Luận văn Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn Hà Nội - Thực trạng và một số giải pháp

Qua nghiên cứu thực trạng thu hút đầu tư của các khu công nghiệp trên địa bàn Hà nội chúng ta có thể thấy bên cạnh những thuận lợi như những lợi thế sẵn có của Hà nội về con người, cơ sở vật chất.và cả những cơ chế, chính sách ưu đãi của thành phố dành cho các khu công nghiệp thì các khu công nghiệp Hà nội cũng còn có những khó khăn trong môi trường đầu tư như những vấn đề về pháp lý, đất đai, các vấn đề liên quan đến cung cấp dịch vụ.chính những điều này làm hạn chế dòng đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội, làm cho khả năng thu hút đầu tư của các khu công nghiệp Hà nội còn thua kém một số tỉnh và thành phố khác. Nhưng với mục tiêu đưa Hà nội trở thành trung tâm công nghiệp của cả nước, chúng ta phải tháogỡ những khó khăn trên, phải không ngừng tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm để xây dựng, phát triển các khu công nghiệp Hà nội trở thành hạt nhân phát triển kinh tế của thủ đô. Chúng ta phải biết tận dụng lợi thế của Hà nội - trung tâm kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật. của cả nước để xây dựng các khu công nghiệp Hà nội đúng theo quy hoạch, có cơ sở hạ tầng kỹ thuật đầy đủ, cơ chế quản lý thống nhất và hệ thống các chính sách ưu đãi về tài chính và thuế đủ hấp dẫn. Có như thế khu công nghiệp Hà nội mới trở thành một mô hình kinh tế năng động, bền vững, xứng đáng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của thủ đô.

doc91 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1319 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn Hà Nội - Thực trạng và một số giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp nhanh nhất nếu như không gặp những trở ngại trong vấn đề giải phóng mặt bằng. Giai đoạn II của dự án đã được lên kế hoạch và triển khai khá lâu song hiện nay vẫn bế tắc vì công tác đền bù giải toả chưa thực hiện xong, vẫn còn nhiều hộ dân chưa chấp nhận giá đền bù dù đã có sự tham gia giải quyết của các cấp chính quyền cũng như đã áp dụng mọi biện pháp hết sức linh hoạt mềm dẻo trong phạm vi cho phép như thuyết phục, vận động từng người dân, hoặc cam kết tạo điều kiện cho con em họ được làm việc tại các xí nghiệp, nhà máy xây dựng tại khu công nghiệp Hà nội. Việc chậm trễ trong vấn đề bàn giao mặt bằng mà khu công nghiệp Sài Đồng B gặp phải không chỉ ảnh hưởng đến lơi ích của chủ đầu tư mà còn gây ảnh hưởng không tốt đến các doanh nghiệp đã đăng ký thuê đất. Công ty Sumi- Hanel một doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp muốn xây dựng thêm một nhà máy ở liền kề để có thể dễ dàng hỗ trợ nhau trong quá trình sản xuất, đã đăng ký thuê đất giai đoạn II của khu công nghiệp. Yêu cầu mở rộng nhà máy là cần kíp song đến nay, công ty vẫn chưa được bàn giao mặt bằng mặc dù có thừa nhiệt tình nhưng nhà đầu tư không thể kiên nhẫn hơn được nữa. Họ đã bắt đầu tính đến chuyện chuyển hướng đầu tư sang nơi khác nếu trong thời gian ngắn tới họ không được bàn giao đất nếu trong thời gian ngắn tới họ không được bàn giao đất và như thế sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút đầu tư của khu công nghiệp Sài Đồng B. Khu công nghiệp khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ cũng bị chậm trễ trong giải phóng mặt bằng vì nhà đầu tư Đài Loan không nghiêm túc thực hiện tiến độ triển khai theo quy định, vi phạm cam kết với Chính phủ VN. Và kết quả như chúng ta đã thấy khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ mới chỉ thu hút được 4 dự án trong năm 2000 và 2 năm tiếp theo không có thêm dự án nào cả. Vấn đề giải phóng mặt bằng ở Hà nội còn do nguyên nhân khác nữa, đó là đất xây dựng khu công nghiệp ở Hà nội chủ yếu là đất nông nghiệp. Nhiều nơi những thoả thuận ban đầu chưa chặt chẽ, người dân lợi dụng những điều kiện đền bù hoa màu, trồng bổ sung thêm cây hoặc dựng thêm nhà để hưởng giá đền bù cao hơn. Về thủ tục đền bù: Thủ tục đền bù không đơn giản cũng kéo dài thời gian xử lý việc đền bù. Đặc biệt, do nhu cầu sinh hoạt quá trình xác định đất đền bù hoán đổi cũng không được thực hiện nhanh là cản trở quá trình đền bù để giải phóng mặt bằng cho khu công nghiệp. Thái độ: Đất đai là một vấn đề nhạy cảm, dễ bị khiếu kiện. Có lẽ vì thế nên vấn đề này thường bị các công chức và các cơ quan nhà nước có liên quan hoặc là lạm dụng hưởng lợi, hoặc né tránh không muốn can thiệp giải quyết dứt điểm. Lý do thứ 2 đã làm cho việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai không dứt khoát, tạo điều kiện cho những kẻ chây ỳ cản trở quá trình giải phóng mặt bằng. Biểu 2.15: Bảng tình hình giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng. Tính đến tháng 10/2002 TT Tên KCN Diện tích XD KCN (ha) Diện tích đã GPMB Diện tích đã XD CSHT DT (ha) Tỷ lệ DT (ha) Tỷ lệ 1 Sài Đồng A 409 2 Nội Bài 100 100 100 50 50 3 Hà nội - Đài Tư 40 40 100 40 100 4 Sài Đồng B 97,11 48.58 50 48,58 50 5 Thăng Long 121(pha I) 121 100 121 100 Tổng cộng 767,11 306,58 40 Nguồn: Văn phòng HĐND&UBND thành phố Hà nội. Như vậy tiến độ giải phóng mặt bằng mới chỉ đạt 40% trên diện tích theo quyết định thu hồi đất của Chính phủ. Về quy hoạch: Quy hoạch không chỉ là vấn đề nổi cộm của cả nước mà còn là của Hà nội. Quy hoạch rồi lại sửa đổi quy hoạch đã gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp cơ sở hạ tầng trong việc tạo mặt bằng sản xuất. Về cơ sở hạ tầng: Về nguyên tắc, nhà nước đảm bảo các công trình hạ tầng đến chân hàng rào khu công nghiệp. Tuy vậy trong quá trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp vừa qua, việc phối hợp xây dựng các công trình trong và ngoài hàng rào chưa đồng bộ, làm cản trở tiến độ triển khai khu công nghiệp. Việc cung cấp điện cho các khu công nghiệp không ổn định. Đơn cử như việc cung cấp điện cho Sài Đồng B, theo phản ánh của công ty orion- Hanel, việc cúp điện thường xuyên không báo trước là tình trạng phổ biến mà các doanh nghiệp phải gánh chịu, trong khi một lần cúp điện sẽ làm doanh nghiệp bị thiệt hại khoảng 20.000 USD, vậy mà năm 1999 công ty bị cúp điện 70 lần. Trong năm 2001, cúp điện 50 lần. Điều này sẽ làm giảm phần nào lòng nhiệt tình của các nhà đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội. * Nhóm các vấn đề liên quan đến đất đai và thủ tục hành chính. Thời gian giải quyết các thủ tục hành chính ở các khu công nghiệp Hà nội còn kéo dài so với các địa phương khác. Sự kéo dài này làm tăng chi phí giao dịch của các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Có nhiều khi, để tiến hành các hoạt động kinh doanh trong khu công nghiệp, các doanh nghiệp cũng đều phải trải qua đầy đủ các thủ tục, gặp tất cả các khó khăn trong khi thi hành cũng giống như các doanh nghiệp ngoài khu công nghiệp ( ví dụ như hoạt động xuất nhập khẩu). Đây là một trong những nhân tố làm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư của các khu công nghiệp trên địa bàn Hà nội. Chính sách đối xử đối với doanh nghiệp khu công nghiệp chưa công bằng, đã hạn chế khả năng thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong nước. Ví dụ như nhà đầu tư trong và ngoài nước khi đầu tư vào khu công nghiệp đều phải đáp ứng những điều kiện như nhau, nhưng các doanh nghiệp nước ngoài lại được ưu tiên hơn về thuế lợi tức so với các doanh nghiệp trong nước. * Nhóm các vấn đề về tổ chức bộ máy của Ban quản lý. Cơ sở vật chất cho hoạt động của Ban: Hiện nay trụ sở Ban quản lý các KCN,KCX Hà nội còn quá chật hẹp, chưa thuận lợi, không những không đủ điều kiện để tiếp khách, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, mà còn thiếu cả chỗ làm việc cho các chuyên viên trong Ban. Trang thiết bị còn yếu không đủ cho các thành viên trong Ban sử dụng. Tổ chức bộ máy chưa hoàn chỉnh, trình độ cán bộ còn chưa đáp ứng được yêu cầu công việc cùng với cơ sở thiết bị còn yếu và thiếu là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự kém hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước của Ban. * Nhóm các vấn đề liên quan đến dịch vụ. Các dịch vụ cho khu công nghiệp còn thiếu: Một trong những yếu tố quan trọng làm thiếu hấp dẫn môi trường đầu tư vào các khu công nghiệp là điều kiện cung cấp dịch vụ cho khu công nghiệp còn thiếu. Vị trí các khu công nghiệp Hà nội hầu như ở vùng ngoại ô thành phố nên lao động, đặc biệt là lao động có tay nghề cao đều ở trong nội đô. Trong điều kiện chưa có những cơ sở hạ tầng xã hội như nhà ở, trường học, chợ, ngân hàng.... ở gần khu công nghiệp thì việc thu hút các nhà đầu tư cũng như lao động có trình độ chuyên môn cao là vấn đề rất khó khăn. Đến nay, hầu hết các khu công nghiệp Hà nội đều chưa có khu tập thể cho công nhân, trừ những lao động tại địa phương, còn lại đều phải đi thuê nhà ở. Giá một số dịch vụ còn cao: Bên cạnh phí quản lý còn cao ở khu công nghiệp, các doanh nghiệp trong khu công nghiệp nói riêng và tại VN nói chung còn phải chịu cước dịch vụ rất cao so với các quốc gia khác ( điện, nước, viễn thông, phí vận chuyển...). Đặc biệt tại Hà nội các loại cước này thậm chí còn gấp 2- 3 lần so với các nơi khác. Đây cũng là một thiệt thòi cho các doanh nghiệp khi đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội. Điều đáng nói là nhà đầu tư lại không được hưởng một số loại dịch vụ xứng đáng với đồng tiền mà họ bỏ ra. Những yếu tố này phần nào làm giảm tính hấp dẫn của các khu công nghiệp thủ đô. Vấn đề tuyển dụng lao động còn nhiều bất cập: Bên cạnh những khó khăn về khuôn khổ pháp lý trong việc tuyển dụng lao động, việc tuyển dụng lao động ở Hà nội cho các khu công nghiệp cũng còn nhiều bấp cập. Việc tạo nguồn lao động cho các doanh nghiệp khu công nghiệp thường bị động do chưa đảm bảo chất lượng. Việt Nam nói chung và Hà nội nói riêng có dồi dào sức lao động nhưng chỉ là lao động tay nghề thấp, khả năng đáp ứng nhu cầu về lao động có tay nghề cao cho một số lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ cao còn yếu, các doanh nghiệp phải tự đào tạo lao động cho mình. Trong các khu công nghiệp Hà nội, chỉ có khu công nghiệp Sài Đồng B là hình thành hẳn một trung tâm đào tạo lao động còn hầu hết các khu công nghiệp khác chưa có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực để cung cấp cho các doanh nghiệp. Tuy vậy do môi trường pháp lý ở Việt Nam còn chưa hoàn chỉnh, ý thức pháp luật của người dân chưa cao nên vẫn còn tồn tại nguy cơ đối với các doanh nghiệp là việc lao động tự ý bỏ việc, ký hợp đồng với công ty khác sau khi được công ty cũ đào tạo. Thiếu dịch vụ cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp: Thông tin ngày càng trở nên là một yếu tố quan trọng trong việc củng cố và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong thời gian qua, dịch vụ cung cấp thông tin( pháp lý và thị trường) cho các doanh nghiệp còn yếu. * Hoạt động xúc tiến đầu tư. Xúc tiến đầu tư là một hoạt động cực kỳ quan trọng đối với việc thu hút đầu tư vào khu công nghiệp. Nếu không có hoạt động này các nhà đầu tư sẽ không biết đến tiềm năng và cơ hội của khu công nghiệp. Trong thời gian qua, hoạt động này ở các khu công nghiệp Hà nội làm chưa tốt, bản thân các khu công nghiệp chưa thấy được tính thiết yếu của hoạt động này lên làm với thái độ chưa thật nghiêm túc. * Nhóm các nguyên nhân về phía công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp. Hầu hết các khu công nghiệp tập trung triển khai chậm chủ yếu là do các chủ đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng. Chẳng hạn Sài Đồng A chậm do nhà đầu tư nước ngoài là tập đoàn DAEWOO gặp khó khăn về tài chính. Hà nội - Đài Tư chậm do nhà đầu tư Đài Loan không nghiêm túc thực hiện tiến độ triển khai theo quy định, vi phạm cam kết với Chính Phủ Việt Nam. Một số khu công nghiệp thì chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng cơ sở cho thuê có hạn chế đối tượng thuê. Ví dụ khu công nghiệp Thăng Long chỉ ưu tiên cho thuê đối với các doanh nghiệp Nhật Bản. Khu Hà nội - Đài Tư cũng chỉ cho thuê đối với các doanh nghiệp Đài Loan. Giấy phép đầu tư mà thành phố hoặc Chính phủ ký với các công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp thường chỉ quy định thời hạn hoạt động của khu công nghiệp tập trung hoặc công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng ( khoảng tới 50 năm) với giá cho thuê đất khá rẻ, đặc biệt là thường không có điều khoản quy định và các chế tài đủ hiệu lực kèm theo buộc các đối tác kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp tập trung phải đảm bảo tiến độ và mức độ hoàn tất và lấp đầy khu công nghiệp. Thành thử với tiềm lực tài chính thực tế (hoặc thậm chí không có tiềm lực thực tế) thì các đối tác nước ngoài đủ sức chịu đựng (hoặc đơn giản là chẳng phải chịu đựng đáng kể) những thiệt hại do chậm lấp đầy các khu công nghiệp tập trung này. Thiệt hại lớn nhất cuối cùng lại dồn lên vai thành phố do đất bị bỏ hoang, hệ số sử dụng thấp. * Nhóm các nguyên nhân khác. Trong năm 1997 xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính khu vực gây ảnh hưởng rất lớn đến đầu tư của các nước trong khu vực. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn này sụt giảm đáng kể và chỉ có dấu hiệu phục hồi vào cuối năm 2000. Cuộc khủng hoảng này cũng gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội thể hiện quan việc nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký nhưng không có khả năng đầu tư. Chương 3 Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội. 3.1. Định hướng phát triển công nghiệp Hà nội. 3.1.1. Định hướng phát triển công nghiệp Hà nội. ưu tiên phát triển các ngành tạo sản phẩm có hàm lượng chất xám và công nghệ cao, tập trung phát triển những ngành có lợi thế và có thể đứng vị trí hàng đầu cả nước như các sản phẩm công nghiệp điện, điện tử, công nghệ thông tin, sản phẩm cơ kim khí, chế tạo máy, dụng cụ và động lực, lắp ráp, chế tạo ô tô, xe máy, máy biến thế, hàng tiêu dùng cao cấp, hàng dệt, may mặc, da giày, chế biến thực phẩm, sản phẩm vật liệu mới... Hướng mạnh công nghiệp vào xuất khẩu các sản phẩm chủ lực: điện tử, công nghệ thông tin, tự động hoá, vật liệu mới, công nghệ sinh học, phát triển các khu, cụm công nghiệp bao gồm cả các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ mới hình thành, cả làng nghề truyền thống, phù hợp với quy hoạch mở rộng thành phố và toàn vùng. Có quan hệ phân công, hợp tác với các tỉnh, thành phố lân cận trong tổng thể thống nhất. Khuyến khích phát triển mạnh mẽ các doanh nghiệp vừa và nhỏ bằng nguồn vốn tư nhân, tạo ra một mạng lưới các vệ tinh sản xuất và xuất khẩu cho các công ty lớn. 3.1.2. Định hướng phát triển các khu công nghiệp cũ. Các khu vực tập trung công nghiệp nằm trong nội thành chủ yếu là đầu tư chiều sâu, từng bước thay đổi thiết bị, công nghệ, xây dựng và bổ sung các phân xưởng để đồng bộ và mở rộng sản xuất nhằm cải tạo và hiện đại hoá khu vực này. Đối với doanh nghiệp chưa xây dựng hoặc không hoàn chỉnh hệ thống thì cần phải khẩn trương đầu tư hoàn chỉnh. Di chuyển các xí nghiệp có mức độ độc hại, ô nhiễm cao, xí nghiệp có điều kiện sản xuất không thích hợp hoặc bộ phận gây ô nhiễm ra ngoài nội thành. Từng bước giảm ô nhiễm. Giải thể, di chuyển, sáp nhập các xí nghiệp cùng chủng loại. Đổi mới thiết bị, xây dựng bổ sung hoàn chỉnh dây chuyền công nghệ những xí nghiệp còn lại có điều kiện phát triển sản xuất Hoạch định lại ranh giới cụ thể, tách phần nhà ở, dân cư hoặc dịch vụ công cộng. Cải tạo, xây dựng bổ sung nâng cấp công trình hạ tầng kỹ thuật đặc biệt là đường cống thoát nước. Không phát triển chiều rộng, ưu tiên phát triển chiều sâu Không tăng dân số, lao động. Nâng cao năng suất, tăng đầu tư thiết bị công nghệ mới, đồng thời với đầu tư xử lý môi trường. Triển khai công nghệ sạch trong sản xuất. 3.1.3. Định hướng phát triển các khu công nghiệp tập trung. Đổi mới các khu công nghiệp mới cần được luận chứng và chuẩn bị kỹ về mọi mặt. Trước hết cần tập trung vào những khu có điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng, có nguồn nguyên liệu thuận lợi, có sức hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước, có tác động thúc đẩy nhanh chóng phát triển kinh tế của Hà nội nói riêng và cả vùng nói chung. Các khu công nghiệp cần xem xét, phát triển thực hiện việc chuyển một bộ phận lao động từ nông thôn ra thành thị, thu hút mạnh bộ phận lao động nông nghiệp và một phần lao động nội thành. Từ các khu công nghiệp sẽ hình thành các điểm dân cư, đô thị nên cần phải phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn, gắn công nghiệp và dịch vụ nông nghiệp để tạo sự hiệu quả, tạo sự phân bố công nghiệp đồng đều. Giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, xây dựng nền công nghiệp mở. Kết hợp kinh tế với an ninh- quốc phòng, gắn phát triển công nghiệp với tiến bộ và công bằng xã hội, giải quyết việc làm, phát triển văn hoá và bảo vệ môi trường. Kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn. ưu tiên phát triển nhanh nhóm ngành công nghiệp chủ lực của Hà nội đồng thời phát triển các ngành công nghiệp khác nếu có thị trường và hiệu quả. Chú trọng phát triển các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, vốn ít, thu hồi nhanh theo phương châm lấy ngắn nuôi dài. Tìm mọi phương án để “ lấp đầy” khu công nghiệp nhanh nhất theo dự án được duyệt, đúng thời hạn và tiến độ, đúng hạng mục và trình độ kỹ thuật công nghệ. Đi đôi với phát triển khu công nghiệp tập trung, xây dựng đồng bộ khu dân cư đô thị, các trung tâm thương mại và dịch vụ, các công trình văn hoá. Xây dựng các công trình kỹ thuật bên ngoài khu công nghiệp theo quy hoạch đảm bảo cân đối đồng bộ. Đảm bảo loại hình công nghiệp thích hợp, dễ hội tụ, giao thoa quan hệ liên vùng và quốc tế. Tạo môi trường đầu tư thuận lợi, mở rộng thị trường cạnh tranh để phát triển. Ưu tiên các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động, công nghệ cao, sạch và hiện đại. 3.1.4. Định hướng phát triển các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Có quy mô diện tích khoảng 150-200ha. Có hạ tầng kỹ thuật xây dựng tập trung, đồng bộ phù hợp với yêu cầu của CNH- HĐH. Các doanh nghiệp đầu tư vào các khu công nghiệp này được thuê đất trực tiếp nhưng phải đóng góp xây dựng hạ tầng kỹ thuật theo quy hoạch và định hướng phát triển của thành phố. Mô hình quản lý khu, cụm công nghiệp có thể vận dụng quy định tại NĐ 36CP hoặc kết hợp giữa mô hình công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp với các doanh nghiệp tự quản theo quy hoạch. Trong khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ không có khu dân cư. Cần có quy định lựa chọn doanh nghiệp đầu tư vào khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ với trình độ công nghệ tiên tiến ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của thủ đô. Dự kiến thời gian 2001-2005 thành phố xây dựng 7-10 khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ tại các huyện quận với quy mô 120 ha, giai đoạn 2006-2010 xây dựng 10 cụm ở các huyện. 3.2. Các vấn đề đặt ra cần nghiên cứu để có các giải pháp phù hợp. 3.2.1. Về việc phát triển các khu công nghiệp tập trung theo quy hoạch: theo quy hoạch thì đến năm 2010 Hà nội sẽ có 7 khu công nghiệp tập trung( Sài Đồng A, Sài Đồng B, Bắc Thăng Long, Nam Thăng Long, Hà nội - Đài Tư, Sóc Sơn, Đông Anh). Hiện nay chỉ mới 5 khu được triển khai, trong đó chỉ có 2 khu có tỷ lệ lấp đầy khá cao là khu Sài Đồng B và Bắc Thăng Long. Đến nay diện tích đất công nghiệp được thuê mới chỉ chiếm 17% so với tổng diện tích quy hoạch và chiếm 41,5% diện tích đất đã xây dựng cơ sở hạ tầng. Trước tiến độ xây dựng và lấp đầy các khu công nghiệp tập trung quá chậm chạp như vậy trong khi nhu cầu về mặt bằng của các doanh nghiệp rất búc xúc, vậy nguyên nhân chính là gì? Phải chăng do quy hoạch các khu công nghiệp tập trung chưa phù hợp, thiếu tính thực tiễn? Hay quy hoạch đúng nhưng tổ chức thực hiện phương án quy hoạch có vấn đề. 3.2.2. Về xử lý mối quan hệ giữa phát triển các khu công nghiệp tập trung với phát triển các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn: Khẳng định việc phát triển các khu(cụm) công nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian qua là một chủ trương đúng và đã đạt được các kết quả nhất định trong việc giải quyết mặt bằng cho các doanh nghiệp phát triển, nhưng còn nhiều ý kiến băn khoăn trên một số mặt sau: Việc phát triển các khu công nghiệp cần phải lấy cái gì( khu công nghiệp tập trung hay khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ) làm trọng tâm. Trong khi các cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo điều kiện để phát triển các khu công nghiệp tập trung còn thiếu và yếu; nhiều khó khăn, vướng mắc đối với các khu công nghiệp tập trung còn chưa được giải quyết; tỷ lệ lấp đầy vào các khu công nghiệp tập trung chưa cao thì việc mở hàng loạt các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ với hàng loạt các cơ chế khuyến khích đặc thù liệu có thoả đáng, có làm trở ngại đến việc thu hút các nhà đầu tư trong nước vào các khu công nghiệp tập trung không? Có ý kiến cho rằng cần nhấn mạnh đến các khu công nghiệp tập trung để có cơ chế, chính sách hỗ trợ, thúc đẩy. Khu hay cụm công nghiệp vừa và nhỏ chỉ nhằm bổ sung hay hỗ trợ cho các khu công nghiệp tập trung mà thôi. Việc bố trí các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian qua đã phù hợp với chủ trương và định hướng, quy hoạch, với chiến lược xây dựng và phát triển đô thị chưa? Không ít ý kiến băn khoăn về việc mở thêm ngay trong các quận nội thành một số khu( cụm) công nghiệp vừa và nhỏ như Vĩnh Tuy, Hai Bà Trưng, Cầu Giấy. Các khu công nghiệp này chủ yếu thu hút các doanh nghiệp nhỏ, kỹ thuật và công nghệ không cao sẽ báo trước khả năng gây ô nhiễm môi trường và hạn chế khả năng mở rộng sản xuất của doanh nghiệp, thu hút lao động thủ công, lao động ngoại tỉnh vào làm việc, làm gia tăng áp lực cho hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội vốn đã quá tải ở trong nội đô; Trong khi khu công nghiệp Nam Thăng Long tồn tại nhiều năm chưa triển khai được thì chúng ta mở thêm khu công nghiệp vừa và nhỏ Từ Liêm cách đó chưa đầy 2 km... Định hướng bố trí các khu công nghiệp trên địa bàn, đặc biệt là việc phát triển các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ cần được thảo luận để làm thêm rõ. Cũng có ý kiến nêu vấn đề tại sao không xây dựng khu công nghiệp tập trung trong đó có khu vực dành riêng với chế độ ưu đãi đặc biệt cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc là dùng kinh phí nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ( mà thành phố đã dành để đầu tư và hỗ trợ trong các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ) để các doanh nghiệp này có thể vào được các khu công nghiệp tập trung. 3.2.3. Mối quan hệ giữa phát triển các khu công nghiệp với các khu đô thị và dân cư. Do nhiều lý do, trong thời gian qua việc phát triển các khu công nghiệp chưa gắn chặt và triển khai đồng bộ với các khu đô thị và dân cư theo đúng phương án quy hoạch( thí dụ như khu công nghiệp Thăng Long, Sóc Sơn). Tình hình đó đã gây một số khó khăn, giảm sức hấp dẫn đối với một số khu công nghiệp. Việc xử lý mối quan hệ này trong thời gian tới nên như thế nào là phù hợp? 3.2.4. Vấn đề về ưu đãi của nhà nước đối với các doanh nghiệp. Các khu công nghiệp tập trung đã có trên địa bàn đều thực hiện thông qua công ty đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng theo quy định tại quy chế quản lý khu công nghiệp ban hành kèm theo Nghị định 36/CP. Các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ thì không theo mô hình công ty đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng mà hầu hết tổ chức theo dạng Cụm công nghiệp, chỉ thành lập Ban quản lý khu công nghiệp để làm nhiệm vụ quản lý nhà nước trong đầu tư và điều hành chung các hoạt động sau đầu tư. Thực ra, mô hình thí điểm tổ chức quản lý khu- cụm công nghiệp thông qua 2 khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ Vĩnh Tuy và Phú Thị không theo quy định tại Nghị định 36/CP chưa được tổng kết, đánh giá một cách nghiêm túc. Còn nhiều ý kiến đặt vấn đề: Mô hình tổ chức các cụm công nghiệp như hiện nay đã phù hợp chưa? Quản lý hoạt động đối với các doanh nghiệp trong các cụm công nghiệp sau khi đầu tư như thế nào? Hà nội có nên mở thêm các khu công nghiệp nữa hay không và nếu có thì nên theo hướng mở thêm các khu công nghiệp tập trung hay các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ? Mô hình tổ chức và cơ chế quản lý các khu công nghiệp như thế nào là phù hợp? Những vấn đề nêu trên có liên quan đến quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố cần được làm rõ trước kia xem xét các cơ chế chính sách cụ thể nhằm khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vào các khu công nghiệp. 3.2.5. Về các cơ chế chính sách khuyến khích phát triển khu công nghiệp ở Hà nội còn một số vấn đề rất đáng quan tâm, cụ thể là: Hiện nay chưa có được một quy chế quản lý chung đối với các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố. Nhiều cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp theo Nghị định số 36/NĐ-CP, quyết định 53/TTg của Thủ tướng Chính phủ chưa được triển khai thực hiện đầy đủ và nghiêm túc trên địa bàn. Một số cơ chế chính sách hỗ trợ của nhà nước được thực hiện thì lại không đến được với doanh nghiệp mà dừng lại ở nhà đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng. Thành phố mới có một số cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ thu hút các doanh nghiệp trong nước vào các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ (như hỗ trợ 30% kinh phí GPMB, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng trong hàng rào, giao đất trực tiếp và cấp ngay giấy chứng nhận quyền sử dụng với thời gian là 50 năm cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cung cấp điện nước...) mà chưa chú ý đến việc xây dựng các cơ chế, chính sách và giải pháp cụ thể thu hút các doanh nghiệp vào khu công nghiệp tập trung. 3.3. Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn Hà nội. 3.3.1. Các giải pháp đối với các khu công nghiệp xây dựng trước thời kỳ đổi mới. Đối với các khu công nghiệp cũ này mục tiêu bây giờ không phải là thu hút đầu tư mà phải nâng cao hiệu quả hoạt động. 9 khu công nghiệp cũ đều có đặc điểm là thiếu quy hoạch, gây ô nhiễm...Để khắc phục tình trạng này, thành phố có thể áp dụng một số giải pháp sau: Cần đầu tư chiều sâu, thay thế các thiết bị cũ. Nghiên cứu đổi mới công nghệ và xem xét việc chuyển đổi dần những xí nghiệp gây ô nhiễm, ưu tiên sử dụng công nghệ sạch trong sản xuất. Xây dựng từng bước hệ thống xử lý chất thải, tiến tới giảm dần ô nhiễm. 3.3.2. Các giải pháp đối với các khu công nghiệp tập trung mới. “Lấp đầy” các khu công nghiệp tập trung mới trên địa bàn Hà nội đang là vấn đề đối với không chỉ thành phố mà còn đối với các chủ đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng. Tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp trên địa bàn hiện mới đạt khoảng 17% tổng diện tích đã quy hoạch và khoảng 40% diện tích đất đã xây dựng cơ sở hạ tầng, như vậy là quá thấp và tạo nghịch lý “thừa đất công nghiệp” trong cảnh “ tấc đất, tấc vàng” ở Hà nội hiện nay. Tỷ lệ lấp đầy khu công nghiệp thấp như vậy do nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan đã được nêu lên ở chương II. Sau đây là một số giải pháp để có thể cải thiện môi trường đầu tư trong các khu công nghiệp Hà nội, nhằm đạt được mục tiêu “lấp đầy” các khu công nghiệp trong thời gian tới. 3.3.2.1. Nhóm các giải pháp về khung pháp lý. Tất cả các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp khu công nghiệp nói riêng khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải tuân thủ các quy định và hướng dẫn của luật. Như vậy, có thể nói luật pháp là người dẫn đường cho hoạt động của doanh nghiệp. Do đó để có thể thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư vào khu công nghiệp đòi hỏi luật pháp có liên quan phải được ban hành cụ thể, thống nhất. Nội dung các quy định phải rõ ràng, đơn nghĩa. Việc ban hành các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành phải nhanh chóng và phù hợp. Bên cạnh việc ban hành hệ thống pháp luật có liên quan đến khu công nghiệp hoàn chỉnh, nhất quán cũng phải nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật. Các nhà đầu tư chân chính họ rất muốn dựa vào pháp luật để bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ. Do đó, nếu luật được thi hành một cách nghiêm minh thì sẽ tạo tâm lý yên tâm cho nhà đầu tư. 3.3.2.2. Nhóm các giải pháp liên quan đến đất đai và cơ sở hạ tầng. Nếu Hà nội không nhanh chóng đổi mới chính sách về đất đai thì luồng đầu tư sẽ dễ dàng chảy vào các địa phương lân cận. Những địa phương này có khả năng tận dụng cơ sở hạ tầng của Hà nội, xây dựng các khu công nghiệp ở giáp với địa bàn thủ đô với giá rẻ hơn hẳn so với Hà nội đồng thời sẵn sàng “rải thảm” mời các nhà đầu tư. Khung giá đất: Do giá thuê đất tại các khu công nghiệp Hà nội còn cao hơn các địa phương khác nên chưa nhận được sự hưởng ứng cuả các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư trong nước. Do đó nếu áp dụng mức giá cho thuê đất thấp nhất trong khung giá đất do Chính phủ quy định, có thể đề đạt Chính phủ xem xét, xác định lại khung gía đất của Hà nội trong mối tương quan với giá đất các địa phương khác, đặc biệt là các địa phương lân cận. Đồng thời việc ưu đãi về giá thuê đất trong khu công nghiệp nên theo hướng ưu đãi trực tiếp cho các nhà đầu tư mà không thông qua các đơn vị kinh doanh hạ tầng. Tuy nhiên nếu áp dụng giá thuê đất thấp thì doanh nghiệp phát triển cơ sở hạ tầng khu công nghiệp có thể bị thiệt thòi, như vậy thành phố nên hỗ trợ các doanh nghiệp này bằng cách miễn giảm thuế, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng trong hàng rào hoặc cho doanh nghiệp vay vốn tín dụng ưu đãi hoặc trích một phần ngân sách thành phố. Các hỗ trợ của thành phố: Thành phố cần có biện pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp khi thuê đất tại khu công nghiệp: Hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất có gây ô nhiễm hiện đang đóng ở nội thành và các khu dân cư hoặc các doanh nghiệp sẵn sàng hoán đổi diện tích ở nội đô lấy diện tích rộng hơn ở khu công nghiệp di dời đến các khu công nghiệp thông qua việc hỗ trợ một phần chi phí di dời và cho phép hưởng một phần hoặc toàn bộ giá trị quyền sử dụng đất( ở địa điểm cũ). Nguồn vốn cho việc này có thể khai thác từ nguồn tài trợ nước ngoài ( ODA) hoặc từ ngân sách thành phố hoặc từ chính giá trị quyền sử dụng đất mà thành phố thu được. Để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các khu công nghiệp thành phố có thể tập trung phần lớn nguồn vốn tín dụng đầu tư ưu đãi cho các doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp để hỗ trợ xây dựng nhà xưởng cho các doanh nghiệp này và cho phép họ trả dần với lãi suất thấp. Tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tận dụng tất cả các điều kiện để miễn giảm thuế( đặc biệt các biện pháp miễn giảm thuế trong khuôn khổ luật khuyến khích đầu tư trong nước). Giảm, miễn hoặc chậm thu một phần hay toàn bộ các sắc thuế mà thành phố được thu. Xem xét việc giảm thuế VAT và thu nhập doanh nghiệp ( hoàn lại cho doanh nghiệp một phần hoặc toàn bộ phần thuế VAT và thu nhập doanh nghiệp mà thành phố được hưởng). Dùng nguồn vốn ngân sách hoặc tín dụng ưu đãi hỗ trợ cho các doanh nghiệp xây dựng nhà xưởng tại các khu công nghiệp theo thiết kế của chủ đầu tư, sau đó bán trả dần hoặc cho doanh nghiệp thuê( kinh nghiẹm của khu công nghiệp Tân Tạo) sẽ là một giải pháp làm hài lòng nhiều nhà đầu tư, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Ngân hàng nên phối hợp với Tổng cục địa chính để nỗ lực giải quyết vấn đề này thì có thể chỉ trong một thời gian ngắn họ sẽ gỡ được một vướng mắc quan trọng cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp là cần thiết vì giúp doanh nghiệp sử dụng là công cụ thế chấp khi vay tín dụng. Hơn nữa một khi các khu công nghiệp mới hình thành, thành phố có thể đặt một văn phòng cho ngân hàng thương mại đặt chi nhánh ngay trong khu công nghiệp. Thông qua đó, các ngân hàng sẽ có nhiều điều kiện để tiếp cận và giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và trên cơ sở đó thủ tục cho vay tín dụng có thể sẽ được đơn giản và thông thoáng hơn so với hiện nay. Nâng cao chất lượng hoạt động của cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp: Cơ sở hạ tầng là yếu tố quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ sở hạ tầng thì sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Điều này được thể hiện qua việc cung cấp đầy đủ và thường xuyên điện, nước, thông tin cho doanh nghiệp. Cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp phải được xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ với cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp. Thành phố có thể hỗ trợ chủ đầu tư cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển hệ thống dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động của các khu công nghiệp. Nguồn vốn để thực hiện các hỗ trợ này có thể huy động từ các khoản tài trợ của nước ngoài hoặc từ ngan sách thành phố. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn: Nên đa dạng hoá các hình thức để huy động vốn để xây dựng và hoạt động khu công nghiệp. Phải kết hợp giữa nguồn vốn trong và ngoài nước để xây dựng cơ sở hạ tầng cho khu công nghiệp. Không nên có quan điểm sai lầm là nhất thiết phải có nguồn vốn của nước ngoài thì dự án mới hiêụ quả và khả thi cao hơn. Ví dụ như trường hợp của khu công nghiệp Sài Đồng B hoàn toàn sử dụng vốn trong nước do công ty Hanel đầu tư nhưng lại đạt hiệu quả cao. Trong khi đó khu công nghiệp Hà nội - Đài Tư được đầu tư theo hình thức 100% vốn của Đài Loan nhưng tốc độ triển khai lại chậm và đến nay mới chỉ thu hút được 4 dự án. 3.3.2.3. Nhóm các giải pháp liên quan đến quản lý nhà nước và thủ tục hành chính. Thành công của các địa phương trong việc thu hút các nhà đầu tư đòi hỏi trước hết là sự quan tâm chỉ đạo của các cấp lãnh đạo Đảng và chính quyền. Thành công này đòi hỏi không chỉ sự đổi mới trong tư duy lãnh đạo kinh tế mà đòi hỏi cả đổi mới trong phương thức ứng xử của từng công chức trong các cơ quan công quyền theo hướng chuyển từ tư duy “ra lệnh, cho phép” sang “tạo điều kiện hỗ trợ và giám sát” Các thủ tục hành chính nên được cải thiện theo hướng tinh gọn một cửa, một dấu, giảm thiểu phiền hà cho nhà đầu tư. Thời gian cấp phép cho một dự án vào khu công nghiệp càng rút ngắn càng tốt, chỉ từ 2- 3 ngày. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động, Ban quản lý khu công nghiệp cũng nên tạo mọi điều kiện thuận lợi và cùng tháo gỡ khó khăn, ách tắc cho doanh nghiệp. Đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước khi đầu tư vào khu công nghiệp, cho phép hưởng những quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Có như thế mới thu hút được nhiều nhà đầu tư trong nước vào khu công nghiệp. Tăng cường sự phân cấp quản lý nhà nước cho Ban quản lý các khu công nghiệp. Sự phân cấp ở đây nên tiến hành đồng bộ và toàn diện hơn, cụ thể có thể giao toàn bộ chức năng quản lý nhà nước về FDI cho Ban quản lý các khu công nghiệp, đồng thời đây là đầu mối giải quyết mọi vấn đề liên quan đến đầu tư trong và ngoài nước vào khu công nghiệp. 3.3.2.4. Nhóm các giải pháp về tổ chức bộ máy của Ban quản lý. Trang bị cơ sở vật chất cho Ban quản lý: Để nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban quản lý phải đầu tư hơn nữa cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động của các cán bộ nhân viên trong Ban. Tổ chức bộ máy của Ban: Không ngừng hoàn thiện bộ máy Ban quản lý khu công nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý. Có thể cử cán bộ quản lý sang các địa phương khác, thậm chí ra nước ngoài để học tập và tích luỹ kinh nghiệm. 3.3.2.5. Nhóm các giải pháp liên quan đến dịch vụ. Phát triển các dịch vụ cho khu công nghiệp: Thành phố có nhiệm vụ phát triển các khu dân cư, khu đô thị, các cơ sở hạ tầng xã hội như các trung tâm thương mại, trường học, bệnh viện... xung quanh các khu công nghiệp. Trong các cơ sở hạ tầng xã hội bao quanh các khu công nghiệp đặc biệt quan trọng là khu nhà ở cho công nhân. Để tiến hành hoạt động, khu công nghiệp hàng năm thu hút thêm rất nhiều lao động, các lao động ở địa phương và các lao động ở nơi khác đến. Vì thế nhu cầu về nhà ở của công nhân là rất lớn và sẽ không ngừng tăng lên trong những năm tới. Song việc xây dựng nhà lưu trú cho công nhân thuê cần có số vốn rất lớn và thời gian thu hồi vốn rất dài nên vừa qua tại các khu công nghiệp Việt Nam nói chung và các khu công nghiệp Hà nội nói riêng chưa có đơn vị kinh doanh nhà đầu tư vào xây dựng nhà. Do đó khi quy hoạch các khu công nghiệp nên nhất thiết quy hoạch khu dân cư bao gồm khu tái định cư, khu nhà ở công nhân và khu nhà ở cho chuyên gia. Khu nhà ở công nhân cũng nên có phân loại hợp lý với từng khu lưu trú cho từng đối tượng. Bên cạnh khu nhà ở còn phải quy hoạch các khu dịch vụ phục vụ cho sinh hoạt như trường học, chợ, ngân hàng, các khu vui chơi, giải trí.. có như vậy các khu công nghiệp( đặc biệt là các khu công nghiệp ở xa trung tâm) mới có thể thu hút được nhiều lao động ( đặc biệt là lao động tay nghề cao). Giảm giá dịch vụ: Các nhà đầu tư (đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài) đều phàn nàn giá cả các loại dịch vụ ở Hà nội rất đắt đỏ. Đây là một thiệt thòi cho các khu công nghiệp Hà nội trong thu hút các nhà đầu tư so với các địa phương khác. Việc tiến tới áp dụng một giá đối với nhà đầu tư trong nước và nước ngoài không thuộc thẩm quyền của thành phố, thành phố có thể kiến nghị lên Chính phủ giải quyết trên phương diện quốc gia. Trong phạm vi thẩm quyền của mình, thành phố có thể tổ chức các buổi làm việc với một số chủ hãng xe taxi, công ty bưu chính viễn thông, điện lực, cấp thoát nước... của thành phố tìm một cách thức áp dụng giá cả thống nhất và đảm bảo cho nhà đầu tư được cung cấp dịch vụ có chất lượng cao và giá cả phải chăng. Vấn đề tuyển dụng lao động: Hiện nay mặc dù thành phố có nhiều trung tâm đào tạo nhưng các trung tâm này chưa đảm bảo chất lượng về lao động cho nhu cầu của các khu công nghiệp. Để khắc phục tình trạng thành phố có thể hình thành và khuyến khích hình thành các trung tâm đào tạo dạy nghề với sự phối hợp giữa doanh nghiệp và các trường dạy nghề phục vụ trực tiếp cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Có như vậy doanh nghiệp mới có thể đưa ra các yêu cầu về đào tạo lao động phù hợp với nhu cầu tuyển dụng của mình. Trong các khu công nghiệp cũng có thể xây dựng các trung tâm đào tạo lao động để cung cấp lao động cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp( như khu công nghiệp Sài Đồng B). Thành phố có thể hỗ trợ một phần chi phí cho việc học nghề của người lao động của các doanh nghiệp khu công nghiệp. Song biện pháp này chưa phải là hiệu quả nhất và mang tính bền vững. Trên cơ sở lợi thế của Hà nội -Trung tâm văn hoá, KHKT của cả nước, Hà nội cần khai thác nhiều hơn nữa thế mạnh của một địa bàn có nhiều Viện nghiên cứu, nhiều trường đại học và nhiều cơ sở dạy nghề. Hà nội cần tạo ra một cơ chế khuyến khích hợp tác giữa cơ sở nghiên cứu với cơ sở kinh doanh, phối hợp giữa trường dạy nghề và các doanh nghiệp. Các trung tâm đào tạo lao động cho doanh nghiệp trong khu công nghiệp do thành phố thành lập hoặc do khu công nghiệp thành lập phải đảm bảo cung cấp lao động có chất lượng với giá cả hợp lý thì các doanh nghiệp sẽ yên tâm đầu tư vào khu công nghiệp. Tăng cường dịch vụ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp: Theo kinh nghiệm để thành công của các khu công nghiệp trên thế giới cũng như các khu công nghiệp trong nước là đều có cơ sở hạ tầng rất tốt về hệ thống thông tin để phục vụ cho nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư. Chẳng hạn như các khu công nghiệp ở Trung Quốc, Đài Loan, Malaixia, ... còn ở Việt Nam như khu công nghiệp Tân Tạo, ngoài hệ thống telephone thông thường trong nước và quốc tế họ còn trang bị các hệ thống truyền thông tin hiện đại như: Hệ thống mạng DDN, ISDN phục vụ cho việc truy cập Internet tốc độ cao. Các dịch vụ VoIP, Faxo IP, VoATM... phục vụ cho các cuộc hội thảo từ xa; Hệ thống cáp quang, viba số phục vụ cho truyền số liệu;...và các dịch vụ cho thuê phần mềm quản lý nhân sự, tiền lương, sản xuất, lập kế hoach... được cung cấp bởi chính Ban quản lý các khu công nghiệp. Điều này giúp cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp không cần phải đầu tư nhiều về nhân lực và thiết bị ban đầu như nhân viên quản trị mạng, máy chủ.. các dịch vụ trên rất thích hợp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp có nhiều văn phòng, chi nhánh ở khắp nơi. Với cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin hiện đại như vậy, các khu công nghiệp càng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, thu hút được sự chú ý của nhiều nhà đầu tư, tạo nên hình ảnh một khu công nghiệp hiện đại, năng động của thế kỷ 21, kỷ nguyên của thời đại thông tin. Tại Việt Nam, hầu hết các khu công nghiệp chưa chú trọng đến lĩnh vực này. Hiện tại các khu công nghiệp ở Việt Nam nói chung và ở Hà nội nói riêng, các nhà đầu tư chưa được hưởng dịch vụ nào về CNTT của khu công nghiệp ngoài các cơ sở hạ tầng cơ bản khác như điện, nước, giao thông, điện thoại...Một khi các doanh nghiệp có nhu cầu dịch vụ về CNTT thì các khu công nghiệp không có sẵn để đáp ứng. Như vậy các dịch vụ thông tin không chỉ đơn thuần đáp ứng nhu cầu cho hoạt động của Ban quản lý mà còn là một tiện ích nhằm đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh cũng như thu hút các nhà đầu tư vào khu công nghiệp. Các loại hình dịch vụ cần thiết phải xây dựng trong thời điểm hiện nay và để phát triển về sau gồm: E-commerce/ Thương mại điện tử. ASP( Application Services Provide)/ Nhà cung cấp dịch vụ ứng dụng. Voice/ Video: phục vụ cho các cuộc hội thảo. ISP( Internet Services Provider)/ Nhà cung cấp dịch vụ Internet. Nếu tạo được cho khu công nghiệp Hà nội một hình ảnh nổi bật như vậy thì khu công nghiệp Hà nội sẽ có hệ thống thông tin hoàn chỉnh, phù hợp với xu thế phát triển của công nghệ và tạo ra lợi ích cho người dùng thì sự đầu tư ngày hôm nay của khu công nghiệp sẽ là sự ấn định đảm bảo cho sự vượt trội và thành công của các khu công nghiệp Hà nội so với các khu công nghiệp khác trong tương lai. 3.3.2.6. Các giải pháp về công tác xúc tiến đầu tư. Xúc tiến đầu tư là một hoạt động giữ vai trò quyết định đối với sự thành công của khu công nghiệp. Nhưng trong thời gian qua, công tác xúc tiến đầu tư lấp đầy các khu công nghiệp Hà nội chưa được quan tâm thích đáng. Để lấp đầy các khu công nghiệp Hà nội hiện nay, buộc chúng ta phải có cái nhìn nghiêm túc về vấn đề này. Việc xúc tiến đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội hiện nay đang là một vấn đề rất cấp bách. Để các nhà đầu tư biết được tiềm năng, cơ hội của các khu công nghiệp Hà nội chúng ta phải: Quảng bá tiềm năng, cơ hội đầu tư vào khu công nghiệp: Lập và đưa lên mạng trang web về khu công nghiệp và ghi vào đĩa CD với đầy đủ những nội dung về khu công nghiệp giúp cho nhà đầu tư có được thông tin chính xác và cập nhật nhất về môi trường đầu tư tại khu công nghiệp. In cataloge, xuất bản tập tin khu công nghiệp, tạp chí và đăng ký chế độ phát thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình TW, đài truyền hình Hà nội và một số tờ báo có uy tín. Lập các đề án định hướng đầu tư vào khu công nghiệp ( có tính chất tiền khả thi) nhất là những lĩnh vực đầu tư được ưu tiên, khuyến khích để nhà đầu tư có được những thông tin ban đầu về cơ hội, tiềm năng cho các nhà đầu tư khi tiếp cận, tìm hiểu đầu tư vào khu công nghiệp. Tổ chức tiếp xúc,vận động đầu tư vào khu công nghiệp: Thường xuyên liên hệ trực tiếp làm việc với lãnh đạo thành phố để thu hút các dự án quan trọng có vai trò đột phá đối với khu công nghiệp. Tổ chức hội thảo trong nước tại các thành phố lớn và mời tham gia dự là các doanh nghiệp có quan tâm đến khu công nghiệp, các công ty, tổ chức tư vấn đầu tư có uy tín, các tổ chức ngoại giao của các quốc gia có quan hệ đầu tư với Việt Nam. Chủ động và sẵn sàng gặp gỡ với các nhà đầu tư trong và ngoài nước khi họ có ý định đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội, qua đó trực tiếp đàm phán, thảo luận và cung cấp cho họ những thông tin, tài liệu cần thiết cho việc quyết định đầu tư. Phối kết hợp hoặc thuê các tổ chức tư vấn, tổ chức xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước nhất là các tổ chức có kinh nghiệm trong thu hút đầu tư nước ngoài xây dựng cơ sở dữ liệu và tài liệu kêu gọi đầu tư, tổ chức các cuộc hội thảo tại nước ngoài, để tiếp thị các dự án định hướng đầu tư ( đặc biệt là các dự án công nghệ cao) vào các khu công nghiệp Hà nội. Xây dựng xong khu công nghiệp, nếu không quảng cáo hình ảnh của khu công nghiệp với môi trường đầu tư thuận lợi của mình thì các nhà đầu tư không bao giờ biết đến sự tồn tại của khu công nghiệp đó, và khi đó ý định đầu tư vào khu công nghiệp cũng sẽ không bao giờ tồn tại. 3.3.2.7. Những giải pháp về phía công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp. Thành phố và Chính phủ trong giấy phép đầu tư cấp cho các công ty kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp phải ghi rõ các điều khoản quy định và các chế tài đủ hiệu lực kèm theo buộc các đối tác kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp tập trung phải đảm bảo tiến độ và mức độ hoàn tất là lấp đầy khu công nghiệp tập trung. Có như vậy mới ràng buộc trách nhiệm đối với công ty kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp. Thành phố có thể mạnh dạn tập trung vốn lập công ty đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của thành phố để triển khai đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong những khu công nghiệp tập trung nào mà đối tác nước ngoài không có đủ khả năng tài chính hay thiếu động lực đầu tư. Trong bối cảnh tình hình đầu tư chung và đặc thù của ngành kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp cả nước thì vấn đề hiệu quả kinh tế cụ thể là con số lợi nhuận hàng năm của công ty không cao, từ đó cũng làm hạn chế một số mặt hoạt động của công ty. Còn để đảm bảo hiệu quả kinh tế và các khoản đóng góp vào ngân sách như các doanh nghiệp nhà nước khác, các công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp phải tính đúng, tính đủ các thành phần chi phí vào giá thành, làm cho giá thuê đất lại tăng cao, không thu hút được các nhà đầu tư. Điều này hầu hết các doanh nghiệp đầu tư xây dựng, phát triển và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp trong cả nước( cũng như ở Hà nội) đều gặp phải và tại nhiều địa phương đã nhanh chóng đưa ra các giải pháp tích cực , ví dụ như chi từ nguồn vốn ngân sách cho việc đầu tư hạ tầng đến chân hàng rào khu công nghiệp, hỗ trợ cụ thể cho từng dự án hạ tầng bên trong hàng rào khu công nghiệp. Một giải pháp cũng được các chuyên gia đồng tình là nhanh chóng chuyển đổi các công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp từ mô hình doanh nghiệp nhà nước sang mô hình đơn vị sự nghiệp có thu. 3.3.3. Các giải pháp đối với khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Hiện chưa có quy chế chính thức quy định về hoạt động của các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Sau khi hoàn thành xây dựng thí điểm 2 khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ Vĩnh Tuy- Thanh Trì, Phú Thị- Gia Lâm, các khu -cụm này đã được các doanh nghiệp đăng ký lấp đầy. Thành phố đã chỉ đạo, sơ kết, rút kinh nghiệm để có thể phát triển các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ đồng thời thu hút đầu tư lấp đầy các khu cụm công nghiệp này 3.3.3.1. Các giải pháp để đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Trong tổ chức thực hiện chỉ nên có một chủ đầu tư trong một dự án. Nên thành lập Ban quản lý dự án khu -cụm riêng (như ở Gia Lâm và Thanh Trì) để tập trung giải quyết công việc và quản lý sau đầu tư. Đồng thời kiện toàn và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý. Cần cải tiến các bước tiến hành các thủ tục đầu tư XDCB( tạm giao đất GPMB, xét duyệt các dự án vào khu công nghiệp trong khi xây dựng hạ tầng kỹ thuật...) cho nhanh gọn. Xây dựng hạ tầng kỹ thuật đến đâu, giao đất cho doanh nghiệp xây dựng nhà xưởng đến đó để đẩy nhanh tiến độ xây dựng khu công nghiệp. Cần đa dạng hoá hình thức huy động vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến khích hình thức BOT trong nước. 3.3.3.2. Các giải pháp về các chính sách hỗ trợ đầu tư. Ngân sách hỗ trợ 100% kinh phí xây dựng đường trục chính trong khu - cụm công nghiệp; ngành điện đầu tư bán điện đến từng doanh nghiệp. Ngành nước cấp nước đến khu- cụm công nghiệp theo hợp đồng kinh doanh, kêu gọi các doanh nghiệp thực hiện dự án theo hình thức BOT đối với lĩnh vực cấp thoát nước, xử lý, thu gom rác thải công nghiệp. Khuyến khích các nhà đầu tư vào các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ tại các huyện xa nội đô như tại huyện Đông Anh, doanh nghiệp được miễn tiền thuê đất trong 5 năm đầu và giảm 50% trong 5 năm tiếp theo, miễn tiền thuê đất 10 năm nếu đầu tư vào huyện Sóc Sơn. Doanh nghiệp được hỗ trợ 50%kinh phí đào tạo theo dự án được duyệt. Công ty xây dựng đầu tư hạ tầng trong các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ được miễn tiền thuê đất trong suốt quá trình thực hiện dự án, được vay vốn tín dụng ưu đãi. Đối với các doanh nghiệp di dời ra khỏi nội đô được hỗ trợ 100% tiền san lấp và GPMB, đường vào nhà máy. Tổ chức bộ máy đầu tư và quản lý sau đầu tư các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Ban quản lý KCN, KCX sẽ tham mưu cho thành phố ban hành quy chế quản lý khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ sau đầu tư. 3.4. Mối quan hệ giữa khu công nghiệp tập trung và khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Về quan hệ giữa khu công nghiệp tập trung và các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ cần nhận thức rằng cả 2 loại hình khu công nghiệp này đều quan trọng như nhau vì đều đáp ứng định hướng, mục tiêu phát triển công nghiệp nói riêng, kinh tế- xã hội nói chung của thành phố. Hơn nữa, cần xuất phát từ thực tế đã, đang và sẽ tiếp tục còn tồn tại trên địa bàn thủ đô mô hình “cơ cấu kinh tế 2 tầng”. Tầng trên là các công ty, doanh nghiệp lớn ( thường là của nhà nước và nước ngoài) và tầng dưới là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vấn đề là phải xác định mối quan hệ giữa chúng như thế nào? Thực tế đã cho thấy các doanh nghiệp hoạt động trong khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ sẽ phát sinh nhiều vấn đề về môi trường và quản lý trật tự đô thị. Vì vậy, trừ những khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ đã và đang xây dựng còn những khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ trong tương lai nên: Hoặc được gắn kết bao quanh các khu công nghiệp tập trung( với tư cách là các cơ sở vệ tinh hoặc để tiện xử lý tập trung các yêu cầu về môi trường do chất thải công nghiệp gây ra). Hoặc nên được đưa ra xa khỏi các khu dân cư, tốt nhất là nằm sát ranh giới với các địa phương quanh Hà nội ( để có thể biến chúng thành đầu cầu giao lưu kinh tế giữa Hà nội và các địa phương này. Về quan hệ giữa khu công nghiệp tập trung và các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ với khu dân cư: Một mặt cần có cái nhìn dài hạn trong việc “cách ly” từ đầu các khu công nghiệp tập trung và khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ khỏi các khu dân cư, nhất là các khu hành chính, chính trị, văn hoá lịch sử lâu đời của thủ đô để tránh và giảm thiểu các chi phí và tổn hại do phải di dời về sau, mặt khác nên chấp nhận tất yếu lịch sử sẽ có sự hình thành các khu, cụm “dân cư công nghiệp” mới bao quanh hoặc đan xen trong các khu công nghiệp tập trung và khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ trong tương lai. Kết luận Qua nghiên cứu thực trạng thu hút đầu tư của các khu công nghiệp trên địa bàn Hà nội chúng ta có thể thấy bên cạnh những thuận lợi như những lợi thế sẵn có của Hà nội về con người, cơ sở vật chất...và cả những cơ chế, chính sách ưu đãi của thành phố dành cho các khu công nghiệp thì các khu công nghiệp Hà nội cũng còn có những khó khăn trong môi trường đầu tư như những vấn đề về pháp lý, đất đai, các vấn đề liên quan đến cung cấp dịch vụ...chính những điều này làm hạn chế dòng đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội, làm cho khả năng thu hút đầu tư của các khu công nghiệp Hà nội còn thua kém một số tỉnh và thành phố khác. Nhưng với mục tiêu đưa Hà nội trở thành trung tâm công nghiệp của cả nước, chúng ta phải tháogỡ những khó khăn trên, phải không ngừng tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm để xây dựng, phát triển các khu công nghiệp Hà nội trở thành hạt nhân phát triển kinh tế của thủ đô. Chúng ta phải biết tận dụng lợi thế của Hà nội - trung tâm kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật... của cả nước để xây dựng các khu công nghiệp Hà nội đúng theo quy hoạch, có cơ sở hạ tầng kỹ thuật đầy đủ, cơ chế quản lý thống nhất và hệ thống các chính sách ưu đãi về tài chính và thuế đủ hấp dẫn. Có như thế khu công nghiệp Hà nội mới trở thành một mô hình kinh tế năng động, bền vững, xứng đáng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của thủ đô. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Lập và quản lý dự án - NXB. Thống kê Hà nội 2. Giáo trình Đầu tư quốc tế - NXB Đại học quốc gia Hà nội 3. Giáo trình Các khu chế xuất, châu á Thái Bình Dương - NXB. Thống kê Hà Nội 4. Nghị định NĐ-36/CP về ban hành quy chế KCN, KCX, KCNC 5. Tạp chí công nghiệp Việt Nam -Số 16/2000; Số 3, 13, 29, 22 năm 2001; Số 4, 6 năm 2002 6. Tạp chí Thông tin khu công nghiệp - Số 1/2001; Số 1/2002; Số 24/2003 7. Thời báo Kinh tế Việt Nam - Số 25/2002; Số 2/2002 8. Các báo cáo chuyên đề hàng tháng của HĐND,UBND, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Công nghiệp. Mục lục Danh mục tài liệu tham khảos 84

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36982.doc
Tài liệu liên quan