Luận văn Tìm hiểu báo nông nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn

Ảnh sử dụng trên báo chí gồm hai loại: ảnh minh hoạ và ảnh báo chí. Hai loại này có tác động trực tiếp đến đối tượng tiếp nhận thông tin. Khi tiếp xúc với một tác phẩm báo chí, cái đầu tiên thu hút người đọc là ảnh, sau đó người ta mới quan tâm đến nội dung phản ánh.Dó đó, ảnh có vị trí đặc biệt quan trọng và được quan tâm trên báo chí hiện nay. Ảnh báo chí gồm có ảnh tin, ảnh phóng sự. Mỗi bức ảnh dù đứng độc lập hay, ảnh chùm hay ảnh kèm bài đều mang giá trị thông tin nhât định. Bản thân mỗi bức ảnh đều là một tác phẩm báo chí hoàn chỉnh. Nhiều khi giá trị của bức ảnh chụp được có giá trị hơn nghìn lời nói. Ảnh được sử dụng trên tất cả các loại hình báo chí. Trong báo in ảnh được coi là bộ phận quan trọng của bài báo. Ảnh tin và ảnh phóng sự ít xuất hiện trên báo NNVN, chủ yếu vẫn là ảnh bổ trợ cho bài viết (gọi là ảnh minh hoạ). Hiện nay ảnh được sử dụng nhằm bổ trợ thêm thông tin cho bài viết, thẩm định bài viết là người thật, việc thật và cái tôi tác giả chứng kiến. ở mỗi bài viết đã hay, có chiều sâu, nếu thiếu đi bức ảnh sẽ thiếu tính chân thực và sức thuyết phục. Hiểu vấn đề này, báo NNVN đã trang bị cho các phóng viên thiết bị kỹ thuật hiện đại để nâng cao chất lượng của bài viết. Tuy vậy việc đăng tải ảnh trên báo NNVN thời gian qua còn nhiều bất cập, không đồng nhất và thiếu trích dẫn đầy đủ, nội dung thông tin của ảnh không ăn khớp với nội dung bài viết, do đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả tiếp nhận thông tin của người đọc. Các bài viết đôi khi còn thiếu ảnh trong khi có thể có ảnh thì hiệu quả tiếp nhận thông tin sẽ cao hơn. Điển hình là các bài: “Ký sự vùng dâu”, “Cà phê xuống giá- cơ hội để phá bỏ diện tích cà phê kém hiệu quả” đăng trong số 34.2001. T3. Cả hai bài đều sử dụng ảnh nhưng không có chú thích rõ ràng, cụ thể và địa chỉ bức ảnh. Hay bài “Làm thế nào để đầu tư cho nuôi trồng thuỷ sản đạt hiệu quả cao” của tác giả Duy Chiến, số 9.2002, có sử dụng và chú thích ảnh nhưng chú thích một cách mơ hồ, chung chung. Nội dung bức ảnh khớp với nội dung bài viết nhưng lại không ghi chú bức ảnh chụp tại địa phương nào, mà chỉ ghi chú “Nghề nuôi tôm sú phát triển mạnh ở ven biển miền Trung”, người đọc chỉ biết nghề nuôi tôm sú phát triển ở miền Trung nhưng có rất nhiều các vùng nuôi tôm sú phát triển ở nơi đây, cho nên người đọc không biết hình ảnh trong bức ảnh là ở đâu.

doc76 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1634 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tìm hiểu báo nông nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một số biện pháp quan sát, phát hiện kịp thời bệnh này: Thường xuyên quan sát vườn chuối, nếu phát hiện bụi chuối có sâu phải tổ chức tiêu huỷ. Nếu vườn thường xuyên bị sâu gây hại thì phải dùng thuốc sâu như Fastac 5EC... Hay phương pháp của TS. Phạm Sĩ Lăng trong cách “Bảo vệ trâu bò trong vụ đông xuân ở các tỉnh phía Bắc”, (15.1.2001), “Cảnh giác với sâu nhớt và dòi đục nụ hoa cam trong vụ xuân”- Nguyễn Khê, (15.1.2002) v.v... Ngoài ra, báo còn giành dung lượng để giải đáp những thắc mắc của bà con nông dân về một số bệnh thường xuyên xuất hiện trong sản xuất, chăn nuôi. Cung cấp những thông tin về biểu hiện bệnh tật của cây trồng, vật nuôi, kỹ thuật, cách nuôi trồng, thâm canh cây, vật nuôi có hiệu quả và cho năng suất cao trên từng vùng khí hậu. Như bài trả lời độc giả Trần Minh Sáng (An Giang) về việc “Giải phân xuống đất bao lâu mới ngấm”, “Trồng lúa thơm riêng lẻ có được không”- Nguyễn Thái Trung (Cần Thơ. 4.3.2002), “Một số sâu bệnh chính hại cây lúa” (8.2.2001). Các bài đăng trên trang Khuyến nông đã cung cấp khá đầy đủ và chi tiết những thông tin về ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, nuôi trồng. Tuyên truyền, phổ biến và chuyển giao công nghệ ở một số vùng đạt hiệu quả. Các hoạt động của tổ chức, đoàn thể và khuyến nông cơ sở trong việc tuyên truyền, đưa Khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, trao đổi kinh nghiệm trong sản xuất, chăn nuôi, nêu gương những điển hình kinh tế tiên tiến và cung cấp đầy đủ, toàn diện thông tin về thời vụ, dịch bệnh và một số cách thức bảo quản, chế biến thực phẩm. Khuyến nông, khoa học, kỹ thuật và tiến bộ canh tác được đăng tải trên NNVN thời gian qua đã góp phần nâng cao nhận thức, hiểu biết cho đa phần độc giả là nông dân. Từ đây cổ vũ phong trào làm ăn kinh tế theo mô hình mới. Tuy vậy, vẫn còn không ít những bất cập xung quanh khoa học, kỹ thuật và tiến bộ canh tác chưa được báo phản ánh một cách kịp thời, nhất là khoa học ứng dụng ở vùng sâu, vùng xa và miền núi. Nhiều bài viết chỉ tập trung khai thác những vùng lân cận nhau, phản ánh chưa sâu rộng nên hiệu quả đem lại không lớn. 4. Vấn đề bạn đọc. Để tuyên truyền tốt công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, báo Nông nghiệp Việt Nam luôn lắng nghe, tiếp nhận ý kiến đóng góp của người dân từ khắp vùng, miền trong cả nước. Căn cứ vào sự kiện sự việc bạn đọc trên cả nước gửi về toà soạn, tờ báo đã làm sáng tỏ những vụ việc tồn đọng thời gian dài mà chưa được cấp địa phương giải quyết, góp sức mình trong công cuộc xây dựng đời sống nông thôn mới và môi trường trong sạch, tạo dựng lòng tin của bà con nông dân với tờ báo. 4.1. Phản ánh những vấn đề tồn tại trong nông nghiệp, nông thôn. Bạn đọc viết, ý kiến bạn đọc là mục có nội dung đa dạng và phong phú. Những thông tin từ chuyên mục này là những ý kiến, phát hiện của người dân ngay trong vùng dân cư họ đang sống. Qua đây, tờ báo cung cấp cho người đọc cái nhìn toàn diện về sự biến động của nông nghiệp, nông thôn trong sự nghiệp CNH, HĐH từ chính nhãn quan của người dân địa phương. Phản ánh những mặt tích cực của tập thể, cá nhân ở địa phương mình, độc giả Châu Giang, huyện Tân Yên, Bắc Giang có bài: “Xử lý rác thải tại nguồn, một mô hình cần được nhân rộng” (7.1.2002). Tác giả khẳng định: Đây là mô hình tốt, một phương pháp hay cần được nhân rộng để đảm bảo vệ sinh môi trường. Qua gần 3 tháng thực hiện 100% hộ dân đều hưởng ứng và làm theo phương pháp xử lý rác thải tại nguồn do Trung tâm KHCN- MT huyện Tân Yên triển khai. Cách làm này tạo thói quen cho mọi người trong hoạt động bảo vệ môi trường. Độc giả Hồ Quang, số 68. 2001 có ghi nhận: “Việc làm tốt của Trạm Vật tư nông nghiệp Nghĩa Đàn”. Bằng nhiều hình thức cởi mở như đầu vụ sản xuất, trạm bán chịu phân cho nông dân không lấy lãi, và trợ giá cước vận chuyển, Trạm VTNN Nghĩa Đàn, Nghệ An đã xuất kho gần được 3000 tấn phân các loại cho người nông dân. Nhờ đó bà con nông dân huyện đã có đủ điều kiện để chăm bón cho 8.238 ha mía, 2.773 ha lúa, 975 ha ngô, 520 ha lạc và 680 ha đậu, đỗ... Còn tại Sóc Trăng, tác giả Phương Nghi có bài: “Rừng ngập mặn ở Sóc Trăng đang được phục hồi” (26.8.2002), phản ánh những kết quả bước đầu của công tác phục hồi rừng ngập mặn tại đây, là tín hiệu đáng mừng khi mà rừng tại đây đang ngày càng bị tàn phá. Tuy vậy, còn không ít những nghịch lý, bất cập đang tồn tại ở hầu hết các địa phương trong cả nước, ảnh hưởng đến đời sống và quyền lợi của người nông dân được độc giả phản ánh qua trang báo NNVN. Đó là những bất hợp lý trong quản lý của một số lãnh đạo địa phương, lợi dụng chức vụ để làm trái quy định của pháp luật, cửa quyền và trù dập nông dân, nổi lên là vấn đề mất dân chủ mà người dân phải gánh chịu. Đã không ít những trường hợp nông dân phải chịu thiệt thòi vì cấp lãnh đạo trì trệ, chậm giải quyết hoặc giải quyết quyền lợi người nông dân được hưởng, một số còn bị mất trắng đất đai, chịu nộp phí trên mức quy định...Bài viết “Một đòi hỏi chính đáng bị trả giá bằng...18 tháng tù và mất toàn bộ đất đai”- Vũ Hữu Sự (4.3.2002) là một ví dụ điển hình. Nội dung bài báo phản ánh sự vô lý và sai trái rõ ràng của cán bộ xã Bạch Xa đối với gia đình bà Liên. Gia đình bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 469, đứng tên ông Trần Xuân Hảo, chồng bà. Ngày 14.4.1997, UBND tỉnh Tuyên Quang ra quyết định thu hồi 1,842m2 đất tại thửa 18b của gia đình bà làm công trình Văn hóa và trụ sở UBND xã Bạch Xa. Nhưng khi bà chưa nhận được quyết định thu hồi và nhận tiền đền bù thì ngày 16.5.1998 UBND xã đã tổ chức san ủi đất. Bà Liên thấy bất bình nên cản trở, bị công an huyện bắt giam với tội danh “Gây rối trật tự công công”. Tháng 11.1998 CA huyện đưa bà ra xét xử với tội danh trên và tuyên phạt 18 tháng tù...Mặc dù xã Bạch Xa làm trái quy định của pháp luật nhưng huyện vẫn dung túng, không có biện pháp xử phạt những người có liên quan, gây bất bình cho người dân địa phương. Hay tại Đồng Than, Yên Mĩ, Hưng Yên, ông Trần Văn Hậu, lạm dụng chức quyền, ngang nhiên lấy đất của ông Lê Văn Tế làm đường đi cho ông Phong, dù đã có đơn khiếu nại nhưng vẫn không được giải quyết. “Xã xẻ đất của người này chia cho người khác”- Lê Văn Tế (Đồng Than, Yên Mĩ, Hưng Yên), 17.1.2002. Rồi thì “Nạn tham nhũng của các quan xã” (12.3.2002), lợi dụng chức quyền, trong 4 nâm làm chủ nhiệm HTX Đồ Đông (1992- 1995) ông Nguyễn Đăng Tuấn đã tự ý thu tăng thuỷ lợi phí của dân 4,5kg/sào (Thực thu là 13,5kg/sào, nhưng hợp đồng ký với Công ty Thuỷ nông La Khê chỉ có 9kg/sào). Ông Cao Văn Thật lên làm chủ nhiệm (1996-2001) tiếp tục làm trái quy định đã có. Ngoài ra còn bán trái thẩm quyền 33.000m2 đất với hàng trăm suất, mỗi suất thu từ 2-15 triệu đồng dù khu đất xã bán chưa có quyết định của UBND tỉnh. Những việc làm trên của xã Đồ Động, Thanh Oai, Hà Tây đã khiến người dân không tin vào chính quyền, người dân bất bình, lên án mạnh mẽ. Bên cạnh đó là những bài viết, nói lên tiếng nói của người dân, cảnh báo, lên án về những vấn đề, sự việc có ảnh hưởng đến đời sống, môi trường của chính người dân: “Không nên bảo quản hành khô bằng loại bột trắng chết người ấy”- Cao Xuân Lương (Thị xã Sóc Trăng. 17.9.2002), ““Đảo cò” kêu cứu”- Trần Xuân Thân (Hà Nam. 5.3.2002). Từ những phản ánh của độc giả, toà soạn căn cứ và cử phóng viên xuống hiện trường, điều tra làm rõ, trả lại công bằng và giải đáp thắc mắc thoả đáng cho người dân. Nhờ tiếng nói của báo NNVN, ở nhiều địa phương đã có sự can thiệp kịp thời của chính quyền để giải quyết những vụ việc của vốn đã bị lãng quên từ lâu. Người dân được sự ủng hộ của báo Nông nghiệp đã tự tin đấu tranh đến cùng cho quyền lợi của mình. Các bài như: “Một nhóm công an Quế Phong đánh người theo kiểu “côn đồ”, coi thường pháp luật”- Tổ phóng viên Bắc Trung Bộ (7.10.2002), “Viện kiểm soát, luật sư và nhân dân đều có ý kiến trái ngược về kết luận của toà án”- Nghiêm Thị Hằng (16.8.2002)v.v.. đã cung cấp đầy đủ thông tin cho người đọc và nói lên tiếng nói của người nông dân, được dân tin và ủng hộ. Chính điều đó đã khích lệ, động viên tập thể toà soạn vững tin hơn trong công tác và hoàn thành suất sắc nhiệm vụ vì sự phát triển nông nghiệp và nâng cao dân trí nông thôn của mình. 4.2. Biểu dương gương người tốt, việc tốt. Biểu dương người tốt, việc tốt đang là việc làm đầy ý nghĩa, thể hiện tinh thần nhân đạo, tương thân tương ái vốn có của dân tộc Việt Nam. Báo NNVN đã phản ánh về những tập thể, cá nhân đã hết lòng vì người khác, sẵn sàng góp sức mình vào công cuộc xây dựng một nông thôn mới, giúp đỡ người nghèo khó có được cuộc sống tốt đẹp hơn. Bài viết “Người suốt đời vì nụ cười trẻ thơ”- Nguyễn Thế Trường (Hải Dương. Số 165, 5.9.2002) viết về tấm lòng của bác sĩ Nguyễn Hữu Phần, Trưởng khoa Răng- Hàm- Mặt, Bệnh viện Đa khoa Hải Dương, người đã cải tiến thiết bị phanh để dùng mổ hàm ếch cho trẻ. Hay như bài “Tấm lòng của một cụ già 80 tuổi”- Vũ Minh Việt (14.1.2002) ghi nhận lòng tốt của cụ Bùi Đức Cố, xóm 1, xã Thinh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội hàng ngày đan lát lấy tiền ủng hộ những gia đình có con em bị nhiễm chất độc màu da cam. Mỗi năm cụ hiện cho Quỹ tấm lòng vàng từ ba đến bốn trăm ngàn đồng. Trưởng thôn Nguyễn Duy Ban ở Báo Đáp, Trấn Yên, Yên Bái, nhận thấy hệ thống mương máng của thôn đã có từ lâu nhưng hư hỏng nặng, anh đặt vấn đề với UBND xã để sửa sang. Xã nhất trí cho thôn anh xây dựng kiên cố hoá kênh mương với công thức 6/4 (60% vốn của nhà nước, 40% tự túc của nhân dân), anh huy động bà con đóng góp ngày công, cùng xây dựng hệ thống kênh mương của mình. Anh còn tìm mua các loại phân bón hoá học, giống cây mới có năng suất vận chuyển về tận thôn cho bà con. “Người trưởng thôn công tác tốt, lao động giỏi”- Sở Hữu (31.1.2002). Chương 3 Hình thức thể hiện trên báo nông nghiệp việt nam 1. đánh giá chung. Thể loại báo chí là hình thức để truyền tải nội dung thông tin mà bất kỳ phương tiện báo chí nào cũng đều phải sử dụng. Có nhiều cách hiểu khác nhau về thể loại: “Thể loại báo chí là hình thức biểu hiện cơ bản thống nhất và ổn định của nhóm lớn các bài báo, là cách lựa chọn công cụ, phương tiện, phương pháp và hình thức trình bày tác phẩm báo chí sao cho phù hợp với nội dung, thích ứng với từng tình huống sự kiện, đặc biệt là sao cho thể nó có thể chứa đựng nội dung bài báo cần trình bày” [6, 4]. Tác giả Đinh Hường, trong bài “Một số vấn đề thể loại báo chí” cho rằng: “Thể loại báo chí là hình thức biểu hiện cơ bản thống nhất và tương đối ổn định của các bài báo, được phân chia theo phương thức phản ánh hiện thực, sử dụng ngôn ngữ và các công cụ khác để truyền tải nội dung mang tính chính trị- tư tưởng nhất định” [7, 402]. Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô giải thích: “Thể loại là khái quát hoá một loạt tác phẩm có cùng thuộc tính về nội dung, hình thức, cách biểu hiện tác phẩm của một thời đại, một dân tộc, một giai đoạn hay một nền nghệ thuật thế giới” [6, 2]. Quan niệm này cho thấy: Muốn nhận thức được thể loại cần thiết phải “khái quát hoá”, nghĩa là dùng trí tưởng tượng để tìm thấy những sự giống nhau (cùng thuộc tính) của loạt tác phẩm đang giữ vai trò là “tính trội” so với một loạt tác phẩm khác. Nói cách khác là cần căn cứ vào một số tiêu chí để phân biệt thể loại này với thể loại khác. Đó là: 1. Đặc thù của đối tượng mô tả, 2. Chắc năng và nhiệm vụ của tác phẩm báo chí, 3. Phạm vi của sự mô tả và ý nghĩa của sự khái quát và các kết luận, 4. Các phương tiện tái hiện hình ảnh và mức độ truyển cảm. Thể loại báo chí được hình thành và tồn tại tương đối ổn định và được chia làm ba nhóm chính: Nhóm Thông tấn, Nhóm Chính luận, Nhóm Chính luận nghệ thuật. Trong mỗi nhóm đều có những đặc điểm của hệ thống thể loại và đều có chức năng truyền tải nội dung thông tin. Các thể loại được sử dụng trên báo NNVN đa dạng và phong phú và phân bổ đều trong cả ba nhóm thể loại: Thể loại thông tấn (Tin, phỏng vấn, tường thuật...), Chính luận (Xã luận, bình luận, điểu tra...), Chính luận nghệ thuật (Phóng sự, ký chân dung, ghi chép...). Sự phân bố này tạo ra sự đa dạng trong hình thức truyền tải và thu được hiệu quả trong mục đích tuyên truyền của tờ báo. Bên cạnh đó có sự giao thoa giữa các thể loại với nhau để tạo ra sự đa dạng trong hình thức thể hiện của báo chí. Ngoài ra, tất cả các thể loại đều đảm bảo nguyên tắc truyền tải sự kiện, sự việc có thật, phản ánh chân thực đời sống xã hội và có tác động đến nhận thức của con người. Qua khảo sát trong 2 năm (2001-2002) của báo NNVN, chúng ta có số liệu thống kê thể loại báo chí trong mỗi kỳ như sau. Năm Thể loại Năm 2001 Năm 2002 Tin 54 (%) 47 (%) Bài phản ánh 16 21,3 Ghi chép 6,5 5,3 Điều tra 1,6- 3,3 4 Phóng sự 1,6 1,3-2,7 Câu chuyện báo chí 1,6 1,3 Các thể loại khác 17-18,7 17,4-18,8 Các thể loại xuất hiện trên báo NNVN trong hai năm qua không có sự biến động lớn. Thể loại chủ đạo trên báo NNVN là tin, bài phản ánh, ghi chép. Do khuân khổ khóa luận nên tác giả chỉ đi sâu tìm hiểu những thể loại báo chí thường xuyên xuất hiện trên báo NNVN trong 2 năm (2001- 2002). 2. hệ thống Các thể loại thường xuyên xuất hiện. 2.1. Tin. Tin là thể loại thuộc nhóm thông tấn, được sử dụng với tần suất lớn nhất trên báo chí, bởi thông tin gắn gọn, cô đúc, phản ánh nhanh và kịp thời các sự kiện, hiện tượng có thực, tiêu biểu vừa xảy ra, đang xảy ra trong đời sống, có ý nghĩa chính trị xã hội nhất định. Do đó, tin có tác động trực tiếp đến nhận thức của con người, dễ hiểu, dễ nhớ. Tin trên báo NNVN chiếm số lượng lớn nhất trên báo (khoảng 50%), đây là yêu cầu khách quan đối với loại hình báo chí nói chung, tuy nhiên tin trên báo NNVN không mạnh bởi đây là tờ báo thuộc chuyên ngành, phát hành định kỳ, tập trung chủ yếu phản ánh các vấn đề liên quan đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân có tính định kỳ, lâu dài, nên tin không phải là thế mạnh của tờ báo. Các loạt tin được sử dụng trên NNVN chủ yếu là tin vắn, tin tổng hợp và tin bình và nội dung phản ánh chủ yếu là các hoạt động liên quan đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Đặc biệt trên báo NNVN, hầu hết đều có tin chuyên đề của trang báo như: trang “Khuyến nông” luôn có chùm tin mang tên “ Hoạt động Khuyến nông- lâm- ngư”, trang “Thời sự” có chùm tin “Đọc nhanh”... * Tin vắn. Là dạng tin có dung lượng ngắn gọn, được đăng tải trên các loại hình báo chí, thông báo một cách ngắn gọn nhất về sự kiện với độ dài từ 3- 5 dòng, trong vòng 100 chữ. Tin vắn sử dụng để thông báo về chi tiết, tính chất... mới, đang xảy ra. Như tin: “Cấp 17 tấn gạo cho trẻ em nghèo” (4.1.2002), còn bài: “Bạc Liêu: Khánh thành nhà máy chế biến thức ăn gia súc”- Phương Giang. (số 151 16.8.2002), tác giả đã trả lời câu hỏi: Ai? Làm gì? ở đâu? Khi nào? Tại sao? Ai? Nhà máy chế biến thức ăn gia súc Làm gì? Khánh thành ở đâu? Khánh Hoà Khi nào? ngày 16.8.2002 Tại sao? Đáp ứng nhu cầu của vùng chuyển dịch cơ cấu kinh tế * Tin tổng hợp. Là tin nêu tóm tắt những sự kiện, hiện tượng có tầm quan trọng ngang nhau trong thời gian nhất định. Đó là “tóm tắt tin trong ngày”, “thời sự thế giới tuần qua”, “tình hình sản xuất thời gian qua”...Các chi tiết trong tin tổng hợp thường được bố trí theo một trật tự nhất định. Dạng tin này được sử dụng rộng rãi trên NNVN vì nó đáp ứng nhu cầu khách quan của công chúng tiếp nhận thông tin, phù hợp với mục đích tuyên truyền của tờ báo trong việc điều hành phát triển nông nghiệp, nông thôn, chính sách mới hay tin khắp mọi miền. “Sắp phát hành thẻ Card di động mệnh giá thấp”- N.C, “90.000 nhãn hàng hoá được đăng ký bảo hộ sở hữu”- NC (1.5.2002) * Chùm tin. Là tập hợp những tin bài có cùng chủ đề thống nhất, gây ấn tượng sâu sắc, có ý nghĩa cổ động tuyên truyền. Trên báo NNVN, các chính sách mới đối với nông nghiệp, nông thông, thông tin Khắp mọi miền đều được đăng tải dưới dạng chùm tin. Điển hình như số ra ngày 4.1.2002. T6. Đó là tin khắp mọi miền, cùng chủ đề kinh tế nông thôn, với số liệu chính xác, chân thực: “Kiên Giang: Thêm 8.000 hộ nông dân sản xuất giỏi”- Hoàng Đường, “Quảng Bình: Hoàn thành 64 công trình 135”- Võ Thanh Mai. Hay số báo ra ngày 1.5.2001, T24 có chùm tin về hoạt động Khuyến Nông- Lâm- Ngư: “Đăklắk: Sẽ thành lập 58 CLB khuyến nông”- Đào Đình Phượng * Tin bình (tin sâu). Là tin thể hiện các sự kiện hiện tượng, quá trình con người quan trọng nhưng chưa đến mức viết thành bài bình luận. Tin bình thường sử dụng khi phản ánh các vấn đề, mối quan hệ trong nước, khu vực, thế giới hay một vấn đề nào đó. Tìm hiểu tin “Bình Định: Xây dựng đập dâng theo công nghệ mới”, (12.9.2002), chúng ta thấy tin ngắn gọn, xúc tích, mang đủ các yếu tố cấu thành một tin, phản ánh đầy đủ những thông điệp đặc trưng về nội dung, hình thức của sự kiện mang tính thời sự. Tác giả đánh giá: “Đây là công trình đầu tiên tại địa phương được BQL dự án thuỷ lợi tỉnh xây dựng theo công nghệ chỉ một cửa đóng- xả lắp đặt bằng túi cao su và hệ thống bơm, vận hành đơn giản, nhưng thoát lũ nhanh”. Theo cấu trúc thì cái gì mới nhất, có ý nghĩa nhất được đưa lên đầu. Sau đó các chi tiết khác lần lượt được chi tiết hoá. Báo NNVN đã sử dụng khá nhiều loại tin này, đăng tải trên trang 2 của báo. Một số tin bình khác như: “Long An: Trích 1,5% tiền thu thuế sử dụng đất nông nghiệp để chi cho công tác khuyến nông”- Đoàn Văn Minh (21.1.2002), “Tp. HCM: Các chủ trang trại Nhật Bản tham quan trang trại Việt Nam”- Ngô Sơn (15.1.2002)... 2.2. Bài phản ánh. Là dạng xuất hiện nhiều trên báo NNVN, chỉ sau thể loại tin. Bài phản ánh không chỉ dừng lại ở sự mô tả các sự kiện, hiện tượng, vấn đề của cuộc sống mà còn lý giải, khái quát, so sánh và phân tích các sự kiện đó. Tuy nhiên bài phản ánh chưa được coi là một thể loại báo chí mà thường được dùng với nghĩa để khu biệt với Tin về mặt dung lượng. Tác giả Đức Dũng cho rằng: “Bài phản ánh được đề cập tới ở đây không phải là một thể loại báo chí. Đây chỉ là những dạng bài thông tin phản ánh tuy vẫn đáp ứng những tiêu chí của một tác phẩm báo chí (như tính xác thực, tính thời sự...) nhưng chưa đạt tới tiêu chuẩn của thể loại” [8, 73]. Nội dung bài phản ánh khá phong phú vì nó thích hợp phản ánh nhiều vấn đề trong đời sống xã hội. Đề tài của bài phản ánh đa dạng, giúp người tiếp nhận hiểu và nhận biết vấn đề theo đúng những gì phản ánh trong tác phẩm. Dung lượng của bài phản ánh ngắn gọn, kết cấu gắn liền với sự kiện, ngôn ngữ gần với đời sống hiện thực, phù hợp với đối tượng tiếp nhận của báo NNVN là đa phần người nông dân. Bài phản ánh được chia làm 3 nhóm lớn đó là: Bài phản ánh thông tin, bài phản ánh phân tích và bài phản ánh nêu vấn đề. Các dạng bài phản ánh trên NNVN đã phát huy hiệu quả trong việc đi sâu phản ánh hoạt động mới của các cơ sở, địa phương trong việc phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới và chúng được sử dụng ngang nhau trên tờ báo. Các bài “Bao giờ Bắc Sơn hêt nghèo?” (Mạnh Đồng- Số 10. 2001), “Điện về nông thôn làm sao gỡ rối” (Hữu Đức- 26.1.2001), “Vệ sinh an toàn thực phẩm. Thách thức và trăn trở...!” (Ngô Sơn. Số 22.2002), “Văn hoá nông thôn- bài toán chưa có lời giải” (Tiến Đạt. S104.2001)... là những bài phản ánh nêu vấn đề. Các tác giả của bài viết đã đưa ra các sự kiện, hiện tượng, vấn đề và từ đó đưa ra các dự báo, phán đoán đối với các vấn đề tác giả đề cập tới. Tìm hiểu bài “Suy nghĩ về phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở thị xã Bắc Giang” của Đỗ Thành Nam, Số 37 ngày 5.3.2002, sau khi đưa ra những thành tích đã đạt được về nông nghiệp của thị xã Bắc Giang do mạnh dạn đưa các loại rau giống mới có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất, tác giả nêu lên thực trạng: “Do nhận thức của một số người dân chưa cao về kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh những giống lúa mới, nên đã phần nào làm ảnh hưởng đến hiệu quả các loại giống lúa này. Vấn đề phát triển cây vụ đông cũng chưa được nhiều người dân “thiết tha” lắm. Thực tế những năm vừa qua, nhiều diện tích đất canh tác đã bị bỏ không, làm giảm tổng thu nhập trên một đơn vị diện tích đất canh tác”. Trên cơ sở phân tích những tồn đọng ở đây tác giả đã đưa ra đề nghị: Để khắc phục khó khăn trên, trước hết TX Bắc Giang cần có quy hoạch khoanh vùng cụ thể hơn trong diện chuyển đổi diện tích cấy lúa 1 vụ không ăn chắc sang nuôi thả cá tới tận thôn, xóm để mọi người dân được biết. Thị xã cần có cơ chế chính sách cụ thể về vốn, giống, KHKT, xây dựng các mô hình trình diễn về nuôi thả cá để giới thiệu cho mọi người tham quan, học tập... Bài “Văn hoá nông thôn: Bài toán chưa có lời giải” của Tiến Đạt đã nêu lên thực trạng về đói kinh phí hoạt động văn hoá ở cơ sở, tất cả kinh phí đều kêu gọi dân đóng góp. Đây là vấn đề chung đã tồn tại ở nông thôn hiện nay. Với dạng bài phản ánh thông tin là dạng bài rất gần với thể loại tin nhưng nó lại bao hàm lượng thông tin lớn hơn, phân tích tỷ mỉ về một vấn đề nhất định, cung cấp cho công chúng những thông tin đầy đủ, từ đó rút ra được những kinh nghiệm cần thiết sau khi tiếp nhận thông tin. Bút pháp phân tích trong dạng bài này sử dụng ít, chủ yếu là sử dụng kết quả và cách thức về kết quả đó. Trong bài “Phong Điền: Hình thành CLB nông dân sản xuất kinh doanh” (1.5.2001), tác giả Nguyễn Vũ Anh đã cung cấp cho độc giả những thông tin về hoạt động khuyến nông ở Phong Điền: “Qua gần hai năm hoạt động, CLB mở được 3 lớp tập huấn chuyển giao KHKT. Từ khi thành lập đến nay, năng suất lúa của nhiều thành viên đạt trên 45 tạ/ ha...”. Hay bài “Con trai dùng bả chuột giết hại cả bố lẫn mẹ” số 8.2002, tác giả Vũ Đình Thư đã cung cấp cho người đọc thông tin về chuyện không thể tin, xảy ra ở Thái Bình, thôn Thượng Liệt xã Đông Tân, Đông Hưng. Đó là vụ anh Ngô Văn Thao dùng thuốc chuột giết chết bố mẹ ruột, gây chấn động dư luận. Bài báo là tiếng chuông cảnh tỉnh những con người mất hết nhân tính, làm suy đồi giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời cũng phản ánh thực trạng của nền văn hóa truyền thống đang dần mai một ở nông thôn, sự xâm nhập của lỗi sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, coi trọng đồng tiền và mất hết nhân tính. Phản ánh kịp thời của bài báo đã có tác dụng tích cực trong việc giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình và các mối quan hệ khác trong xã hội hiện nay. Các bài: “ứng dụng KHCN phục vụ nông thôn và miền núi- một mô hình bước đầu có hiệu quả ở miền Trung”- Minh Trung (5.3.2002), “Diễn biến hàng nông sản 4 tháng qua”- Thu Hường. (1.5.2001), “Con gái làng tôi...”- Vũ Phong. Số 8. 2001 là những bài phản ánh thông tin được giới thiệu trên báo NNVN trong hai năm qua. Dạng bài phản ánh phân tích tác giả lại tập trung vào phân tích, chỉ ra các nguyên nhân của sự kiện. Và từ đó tác giả đưa ra chính kiến của mình trước vấn đề phân tích. Trong bài “Không cải cách hành chính sẽ không cải cách được tiền lương” tác giả NTH, (Số 59.2001) phân tích: “ Muốn cải cách tiền lương phải dựa trên tiềm lực của ngân sách Nhà nước. Trong lúc nguồn lực Nhà nước còn khó khăn muốn cải cách tiền lương chỉ còn cách phải cải cách hành chính Nhà nước ngay. Thực tế những năm qua Ban tổ chức cán bộ Chính phủ cũng đã có chương trình cải cách hành chính, nhưng các Bộ, ngành và các địa phương thực hiện còn khó khăn bởi vấn đề lao động dôi dư sẽ bố trí ra sao, họ được hưởng những quyền lợi gì để ổn định cuộc sống không trở thành gánh nặng cho xã hội”. Hay bài “Cà phê xuống giá- cơ hội để phá bỏ diện tích cà phê kém hiệu quả”, số 34.2002 của tác giả Mạnh Hùng là một trong những bài phản ánh phân tích được đăng tải trên NNVN. Tác giả phân tích những cơ hội mở ra khi Đăklắk xoá bỏ cây cà phê, chuyển sang trồng cây lương thực khác. Đây là hướng phát triển hợp với quy luật, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Đảng, Nhà nước đang khuyến khích chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vât nuôi cho phù hợp với nhu cầu cung cầu của thị trường, xoá bỏ những diện tích cây trồng không đem lại năng suất cao: “Trong bối cảnh hiện nay, khi hạt cà phê đang ngày càng mất giá và lợi nhuận từ cây cà phê mang lại không còn được như trước sẽ là cơ hội để tỉnh Đăklắk có thể thực hiện chủ trương phá bỏ những vườn cây kém hiệu quả, chuyển sang trồng cây khác phù hợp hơn”. 2.3. Thể loại phóng sự. Là thể loại nằm trong nhóm Chính luận nghệ thuật, nội dung thể hiện là các sự kiện, vấn đề khách quan tồn tại trong thực tiến, mang tính chất thời sự, có ý nghĩa giáo dục, định hướng hành vi của con người. “Phóng sự là một thể loại hình ký. Phóng sự ghi chép kịp thời các sự việc, sự kiện làm sáng tỏ trước công luận một sự kiện, một vấn đề nào đó có liên quan đến số phận một số những người và có ý nghĩa thời sự đối với một địa phương hay toàn xã hội” [6, 22]. Ngoài ra, phóng sự là thể loại đứng giữa văn học và báo chí, vừa có khả năng trình bày, diễn tả những con người, sự kiện điển hình trong quá trình phát sinh, phát triển, đồng thời thẩm định lại hiện thực, qua đó “cái tôi” trần thuật vừa lý trí, vừa cảm xúc với bút pháp giàu chất văn học. Giọng điệu phóng sự phong phú, linh hoạt nhằm phản ánh hiện thực vừa sinh động vừa thể hiện được quan điểm, thái độ trước hiện thực đó. Qua đó tác giả có thể đề xuất, trình bày ý kiến chủ quan của mình Có nhiều dạng phóng sự như: Phóng sự điều tra, phóng sự vấn đề, phóng sự ảnh, phóng sự chân dung... Nhưng trên báo NNVN phóng sự thường xuất hiện là phóng sự xã hội (tập trung trên trang Văn hóa), phóng sự vấn đề và phóng sự chân dung. Trong phóng sự “Kỳ Anh sau cơn đại họa” (22.5.2001), tác giả Võ Thanh Mai đã mô tả hết sức chân thực diễn biến, thiệt hại của Kỳ Anh, Hà Tĩnh trong cơn đại hoạ dịch bệnh đốm trắng, đầu vàng ở tôm. Bài báo cũng phản ánh sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương trong chiến dịch chống lại bệnh trên tôm cũng như sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp các ngành trong chiến dịch nuôi trồng và phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản. “Thứ trưởng Bộ thuỷ sản, Nguyễn Việt Thắng đã cùng với các chuyên gia các Viện nghiên cứu đã về địa phương khảo sát, giúp dân tìm ra biện pháp tốt nhất để tiêu diệt sạch mầm bệnh”. Hay trong bài “Làng Liều Ngọc Tước” tác giả Bùi Hoàng Anh (28.6.2002) miêu tả: “Nhìn sang bức vách chứa đầy các bao phế thải được chủ nhà kê làm giường ngủ, thấy lũ trẻ con chị Kiều tranh giành nhau từng củ khoai lang luộc nguội ngắt đầy nhặng ruồi bâu bám, tôi bỗng chạnh lòng với bao nỗi xót xa...”. Nhờ bút pháp miêu tả, cái tôi nhân chứng hiện diện trong tác phẩm phóng sự tạo cho tác phẩm có sức thuyết phục, chân thực. Hình ảnh làng Liều Ngọc Tước được cụ thể hoá thông qua hình ảnh gia đình chị Kiểu hiện lên rõ nét. Đó cũng là những nét chung vẫn còn tồn tại ở một số vùng miền, khi mà đời sống xã hội có nhiều thay đổi nhưng vẫn còn đó những làng quê chìm đắm trong đói nghèo. Các bài: “Những số phận bấp bênh”- Trần Lộc, “Lo âu mùa lũ 2001”- Phương Hà và Hoàng Đương (26.7.2001), “Thê thảm cuộc đời nghiên hút”- Thái Sinh (15.3.2002), “Con thuyền chài”- Thái Hồng Thinh (29.1.2002), “Những ngả đường tệ nạn”- Văn Triệu Sơn (1.10.2002) đều là những bài phóng sự miêu tả rõ nét diễn biến của sự kiện, những vấn đề kinh tế, xã hội, từ đó cung cấp cho người đọc phương diện nhìn nhận vấn đề khái quát hơn. 2.4. Ghi chép. Là một trong những thể loại báo chí, ghi chép những vấn đề, sự kiện sự việc của đời sống xã hội. Có sự xuất hiện của nhân vật trần thuật, của kết cấu, bút pháp linh hoạt có kết hợp với những cuộc phỏng vấn. Đây là thể loại báo NNVN sử dụng trong việc phản ánh nông nghiệp, nông thôn và nông dân có hiệu quả, tuy tần suất xuất hiện không lớn nhưng nó đã góp phần quan trọng trong truyền tải thông tin đến độc giả. Các bài: “Những nghịch lý trên thị trường nông sản”- Ngô Giang (25.6.2001), “Ghi nhận từ một làng nghề trồng cây cảnh”- Doãn Kiên, Đại Chính (9.1.2001), “Khi phạm nhân say sưa làm… nông nghiệp”- Ngọc Thạch (4.2.2002) là những bài ghi chép điển hình. Thông qua các bài ghi chép này các tác giả đã cung cấp cho người đọc những sự kiện, sự việc, hiện tượng tồn đọng đang xảy ra và có sự góp mặt của cái tôi: “Chúng tôi về Tân Long đúng ngày cả làng đang làm lễ cúng thần (một năm tổ chức một lần vào ngày 16.11 âm lịch) để cầu khấn thần linh ban cho an lành cũng như gặp nhiều may nắm khi xuôi thuyền dong lưới ra khơi” (Tân Long mùa con nước lạ!- Ngọc Thạch, Minh Sáng. (4.1.2002). Và qua lời kể của nhân chứng chúng ta cảm nhận được tâm trạng của người nói chuyện: “Trại viên Nguyễn Văn T, 42 tuổi, quê ở huyện Đức Hoà, Long An kể: Em hồi ở nhà, ruộng vườn có nhưng không biết sản xuất, mọi việc đồng áng để hết cho vợ con. Bản thân em muốn chóng giàu nên mở quán bia ôm. Đến khi bị bắt và xử án 4 năm tù em mới ân hận”. (Khi phạm nhân say sưa làm... nông nghiệp- Ngọc Thạch, Số 20.2002) Về phương diện kết cấu, ghi chép thường tuân thủ theo kết cấu gồm 3 phần: Nêu sự kiện trung tâm, minh hoạ, soi sáng sự kiện từ những góc độ khác nhau, Tóm lược nét chính, khẳng định, nhấn mạnh ý nghĩa hoặc những vấn đề của sự kiện. Bài “Ghi nhận ở xã Anh hùng ĐắkPhơi”- Đào Đình Phương (4.1.2002) là một ví dụ điển hình. Sau khi đưa ra sự kiện trung tâm: “Tính đến thời điểm này, ở các huyện Tân Trụ, Châu Thành- nơi có diện tích dưa hấu lớn nhất tỉnh Long An và cũng là một trong những địa phương có diện tích dưa hấu lớn của khu vực Nam bộ tự nhiên mắc thứ bệnh lạ và chết đồng loạt. Hiện tại, 50% diện tích ở các huyện này đã bị chết, số còn lại người dân đang cố gắng cứu chữa nhưng dường như ít kết quả”, tác giả minh hoạ bằng các chi tiết: Anh Nguyễn Văn Tân nhà ở ấp 5 xã Lạc Tân cho biết: Hai vụ trước, anh chỉ trồng hơn nửa hécta, cuối vụ cho thu 26 triệu đồng. Vụ này do chuẩn bị tết, anh mạnh dạn đầu tư gần 28 triệu để trồng 1,6 ha dưa Hắc Mỹ Nhân. Vậy nhưng khi cây trồng bắt đầu cho trái thì bị cháy làm héo rũ ra rồi chết. Sau đó tác giả nhấn mạnh vấn đề của sự kiện, như một lời cảnh báo đối với người trồng dưa : “Việc dưa hấu chết hàng loạt ở Long An cũng như hàng trăm hộ gia đình trồng dưa đang ở trong tình cảnh trắng tay không chỉ là tiếng chuông cảnh báo cho nội tỉnh Long An mà còn là sự cảnh báo cho tất cả các địa phương khác đang trong thời kỳ phát triển cây dưa một cách tự phát”. 2.5. Điều tra. Là một thể loại báo chí nằm trong nhóm các thể chính luận, mục đích của thể loại này là đem lại câu trả lời trước những sự kiện, vấn đề nổi bật trong đời sống. Bằng số liệu, sự kiện, miêu tả... bài điều tra nêu lên vấn đề, phân tích những khả năng và nhân tố mới, phân tích mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả để rút ra những kêt luận cần thiết. Bài điều tra được sử dụng trên NNVN chủ yếu trên trang bạn đọc, trang thời sự, nhằm giải thích, tìm ra nguyên nhân về các vấn đề bạn đọc đề cập ở nông thôn, nêu bài học kinh nghiệm và giải pháp. Thông qua thể loại này, với những luận cứ, luận chứng tiêu biểu, sát thực nội dung được thông tin đến người tiếp nhận kịp thời và làm thoả mãn nhu cầu mà độc giả quan tâm. Bài “Xã làm sai, huyện giải quyết quanh co, chỉ người dân là chịu thiệt”- Tổ PVĐT (4.1.2002) đã đưa ra những thông tin mà bạn đọc quan tâm về vụ việc lạm dụng chức quyền tại địa phương, các cán bộ UBND xã Phú Cát, Quốc Oai, Hà Tây làm sai quy định của pháp luật, tự ý phá dỡ ngôi nhà của anh Nguyễn Văn Thường khi chưa có quyết định thông báo tới gia đình anh. Các chứng cứ trong bài báo cho thấy: Năm 1993, hộ gia đình anh Nguyễn Văn Thường có đơn đi xây dựng kinh tế mới vùng gò đồi cùng với 20 hộ khác, được UBND xã chấp nhận và được giao cho 1 mảnh đất hoang có rất nhiều hố bom Mỹ. Việc giao đất này do ông Phạm Quang Huy, cán bộ kế hoạch của HTX kiêm cán bộ ban dự án kinh tế mới thực hiện. Nhưng khi giao, ông Huy chỉ ra chỉ đất, giao bằng mồm, không lập sơ đồ ô thửa, không xác định mốc giới, cũng không lập biên bản giao đất theo quy định của Luật Đất đai. Ngày 15.6.2000 khi anh Thường làm nhà trên đất được giao thì bị UBND xã huy động một số người đến tháo gỡ. Chị loan, anh Thường cho biết, trước đó xã chưa hề đưa một thông báo nào đến cho gia đình chị về việc đình chỉ xây dựng hay tháo gỡ, cũng không nói bất kỳ lý do nào... Hay bài điều tra “Trở lại bài báo “Vụ việc ở xã Thuỵ Duyên” cuộc đối thoại dân chủ bất thành”- Vũ Hữu Sự (2.8.2001), “Một đòi hỏi chính đáng bị trả giá bằng... 18 tháng tù giam”- Vũ Hữu Sự (4.3.2002) là những bài điều tra của phóng viên báo NNVN về các vấn đề liên quan đến đất đai, dân chủ và quyền lợi của người dân, những sai phạm của các cấp, ngành ở địa phương. Qua đây các vụ việc đã được đưa ra ánh sang làm rõ, trả lại công bằng cho người dân và góp phần thực hiện quy chế dân chủ ở nông thôn có hiệu quả. Người dân được trả lời đầy đủ các thông tin có liên quan đến lợi ích và trách nhiệm của mình, từ đó các vụ việc, sự kiện khác có liên quan được mau chóng giải quyết. Ngoài ra còn có các bài: “Xung quanh cái chết bí ẩn của đàn bò Bà Rịa- Vũng Tàu” Giang San (14.1.2002), “Trở lại vấn đề: Nhà máy Giấy Bãi Bằng không chịu mua gỗ cho nông dân”- Trần Cao (28.6.2002... là những bài điều tra tiêu biểu xuất hiện trên NNVN trong năm (2001-2002). 3. Hình thức trình bày báo Nông nghiệp Việt Nam. Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về makét và được sử dụng trong nhiều chuyên ngành, lĩnh vực. Trong chuyên ngành báo chí- xuất bản makét được hiểu là “bản mẫu chỉ dẫn cho một ấn phẩm dự kiến về phương diện hình thức của nó (bố cục, chất liệu, màu sắc, kích cỡ...)” [9, 314]. Đối với bất kỳ tờ báo nào, cách trình bày, tổ chức, sắp xếp một số báo, trang báo, bài báo có ý nghĩa quan trọng, là một trong những yếu tố tạo nên phong cách riêng của mỗi tờ báo và để lại ấn tượng cho độc giả. Báo “Nông nghiệp Việt Nam” đã rất chú trọng tới hình thức trình bày của tờ báo, bởi với một tờ báo có nội dung thông tin tốt nhưng hình thức trình bày kém chất lượng, sắp xếp lộn xộn, câu chữ không theo khuôn mẫu, tranh ảnh mờ nhạt... gây tâm lý khó chịu cho người tiếp nhận và hiệu quả thông tin thu được không cao. Do tiến bộ khoa học- công nghệ nên chất lượng in ấn của báo NNVN ngày càng được cải tiến, đẹp hơn, hấp dẫn người đọc hơn và sử dụng nhiều yếu tố mang tính thẩm mĩ. Cách trình bày của báo đã tạo được phong cách riêng, độc đáo và thu hút người đọc. Thời gian qua, báo NNVN đã cung cấp cho độc giả khá đầy đủ thông tin diễn biến không chỉ là công tác tuyên truyền nông nghiệp, nông thôn và nâng cao dân trí nông thôn, mà còn cập nhật thông tin thời sự, những sự kiện có ý nghĩa chính trị, văn hoá- xã hội trong và ngoài nước. Cùng với việc truyền tải thông tin thông qua các thể loại báo chí, báo NNVN cũng chú trọng đến các hình thức khác như: Makét báo (vi nhét, khung, màu sắc), ảnh minh họa, bố trí các chuyên mục, chuyên trang để sao cho truyền tải thông tin một cách hiệu quả nhất, người đọc dễ nhớ, dễ tiếp nhận thông tin. Chuyên trang, chuyên mục. Là tên gọi của các trang, mục trong tờ báo để khu biệt trang, mục này với trang, mục khác, giúp độc giả có thói quen tiếp nhận thông tin, hình dung được nội dung của tờ báo. Trong chuyên trang chứa các chuyên mục để phục vụ cho mục đích tuyên truyền mà chuyên trang trong tờ báo đặt ra. Mỗi một tờ báo có chuyên trang, chuyên mục khác nhau, hầu hết các báo đều dựa vào đối tượng tiếp nhận để đặt tên chuyên trang, chuyên mục cho phù hợp và dễ nhận biết đặc thù của tờ báo. Báo NNVN có các chuyên trang ổn định và tiêu đề sát với mục địch, nhiệm vụ tuyên truyền của báo, đó là các chuyên trang xếp theo thứ tự: Tin tức- Sự kiện, Thời sự, Kinh tế- Thị trường, Bạn đọc với toà soạn, Văn hoá- thể thao, Khuyến nông, Sức khoẻ và đời sống, Gia đình, Thời sự quốc tế. Trong từng trang có các chuyên mục khác nhau nhằm khu biệt thông tin và phản ánh thường xuyên những thông tin có liên quan đến chuyên mục, tạo cho độc giả có thói quen tiếp nhận thông tin nhanh nhất, dễ hiểu và hiệu quả nhất. Như trong trang Khuyến nông có các chuyên mục: Thời vụ và dịch hạn, Nông dân học nông dân, Địa chỉ xoá đói làm giàu, Trao đổi kinh nghiệm, hoạt động Khuyến Nông- Lâm- Ngư. Đặc biệt là mục Nông nghiệp trả lời đã thu hút sự quan tâm của nhiều độc giả trong cả nước với việc trả lời đầy đủ các thông tin cần thiết về những thắc mắc của người dân. Hay chuyên trang Bạn đọc với toà soạn cũng được phân chia thành nhiều chuyên mục khác nhau: ý kiến bạn đọc, Điều tra theo thư bạn đọc, Tiếng nói người dân, Luật sư của bạn, Bạn đọc viết... Các chuyên trang, chuyên mục trong hai năm (2001-2002) ổn định, đảm bảo yêu cầu thông tin chất lượng, thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và nâng cao dân trí nông thôn. 3.2 Khổ báo. Là kích thước tờ giấy thể hiện nội dung tin, bài gồm phần lề và phần bát chữ. Để đảm bảo phong cách trình bày và tạo sự quen thuộc cho người tiếp nhận, tờ báo NNVN đã đổi mới khổ báo, từ khổ 13x19cm (năm 1962) sang khổ 42x29cm (năm 1968 đến nay). Chúng ta có thể tìm hiểu khổ hiện nay của báo NNVN qua bảng số liệu sau. Thông số Cỡ chữ (cm) Cỡ bát chữ(cm) Số cột/trang Cỡcột (cm) Cỡ vừa A3 (42x29) 38x24 5 4,8 3.3. Măng-séc. Là phần in co chữ lớn nhất tờ báo, nằm đầu trang nhất, là tên gọi của tờ báo. Hiện nay măngséc báo NNVN có nhiều cải tiến và mang tính ổn định, vẫn giữ nguyên dạng chữ chính, chỉ thay đổi yếu tố phụ cho phù hợp với xu thế tiếp nhận thông tin của độc giả và đảm bảo nội dung thông tin chất lượng. Phần chữ (tên báo) màu trắng, nền măngséc có 5 màu và mỗi thứ trong tuần đều đặc trưng bởi một màu, màu đỏ, xanh, đỏ tím. Bên phải của báo là số thứ tự của báo (theo năm), trên măngséc báo có trình bày tranh ảnh của bài viết trọng tâm, tính thời sự của số báo. Măngséc của báo được ngăn cách với phần chính văn của bát chữ trang nhất bằng một fi-lê đậm (>0,5mm), chạy hết khổ ngang của tờ báo. Trên phần măngséc có thêm một phần fi-lê nhạt ngăn cách giữa phần măngséc với tên của cơ quan chủ quản và tên khẩu hiệu hoạt động của tờ báo: Cơ quan của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Diễn đàn vì sự phát triển nông nghiệp và nâng cao dân trí. 3.4. Chữ (text) Đối với báo in, cái độc giả tiếp nhận đầu tiên là chữ, thế mạnh của báo in so với các loại hình báo chí khác chính là con chữ. Ngày nay công nghệ in la-ze cho phép thể hiện nhiều kiểu chữ khác nhau do đó các báo ngày càng có cơ hội tạo ra sự đặc sắc của mình nhờ công nghệ in ấn. Chữ thể hiện trên báo gồm chữ tít và chữ chính văn. *. Chữ tít. Là một trong những yếu tố có sức lôi cuốn thị giác người tiếp nhận nhất. Bên cạnh đó nó cũng có vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung bài viết. Các tít chữ thể hiện trên báo in thường được thể hiện rõ ràng, sáng tạo nhằm thu hút đối tượng. Các tít trên báo NNVN thường đặt phía trên bài viết để thu hút người đọc. Một số tin, bài có cỡ chữ khác nhau, thường trong một số báo sử dụng 9-10 kiểu tít khác nhau (khảo sát năm 2002). Do đối tượng tiếp nhận của báo NNVN là đại bộ phận người dân địa phương, trình độ hiểu biết chưa cao nên chữ tít mà báo sử dụng đều đảm bảo dễ đọc, dễ nhớ và dễ hiểu. Trong một số trường hợp, tờ báo cũng sử dụng cả hai họ chữ chính trong tít báo, đó là họ chữ Ro-manh (Romain) có chân, nét thanh, nét đậm và họ chữ Ba- tông (Baton) không chân, nét đều. tuy nhiên loại chữ Ba-tông vẫn là kiểu được sử dụng thường xuyên nhất, chữ Ro- manh chỉ dùng trong trường hợp nội dung bài viết mang tính chất nghệ thuật (trang văn hoá, phần tạp văn, phiếm luận, mỗi cây mỗi hoa, trang gia đình), có ý nghĩa giáo dục, nhận thức, thẩm mĩ. *. Chữ chính văn. Lựa chọn chữ chính văn cũng là khâu quan trọng của tờ báo. Những năm trước kia báo NNVN có sử dụng một số kiểu chữ, gồm cả chữ không chân và có chân cho phần chính văn, cách lựa chọn này không thống nhất, gây khó khăn cho người tiếp nhận, gây nhiều lỗi do điều kiện in ty-pô lạc hậu. Hiện nay chữ chính văn được thống nhất sử dụng một ở số dạng: thẳng, nghiêng, đậm, nghiêm đậm... 3.5 Màu sắc. Màu sắc của báo NNVN sử dụng đảm bảo thường là hai màu đen trắng, điều này hợp với tính chất của báo chí là phương tiện thông tin thời sự, ít mang tính thẩm mĩ. Tuy nhiên trong một số trường hợp báo chí có sử dụng màu sắc để nhấn mạnh nội dung quan trọng, khu biệt với các thông tin khác có trên báo. Đây là yếu tố tác động đến thị giác độc giả, tạo ra màu sắc riêng, đặc trưng của mỗi tờ báo. Trước kia, báo NNVN chỉ có hai màu đen, trắng. Hiện nay, tờ báo đã đổi mới, tạo ấn tượng riêng, tượng trưng cho ngành nông nghiệp nên màu xanh lá lúa là màu chủ đạo của báo. Trong mỗi kỳ của báo đều có màu sắc chủ đạo riêng, đặc trưng cho từng ngày trong tuần: xanh lá lúa, đỏ- tím, đỏ... Ngoài ra, trong mỗi trang, chuyên mục có sử dụng màu sắc riêng, như trang sức khoẻ- đời sống, mục hỏi gì, đáp nấy có màu tím than là màu chủ đạo. Màu sắc của tít cũng được sử dụng trùng với màu của măngséc, nhưng ở một số trang trong tờ báo có sử dụng màu khác, điều này đôi lúc gây rối cho người tiếp nhận. 3.6. Fi- lê (Filet). Là đường kẻ hoặc hoạ tiết tạo thành dãy có chức năng của một đường kẻ, dùng để khu biệt mảng khối trong makét một trang báo (khu biệt giữa măngséc và chính văn, giữa tin, bài, chuyên mục, cột báo). Có 5 kiểu fi- lê: fi- lê mảnh, fi- lê đậm, fi- lê đúp, fi- lê đúp K, fi- lê hoa. Trong 5 loại fi- lê này, báo NNVN thường sử dụng 2 loại chính là fi- lê đậm và mảnh. Fi- lê mảnh có đường kính 0,1- 0,3mm, là kiểu dùng để ngăn cột báo, các bài với nhau. Fi- lê đậm, đường kính > 0,5mm, thường là dùng để ngăn cách các chuyên trang với phần chính văn. Ngoài ra, ở phần măngséc của báo có sử dụng một fi- lê đậm ở dưới khẩu hiệu hoạt động của tờ báo. Ngăn cách giữa khẩu hiệu và măngséc là một dòng fi- lê mảnh, điều này khiến độc giả dễ nhìn, dễ tiếp nhận. Cả hai dạng fi- lê sử dụng trên báo NNVN đều sử dụng màu đen, màu sắc cơ bản của tờ báo. 3.7. Nền (Trame). Là mảng màu đậm nhạt khác nhau trên trang báo. Mảng màu có độ đậm nhạt được tính bằng độ hạt màu nổi trên trang báo, thường nằm trong một khung, cùng làm nền để in thông tin đăng tải trên báo. Thường có 3 loại nền chính xuất hiện trên báo, đó là nền phẳng (độ đậm nhạt bằng nhau), nền đuổi (độ đậm nhạt chuyển dần từ đậm đến nhạt hoặc ngược lại), nền hoa (in chìm hoa văn, hoạ tiết, hình ảnh...). Nền có tác động hiệu quả đến thị giác người đọc, thông thường trên báo NNVN có sử dụng nền cho một số tít chính, trọng tâm cần nhấn mạnh của kỳ báo, hay nền cho một số chương trình giải trí ở trang văn hoá, trang sức khoẻ- đời sống. Việc sử dụng nền trên báo NNVN chưa có tính ổn định cao, chỉ đang trong xu hướng ổn định. 3.8. Biểu tượng mục (vi nhét- Vignette). Là một loại biểu tượng cho một loại thông tin nào đó, có vị trí ổn định trên trang báo. Vi nhét cũng giống như nhạc hiệu của chương trình phát thanh, truyền hình. Thường có hai loại vi nhét chính là vi nhét hình và vi nhét chữ. Vi nhét chữ in tên chuyên mục, chuyên trang, đòi hỏi thiết kế đồng bộ một co chữ, kiểu chữ, màu chữ và màu nền, khung. Vi nhét hình là cách thức hình vẽ thay thế cho chữ viết, là biểu tượng tượng trưng cho chuyên mục, chuyên trang. Hình vẽ đòi hỏi tính biểu tượng cao, phải gây được ấn tượng đối với người tiếp nhận. Báo NNVN hầu như không sử dụng vi nhét hình vẽ cho chuyên trang của mình. Chỉ tập trung ở các chuyên mục “Hỏi gì đáp nấy”, “tư vấn gia đình”, “giải trí”... và loại vi nhét này đang đi vào hoạt động ổn định trên báo NNVN. 3.9. ảnh. ảnh sử dụng trên báo chí gồm hai loại: ảnh minh hoạ và ảnh báo chí. Hai loại này có tác động trực tiếp đến đối tượng tiếp nhận thông tin. Khi tiếp xúc với một tác phẩm báo chí, cái đầu tiên thu hút người đọc là ảnh, sau đó người ta mới quan tâm đến nội dung phản ánh..Dó đó, ảnh có vị trí đặc biệt quan trọng và được quan tâm trên báo chí hiện nay. ảnh báo chí gồm có ảnh tin, ảnh phóng sự... Mỗi bức ảnh dù đứng độc lập hay, ảnh chùm hay ảnh kèm bài đều mang giá trị thông tin nhât định. Bản thân mỗi bức ảnh đều là một tác phẩm báo chí hoàn chỉnh. Nhiều khi giá trị của bức ảnh chụp được có giá trị hơn nghìn lời nói. ảnh được sử dụng trên tất cả các loại hình báo chí. Trong báo in ảnh được coi là bộ phận quan trọng của bài báo. ảnh tin và ảnh phóng sự ít xuất hiện trên báo NNVN, chủ yếu vẫn là ảnh bổ trợ cho bài viết (gọi là ảnh minh hoạ). Hiện nay ảnh được sử dụng nhằm bổ trợ thêm thông tin cho bài viết, thẩm định bài viết là người thật, việc thật và cái tôi tác giả chứng kiến. ở mỗi bài viết đã hay, có chiều sâu, nếu thiếu đi bức ảnh sẽ thiếu tính chân thực và sức thuyết phục. Hiểu vấn đề này, báo NNVN đã trang bị cho các phóng viên thiết bị kỹ thuật hiện đại để nâng cao chất lượng của bài viết. Tuy vậy việc đăng tải ảnh trên báo NNVN thời gian qua còn nhiều bất cập, không đồng nhất và thiếu trích dẫn đầy đủ, nội dung thông tin của ảnh không ăn khớp với nội dung bài viết, do đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả tiếp nhận thông tin của người đọc. Các bài viết đôi khi còn thiếu ảnh trong khi có thể có ảnh thì hiệu quả tiếp nhận thông tin sẽ cao hơn. Điển hình là các bài: “Ký sự vùng dâu”, “Cà phê xuống giá- cơ hội để phá bỏ diện tích cà phê kém hiệu quả” đăng trong số 34.2001. T3. Cả hai bài đều sử dụng ảnh nhưng không có chú thích rõ ràng, cụ thể và địa chỉ bức ảnh. Hay bài “Làm thế nào để đầu tư cho nuôi trồng thuỷ sản đạt hiệu quả cao” của tác giả Duy Chiến, số 9.2002, có sử dụng và chú thích ảnh nhưng chú thích một cách mơ hồ, chung chung. Nội dung bức ảnh khớp với nội dung bài viết nhưng lại không ghi chú bức ảnh chụp tại địa phương nào, mà chỉ ghi chú “Nghề nuôi tôm sú phát triển mạnh ở ven biển miền Trung”, người đọc chỉ biết nghề nuôi tôm sú phát triển ở miền Trung nhưng có rất nhiều các vùng nuôi tôm sú phát triển ở nơi đây, cho nên người đọc không biết hình ảnh trong bức ảnh là ở đâu. Kết luận Công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn do Đảng và Nhà nước ta tiến hành đã đem lại cho nông thôn nước ta những thay đổi, biến chuyển cơ bản. Những thay đổi ấy đang dần làm cho nông thôn Việt Nam dần bắt nhịp với sự phát triển chung của đất nước. Những tờ báo viết về nông nghiệp, nông thôn trở thành một phần rất quan trọng trong đời sống của người nông dân Việt Nam. Trong số những tờ báo ấy, người ta không thể không nhắc tới tờ Nông nghiệp Việt Nam, một tờ được đánh giá là hàng đầu viết về nông thôn Việt Nam. Qua quá trình khảo sát và nghiên cứu nghiêm túc về nội dung và hình thức thể hiện của tờ báo, tác giả rút ra những kết luận sau: - Tờ báo đã khách quan trong việc phản ánh những thay đổi của nông thôn nước ta trong thời kỳ vừa qua. Nội dung các bài viết trên báo luôn phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và Bộ NN-PTNT. - Tờ báo đã rất kịp thời trong việc chỉ ra những khuyết điểm, tồn tại của nông nghiệp, nông thôn và đời sống của người nông dân, phản ánh chân thực đời sống nông thôn trên nhiều miền đất nước. - Báo có vai trò rất quan trọng và tiên phong trong việc phổ biến những tri thức khoa học, kỹ thuật chuyên môn đến người nông dân, góp phần quan trọng làm thay đổi nhận thức của người dân và áp dụng tiến bộ khoa học vào cuộc sống. - Làm tốt chức năng là diễn đàn xã hội của người nông dân, phản ánh kịp thời tâm tư, nguyên vọng của người dân. Các phương diện về văn hoá, xã hội nông thôn được phản ánh rõ nét và mang tính giáo dục cộng đồng cao. Ngoài ra, tờ báo đã thực hiện tốt chức chăm sóc và giáo dục sức khoẻ cộng đồng. - Ngôn ngữ của tờ báo là ngôn ngữ bình dân. Nhiều bài viết được đăng tải là của cộng tác viên nên người đọc dễ dàng tiếp nhận. Bên cạnh những hiệu quả, thành tích mà báo NNVN đã đạt được trong năm 2001-2002 thì còn đó một số những hạn chế cần được nhìn nhận và khắc phục: - Nội dung phản ánh đôi khi chưa thoả mãn nhu cầu thông tin của người dân. Nhiều bài viết chưa thực sự được người dân chấp nhận. - Các chuyên mục xã luận, chuyên luận mang tính định hướng cho người nông dân hầu như không xuất hiện trên báo NNVN. - Chưa chú trọng đến việc trình bày ảnh trên báo, thông tin chú thích ảnh trích dẫn chưa hợp lý. Các thuật ngữ khoa học xuất hiện nhiều, làm giảm hiệu quả tiếp nhận thông tin của đối tượng tiếp nhận đa phần là người nông dân. Sử dụng nhiều cách viết tắt trong một bài viết. Ngoài ra, việc sử dụng tít trên báo chưa làm nổi bật nội dung, có những tít không bao quát được nội dung phản ánh trong bài, lại có tít khái quát nhưng nội dung chỉ đề cập đến một phần nhỏ mà tít nêu lên. - Bài viết chưa chú trọng khai thác đề tài về vùng sâu, vùng xa và các vùng nông thôn phía nam. Với những đánh giá và nhận xét trên, bản thân người nghiên cứu cho rằng: tờ báo nên tập trung phản ánh những vấn đề ở các vùng sâu, vùng xa; tăng thêm các chuyên mục xã luận, chuyên luận và đa dạng hoá các chuyên mục. Chú trọng đến việc đăng và chú thích ảnh trên báo cho hợp lý. Nên ít dùng các thuật ngữ khoa học, nếu đăng tải thì cần phải có sự chú thích rõ ràng để độc giả nông dân có thể đọc và hiểu được. Chú ý dùng câu chữ rõ ràng, dễ hiểu và tránh tối đa cách viết tắt. Tài liệu tham khảo Trần Văn Chử- Kinh tế học phát triển. Nxb Chính trị Quốc gia. H. 1998. T193 Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng. Số 9.2001. T36, S6.2002, S6.2003 Tạp chí Lý luận Chính trị. Số 3. 2003, Số 7.2002 Văn kiện Hội nghị lần 2. Ban chấp hành TW khoá VII. Nxb Chính trị Quốc gia. H. 1975. T55 Đảng Cộng Sản Việt Nam. Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ IX của Đảng. Nxb Chính trị Quốc gia. H. 2001. T40 Dương Xuân Sơn- Giáo trình các thể loại báo chí Chính luận- nghệ thuật. Nxb ĐHQG. H. 2003. T2, T3 Hà Minh Đức (Chủ biên)- Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb ĐHQG. H. 1997. T402 Đức Dũng- Viết báo như thế nào. Nxb Văn hoá Thông tin. H. 2001. T73 Vũ Quang Hào- Ngôn ngữ báo chí. Nxb ĐHQG. H. 2001. T 314 Hồ Chí Minh bàn về báo chí. Nxb Chính trị Quốc gia. H. 1995 Nông nghiệp Việt Nam trên con đường hiện đại hoá. Ban vật giá Chính Phủ. Hà Nội. 1998 Đường Hồng Dật. Lịch sử nông nghiệp Việt Nam/ bc. H. NN. 1994. Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị QG. H. 2001 Đưc Dũng- Các thể ký báo chí. Nxb Văn hoá Thông tin. H. 1996 Hữu Thọ- Nghĩ về nghề báo. Nxb Giáo dục. H. 1997 Hữu Thọ- Công việc của người viết báo. Nxb Giáo dục. H. 1998 Trần Quang- Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb ĐHQG. H. 2001 Những vấn lý luận đặt ra từ các văn kiện Đại hội IX của Đảng. Nxb Chính trị Quốc gia. H. 2002 Đức Dũng- Sáng tạo tác phẩm báo chí. Nxb Văn hoá- Thông tin. H.2002 Luận văn “Báo chí với sự nghiệp HĐH nông nghiệp, nông thôn”. KL- VDKT. 254. Khoa báo chí. ĐHKHXH&NV Luận văn “Những vấn đề then chốt của việc phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH” KL. 842. Khoa báo chí. ĐHKHXH&NV Tạp chí Người làm báo. S6.1999 Tạp chí Sinh hoạt lý luận. S6.2001, Số 1.2002 Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn. T8,9,12. 2003, T2.2004 Tạp chí Cộng sản. S2, 15, 20. 1999, S12, 13, 28, 32. 2002, S9, 12, 21, 27, 29, 36.2003.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28701.doc
Tài liệu liên quan