đại, + Triển khai các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ các chiến lược kinh doanh và năng lực cho vay ở các khu vực nông thôn, + Mua sắm các trang thiết bị để phục vụ cho hoạt động quản lý dự án, * Các Cấu phần của Dự án: Theo Hiệp định, WB tài trợ cho Dự án nguồn vốn tương đương 200 triệu USD và được phân bổ thành 3 Cấu phần: - Cấu phần Tín dụng với số vốn tương đương 185 triệu USD được chia thành 2 tiểu cấu phần: (A) Quĩ Phát triển Nông thôn III (RDF III) có số vốn 175 triệu USD, và (B) Quĩ Cho vay Tài chính Vi mô (MLFIII), 10 triệu USD. - (C) Cấu phần Tăng cường Năng lực Thể chế cho các ngân hàng tham gia Dự án, các hiệp hội doanh nghiệp, quỹ TDND có số vốn tương đương 15 triệu USD (trong đó có 5 triệu USD quản lý theo cơ chế cấp phát ngân sách). * Yêu cầu đối với PFIs: Các Tổ chức Tín dụng muốn tham gia Dự án TCNT III và sử dụng vốn của Dự án để cho vay theo các mục tiêu của Dự án cần gửi cho Sở Giao dịch III - NHĐT một bộ hồ sơ theo qui định để làm căn cứ đánh giá lựa chọn. Sau khi nhận đầy đủ các tài liệu trên, NHĐT&PTVN sẽ tiến hành tính toán các chỉ số tài chính và đánh giá các tiêu chí khác theo qui định của WB, cụ thể: Bảng 2.10: Các chỉ số tài chính theo qui định của WB đối với dự án III STT Tiêu chí lựa chọn Yêu cầu Dự án Sự phù hợp về mặt chiến lược 1 PFI phải có kế hoạch kinh doanh phù hợp với mục tiêu của Dự án Phù hợp Chất lượng quản lý 2 PFI được cấp phép hoạt động >= 3 năm 3 Mức độ tuân thủ luật và các quy định về ngân hàng Không bị kiểm soát đặc biệt 4 Tuân thủ các quy định về quản trị doanh nghiệp Tuân thủ đầy đủ 5 Báo cáo kiểm toán >= 2 năm Chất lượng tài sản 6 Nợ xấu,Tổng dư nợ <= 6% An toàn vốn 7 Vốn tự có /Tổng tài sản có rủi ro >= 8% Khả năng thanh khoản 8 Tài sản có thanh khoản/Tài sản nợ ngắn hạn >= 25% Khả năng sinh lời 9 ROE >= 10% 10 ROA >= 0,5% (Nguồn: Sở giao dịch III - BIDV) * Các định chế tài chính được lựa chọn: Thông qua Sở Giao dịch III với vai trò là Ngân hàng Bán buôn của Dự án để cho vay lại đến các Tổ chức Tín dụng được lựa chọn tham gia Dự án. Các Tổ chức tín dụng phải đáp ứng yêu cầu về thủ tục lựa chọn như trên. Khi được lựa chọn, các Tổ chức tín dụng được gọi là các định chế tài chính tham gia (PFI) hoặc định chế tài chính vi mô (MFI). Bao gồm: Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín, Ngân hàng TMCP Kỹ Thương, Ngân hàng Sài Gòn Công Thương, Ngân hàng TMCP nhà Hà Nội, Ngân hàng TMCP Kiên Long, Ngân hàng TMCP Quân Đội, Ngân hàng TMCP Miền Tây, NH TMCP Hàng hải. * Lãi suất cho vay lại: Lãi suất cho vay giữa BIDV và định chế tài chính tham gia (PFI): - Cho vay bằng VNĐ: là lãi suất biến động và sẽ được điều chỉnh hàng tháng, lãi suất này sẽ bằng lãi suất cơ bản (hoặc một lãi suất khác có thể xác định được) trừ đi “biên độ” (biên độ được định nghĩa bằng lãi suất cơ bản trừ đi bình quân gia quyền (quý) lãi suất các khoản tiền gửi kỳ hạn 3, 6 và 12 tháng trong hệ thống Ngân hàng, có tính chi phí dự trữ bắt buộc theo quy định của NHNN). Lãi suất này do Ngân hàng nhà nước tính toán và thông báo cho BIDV để thông báo lại cho các PFI. - Cho vay bằng USD: các định chế tài chính tham gia được vay lại từ Sở Giao dịch III - NHĐT nguồn vốn Dự án để thực hiện các hoạt động đào tạo, tăng cường năng lực thể chế với lãi suất ưu đãi (0,75%/năm). Lãi suất cho vay giữa PFI và người vay cuối cùng: Các Tổ chức Tín dụng được tự do xác định lãi suất cho vay đến người vay cuối cùng, phù hợp với chính sách lãi suất của từng Tổ chức Tín dụng. * Kết quả dự án TCNT III tính đến thời điểm 31/12/2009 Hai mươi triệu USD là số vốn giải ngân đợt 1 trong tổng số vốn 200 triệu USD của Dự án Tài chính Nông thôn III do Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ. Số tiền này sẽ được chuyển ngay vào tài khoản Dự án tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV). Dự kiến, sẽ có khoảng 5.000 đối tượng ở khu vực nông thôn được tiếp cận nguồn vốn để thực hiện các phương án sản xuất kinh doanh. BIDV cho biết, nhằm đưa nhanh nguồn vốn đến với các đối tượng thụ hưởng, thời gian qua, BIDV đã chủ động thông tin về dự án và đã tiến hành lựa chọn những định chế tài chính đủ điều kiện tham gia Dự án. BIDV đã chính thức ký kết Hợp đồng Vay phụ đợt I và cấp hạn mức sử dụng vốn Dự án cho 8 ngân hàng nói trên, đồng thời đề nghị WB cho giải ngân số tiền 20 triệu USD. Số tiền này đã được giải ngân hết trong tháng 6/2009. Bảng 2.11: Dư nợ cho PFIs vay (Thời điểm 31/12/2009) PFIs Dư nợ (tỷ VNĐ) Tổng số Ngắn Tr - dài hạn Quỹ RDF III 0 314,25 314,25 1. NH SG T.Tín 0 99,23 99,23 2. NH Kỹ Thương 0 100 100 3. NH SG C.Thương 0 23,56 23,56 4. NH Nhà HN 0 8,36 8,36 5. NH Kiên Long 0 19,25 19,25 6. NH Quân Đội 0 45,01 45,01 7. NH Miền Tây 0 17,23 17,23 8. NH Hàng Hải 0 1,61 1,61 Quỹ MLF III 10,5 0 10,5 1. NH Kiên Long 10,5 0 10,5 Tổng dự án 10,5 314,25 324,75 (Nguồn: sở giao dịch III - BIDV) Nhìn vào bảng ta thấy, việc giải ngân quỹ RDF III tới các định chế tài tính đến 31/12/2009 hầu hết là trung dài hạn, chiếm 100%. Điều này chứng tỏ các PFIs được lựa chọn có tiềm lực khá lớn, đủ để trang trải cho những rủi ro tín dụng. Riêng ngân hàng TMCP Kiên Long còn có vốn vay ngắn hạn ở quỹ MLF III với số vốn là 10,5 tỷ VNĐ. Dự án tài chính nông thôn III vẫn đang trong quá trình giải ngân nhưng theo đánh giá của giới chuyên môn, dự án đang tiến triển tốt và tuân thủ tốt các yêu cầu của chính phủ và WB. 2.3. Đánh giá tình hình quản lý cho vay lại nguồn vốn ODA tại sở giao dịch III. 2.3.1. Kết quả đạt được Dự án TCNT I, II và III do WB tài trợ cho chính phủ Việt Nam. Cả ba dự án này đều được thực hiện dưới mô hình ngân hàng buôn tín dụng, trong ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam làm đầu mối cho vay lại các định chế tài chính trong nước. Mọi quá trình thực hiện triển khai dự án đều đảm bảo những yêu cầu do WB đặt ra. Quá trình thực hiện các dự án đã mang lại những kết quả nhất định đó là: * Kết hợp hài hòa chức năng quản lý nguồn vốn và kinh doanh nguồn vốn ODA Qua quá trình thực hiện triển khai dự án TCNT, BIDV đã phối hợp với ban chỉ đạo liên ngành dự án TCNT và WB lựa chọn được 25 tổ chức tín dụng tham gia với tư cách là ngân hàng bán lẻ và cung cấp dịch vụ cho người vay cuối cùng. Mô hình quản lý của dự án đã kết hợp hài hòa giữa chức năng quản lý nhà nước về ODA với chức năng kinh doanh nguồn vốn ODA. Trong đó công cụ quản lý nhà nước về ODA thể hiện ở các “hợp đồng vay phụ” ký kết giữa bộ tài chính và BIDV đối với toàn bộ nguồn vốn vay của dự án. Nhờ áp dụng hài hòa và hiệu quả giữa mô hình quản lý cùng với cơ chế bán buôn tín dụng nên dự án đã huy động được tối đa nguồn vốn đối ứng của các tổ chức tín dụng tham gia. Việc các tổ chức tín dụng tự trang trải vốn đối ứng trong dự án đã góp phần giảm thiểu gánh nặng ngân sách nhà nước trong việc bố trí vốn đối ứng hàng năm cho dự án. Đây là lợi thế mà các tổ chức tín dụng có được so với các PMU (ban quản lý dự án) khác hiện đang quản lý vốn ODA. * Tốc độ giải ngân nhanh nhất và hiệu quả nhất Tính đến 31/12/2009, toàn bộ số vốn của dự án TCNT I (113 triệu USD) đã được giải ngân. Dự án tài chính nông thôn II giải ngân được 233,6 triệu USD đạt 99,5% tổng số vốn vay đã ký kết. Dự án TCNT III được ký kết 14/11/2008 và đang trong quá trình giải ngân. Trong đó, dự án TCNT I, II được WB đánh giá là 2 dự án có tốc độ giải ngân nhanh nhất và hiệu quả nhất từ trước tới nay. Riêng dự án TCNT II đã tài trợ cho trên 350.000 tiểu dự án, trải rộng trên khắp 60 tỉnh thành phố trong cả nước, tạo ra trên 250.000 việc làm mới ở khu vực nông thôn. Thu nhập tăng thêm trên 1 USD từ đầu tư dự án TCNT II là 0,8 USD. Do áp dụng chặt chẽ cơ chế thẩm định, giải ngân và giám sát sử dụng vốn dự án TCNT theo đúng quy định của hiệp định vay và luật các tổ chức tín dụng nên chưa phát sinh nợ quá hạn trong quá trình cho vay lại vốn ODA giữa sở giao dịch III (ngân hàng bán buôn) với 25 định chế tài chính (ngân hàng bán lẻ). Tỷ lệ nợ quá hạn giữa người vay cuối cùng và các ngân hàng bán lẻ chỉ chiếm dưới 1%, trong khi đó WB cho phép tỷ lệ này là 10%. Bên cạnh đó, việc bảo toàn 100% số vốn gốc của dự án. BIDV đã nộp vào ngân sách nhà nước khoản tiền chênh lệch lãi suất bán buôn hàng trăm tỷ đồng. * Tín dụng và tăng cường phát triển sản xuất kinh doanh Nguồn vốn của các dự án đã giúp tăng thêm vốn tín dụng trung và dài hạn để mở rộng cho vay và đầu tư ở khu vực nông thôn, với tỷ lệ cho vay trung dài hạn trên 90%. Dư nợ của 3 dự án vào cuối năm 2009 đạt 4.207 tỷ đồng và đã tài trợ cho khoảng trên 1,3 triệu khoản vay của các cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp nông thôn trên 60 tỉnh thành cả nước. Tỷ lệ thu hồi vốn của các tổ chức tín dụng đến người vay cuối cùng đạt mức cao, trên 99%. Điều này cho thấy tính hiệu quả và khả năng cải thiện đời sống qua việc tăng thu nhập của các dự án đầu tư của người dân nông thôn. Hai dự án TCNT I và II đã tạo ra các quỹ tín dụng quay vòng có giá trị tương đương 348 triệu USD với thời gian tương ứng đến 2022 đối với dự án TCNT I và 2027 với dự án TCNT II để tiếp tục phục vụ cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam với mục tiêu xóa đói giảm nghèo. * Hiệu quả kinh tế xã hội Nguồn vốn dự án sau khi được triển khai đã cho thấy những tác động tích cực mang tính đa dạng hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó 50% là nông nghiệp nhưng nông nghiệp thuần túy chỉ chiếm 20% còn lại là nông nghiệp áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và thương mại dịch vụ, sản xuất. Nhiều hộ nông dân, doanh nghiệp nhỏ và người nghèo ở vùng sâu vùng xa, nơi mà chưa có các chi nhánh của ngân hàng thì đã được tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng thông qua hoạt động của 402 xe ngân hàng lưu động được mua bằng nguồn vốn của dự án. Không chỉ vậy mà dự án đã tạo ra hàng trăm ngàn việc làm cho người lao động nông thôn, cải thiện thu nhập cho họ. Mặt khác khi tham gia vào việc giải ngân vốn cho dự án đã tạo thêm vốn hoạt động để mở rộng đầu tư và thị trường hoạt động, tăng thu nhập cải thiện tình hình tài chính cho các định chế tham gia. Một trong những thành công quan trọng nữa là giúp nâng cao nhận thức của người dân nông thôn. Họ không chỉ gia tăng sản xuất, làm giầu cho bản thân, gia đình, xã hội mà còn nâng cao ý thức bảo vệ môi trường - một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu hiện nay. Có thể nói, hiệu quả kinh tế xã hội mà dự án mang lại là rất lớn và rộng rãi. Dân số nước ta tập trung 70% ở nông thôn, vì vậy việc phát triển đầu tư ở khu vực nông thôn mang lại ý nghĩa thực sự. Không những phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao nhận thức của người dân, tạo nhiều công ăn việc làm, mức sống cho người dân ngày càng được nâng cao và do vậy thu nhập bình quân theo đầu người của cả nước cũng tăng theo. Bên cạnh đó, dự án còn góp phần thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam bằng việc lồng ghép thúc đẩy giới vào trong chương trình, chính sách của dự án. Cụ thể là phụ nữ nông thôn ngày càng có quyền chủ động trong phát triển kinh tế và nâng cao vị thế xã hội, khoảng 58% khoản vay dự án là do phụ nữ tham gia cũng đủ nói lên điều này. * Tăng cường năng lực cho các ngân hàng tham gia dự án Tại thời điểm 31/12/2009 đã có 25 định chế tài chính được lựa chọn tham gia 3 dự án TCNT. Trong đó có 2 ngân hàng thương mại nhà nước, 22 ngân hàng TMCP và quỹ tín dụng nhân dân trung ương. Theo đánh giá của các chuyên gia trong nước và ngoài nước thì nhìn chung các định chế tài chính đã có những tiến bộ quan trọng trong việc bổ sung thêm nguồn vốn tự có (đặc biệt là ngân hàng TMCP), xử lý nợ quá hạn, gia tăng huy động vốn và khối lượng cho vay, cải thiện chất lượng cho vay và áp dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại. Thông qua chương trình đào tạo kỹ năng và năng lực cho hàng chục nghìn cán bộ trong ngành giúp cho hoạt động giúp cho hoạt động ngân hàng ngày càng được hoàn thiện và phát triển bền vững, phục hồi tốt hơn cho nền kinh tế đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2.3.2. Những hạn chế Qua hơn bảy hoạt động và phát triển thì sở giao dịch III đã thu rất nhiều thành công và mang lại một nguồn vốn vay với lãi suất khá ưu đãi, tạo cơ hội phát triển toàn diện cho nền kinh tế vốn mang nặng tính nông nghiệp. Nhưng bên cạnh đó lại còn rất nhiều điểm hạn chế làm giảm tính hiệu quả của dự án hỗ trợ phát triển của Việt Nam. 2.3.2.1. Hạn chế trong thu hút vốn ODA Việc thu hút nguồn vốn của ngân hàng bán buôn luôn gắn liền với các mối quan hệ liên ngân hàng, liên bộ và đối ngoại khá phức tạp. Mặt khác sở giao dịch III được xây dựng mang tính đáp ứng nhu cầu thực tế là triển khai các dự án TCNT hơn là làm nhiệm vụ của một ngân hàng thương mại nói chung. Nguồn vốn ODA mà sở giao dịch III đảm nhận chủ yếu là của 3 dự án tài chính nông thôn do WB tài trợ, nguồn vốn đại lý ủy thác còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Do vậy việc thu hút vốn ODA còn bị hạn chế bởi đối tác còn hạn chế. 2.3.2.2. Hạn chế trong công tác thẩm định, kiểm tra giám sát Sau công tác giải ngân thì việc đầu tiên các ngân hàng phải làm là việc kiểm tra giám sát các khoản cho vay lại nguồn vốn ODA có được sử dụng đúng mục đích hay không. Tuy nhiên công tác này còn bị buông lỏng, thiếu các chế tài để xử lý tạo cơ hội cho các hoạt động tham nhũng, kiếm lời bất chính. Mặc dù Việt Nam được các nhà tài trợ đánh giá việc quản lý sử dụng vốn ODA khá tốt. Vốn ODA chiếm khoảng 5% GDP trong đó đa số là các khoản vay có lãi suất thấp, thời hạn vay dài. Tuy nhiên nó vẫn có thể trở thành những gánh nặng nợ cho tương lai nếu việc đầu tư các dự án không mang lại hiệu quả. Việc kiểm tra giám sát ở sở giao dịch III mới chỉ được tổ chức mỗi quý một lần và kéo dài từ 7 - 15 ngày nên việc kiểm tra chưa được rộng rãi và mang tính chất bắt buộc. 2.3.2.3. Hạn chế trong công tác trích lập dự phòng rủi ro Do hoạt động cho vay lại nguồn vốn ODA dưới mô hình ngân hàng bán buôn tín dụng còn mới mẻ, chưa được phát triển rộng rãi nên ở nước ta chính phủ mới chỉ quy định cơ chế trích lập quỹ dự phòng rủi ro cho các ngân hàng bán lẻ là 15% trên tổng dư nợ tín dụng. Tuy nhiên chưa xây dựng một cơ chế cụ thể cho ngân hàng bán buôn. Khi tham gia vào hoạt động này, BIDV sẽ phải tự chịu rủi ro hoàn toàn khi cho các PFIs vay khi gặp rủi ro trong kinh doanh và khả năng trả nợ thấp. 2.3.2.4. Một số hạn chế khác Trong công tác giải ngân thì vốn của dự án được phân bổ đến hầu hết các tỉnh thành trong cả nước tuy nhiên tỷ lệ phân bổ giữa các vùng là không đồng đều. Vốn được phân bổ nhiều ở vùng đông bằng Sông Cửu Long, tiếp đến là khu vực đồng bằng sông Hồng, trung du phía Bắc. Các khu vực như miền núi, duyên hải miền trung và tây nguyên chiếm tỷ lệ thấp. Một hạn chế nữa là việc giải ngân cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn nhiều bất cập trong khi đó hiện nay có tới hơn 90% doanh nghiệp Việt Nam là vừa và nhỏ với nhu cầu vốn cực lớn. Bên cạnh đó, 3 dự án tài chính nông thôn cũng cần chú ý hơn nữa đến tác động đến môi trường sinh thái, đảm bảo sự phát triển bền vững trong tương lại. 2.3.3. Nguyên nhân 2.3.3.1. Nguồn nhân lực hạn chế về chất lượng và số lượng Hiện nay đã có 25 PFIs tham gia dự án tài chính nông thôn, số lượng khoản vay ngày càng lớn, trải rộng trên khắp 60 tỉnh thành (trừ nội thành 4 thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà nẵng, Hồ Chí Minh). Do đó có nhiều tiểu dự án cần phải thẩm định, kiểm tra và giám sát mà số lượng cán bộ hoạt động bộ phận ít mà phải làm một khối lượng công việc lớn cho nên hiệu quả công việc không được như dự định. Bên cạnh đó năng lực thể chế cho các định chế tài chính còn nhiều hạn chế. Điều này được thể hiện ở khả năng hỗ trợ các định chế tài chính trong việc xây dựng các thể chế tài chính. Hiện nay công tác đào tạo và tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộn của PFIs do chính họ thực hiện vì thế đôi khi không mang lại kết quả như mong muốn. Mặt khác cũng do bản thân sở giao dịch III cũng chưa định dạng được các kỹ thuật nghiệp vụ cần thiết nên chưa có hướng đào tạo chuyên sâu để tạo ra đội ngũ cán bộ có chuyên môn cao rồi từ đó đào tạo cho các PFIs/ MFI. Hiện nay việc đào tạo cho nhân viên tuy đã được trú trọng hơn nhưng kinh phí dành cho việc đào tạo thì còn thấp. Sở giao dịch III là 640.000 USD, Ngân hàng nông nghiệp là 123.300 USD, các định chế trung bình khoảng 100.000 USD. Kinh phí đào tạo được thực hiện một lần không được vay quay vòng, thời gian đào tạo chỉ thực hiện trong quá trình triển khai dự án là 3 năm vì thế việc đào tạo không theo kịp tốc độ phát triển nhanh chóng của thị trường. Điều này có thể dẫn đến làm giảm chất lượng tín dụng làm ảnh hưởng đến quá trình triển khai dự án. 2.3.3.2. Thẩm định quyền cho vay của PFIs còn nhiều hạn chế Khi cho vay đối với các dự án TCNT thì nhà tài trợ WB có quy định rõ thẩm quyền cho vay lại của các PFIs cũng như chủ dự án. Mức tự phán quyết của mỗi ngân hàng lại tùy thuộc vào vốn tự có cao hay thấp của mỗi ngân hàng. - Dưới 20.000 USD hoặc tương đương: áp dụng cho các PFIs có vốn điều lệ đến 100 tỷ đồng. - Dưới 50.000 USD hoặc tương đương: áp dụng cho các PFI có vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng đến 1000 tỷ đồng. - Dưới 100.000 USD hoặc tương đương: áp dụng với các PFI có vốn điều lệ trên 1.000 tỷ đồng. Đối với các khoản vay nằm trong hạn mức tự phán quyết thì các PFI được quyền cho vay mà không phải hỏi ý kiến của bất kỳ ai. Nhưng đối với những khoản vay có giá trị trên mức tự phán quyết nhưng dưới 150.000 USD để được vay thì cần có sự chấp thuận từ phía BIDV. Đối với những khoản vay trên 150.000 USD thì cần có sự chấp thuận không chỉ ngân hàng BIDV mà còn có sự đồng ý của IDA sau khi đã xem xét đầy đủ các yếu tố, giấy tờ hợp lệ và được đánh giá là tốt. Trong danh mục đầu tư cho các dự án hợp lệ thì một điều kiện không thể tách rời là việc bảo vệ môi trường, tránh ảnh hưởng tới môi trường. Nhưng việc xác định và kiểm tra thì thật khó khăn mặc dù các dự án đều có thể đưa ra 1 phương án xử lý rác thải trong quá trình hoạt động sản xuất. 2.3.3.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật chưa đáp ứng yêu cầu hoạt động Thực hiện công tác hiện đại hóa đến nay toàn bộ các chi nhánh trong hệ thống ngân hàng BIDV đã chuyển đổi thành công từ hệ thống IBS sang BDS. Với định hướng xây dựng theo mô hình ngân hàng thương mại hiện đại, cuối năm 2006 sở giao dịch III cũng đã tiến hành chuyển đổi sang hệ thông BDS nhưng mới chỉ dừng lại ở mảng thương mại. Do đặc thù của dự án TCNT cũng như yêu cầu báo cáo của WB, đến nay dự án TCNT vẫn phải thực hiện theo dõi trên IBS. Như vậy việc thực hiện cùng lúc 2 hệ thống này đã gây ra nhiều mâu thuẫn và hiểu lầm trong quá trình thực hiện, quản lý thông tin, cung cấp thông tin, báo cáo phục vụ trong công tác quản trị điều hành. Bên cạnh đó, sở giao dịch III cũng chưa hoàn thiện việc xây dựng hệ thống thông tin quản lý trong khuân khổ các dự án để đảm bảo yêu cầu về cơ sở dữ liệu thông tin chính xác về các PFI và người vay cuối cùng. Nguyên nhân là do việc chuẩn bị tài liệu cho xây dựng hệ thống thông tin quản lý tại sở giao dịch III mất khá nhiều thời gian. Trong khi đó, SGD III thường xuyên phải chịu sức ép của việc đẩy nhanh tiến độ giải ngân, đảm bảo thực hiện đúng tiến độ của nhà tài trợ đưa ra. Ngoài ra cũng phải tập trung vào việc phòng ngừa rủi ro, tránh ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng với chính phủ và nhà tài trợ. 2.3.3.4. Một số nguyên nhân khác * Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh Hoạt động cho vay lại nguồn vốn ODA thông qua ngân hàng bán buôn là một hoạt động khá mới hiện nay tại Việt Nam. Vì thế mà chính phủ cũng chưa có chính sách hợp lý. Hiện nay số định chế tham gia vào 3 dự án TCNT là 25 ngân hàng tốt nhất tại Việt Nam. Trong khi đó chính phủ cũng chưa có hướng dẫn cụ thể để thực hiện nghị định 28/2005/NĐ-Chính phủ về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tài chính quy mô nhỏ. Do đó, SGD III cũng chưa thể lựa chọn thêm các tổ chức này để tham gia dự án. Ngân hàng nhà nước cũng chưa có quy định cụ thể về tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro cho ngân hàng bán buôn nên đã gây ra khó khăn lớn về tài chính cho sở giao dịch III trong trường hợp các định chế tài chính tham gia dự án không trả được nợ đầy đủ. * Môi trường xã hội Trong những năm gần đây do việc biến đổi khí hậu đã gây ra nhiều thiên tai, các bệnh dịch và sự suy thoái của các nền kinh tế lớn trên thế giới đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế xã hội của bộ phận những người cho vay cuối cùng làm giảm khả năng cạnh tranh và giảm lợi nhuận của các hộ nông dân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ và nhiều khi dẫn tới phá sản/. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP QUẢN LÝ HIỆU QUẢ NGUỒN VỐN ODA CHO VAY LẠI TẠI SỞ GIAO DỊCH III - NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM. 3.1. Định hướng phát triển của sở giao dịch III trong thời gian tới 3.1.1. Quan điểm của Đảng và Chính phủ Việt Nam Hoạt động cho vay lại nguồn vốn ODA dưới mô hình ngân hàng bán buôn tín dụng đã được thực hiện trong khoảng 10 năm trở lại đây và đã đem lại hiệu quả to lớn không chỉ cho Ngân hàng đầu tư và phát triển, các định chế tài chính mà còn cho sự phát triển kinh tế nông thôn. Vì thế mà Đảng và Chính phủ ta rất quan tâm và chú trọng đến việc thu hút nguồn vốn nước ngoài. Tại nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu rõ: “Tranh thủ mọi khả năng và dùng nhiều hình thức thu hút vốn nước ngoài, tranh thủ viện trợ và vay với lãi suất thấp. Các doanh nghiệp trong nước có thể vay vốn nước ngoài để đầu tư với điều kiện đảm bảo chắc chắn việc trả nợ, tranh thủ công nghệ tiên tiến.”. Như vậy, có thể thấy rõ việc phát triển mô hình ngân hàng bán buôn là phù hợp với chủ trương đường lối của Đảng và phù hợp với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cụ thể: Thứ nhất: Vốn ODA cho vay lại phải đúng mục đích và đối tượng nhằm sử dụng tốt nhất nguồn vốn huy động và thúc đẩy kinh tế phát triển. Thông qua hoạt động bán buôn tín dụng góp phần huy động tối đa nguồn vốn ODA cho đất nước. Hướng nguồn vốn này tới hoạt động kinh tế có quy mô vừa và nhỏ - thị trường chiếm 70% dân số của đất nước và là khu vực tư nhân với số lượng lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang phát triển rất nhanh - sẽ là nhân tố quan trọng của quá trình tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Hoạt động ngân hàng bán buôn cũng cần đi trước trong dự báo nhu cầu đầu tư, đưa ra các giải pháp về nguồn lực để phát triển thị trường đầu ra và sau đó tổ chức việc huy động và cung ứng tối đa nguồn vốn mà xã hội cần. Thứ hai, Sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn vay để đảm bảo khả năng trả nợ nước ngoài về lâu dài. Trên thế giới có rất nhiều quốc gia khi tham gia vay nợ ưu đãi từ nước ngoài đã không sử dụng tốt mà đã tạo ra gánh nặng nợ rất lớn cho các quốc gia mình như các quốc gia ở Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh và một số nước ở Châu Á. Như vậy có thể thấy việc sử dụng vốn không tốt không những mang lại hậu quả xấu mà còn ảnh hưởng đến gánh nặng nợ trong tương lai. Hoạt động ngân hàng bán buôn cũng vậy, cần huy động vốn tối đa song cũng phải cân nhắc những rủi ro đi kèm. Thứ ba, Phải kết hợp khai thác nguồn vốn ưu đãi với việc tận dụng hỗ trợ phát triển về trình độ và kỹ năng quản lý để tăng cường năng lực của hệ thống ngân hàng và các bên hưởng lợi. Trên thế giới các nước sử dụng các nguồn vốn ưu đãi cho tăng cường năng lực thể chế rất kém, để khắc phục hạn chế đó thì ngân hàng đầu mối cần có sự quan tâm đặc biệt đối với việc khai thác và sử dụng trong cấu phần tăng cường năng lực thể chế. Thứ tư, hoạt động bán buôn phải hỗ trợ quá trình phát triển một hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh và có hiệu quả. Một hệ thống ngân hàng hoạt động có hiệu quả không thể tách rời một môi trường chính sách vĩ mô thuận lợi, môi trường pháp lý minh bạch và môi trường kinh doanh bình đẳng. Quán triệt quan điểm này là rất quan trọng vì khi triển khai các dự án ODA ngân hàng bán buôn còn là nơi triển khai các chính sách của Đảng và Nhà nước cả về kinh tế và xã hội. 3.1.2. Định hướng phát triển của sở giao dịch III trong thời gian tới Khi chuyển giao dự án TCNT I từ ngân hàng nhà nước sang ngân hàng đầu tư và phát triển và thành lập sở giao dịch III, ban lãnh đạo ngân hàng nhà nước cũng như BIDV đã mong muốn sở trở thành một ngân hàng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA nói chung và của các tổ chức tài chính nói riêng. Trong đó nhấn mạnh quản lý các nguồn vốn để góp phần tối đa huy động vốn, sử dụng có hiệu quả để đảm bảo khả năng trả nợ cũng như mang hiệu quả cho đất nước cả về kinh tế và xã hội. Chiến lược kinh doanh dài hạn của sở giao dịch III - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam là coi trọng mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác với các tổ chức tài chính tiền tệ, các ngân hàng nước ngoài. Đó là tiền đề cho tiến trình hội nhập ngân hàng với khu vực và quốc tế. Quản lý tốt các nguồn vốn được tài trợ là cơ hội để sở giao dịch III nâng cao uy tín và mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế. Như vậy định hướng của ngành về quản lý nguồn vốn là rất rõ ràng: tăng cường các nguồn vốn được tài trợ bởi các tổ chức tài chính quốc tế để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn góp phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội đất nước. Sở cũng tiếp tục đổi mới, cơ cấu lại triệt để và toàn diện hơn để trở thành tập đoàn tài chính lành mạnh, hiện đại, phát triển bền vững và luôn giữ vị trí chi nhánh hàng đầu. Ngoài ra, SGD III còn cố gắng đầu tư thêm nhân lực, cơ sở kỹ thuật và xây dựng những chiến lược kinh doanh cho hoạt động thương mại dịch vụ của mình. Mặt khác, SGD III cũng phải xác định thị trường mục tiêu cơ bản lâu dài cho hoạt động bán buôn vốn ODA. Qua khảo sát dự án tín dụng phát triển nguồn vốn ODA tại Việt Nam thì thấy rằng các dự án này chỉ tài trợ cho các tiểu dự án hay hoạt động kinh tế vi mô vừa và nhỏ. Cụ thể gồm khối doanh nghiệp tư nhân, phát triển nông nghiệp nông thôn gắn với mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Quy mô món vay từ vài trăm ngàn đồng tới 20 tỷ đồng (khoảng hơn 1 triệu USD). Do đất nước ta còn nghèo, bình quân đầu người vẫn còn thấp. Và nếu GDP bình quân đầu người vượt quá ngưỡng nhận hỗ trợ ODA là 850 USD thì vẫn có thể nhận được nguồn vốn vay ưu đãi từ các nhà tài trợ với lãi suất khoảng 3 - 4%/năm để tài trợ cho khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Như vậy, có thể nói thì trường đầu vào của hoạt động ngân hàng bán buôn chính là nguồn vốn ưu đãi ODA từ các nhà tài trợ quốc tế. Thị trường đầu ra là các hoạt động kinh tế quy mô vừa và nhỏ. Khách hàng trực tiếp của ngân hàng bán buôn là các định chế tài chính trong nước. Cần xác định rõ như vậy để có hướng phát triển tốt nhất cho SGD III trong thời gian tới đây. 3.2. Một số giải pháp quản lý hiệu quả nguồn vốn ODA cho vay lại tại sở giao dịch III. Thông qua việc triển khai thực hiện ba dự án tài chính nông thôn I, II, III đã nói lên sự phù hợp khi sử dụng mô hình ngân hàng bán buôn trong quản lý cho vay lại nguồn vốn ODA từ WB tại sở giao dịch III - ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Đã có rất nhiều bài học kinh nghiệm cũng như giải pháp được đưa ra để quản lý hiệu quả nhất nguồn vốn này, sau đây là một số giải pháp quan trọng xuyên suốt quá trình triển khai và thực hiện: 3.2.1. Đảm bảo sự hài hòa về lợi ích giữa các bên tham gia dự án Nguyên tắc này luôn được các nhà tài trợ vận dụng trong quá trình thiết kế các dự án nhằm đạt được mục tiêu phát triển đề ra ban đầu. Kênh đầu tư theo mô hình này được phân thành nhiều đoạn, phân định rõ theo phương châm mua đứt bán đoạn. Mỗi bên tham gia kênh chịu trách nhiệm và có quyền lợi một cách tương ứng. Chính phủ được bảo đảm rằng vốn vay được hoàn trả đầy đủ và thu được phần lợi nhuận đủ để trang trải rủi ro hối đoái và một mức lời hợp lý. Ngân hàng bán buôn được hưởng phí hợp lý. Các ngân hàng được tiếp cận với nguồn vốn chất lượng cao và giá cả hợp lý (thấp hơn chút ít so với lãi suất thị trường), đồng thời được hỗ trợ tăng năng lực thể chế. Người vay cuối cùng tiếp cận được cả vốn và dịch vụ tài chính đi kèm. 3.2.2. Sử dụng lãi suất thị trường không bao cấp Nguồn vốn ODA luôn có lãi suất ưu đãi. Nguồn vốn cho vay của WB cho các nước nghèo không có lãi suất, chỉ có phí 0,75%/năm, nên có thể áp dụng lãi suất ưu đãi cho người vay cuối cùng. Tuy nhiên, kinh nghiệm thế giới đã chỉ ra rằng lãi suất bao cấp không duy trì sự tăng trưởng kinh tế liên tục mà phải áp dụng lãi suất thị trường. Phần chênh lệch lãi suất do nguồn vốn ODA mang lại được thu về ngân sách. Lãi suất áp dụng cũng cần phải linh hoạt và phù hợp. Lãi suất cao sẽ chậm giải ngân nhưng lãi suất thấp sẽ tập trung tín dụng vào những khách hàng có mối quan hệ tốt, tương đối giàu và khách hàng lớn. 3.2.3. Cung cấp vốn phải đi liền với hỗ trợ năng lực thể chế Để đảm bảo đạt được các mục tiêu phát triển, dự án đã dành nguồn lực đáng kể hỗ trợ cho ngân hàng bán buôn (giai đoạn đầu của dự án TCNT I là ngân hàng nhà nước và sau này là BIDV) đồng thời hỗ trợ đào tạo và kỹ thuật cho các PFIs. Dự án yêu cầu mỗi ngân hàng tham gia phải xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển thể chế theo từng giai đoạn với những mục tiêu cụ thể nhằm từng bước đạt được các chỉ số hoạt động theo chuẩn mực quốc tế. Để làm được điều này, các ngân hàng tham gia hỗ trợ nguồn tiền để thực hiện kế hoạch chiến lược, đổi mới cơ cấu tổ chức và phát triển nguồn nhân lực. Trong bất kỳ một hoạt động kinh tế nào, nhân tố con người cũng là một nhân tố quan trọng quyết định 90% sự thành công, do tầm quan trọng như vậy cho nên sở giao dịch III đã có những cán bộ không chỉ giỏi về nghiệp vụ mà còn rất am hiểu thị trường tài chính ngân hàng. Tuy vậy trong sự phát triển chóng mặt của nền kinh tế thì những kiến thức về kinh tế hiện đại luôn phải được cập nhật và phát huy nó. Hoạt động quản lý cho vay lại nguồn vốn ODA dưới mô hình ngân hàng bán buôn là một hoạt động khá mới mẻ, chưa được biết đến rộng rãi, kiến thức áp dụng hoạt động này thì rất rộng, liên quan đến nhiều ngành nghề khác nhau. Một trong những yếu kém của hầu hết các ban quản lý dự án hiện nay đó là năng lực còn yếu kém về các mảng: nghiệp vụ đấu thầu, mua sắm, kế toán giải ngân, sử dụng dịch vụ chuyên gia tư vấn, kiểm toán giám sát, đánh giá dự án, trình độ ngoại ngữ chuyên môn còn hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu. Yêu cầu đặt ra là phải xây dựng và triển khai một chương trình đào tạo chuyên sâu, có định hướng rõ ràng cụ thể để có được một đội ngũ cán bộ chất lượng cao, qua đó hỗ trợ cho các định chế tài chính tham gia hỗ trợ cho người vay cuối cùng. Trước mắt, khi chưa có một trung tâm đào tạo chính thức các nghiệp vụ về vốn ODA thì SGD III cần đẩy mạnh các công tác đào tạo dưới các hình thức như: mời giảng viên từ các học viện, trường đại học, các chuyên gia nước ngoài chuyên về nghiệp vụ ODA để tào tạo ra những cán bộ phân tích tài chính, chuyên gia về tài trợ dự án, chuyên gia về quan hệ đối ngoại, đào tạo giảng viên về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc đào tạo này sẽ đem lại hiệu quả trong việc tham gia vào quá trình xây dựng các dự án bán buôn tín dụng, triển khai đào tạo nghiệp vụ cho các PFI để từ đó việc sử dụng vốn vay đem lại hiệu quả không chỉ về mặt kinh tế mà còn về mặt xã hội. 3.2.4. Xây dựng hệ thống chính sách và thủ tục rõ ràng, minh bạch và bình đẳng Hệ thống chính sách và thủ tục rõ ràng, minh bạch giúp cho quá trình chuyển vốn qua kênh được thông suốt, giảm thiểu khả năng phát sinh tiêu cực và tạo môi trường bình đẳng giữa các chủ thể tham gia dự án. Quan hệ giữa ngân hàng bán buôn, PFIs và người vay cuối cùng là bình đẳng cùng có lợi. 3.2.5. Tăng cường công tác thẩm định và kiểm tra giám sát Nguồn vốn ODA trong dự án TCNT do WB tài trợ cho chính phủ Việt Nam trong lĩnh vực phát triển kinh tế nông thôn chủ yếu là các khoản vay nhỏ, liên quan tới trăm nghìn tiểu dự án. Do vậy, công tác thẩm định cho vay cần được lưu tâm. Trong quá trình thực hiện dự án, không chỉ quan tâm đến năng lực của Ngân hàng bán buôn, nhà tài trợ cũng đưa ra rất nhiều tiêu chí để lựa chọn PFIs tham gia dự án vì chính các PFIs này sẽ làm công tác thẩm định cho vay đến người vay cuối cùng. Vì vậy, các PFI cần nghiêm túc thực hiện để trở thành các PFI lành mạnh. Để giúp các ngân hàng có hướng đích phấn đấu, dự án đưa ra bộ tiêu chí bao gồm chỉ số hoạt động theo chuẩn mực quốc tế và yêu cầu các ngân hàng có hạn mức tín dụng trên 1 triệu USD phải kiểm toán quốc tế hàng năm, điều này giúp kiểm tra giám sát hoạt động cho vay đúng mục đích. Trong dự án TCNT, nhà tài trợ WB cũng có những yêu cầu cụ thê, quy định thẩm quyền cho vay lại đối với các PFI. Mức tự phán quyết của mỗi định chế tài chính lại phụ thuộc vào vốn tự có là cao hay thấp của mỗi ngân hàng. Do vậy giải pháp chủ yếu cần thực hiện đối với PFIs là mở rộng cơ sở vốn tự có, thắt chặt kiểm soát chất lượng tín dụng, tăng cường các cơ chế kiểm soát rủi ro và thực hiện chương trình đào tạo lớn và chuyên sâu. 3.2.6. Phát huy vai trò chủ động của ngân hàng bán buôn (BIDV) * Quyết tâm theo đuổi những mục tiêu phát triển. Ngân hàng phải thành lập và dành nguồn lực thích đáng để cho một ban quản lý dự án độc lập. Ban quản lý dự án phải có cơ cấu tổ chức theo mô hình chuẩn, có đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, tham gia ngay từ đầu của quá trình thiết kế, xây dựng và vận hành dự án vì ngoài việc nắm chắc chính sách, thủ tục của nhà tài trợ, chính sách pháp luật của Việt Nam, ban quản lý dự án còn phải chủ động quản lý, điều phối các mối quan hệ đa chiều và sự phối kết hợp giữa các chủ thể tham gia dự án, giữa các bên hưởng lợi và giữa các cơ quan của chính phủ và nhà tài trợ. * Xây dựng chiến lược quản lý nguồn vốn ODA cho vay lại thông qua hoạt động ngân hàng bán buôn. Có thể nói hoạt động ngân hàng bán buôn đã là một kênh dẫn vốn hữu hiệu, mang lại nhiều lợi ích cho đất nước nói chung và cho ngành ngân hàng nói riêng. Qua kênh dẫn vốn này, đất nước có thêm nguồn vốn trung và dài hạn để đầu tư cho các khu vực kinh tế có đại đa số dân chúng sinh sống. Từ đó tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống nhân dân và xóa đói giảm nghèo. Ngân hàng bán buôn không chỉ nhận vốn ODA cho vay lại mà còn được hỗ trợ kỹ thuật, tiếp thu kiến thức và kinh nghiệm quản trị ngân hàng hiện đại. Các định chế tài chính khi tham gia cũng nhận được sự hỗ trợ về thể chế đi liền với các nguồn vốn trung và dài hạn ổn định. Ngân hàng bán buôn vốn ODA sẽ là địa chỉ đáng tin cậy để chính phủ chuyển tải nguồn vốn ODA xuống cho các chương trình, dự án đầu tư và xóa đói giảm nghèo. Đặc biệt là khi Việt Nam đủ điều kiện tiếp nhận vốn ODA trực tiếp vào ngân sách nhà nước từ các nhà tài trợ thì vai trò của ngân hàng bán buôn lại càng được phát huy bởi thông quan ngân hàng bán buôn, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam lại có điều kiện tham gia chuyển vốn ODA xuống các công trình. Rõ ràng việc nhân rộng mô hình bán buôn tín dụng để ngân hàng bán buôn quản lý cho vay lại nguồn vốn ODA tới các ngân hàng thương mại sẽ giúp chính phủ giải quyết tốt hơn quá trình huy động, sử dụng, quản lý đối với nguồn vốn ODA. Với vai trò cơ quan chủ quản các dự án ODA do WB tài trợ thông qua các dự án tài chính nông thôn và là ngân hàng bán buôn, sở giao dịch III - ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đang có lợi thế là đã có sẵn một bộ máy kinh doanh hoạt động ngân hàng bán buôn khá hiệu quả, bước đầu làm chủ và vận hành thành công cơ chế bán buôn tín dụng. Lợi thế thứ hai là tạo được uy tín nhất định khi triển khai thành công các dự án TCNT của WB. Nếu mở rộng kinh doanh ngân hàng bán buôn thì sở giao dịch III - ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam có thể cải thiện đáng kể khả năng sinh lời của mình vì đây là loại hình kinh doanh sinh lời cao và rất bền vững. Chính vì thế, sở giao dịch III phải xây dựng chiến lược quản lý nguồn vốn ODA cho vay lại dưới mô hình ngân hàng bán buôn tín dụng. SGD III phải có kế hoạch nhằm nhanh chóng củng cố và nâng cao năng lực thể chế và đáp ứng đủ điều kiện đóng vai trò là ngân hàng bán buôn không chỉ theo chuẩn mực của WB cho dự án tài chính nông thôn mà còn theo chuẩn mực của các nhà tài trợ quốc tế khác để có thể có được nhiều dự án ODA trong thời gian tới. Trước khi thực hiện đàm phán và đi đến ký kết dự án, các nhà tài trợ đã kiểm tra và đánh giá rất kỹ năng lực tài chính của ngân hàng bán buôn, chủ dự án trong tương lai nhằm đảm bảo việc lựa chọn ngân hàng bán buôn là phù hợp, đảm bảo hiệu quả của dự án trong tương lai. * Thúc đẩy công tác đàm phán, đa dạng hóa nguồn tài trợ vốn ODA Do kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập vào nền kinh tế thế giới nên có rất nhiều cơ hội phát triển cũng như không ít các khó khăn thách thức đang chờ đợi. Việc phát triển kinh tế, thúc đẩy đầu tư và sản xuất đang được đặt lên hàng đầu trong trong giai đoạn phục hồi kinh tế. Vì vậy, việc thu hút nguồn tài trợ là một mối quan tâm lớn. Để góp phần huy động tối đa nguồn vốn ODA tài trợ cho các dự án tín dụng bán buôn, trong thời gian tới, SGD III cần phải thực hiện một số nội dung công việc sau: Thứ nhất, đa dạng hóa nguồn tài trợ cho các dự án bán buôn tín dụng. Hiện nay hệ thống ngân hàng đã khai thác được vốn ODA từ ba nhà tài trợ lớn là WB, ADB và JBIC. Và vẫn còn một số nhà tài trợ tiềm năng ở nhóm kinh tế G7 chưa được khai thác. Dựa trên một danh mục đầu tư dự án tín dụng bán buôn, ngân hàng cần triển khai các hoạt động cụ thể và xúc tiến việc vận động tài trợ theo ngành và các giao dịch trực tiếp với các nhà tài trợ nhằm mở rộng các danh mục dự án. Ngân hàng nhà nước cần đóng vai trò điều phối các nỗ lực vận động tài trợ của ngành và các giao dịch trực tiếp với các nhà tài trợ; ngân hàng bán buôn chịu trách nhiệm chuẩn bị cơ sở vật chất, nguồn thông tin và điều phối sự kết hợp của các định chế tài chính tiềm năng trong việc triển khai các dự án tín dụng bán buôn. Thứ hai, đẩy mạnh việc vận động tài trợ ở các bộ ngành và thúc đẩy quan hệ giữa ngân hàng bán buôn và văn phòng đại diện của nhà tài trợ tiềm năng. Quan hệ này là quan hệ tin tưởng lẫn nhau, không thể có được quan hệ một chiều mà cần có thời gian từng bước. Thứ ba, hình thành các bộ phận chuyên trách tại ngân hàng bán buôn để quản lý và xúc tiến cho những dự án sắp tới sẽ triển khai. Nếu không có những bộ phận này thì việc nghiên cứu chính sách và thủ tục của nhà tài trợ sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Hơn nữa, việc xây dựng các dự án bán buôn tín dụng còn đòi hỏi phải có sự kết hợp với nhiều bộ ngành trong nước và phải chuẩn bị trong một thời gian dài vì vậy cần phải có một đơn vị chuyên trách để lưu trữ và quản lý thông tin. * Trích lập quỹ dự phòng rủi ro hợp lý Hiện nay vẫn chưa có một quy định cụ thể về trích lập quỹ dự phòng rủi ro ở ngân hàng bán buôn tín dụng. Trong khi đó việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro là cần thiết vì việc quản lý cho vay lại vốn ODA liên quan đến rất nhiều PFIs và hàng trăm nghìn tiểu dự án. Nếu tiểu dự án không thu hồi được vốn, các PFIs cũng sẽ khó khăn trong thu hồi nợ, điều này gây rủi ro lớn cho ngân hàng bán buôn. Vấn đề đặt ra là ngân hàng bán buôn cần xác định một tỷ lệ dự phòng đủ hợp lý để vừa giảm thiểu những rủi ro trong kinh doanh, không gây ứ đọng vốn, mặt khác đảm bảo được lợi nhuận cho sở cũng như toàn ngành. Tỷ lệ hợp lý này sẽ không nhỏ hơn mức dự phòng chung là 15% trên tổng dư nợ tín dụng mà NHNN quy định đối với NHTM nói chung. 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Đối với các chính sách của chính phủ Thứ nhất, chính phủ cần xúc tiến mạnh mẽ các hoạt động ngoại giao với các nhà tài trợ quốc tế để tăng lượng vốn ODA cam kết dành cho Việt Nam. Thứ hai, chính phủ cần mở rộng định hướng việc sử dụng ODA cho các dự án trực tiếp sinh lời và cho vay theo cơ chế thương mại như các dự án bán buôn tín dụng. Việc này rất quan trọng vì nó đảm bảo khả năng trả nợ của đất nước về lâu về dài. Thứ ba, các bộ ngành cần ủng hộ mạnh mẽ các chương trình vận động vốn cho các dự án bán buôn tín dụng trong ngành ngân hàng, phối hợp chặt chẽ với ngân hàng nhà nước và các bên hữu quan trong việc chuẩn bị, xây dựng và triển khai các dự án bán buôn tín dụng. Thứ tư, các Bộ kế hoạch và đầu tư, bộ tài chính cần đánh giá định kỳ các dự án bán buôn tín dụng để đưa ra những khuyến nghị với ngân hàng nhà nước trong việc quản lý và triển khai các dự án bán buôn ODA. 3.3.2. Đối với Ngân hàng nhà nước Ngân hàng nhà nước với tư cách là một cơ quan nhà nước nên có sự hỗ trợ cần thiết bằng những hình thức tranh thủ sự hỗ trợ của tư vấn quốc tế, tổ chức hội thảo hoặc các khóa học cho các cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ nghiệp vụ để cung cấp các kiến thức về lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế, kinh nghiệm trong nước liên quan đến tổ chức hoạt động và quản lý các nguồn vốn được tài trợ. Ngân hàng nhà nước cần xúc tiến mạnh mẽ công tác vận động tài trợ cho các dự án của ngành ngân hàng, hình thành chiến lược huy động vốn được tài trợ bởi các tổ chức tài chính quốc tế và cần phải có chính sách phát triển ở các cấp ngành và hợp lý nhất là giao cho một vụ đảm nhiệm chức năng vai trò này. Ngân hàng nhà nước cũng nên tổ chức đánh giá hiệu quả của các mô hình hoạt động của ban quản lý dự án để từ đó phát triển mô hình hiệu quả nhất. Ngân hàng nhà nước cũng cần có chính sách thúc đẩy các mô hình triển khai các dự án bán buôn tín dụng có hiệu quả. Sau gần 10 năm thực hiện, đã đủ điều kiện để đánh giá hiệu quả của các mô hình hoạt động của các dự án khác nhau. Ngân hàng nhà nước nên tổ chức đánh giá hiệu quả hoạt động của các ban quản lý dự án bán buôn tín dụng ODA để từ đó phát triển mô hình hiệu quả nhất. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, nguồn lực sẽ được sử dụng hiệu quả hơn khi hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Bên cạnh đó, ngoài việc phối hợp chặt chẽ với các ban quản lý dự án trong việc giải ngân nguồn vốn, ngân hàng nhà nước cũng cần tiếp tục hoàn thiện những cơ sở pháp luật cho hoạt động quản lý nguồn vốn. Cụ thể cần phải ban hành những văn bản hướng dẫn cụ thể trong trích lập quỹ dự phòng rủi ro cho ngân hàng bán buôn, chỉnh sửa các quy định, chuẩn mực kế toán trong phạm vi ngân hàng theo hướng hài hòa với các thông lệ quốc tế để tạo thuận lợi cho quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 3.3.3. Đối với tổ chức tài trợ vốn ODA Các nguồn vốn hỗ trợ phát triển do các tổ chức tài chính quốc tế tài trợ cho Việt Nam đã đóng góp một phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Với mong muốn là nguồn vốn này ngày càng tăng lên để có thể đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu thì điều kiện do các nhà tài trợ đặt ra cũng nên nới lỏng và được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện đầu tư sản xuất, tập tục nếp sống tại Việt Nam. Để từ đó các dự án được triển khai dễ dàng đồng thời đẩy nhanh tiến độ của các dự án. Các nhà tài trợ vốn ODA cũng nên cho phép các ngân hàng cùng hệ thống ngân hàng bán buôn tham gia trực tiếp vào quá trình giải ngân vốn ODA. Hiện nay, theo thông lệ quốc tế, ngân hàng thương mại nào nắm giữ quyền bán buôn thì sẽ không được phép tham gia giải ngân. Hiện nay, ngân hàng đầu tư có chi nhánh trên khắp 54 tỉnh thành cả nước nhưng sẽ không được tham gia giải ngân. Có thể nói đây là một sự lãng phí lớn về nguồn lực mà trong khi đó ngân hàng đầu tư là ngân hàng có uy tín rất lớn trên thị trường. 3.3.4. Đối với sở giao dịch III Với vai trò là một ngân hàng bán buôn thì BIDV cần chủ động và năng động hơn nữa trong việc phối hợp giữa các bên hữu quan trong và ngoài ngành để vận động và xây dựng, triển khai và quản lý các dự án theo đúng cam kết với các nhà tài trợ và cũng để phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế đất nước và của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Ngân hàng đầu tư cũng cần củng cố và nâng cao cả về năng lực thể chế để đủ điều kiện đóng vai trò là ngân hàng đầu mối cho vay lại không chỉ đối với dự án tài chính nông thôn mà còn với các dự án khác trong thời gian tới đây. Đây là một điều kiện tiên quyết cho BIDV nếu muốn trở thành kênh dẫn vốn ODA quan trọng cho phát triển kinh tế đất nước. Muốn vậy thì ngân hàng cần phải tăng nguồn vốn điều lệ của mình lên bằng vốn ngân sách cấp bằng tiền, bằng trái phiếu chính phủ đặc biệt hay lợi nhuận giữ lại.. Ngoài ra để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sở giao dịch III với vai trò là ban quản lý dự án cần chú trọng việc tăng cường năng lực cho cán bộ, đào tạo nghiệp vụ và cải tiến cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại/. KẾT LUẬN Để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì Việt Nam còn rất nhiều nguồn vốn đầu tư không chỉ có trong nước mà còn từ các nguồn nước ngoài. Qua việc phân tích thực trạng huy động, quản lý và sử dụng vốn ODA trong thời gian gần đây đã cho thấy ODA có một vai trò rất lớn hỗ trợ cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội Việt Nam. Trên thực tế, những chương trình, dự án sử dụng vốn ODA được thực hiện tập trung vào những lĩnh vực, ngành nghề mà Việt Nam đang cần được hỗ trợ: chương trình dự án công cộng, giao thông, phát triển nông nghiệp nông thôn, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường…Đó là những lĩnh vực đầu tư có tính xúc tác, vừa có tác dụng trước mắt đồng thời vừa là cơ sở lâu dài cho sự nghiệp phát triển đất nước. Một trong những dự án ODA mang lại hiệu quả đầu tư cao đó chính là dự án tài chính nông thôn I, II, III do WB tài trợ. Các dự án tài chính nông thôn thực sự mang lại nguồn vốn cần thiết cho sự phát triển bền vững của nông thôn Việt Nam. Cho đến nay, việc quản lý cho vay lại nguồn vốn này dưới mô hình ngân hàng bán buôn chứng tỏ là một mô hình quản lý hiệu quả. Các quỹ bán buôn được vận hành mang tính thương mại theo đúng cam kết với nhà tài trợ WB và sở giao dịch III - BIDV. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trở thành địa chỉ tin cậy trong việc triển khai và thực hiện các dự án với quy mô lớn, tạo ra một kênh huy động vốn được đảm bảo và mang lại hiệu quả cao. Tìm hiểu hoạt động quản lý cho vay lại nguồn vốn ODA tại sở giao dịch III dựa trên mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu có thể nói đây vẫn là hoạt động khá mới trong lĩnh vực quản lý vốn ODA cũng như đối với hoạt động ngân hàng. Do kiến thức bản thân còn nhiều hạn chế, vì vậy đề tài nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến góp ý của thầy cô để công trình này được hoàn thiện hơn/.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31765.doc
Tài liệu liên quan