Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc và việc vận dụng tư tưởng đó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay

QHGC - DT về thực chất là quan hệ giữa giai cấp cầm quyền trong xã hội với toàn thể dân tộc. Hồ Chí Minh là người đã thành công trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, giành độc lập cho dân tộc, đem lại quyền tự quyết cho nhân dân. Sự thành công của Hồ Chí Minh trong quá khứ và của Đảng Cộng sản trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hôm nay, như chúng tôi đã nghiên cứu ở trên có thể rút ra những kết luận sau:

doc111 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1600 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc và việc vận dụng tư tưởng đó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đức của con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá chậm được xác định. Tệ tham nhũng, lãng phí tài sản của Nhà nước và nhân dân rất nghiêm trọng; bệnh quan liêu, xa thực tế, xa dân, ý thức tổ chức kỷ luật kém, tình trạng coi thường kỷ cương, phép nước rất nặng nề. Tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, cục bộ địa phương, kèn cựa địa vị… dẫn đến mất đoàn kết kéo dài ở một số nơi. Những biểu hiện xấu xa đó đang gây bất bình trong dư luận, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối với chế độ, làm cho bộ máy của Đảng suy yếu, các chủ trương chính sách của Đảng bị thi hành sai lệch, là mảnh đất thuận lợi cho "diễn biến hoà bình", là nguy cơ lớn nhất đe doạ lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Một số người nhận thức mơ hồ về đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, mất cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch đế quốc chủ nghĩa. Có ý kiến cho rằng, đặt vấn đề chống diễn biến hoà bình là cường điệu, họ không thấy sự thật là chiến lược diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch đang triển khai toàn diện để chống chủ nghĩa cộng sản, chống cộng, chống các nước xã hội chủ nghĩa, hòng mưu toan xoá bỏ nốt những nước xã hội chủ nghĩa còn lại và "chôn vùi" chủ nghĩa Mác - Lênin, thực hiện toàn cầu hoá tư bản chủ nghĩa. "Diễn biến hoà bình" và "chống diễn biến hoà bình" thực chất là một cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trong điều kiện mới, là một cuộc đấu tranh toàn diện về kinh tế, chính trị, quân sự, tư tưởng, văn hoá, lối sống… Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh này nhất thiết phải đứng trên lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân, kết hợp đúng đắn, đầy đủ lợi ích của giai cấp với lợi ích của dân tộc, hướng tới xây dựng một xã hội mới: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 3.2. Một số phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giai cấp - dân tộc ở nước ta hiện nay 3.2.1. Kiên định con đường XHCN với mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh: Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định: " Trong quá trình đổi mới, phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt, sáng tạo trong sách lược, nhạy bén nắm bắt cái mới… Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội”[27-14]. Vấn đề quan hệ giai cấp dân tộc hiện nay thể hiện tập trung trong đường lối và quan điểm phát triển. Đối với đại đa số các quốc gia dân tộc còn trong tình trạng lạc hậu về kinh tế, trong đó có Việt Nam, phát triển là vấn đề sống còn. Song phát triển như thế nào, theo hướng nào là câu hỏi lớn được đặt ra một cách tất yếu với mọi dân tộc. Con đường phát triển bảo đảm cho dân tộc ta thoát khỏi vĩnh viễn ách áp bức dân tộc, tránh đi vào chế độ xã hội trong đó giai cấp này áp bức bóc lột giai cấp khác, tiến tới xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh chỉ có thể là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Con đường phát triển đó cho phép kết hợp hài hoà lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Không thể có chủ nghĩa xã hội nếu không bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, ngược lại, độc lập dân tộc không thể được củng cố vững chắc nếu không tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây không chỉ là vấn đề thuộc nguyên tắc căn bản mà còn là thước đo bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; là nhu cầu chân chính và khát vọng cháy bỏng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, của cả dân tộc trên con đường phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là mảnh đất phát triển của giai cấp công nhân, là lý do tồn tại của Đảng và là con đường sinh tồn, phát triển của cả dân tộc Việt Nam. Chúng ta không có phương hướng nào khác và càng không còn sự lựa chọn nào khác. Đây là phương hướng bất di bất dịch. Đồng thời, con đường phát triển ấy đòi hỏi chúng ta phải tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tìm tòi sáng tạo trong từng giai đoạn, trong mỗi chặng đường, thậm chí trong từng bước đi, không thể nóng vội, chủ quan duy ý chí. Lịch sử dân tộc hơn 70 năm qua chứng minh con đường mà nhân dân ta đã lựa chọn là đúng đắn. Đường lối kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là nhân tố quyết định của những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam. Tuy thế, trước cuộc khủng hoảng hiện nay của chủ nghĩa xã hội thế giới một số người đã dao động, thậm chí hoài nghi, mất niềm tin con đường chúng ta đang đi - con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trên diễn đàn lý luận xuất hiện nhiều loại quan niệm khác nhau. Trong đó có cả xu hướng muốn quay sang phía chủ nghĩa tư bản. Vậy triển vọng của con đường tư bản chủ nghĩa thế nào? Chúng ta không phủ nhận chủ nghĩa tư bản có vai trò to lớn đối với lịch sử phát triển của nhân loại. Nhưng, kể từ sau khi mất địa vị thống trị độc tôn trên thế giới bởi sự ra đời của Liên Xô cùng nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác và mất chỗ đứng chân trực tiếp ở "sân sau" bởi sự tan rã của hệ thống thuộc địa, quá trình suy thoái của hệ thống tư bản chủ nghĩa đã là hiện thực khách quan. Tuy vậy, hiện nay chủ nghĩa tư bản vẫn còn khả năng tự điều chỉnh để thích nghi với tình hình mới, làm dịu đi những mâu thuẫn nội tại của nó, đạt được bước tiến to lớn trong lĩnh vực kinh tế, khoa học, công nghệ; do đó, giúp nó tạm thời vượt qua cơn khủng hoảng, kéo dài sự tồn tại trong lịch sử. Chẳng hạn, giai cấp tư bản vẫn có thể điều chỉnh được quan hệ sở hữu trong phạm vi tư bản chủ nghĩa để thích ứng tạm thời với mức độ xã hội hoá đã đạt tới của lực lượng sản xuất. Hơn thế nữa, xét trên phạm vi thế giới, trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất diễn ra không đều, sự thấp kém của nó ở nhiều khu vực tư bản chủ nghĩa vẫn còn là mảnh đất cho sự tồn tại của quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa ở những mức độ khác nhau… Nhưng tựu trung lại, mọi biện pháp mà giai cấp tư sản thực hiện đều chỉ có tính chất tạm thời, bởi vì, trong khi đem lại lợi ích cho giai cấp tư sản, những biện pháp đó trước sau vẫn chối bỏ những yêu cầu căn bản nhất của sự tiến bộ xã hội nhằm giải phóng những người lao động. Chính vì thế mà mọi mâu thuẫn cơ bản, cố hữu vẫn còn tồn tại nguyên vẹn trong xã hội tư bản và mỗi bước phát triển của chủ nghĩa tư bản đều làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn đó. Nhiều lý thuyết được đưa ra, nhưng rốt cuộc, tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa vẫn là yếu tố chủ đạo quy định mục tiêu đem lại lợi nhuận cho giai cấp tư sản và phương hại đến lợi ích của những người lao động. Từ thuyết "Phát triển cân bằng" của Narkse, thuyết "Cú hích lớn" của Rodeinstein Kodan, đến thuyết "Các giai đoạn tăng trưởng" của Rostow,… đều có điểm chung là chú trọng sự tăng trưởng kinh tế, xem nhẹ việc giải quyết các vấn đề xã hội, thậm chí, "hy sinh" mặt xã hội cho sự phát triển kinh tế. Kinh nghiệm thực tế ở nhiều nước cho thấy, sự tăng trưởng kinh tế đạt được trên cơ sở các lý thuyết phát triển trên đây đã dẫn tới hàng loạt tệ nạn và bệnh hoạn xã hội, không những kìm hãm trở lại bản thân sự tăng trưởng kinh tế, mà còn đe doạ sự tồn tại của chế độ đó. Richard Bergeron trong cuốn "Phát triển - cái giá của chủ nghĩa tự do", đã trích lời của Edgar Morin: "Trong các nền văn minh gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hoá, trí não, đạo đức và tình người"[34-338]. Quan sát các nước tư bản trong một bức tranh tổng thể, Joyce Kolko trong cuốn sách nổi tiếng "Cải cách cơ cấu nền kinh tế thế giới", vạch ra thảm trạng của những người lao động: "Thất nghiệp đang tàn phá thoả thích cuộc sống hiện tại của gia đình giai cấp công nhân, đồng thời cản trở tương lai của các gia đình giai cấp trung lưu… mọi đặc điểm của sự nghèo khổ đang tăng lên - đói kém, các cuộc phát chẩn, không nhà của, lạm dụng ma tuý, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và các cuộc tự sát"[31-273]. Tác giả cuốn sách này còn khẳng định, các nước tư bản đang ở trong tình trạng khủng hoảng toàn diện, mấy chục năm nay các nước tư bản đang tìm giải pháp cải cách cơ cấu kinh tế thế giới để giải thoát việc khủng hoảng. Những cuộc cải cách ấy làm cho các nước tư bản lại dấn sâu vào cuộc khủng hoảng, vì sự tăng trưởng ấy của nền kinh tế lại kéo theo hàng loạt vấn đề xã hội. Vẫn như trước đây, gần như toàn bộ gánh nặng áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản thế giới dồn cả lên các nước nghèo thuộc thế giới thứ ba. Mặc dù, các nước này đã được giải phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân ở mức độ khác nhau, nhưng tình trạng lạc hậu vẫn còn là phổ biến. Từ nửa thế kỷ nay, các nước phát triển ở Châu Âu, Châu Mỹ và nhiều tổ chức tài chính quốc tế (như Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ Quốc tế…) với những động cơ khác nhau, đề ra và thực hiện chương trình trợ giúp cho các nước thế giới thứ ba từ lý luận, chiến lược, chính sách đến nguồn vốn, chuyên gia, đào tạo cán bộ. Song cho đến nay, chỉ có một số rất ít nước đã trở thành một nước công nghiệp mới, còn đại đa số các nước (trên 100 nước), những cố gắng phát triển không đi tới thành công, thậm chí, thất bại nặng nề. Trong cuốn "Những thành công và những thất vọng về phát triển trong thế giới thế ba", Olivierde Solager cho rằng, mấy chục năm qua các nước đang phát triển bước vào cuộc "phiêu lưu mưu cầu phát triển"; nhưng thực tế cho thấy gần tuyệt đại đa số phải trả một cái giá quá đắt. "Cái giá ấy lớn đến nỗi nó đặt thành vấn đề trong toàn bộ công cuộc", nghĩa là nó sai lầm trong toàn bộ, trước hết là sự lựa chọn mô hình. Tác giả cuốn sách viết: "Mô hình phát triển dần dần bị đặt thành vấn đề: mô hình này chỉ tính đến những khía cạnh kinh tế của sự tăng trưởng… mô hình đó coi nhẹ con người". Hậu quả tiêu cực của việc hiện thực hoá mô hình này là: khoảng cách giữa người giàu và người nghèo tăng lên; cũng như vậy, sự chênh lệch về của cải thu nhập giữa nước giàu và nước nghèo đạt tới chỉ số đáng sợ; tình trạng khốn cùng của những người nghèo biểu hiện ở các chỉ báo về thất nghiệp, mù chữ, nạn đói và bệnh tật… đến mức Ngân hàng Thế giới phải dùng một từ ngữ có sức biểu cảm mạnh: "nghèo khổ tuyệt đối". Trong cuốn "Phản phát triển - cái giá của chủ nghĩa tự do", Richard Bergeron cho rằng, cái xã hội của thế giới thứ ba, cho tới nay, đã bị dồn vào thế không sáng tạo ra được cái gì. Tệ hơn nữa, người ta đòi hỏi chúng tự phủ định, tự huỷ diệt, mỗi xã hội này biến thành một thứ phụ phẩm của xã hội phương Tây[34-39]. Cũng như Rơnê Duymông trong cuốn sách "Một thế giới không thể chấp nhận", Olivierde Solages rút ra kết luận chính trị: Cho đến nay nhiều người đã hiểu rằng đây trước hết là một vấn đề chính trị. Họ hiểu rằng cái trật tự này không phải là tự thân nó dựng lên. Sự rối loạn này không phải là hậu quả của một sự không may, của một định mệnh hay chỉ là của những lực lượng thiên nhiên mà con người bất lực không làm gì được, trật tự đó là do con người tạo dựng lên… Như vậy, trật tự này có thể cải thiện . Sự phân tích trên cho thấy, có hàng trăm nước thế giới thứ ba đi theo con đường tư bản không ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và phụ thuộc; trái lại, đang lâm vào tình cảnh vỡ nợ, đình đốn, nạn đói, bệnh tật, mù chữ tràn lan. Trong khi đó chỉ có một số nước trước đây lạc hậu nay thuộc loại nước phát triển. Tương quan ấy không cung cấp đủ luận cứ để nói rằng cứ đi theo con đường tư bản là nhanh chóng "hoá rồng". Chúng ta không nên phủ nhận sự năng động, sáng tạo của những nước công nghiệp mới. Song, sự thật là họ đã "hoá rồng" trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Trong khi Việt Nam phải dồn sức cho cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, thì những nước này đã hưởng những khoản "ưu đãi" của thời kỳ chiến tranh lạnh do cuộc đối đầu Mỹ - Xô mang lại. Đó là chưa kể Mỹ đã thi hành chính sách cấm vận Việt Nam suốt mấy chục năm qua. Điều đáng nói ở đây là, tình cảnh hiện nay của các "con rồng" châu á cũng không mấy sáng sủa. Hai tác giả: Oan-đơn Be-Lô và Xtê-pha-ni Rô-đen-phen ở Xan Phran-xi-cô (Mỹ) trong cuốn sách mới xuất bản với tiêu đề "Các con rồng trong tình thế hiểm nguy - những nền kinh tế kỳ diệu của châu á đi vào khủng hoảng", đã cho biết: "Mô hình phát triển của Hàn Quốc đang rệu rã", "Đài Loan đang gặp rắc rối", "Singpore đang dao động" Cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong những năm 1997 - 1998 đã chứng minh điều đó. Rõ ràng, chủ nghĩa tư bản không chỉ toàn là tốt đẹp như có người ca ngợi, không phải là tương lai tươi sáng, càng không phải là mô hình xã hội lý tưởng của nhân loại để chúng ta đi theo. Hiện nay, chủ nghĩa xã hội thế giới đang lâm vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất từ trước tới nay. Sự vận dụng không đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tế cuộc sống, cũng như việc chậm tổng kết những bài học từ thực tiễn để bổ sung và phát triển lý luận, việc duy trì quá lâu một "mô hình" cứng nhắc trong đó có những nét không phù hợp với ý tưởng nhân đạo và thực tiễn của cuộc sống… đã làm cho bản chất của chủ nghĩa xã hội bị xuyên tạc. ở một số nước, khi tiến hành cải tổ những người lãnh đạo tối cao của đất nước lại mắc sai lầm nghiêm trọng theo lối cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin… làm cho chủ nghĩa xã hội phải chịu những tổn thất to lớn và chế độ xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Nhưng chủ nghĩa xã hội sẽ rút ra được nhiều bài học thực tế khi nhìn lại những thành quả to lớn cần phải bảo vệ và phát huy, cũng như những thiếu sót, sai lầm cần nghiêm túc sửa chữa, khắc phục. Chủ nghĩa xã hội phải tiếp tục đấu tranh trên hai trận tuyến: một mặt, chống lại chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa cơ hội và xét lại; mặt khác, chống chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ. Công cuộc đổi mới, cải cách là tất yếu để đưa chủ nghĩa xã hội đi đến thắng lợi. Những thành tựu bước đầu nhưng rất quan trọng đã chứng minh sự đúng đắn của công cuộc đổi mới, cải cách ở một số nước xã hội chủ nghĩa. Điều đó nói lên rằng, sau cơn suy thoái, chủ nghĩa xã hội sẽ lấy lại sức sống của mình, tiếp tục phát triển theo quy luật khách quan của lịch sử và giành những thắng lợi. Con đường phát triển của dân tộc ta chỉ có thể là con đường xã hội chủ nghĩa. Hơn 80 năm trước đây Hồ Chí Minh đã khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới thoát khỏi ách nô lệ. Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam cũng nhấn mạnh: Đảng và nhân dân ta vẫn kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, coi đây là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của dân tộc Việt Nam. Như vậy, xét trên cả lý thuyết và thực tiễn, cả tình hình trong nước và kinh nghiệm quốc tế cho thấy, muốn thay đổi căn bản cuộc sống của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, của cả dân tộc, từ kiếp nô lệ, làm thuê trở thành làm chủ cần thiết và tất yếu phải kiên trì mục tiêu và con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, trên cơ sở đó tiếp tục nghiên cứu đổi mới, bổ sung chủ trương, chính sách, giải pháp, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta, trong bối cảnh phức tạp của thế giới bước sang thế kỷ XXI và thiên niên kỷ thứ III. Đó là chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Việt Nam - một biểu hiện sinh động của sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học ở Việt Nam, góp phần làm phong phú hơn, mạnh mẽ hơn sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở thế kỷ XXI. 3.2.2. Củng cố và tăng cường khối đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Trong bảy thập kỷ qua, được dẫn dắt bởi chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc. Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại trong cuộc đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Trước yêu cầu của thời kỳ mới, hơn lúc nào hết, chúng ta phải ra sức củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo thành sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tinh thần cơ bản, nhiệm vụ bao trùm của đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn cách mạng mới đã được Đại hội IX của Đảng ta chỉ ra là: “Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai. Khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn luôn được củng cố và phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”[28-123,124] Để giải quyết yêu cầu, nhiệm vụ trên cần quán triệt những quan điểm, chủ trương sau đây: Một là, đại đoàn kết vì mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất, chủ quyền, quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi người trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay định cư ở nước ngoài. Đoàn kết chủ yếu phải lấy mục tiêu chung làm điểm tương đồng, đồng thời tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xoá bỏ định kiến, mặc cảm, hướng tới tương lai, xây dựng tinh thần đại đoàn kết, cởi mở, tin cậy lẫn nhau. Chúng ta đều biết, nếu không có sự khác nhau giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội, giữa các dân tộc, các tôn giáo, v.v.. thì không cần thiết phải có Mặt trận và nếu không xác định rõ mục tiêu chung làm điểm tương đồng để cùng nhau phấn đấu thực hiện thì không thể hình thành Mặt trận Tổ quốc được. Nhưng việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giai cấp và dân tộc một mặt đòi hỏi phải nắm vững đường lối xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, với Cương lĩnh và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, đó thực chất là đường lối thể hiện lập trường giai cấp công nhân. Mặt khác đòi hỏi phải thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận vì mục tiêu nêu trên nhằm tập hợp tất cả các lực lượng của dân tộc thực hiện thắng lợi đường lối đó. Đó chính là thể hiện cao nhất lợi ích của dân tộc. Hai là, đại đoàn kết trước hết phải được thể hiện trong các chủ trương của Đảng cũng như trong các chính sách và pháp luật của Nhà nước, đáp ứng được lợi ích, nguyện vọng chính đáng của các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo trong xã hội; gắn quyền lợi với trách nhiệm, lợi ích riêng của mỗi người với nghĩa vụ công dân, trong đó lấy lợi ích dân tộc làm trọng. Đồng thời tạo mọi điều kiện và môi trường thuận lợi để giải phóng sức lao động, khuyến khích mọi người, mọi thành phần kinh tế phát triển cao độ nguồn nhân lực và tài năng sáng tạo, ra sức phát triển sản xuất, kinh doanh, làm giàu hợp pháp, cần kiệm xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, Đảng và Nhà nước khuyến khích toàn dân thực hiện tốt chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa với những người có công với nước, tham gia các việc công ích, các hoạt động nhân đạo và từ thiện, giúp nhau xoá đói, giảm nghèo, phát huy truyền thống nhân nghĩa của cha ông. Chỉ có không ngừng phát triển kinh tế- xã hội, mọi người thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất, đời sống, đồng thời xử lý thoả đáng các mối quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi ích chung và các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân mới củng cố và tăng cường được khối đại đoàn kết dân tộc. Ba là, xây dựng chính quyền nhân dân trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực cao, thật sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trước đây, khi chưa có chính quyền, nhiệm vụ công tác quần chúng của Đảng và nhiệmvụ công tác của Mặt trận là vận động nhân dân, tổ chức, đoàn kết nhân dân đấu tranh bảo vệ lợi ích của mình, chống lại sự áp bức, bóc lột, đàn áp, khủng bố của địch, từng bước làm suy yếu chính quyền của chúng, và khi thời cơ đến thì tổ chức quần chúng nổi dậy giành lấy chính quyền. Ngày nay, khi chính quyền đã về tay nhân dân, thì nhiệm vụ của Mặt trận và các đoàn thể thành viên của Mặt trận là vận động, tổ chức nhân dân xây dựng, củng cố, bảo vệ chính quyền, đồng thời cùng với chính quyền, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc và tiến bộ cho nhân dân, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Chính quyền có trách nhiệm rất lớn trong việc ban hành các chính sách và luật pháp để tăng cường và bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc, bảo vệ an toàn xã hội, chấn hưng nền văn hoá dân tộc và xây dựng con người mới. Phải thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc ngay trong tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền. Bản thân bộ máy chính quyền phải là hình ảnh tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân tộc. Bốn là, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bằng các hình thức phong phú, đa dạng, thích hợp với từng giới, từng thành phần xã hội, từng địa phương, cơ sở… nhằm khơi nguồn trí tuệ, sáng kiến, phát huy mọi năng lực của các tầng lớp nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong nhân dân không thiếu những người có đức, có tài, nếu chúng ta không tập hợp được, không phát huy được tài, đức của họ là sự thiệt thòi lớn cho đất nước. Điều quan trọng là phải thu hút được thật nhiều trong các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo thì mới hình thành được Mặt trận rộng lớn. Mặt trận không chỉ đoàn kết bằng tổ chức mà còn phải đoàn kết bằng phong trào hành động chung từ thấp đến cao. Không chỉ đoàn kết ở bên trên mà cần tiếp tục hướng mạnh hoạt động về cơ sở, tới mọi địa bàn dân cư, đến từng hộ gia đình. Đi đôi với việc củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phải không ngừng củng cố liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, làm cho nó thực sự trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân. Nếu công nhân, nông dân, trí thức không đủ mạnh, không liên minh với nhau chặt chẽ thì không thể củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, Mặt trận không thể vững chắc và đi đúng hướng được. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dựa trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức là sự phản ánh về mặt tổ chức xã hội, mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Tách biệt, hoặc nhấn mạnh một chiều vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoặc liên minh công nhân - nông dân - trí thức đều không đúng với biện chứng của đời sống cách mạng. Tuyệt đối hoá vai trò, vị trí của liên minh công nhân - nông dân - trí thức, hạ thấp vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ dẫn đến cực đoan, "tả khuynh và bệnh cô lập, hẹp hòi; ngược lại, nhấn mạnh, đề cao một chiều vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, coi nhẹ liên minh công nhân - nông dân - trí thức sẽ dẫn đến hữu khuynh, xa rời lập trường giai cấp. Thực tế cho thấy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam càng rộng rãi bao nhiêu, sức mạnh của liên minh công nhân - nông dân - trí thức càng to lớn bấy nhiêu; ngược lại, liên minh công nhân - nông dân - trí thức càng được củng cố, tăng cường thì Mặt trận Tổ quốc Việt Nam càng vững chắc, càng có sức mạnh. Trên lĩnh vực chính trị, liên minh công nhân - nông dân - trí thức phải tập trung vào các nhiệm vụ cơ bản và cấp bách sau: bảo vệ thành quả cách mạng, duy trì sự lãnh đạo của Đảng, củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa; kiên trì mục tiêu, con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên lĩnh vực kinh tế, liên minh công nhân - nông dân - trí thức hiện nay cần hướng vào giải quyết tốt các mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp; giữa Nhà nước và nông dân; giữa phát triển kinh tế và phát triển khoa học, kỹ thuật, văn hoá. Về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển khoa học, kỹ thuật, văn hoá, phát huy vai trò đội ngũ trí thức, các văn kiện gần đây nhất của Đảng vạch rõ: tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển văn hoá, giáo dục; khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đào tạo, bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước… Trên lĩnh vực xã hội, liên minh công nhân - nông dân- trí thức có nhiệm vụ quan trọng là rút ngắn khoảng cách phát triển giữa thành thị và nông thôn, giảm bớt sự khác biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc, củng cố những thành quả giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp đã đạt được. Với cơ sở vững chắc là sự thống nhất về lợi ích cơ bản; với quá khứ liên minh chiến đấu vẻ vang trong cách mạng dân tộc dân chủ; với nhu cầu khách quan của qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, và với những kết quả ban đầu đạt được trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh công nhân- nông dân- trí thức hoàn toàn có điều kiện củng cố ngày càng vững chắc, làm nền tảng cho khối đại đoàn kết dân tộc, một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam là yếu tố quyết định nhất trong sự nghiệp củng cố, mở rộng khối đoàn kết toàn dân, cũng như củng cố, tăng cường khối liên minh công nhân- nông dân- trí thức. Đảng lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo khối liên minh công nhân- nông dân- trí thức, đó là nguyên tắc. Chỉ có Đảng mới vạch ra được đường lối đúng, cơ sở của khối đoàn kết dân tộc, của khối liên minh công nhân- nông dân- trí thức. Chỉ có Đảng mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc, mới điều chỉnh được lợi ích của giai cấp, và mới đủ phẩm chất, tài năng trí tuệ lãnh đạo đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, dân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng có hệ tư tưởng tiên tiến dẫn đường là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; có đường lối cách mạng đúng đắn, có bản lĩnh chính trị vững vàng; có quan hệ máu thịt với nhân dân; đại bộ phận cán bộ, đảng viên có phẩm chất tốt đẹp,nêu cao tinh thần hy sinh, chiến đấu suốt đời phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc. Đảng có khả năng tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động và mọi lực lượng yêu nước, tiến bộ, tổ chức đấu tranh thực hiện các mục tiêu chung của giai cấp và dân tộc. Cần tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy trách nhiệm của Nhà nước đối với Mặt trận, khắc phục những quan điểm tư tưởng sai lầm coi Mặt trận là tổ chức tượng trưng. Mặt khác, mọi sự phủ nhận lập trường giai cấp công nhân, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và dân tộc chính là gián tiếp phủ nhận đại đoànkết dân tộc, và do đó, đều có hại cho việc củng cố, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc ta. Sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vượt qua đói nghèo, lạc hậu phải là sự nghiệp của từng cá nhân, của mỗi tập thể, của cả cộng đồng. Đó là con đường có thể khai thác mọi tiềm năng trong mỗi con người và trong cả xã hội tạo ra sức mạnh tổng hợp về vật chất, tinh thần, trí tuệ, tài năng đưa dân tộc tiến lên trên con đường văn minh, tiến bộ. Vì vậy đòi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Khơi dậy mọi tiềm năng, năng lực của cá nhân, của tập thể lao động và cả cộng đồng dân tộc, động viên, sáng tạo cho mọi nười Việt Nam phát huy ý chí tự lực, tự cường, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ra sức làm giàu cho mình, cho đất nước. Lợi ích của mọi người, của tập thể và toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp Lợi ích cá nhân bao gồm lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần. Đó là lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, văn hoá, được học hành, được chăm sóc sức khoẻ, dân chủ bình đẳng, công bằng xã hội cùng nhiều giá trị tinh thần khác. Chăm lo đến lợi ích cá nhân này là động lực trực tiếp góp phần quan trọng trong việc tăng cường khối đoàn kết dân tộc xây dựng và bảo vệ những thành quả của sự nghiệp đổi mới trước những thách thức có tính chất sống còn của dân tộc ta. Việc chăm sóc và phát triển những nhu cầu, năng lực phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân là hoàn toàn cần thiết. Song không thể tuyệt đối hoá cá nhân, mà phải giải quyết cho đúng mối quan hệ giữa cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng, lợi ích chung toàn xã hội… Sự hài hoà, thống nhất giữa lợi ích quốc gia, dân tộc - giai cấp, cộng đồng- gia đình phải được coi là nguyên tắc chiến lược. "Nội dung đoàn kết ngày nay gắn với cơ sở kinh tế, xã hội và phải giải quyết hài hoà lợi ích của giai cấp và tầng lớp xã hội"[33-63]. Chỉ có như vậy khối đại đoàn kết dân tộc mới phát triển bền vững. Tôn trọng, khuyến khích lợi ích của cá nhân không đồng nghĩa với dung nạp chủ nghĩa cá nhân. Tôn trọng lợi ích cá nhân, coi trọng lợi ích cá nhân là cần thiết, đúng đắn. Nhưng thực tế cho thấy từ lợi ích cá nhân dễ rơi vào chủ nghĩa cá nhân. Chính vì vậy, để kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, phải thực hiện phương châm đoàn kết - đấu tranh - đoàn kết. Phương châm đoàn kết - đấu tranh - đoàn kết cần được áp dụng triệt để thường xuyên, nhiều mặt, thận trọng để giải quyết mối quan hệ trong nội bộ dân tộc, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc phục vụ đắc lực cho việc thực hiện nhiệm vụ lịch sử. 3.2.3. Đẩy mạnh việc phát triển các thành phần kinh tế, đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Nghiên cứu một cách có hệ thống quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ cho thấy, sự quá độ từ xã hội tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội, tuy đã được các ông đặt ra, nhưng đây là một loại hình quá độ chưa được trình bày đầy đủ. Vì vậy, chúng ta phải đi sâu nghiên cứu những tư tưởng đó của các ông, đặc biệt về phương diện kinh tế - xã hội để vận dụng một cách sáng tạo, đồng thời bổ sung, phát triển trong điều kiện mới của nước ta. Trên cơ sở phân tích đặc điểm của thời đại ngày nay và những đặc điểm của các quốc gia đi lên chủ nghĩa xã hội như nước ta, phải thực hiện một mô hình kinh tế mà trong đó tồn tại đồng thời nhiều loại hình sở hữu khác nhau mới có khả năng thúc đẩy nền kinh tế phát triển năng động, khai thác tốt nhất mọi tiềm năng, thế mạnh kinh tế - xã hội phục vụ cho sự phát triển đất nước. ở nước ta hiện nay, mặc dù nền kinh tế - xã hội đang vận động theo con đường của giai cấp công nhân, định hướng lên chủ nghĩa xã hội, song vấn đề đặt ra là phải phù hợp với đặc điểm dân tộc. Điều đó có nghĩa: không phải là xoá bỏ ngay chế độ tư hữu để thiết lập sở hữu công cộng với tính cách là chế độ sở hữu duy nhất, mà bên cạnh việc củng cố và tăng cường khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, làm cho kinh tế nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo trong kinh tế, khuyến khích phát triển các ngành, xí nghiệp, cơ sở sản xuất cần thiết thuộc sở hữu tư nhân làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn. Như thế chế độ sở hữu ở nước ta trong thời kỳ quá độ là thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hưũ trên cơ sở bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Việc Đảng và Nhà nước ta xây dựng và thực hiện mô hình kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá nhiều hình thức sở hữu với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, việc Nhà nước nắm trong tay những tư liệu sản xuất chủ yếu, chi phối toàn bộ nền kinh tế - xã hội, có thể nói rằng đó là những biểu hiện của việc vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chế độ sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng thời cũng là biểu hiện của đường lối phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp với đặc điểm của nước ta, một nước xuất phát điểm từ xã hội tiền tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng phải có lực lượng sản xuất hiện đại. Chỉ có lực lượng sản xuất đó chúng ta mới có thể tạo ra một năng suất lao động cao hơn và mới bảo đảm cho sự thắng lợi của phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Bản thân nền sản xuất của chủ nghĩa xã hội chủ yếu dựa trên chế độ công hữu chứ không phải chế độ tư hưũ về tư liệu sản xuất. Đây chính là điểm mấu chốt nhất để phân biệt chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản. Bên cạnh việc củng cố và tăng cường khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, việc sử dụng khả năng của các thành phần kinh tế khác như kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, đặc điểm là kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay là cần thiết để thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác, việc thực hiện một nền kinh tế nhiều thành phần với chế độ sở hữu đa dạng, trong đó vai trò chủ đạo thuộc về kinh tế nhà nước được coi là mô hình kinh tế phù hợp với điều kiện của nước ta trên con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới kinh tế của nước ta trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu quan trọng, tạo ra sự chuyển biến căn bản từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghãi. Kết quả đó là một thực tế được mọi người thừa nhận. Điều quan trọng là, chuyển sang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, nhưng không để đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Việc chúng ta tham khảo và vận dụng các hình thức và phương pháp quản lý nền kinh tế thị trường của các nước tư bản chủ nghĩa là vì lợi ích của chủ nghĩa xã hội, của dân tộc. Trên thực tế, mức tăng trưởng của nền kinh tế trong thời gian qua, nhất là giai đoạn 1991 - 2002 đạt được khá cao, trung bình mỗi năm tăng hơn 7%. Tuy nhiên, sự tăng trưởng kinh tế đó chủ yếu còn dựa vào một nền sản xuất nhỏ mang tính khai thác. Đó là sự nối tiếp của nền kinh tế chậm phát triển trong một cơ chế kinh tế mới. Sức tăng trưởng này khó có thể kéo dài và sức cạnh tranh sẽ rất thấp. Đặc biệt trong bối cảnh quốc tế hiện nay, nếu không bảo đảm tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, ổn định, thì sự tụt hậu kinh tế là không tránh khỏi và đó là nguy cơ lớn nhất đe doạ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Vì vậy, chúng ta phải tiếp tục đổi mới, phát huy mọi khả năng các thành phần kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở - vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý. Có như vậy mới nâng cao được đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, bảo đảm quốc phòng - an ninh được củng cố vững chắc. Phát huy mọi khả năng các thành phần kinh tế trong điều kiện mới của nước ta cần tập trung vào những vấn đề sau: Một là: Tập trung đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước và các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của Nhà nước như đất đai, ngân sách, lực lượng dự trữ và một phần vốn của Nhà nước đưa vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân: làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển; là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới. Tức là, chính vì lợi ích cả dân tộc, (thể hiện qua việc ổn định, phát triển kinh tế, đời sống nhân dân, xoá đói - giảm nghèo, cùng giàu có lên…) chứ không phải "kinh tế thị trường" chỉ có một nhóm giàu có như chủ nghĩa tư bản, mà giai cấp công nhân và Đảng cộng sản dứt khoát phải có chủ trương lãnh đạo, xây dựng kinh tế nhà nước làm chủ đạo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, mới có thể chủ động từ kinh tế mà giải quyết tốt nhiều vấn đề xã hội khác cho dân tộc. Điều này, về cơ bản giai cấp tư sản trong chủ nghĩa tư bản không làm được qua vài thế kỷ rồi! Để đáp ứng yêu cầu đó, cần tập trung các nguồn lực kinh tế của Nhà nước cho các ngành, lĩnh vực trọng yếu, mà ở đó, các doanh nghiệp nhà nước cần nắm giữ và thực hiện các chức năng xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất và thương mại, dịch vụ quan trọng; một số doanh nghiệp thực hiện những nhiệm vụ liên quan đến quốc phòng - an ninh. Đồng thời phải có những giải pháp như sắp xếp lại sản xuất, thực hiện cổ phần hoá… nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường, để kinh tế nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Hai là: Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức kinh tế hợp tác Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống. Trong điều kiện đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, sự hợp tác giữa những người sản xuất kinh doanh riêng lẻ, dưới nhiều hình thức đa dạng là một nhu cầu bức xúc và xu thế khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Kinh tế hợp tác ở nước ta được phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ để giúp những người sản xuất nhỏ có đủ sức cạnh tranh, mà về lâu dài trong đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Đảng ta chủ trương kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã ở miền núi, nông thôn và thành thị, là một bộ phận quan trọng, cùng với kinh tế nhà nước sẽ trở thành nền tảng của nền kinh tế. Đó cũng là nền tảng chính trị - xã hội của đất nước để đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong điều kiện hiện nay, những người lao động chỉ có thể hợp tác với nhau mới có thể giúp nhau tạo được sức mạnh trong sản xuất kinh doanh, góp phần tạo thêm việc làm và thu nhập, thực hiện việc làm giàu chính đáng đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội. Kinh tế hợp tác ở nước ta cần phát triển mạnh từ thấp đến cao, dưới nhiều hình thức đa dạng và cấp độ khác nhau, không phân biệt địa bàn hoạt động rộng hẹp, quy mô to nhỏ khác nhau. Chỉ có những hình thức hợp tác như thế mới hướng những người sản xuất nhỏ đi vào con đường phát triển kinh tế hàng hoá, đóng góp ngày càng nhiều vào việc phát triển nền kinh tế quốc dân. Mọi hình thức hợp tác cần được Nhà nước hướng dẫn giúp đỡ và có chính sách khuyến khích phát triển. Nghị quyết TW lần thứ V khoá IX đã khẳng định điều đó Ba là: Đa dạng hoá và áp dụng một cách phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước Đa dạng hoá các hình thức kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài. Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý… của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ, cũng như của công cộng xây dựng và phát triển đất nước. Kinh tế tư bản nhà nước là cầu nối giữa sản xuất nhỏ và sản xuất lớn, "nhịp cầu trung gian" đi lên chủ nghĩa xã hội. Con đường đó hết sức có ý nghĩa đối với nước ta, với một nền sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa, tuy đã có một số cơ sở kinh tế tư bản, nhưng chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ bé. Tư bản nhà nước cần được xem là một bộ phận của sức mạnh kinh tế độc lập để góp phần cùng với lực lượng kinh tế nhà nước tổ chức lại nền sản xuất nhỏ, cùng làm đối tác và đối trọng với tư bản nước ngoài. Bởi vậy, trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương áp dụng một cách phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Điều quan trọng là phải tạo ra môi trường đầu tư, liên doanh thuận lợi, tạo ra những sức hút về kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong quá trình hợp tác, liên doanh giữa Nhà nước với các nhà tư bản tư nhân trong và ngoài nước, để lôi kéo họ yên tâm đầu tư, hợp tác liên doanh lâu dài, có hiệu quả. Bốn là: Khuyến khích, hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển Kinh tế cá thể, tiểu chủ (của nông dân, thợ thủ công, người làm thương nghiệp và dịch vụ cá thể) bao gồm những đơn vị kinh tế và những hoạt động kinh doanh dựa vào vốn và sức lao động của từng hộ là chủ yếu. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí rất quan trọng lâu dài trong nhiều ngành, nghề ở nông thôn và thành thị. Nó có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả, tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Do đó, việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế cá thể, tiểu chủ không bị hạn chế. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, hướng dẫn nó phát triển. Các đơn vị kinh tế cá thể, tiểu chủ có thể tồn tại độc lập, hoặc tham gia các loại hình hợp tác, hoặc liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nhà nước dưới nhiều hình thức. Năm là: Khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài Kinh tế tư bản tư nhân là các đơn vị kinh tế mà vốn do một, hoặc một số nhà tư bản góp lại để sản xuất- kinh doanh và thuê mướn công nhân. Kinh tế tư bản tư nhân có hình thức là các xí nghiệp tư doanh hay xí nghiệp cổ phần. Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước. Cần có chính sách khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng, khoa học công nghệ, đào tạo cán bộ… đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn kinh tế tư bản tư nhân làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh. Không nên và không thể để cho sự khác biệt về lợi ích giai cấp trở thành sự cản trở, dẫn đến làm suy yếu sức mạnh của cách mạng Việt Nam. Nhà nước cần hình thành các công ty cổ phần với hình thức liên kết kinh tế với tư bản tư nhân thông qua góp vốn đầu tư nhằm tạo thế và lực cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển đủ sức là đối tác với các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là khi chúng ta mở rộng hợp tác kinh tế với bên ngoài. Để ngăn chặn tình trạng phát triển tự phát, cần có chính sách khuyến khích các nhà tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài, làm giàu hợp pháp cho bản thân, góp phần xây dựng đất nước và cùng nhân dân đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là tiêu chí quyết định tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế. Đồng thời phải đặt dưới sự quản lý của Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và cơ chế kế hoạch mới - cơ chế kế hoạch hướng dẫn, những đòn bảy kinh tế, khuyến khích thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, từng bước thực hiện công bằng xã hội, không ngừng nâng cao mức sống nhân dân. Thực hiện mục tiêu trên, nhiệm vụ cơ bản quyết định của sự nghiệp đổi mới trong những thập kỷ tới của nước ta là căn bản hoàn thành công nghiệp hoá, vì công nghiệp hoá tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, nước ta mới có điều kiện tạo ra nhịp độ phát triển kinh tế cao và bền vững, thực hiện các mục tiêu xã hội. Đó cũng là những điều kiện bảo đảm cho nước ta thực hiện con đường phát triển rút ngắn, tránh được các nguy cơ và thách thức to lớn, đặc biệt là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Kết luận QHGC - DT về thực chất là quan hệ giữa giai cấp cầm quyền trong xã hội với toàn thể dân tộc. Hồ Chí Minh là người đã thành công trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, giành độc lập cho dân tộc, đem lại quyền tự quyết cho nhân dân. Sự thành công của Hồ Chí Minh trong quá khứ và của Đảng Cộng sản trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hôm nay, như chúng tôi đã nghiên cứu ở trên có thể rút ra những kết luận sau: Thứ nhất: Hồ Chí Minh là người có phẩm chất thiên bẩm đặc biệt thông minh, tim nhân hậu, lòng dạ sắt son, tinh thần dũng cảm đã tạo ra ở người mầm mống thiên tài của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng. Đó là yếu tố nội sinh. Nhờ vậy Hồ Chí Minh đã tìm ra được hình thức phù hợp cho việc du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, hình thức đó chính là những luận điểm của Người về mối QHGC - DT. Thứ hai: Những luận điểm của Hồ Chí Minh về QHGC - DT (luận điểm 2.1 và 2.2) không chỉ là tư tưởng riêng của Người mà còn là sự chưng cất lâu đời của tư tưởng, văn hóa truyền thống Việt Nam. Đó là sản phẩm của sự giao lưu văn hóa Việt Nam - thế giới trong thời đại mới, mà Hồ Chí Minh là người kết nối. Thứ ba: QHGC - DT trong tư tưởng Hồ Chí Minh có một sự kết hợp rất cao giữa lý thuyết và thực tiễn. Hay nói cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối QHGC - DT là phương hướng vận động tất yếu của lịch sử Việt Nam. Đồng thời, trong mỗi hoàn cảnh nhất định, tư tưởng ấy là những lát cắt của lịch sử Việt Nam. Thứ tư: Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành công ít, nhiều trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối QHGC - DT vào sự nghiệp đổi mới. Với kết quả đã đạt được, chúng tôi đề nghị tiếp tục nghiên cứu đề tài này theo hướng: nghiên cứu, phát triển hơn nữa chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối QHGC - DT; Tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới để tìm ra bước đi cụ thể cho việc vận dụng lý luận QHGC - DT vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Tài liệu tham khảo A. Tài liệu kinh điển : 1. Hồ Chí Minh : Toàn tập, gồm 12 tập, xuất bản lần thứ hai; NXB Chính trị quốc gia – Hà Nội 2. Mác - Ăng ghen : Tuyển tập, gồm 6 tập, xuất bản vào các năm từ 1980 đến 1984, NXB Sự thật, Hà Nội. 3. V.I Lênin : Toàn tập, NXB tiến bộ Matxcơva Tập 35, tập 37, tập 39, tập 41, xuất bản 1977 B. Tài liệu về Hồ Chí Minh : 4. Bản nghiên cứu lịch sử Đảng : Bác Hồ thời niên thiếu; NXB Sự thật; Hà Nội – 1989 Tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh 5. Bản nghiên cứu lịch sử Đảng : Chủ tịch Hồ Chí Minh – Tiểu sử và sự nghiệp, NXB Sư thật – Hà Nội 1975 Trung ương 6. Phạm Văn Đồng : Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh; NBX Chính trị quốc gia – Hà Nội 1998 7. Ep-ghe-nhi-cô be lep : Đồng chí Hồ Chí Minh; 2 tập; NXB Thanh Niên – Hà Nội – 1985 8 . Võ Nguyên Giáp : Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam; NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1997. 9. Trần Văn Giàu : Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội 1997. 10. Hồng Hà : Bác Hồ trên đất nước Lênin; NXB Thanh Niên; Hà Nội – 1980. 11. Trần Văn Hải : Tìm hiểu nền tảng văn hoá dân tộc trong tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh; NXB Hà Nội – 1996. 13. Lê Hữu Nghĩa : Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh; NXB Lao động – Hà Nội 1997. 14. Mạch Quang Thắng : Một số chuyên đề về môn học tư tưởng Hồ Chí Minh; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội – 1996. 15. Nguyễn Đình Thuận : Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc (1911 – 1945); NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội - 2002. 16. Trần Dân Tiên : Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch; NXB văn học; Công ty xuất bản đối ngoại; Hà Nội – 1985. 17. Chu Đức Tính : Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giải quyết vấn đề dân tộc – dân chủ trong cách mạng Việt Nam (từ 1930 – 1954); (Luận án Tiến sĩ); Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Hà Nội – 2000. 18. UNESCO và Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam : Hội thảo quốc tế về chủ tịch Hồ Chí Minh. NXB Khoa học xã hội; Hà Nội 1990. C. Các tài liệu khác. 19. Lưu Gia Ban : Chủ nghĩa yêu nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội 2000. 20. Ban gnhiên cứu lịch sử công đoàn Việt Nam : Lịch sử phong trào công nhân và công đoàn Việt Nam (1860 - 1945); NXB lao động - 1977. 21. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương : Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam – Sơ thảo; Tập I 1920 – 1954; NXB Sự thật – 1981. 22. Ban tư tưởng văn hoá Trung ương : Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng cộng sản Việt Nam; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội – 2002. 23. Phan Hữu Dật; Lâm Bá Nam : Chính sách dân tộc của các chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam (X-XIX); NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội 2001. 24. Đảng cộng sản Việt Nam : Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư; NXB Sự thật; Hà Nội – 1997. 25. Đảng cộng sản Việt Nam : Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI; NXB Sự thật; 1987. 26. Đảng cộng sản Việt Nam : Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII; NXB Sự thật; Hà Nội 1991 27. Đảng cộng sản Việt Nam : Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội –1996 28. Đảng cộng sản Việt Nam : Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội - 2001. 29. Võ Nguyễn Giáp : Tư nhân dân mà ra (Hồi ký); NXB Quân đội nhân dân; Hà Nội – 1964 30. Võ nguyên Giáp : Những năm tháng không thể nào quên (Hồi ký); NXB Quân đội nhân dân; Hà Nội -1970. 31. Joyce Kolko : Cải cách cơ cấu kinh tế thế giới – Học viên chính trị quốc gia Hồ Chí Minh dịch; Hà Nội -1991. 32. Nguyễn Quang Ngọc : Cơ cấu xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội - 1998. 33. Nhà xuất bản chính trị quốc gia : Lược sử mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt Nam; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội - 1995. 34. Richard Bergerom : Phản phát triển – cái giá của chủ nghĩa tự do; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội 1995. 35. Nguyễn Anh Thái (Chủ biên) : Lịch sử thế giới hiện đại; NXB giáo dục – 1998. 36. Trần Hữu Tiến ; Nguyễn Ngọc Long; Nguyễn Xuân Sơn : Quan hệ giai cấp – dân tộc – quốc tế; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội – 2002. 37. Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam : Lịch sử Việt Nam; gồm 2 tập; NXB Khoa học xã hội – Hà Nội; Tập I xuất bản năm 1976; Tập II xuất bản năm 1985. 38. Viện khoa học xã hội Việt Nam : Lịch sử tư tưởng Việt Nam – Tập I; NXB Khoa học xã hội; Hà Nội 1993. 39. Vụ biên soạn Ban tuyên huấn Trung ương : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Trích văn kiện Đảng); Tập I (1930 – 1945); NXB Sách giáo khoa Mác Lênin – 1978. 40. Nguyễn Hữu Vui : Lịch sử triết học; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội 1998.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32186.doc
Tài liệu liên quan