Luận văn Xây dựng thị trường giao sau nhằm phòng ngừa rủi ro biến động giá cà phê tại Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu cà phê lớn nhất trên thế giới,kim ngạch xuất khẩu cà phê hàng năm chiếm tỷ trọng đáng kể trong GDP của quốc gia. Thế nhưng hiện nay ngành cà phê Việt Nam vẫn tồn tại những phương thức kinh doanh mua bán cũ, không phù hợp để có thể cạnh tranh với các nước trên thế giới, nền sản xuất trong nước phụ thuộc vào biến động giá cà phê thế giới mà giá này được người mua là các doanh nghiệp chế biến cà phê nước ngoài “sắp đặt sẵn” cho doanh nghiệp xuất khẩu cà phê nước ta. Để có thể khắc phục điểm yếu và nâng cao khả năng chủ động trong sản xuất, ổn định lợi nhuận không chỉ của các doanh nghiệp kinh doanh cà phê mà còn của người nông dân thì việc xây dựng và phát triển thị trường giao sau cà phê là một trong những giải pháp khả thi và hữu hiệu trong việc phòng ngừa rủi ro biến động giá. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu tập trung vào sản phẩm cà phê nhân thô, tìm hiểu những tồn tại vướng mắc trong các khâu thuộc quy trình sản xuất kinh doanh nhằm tìm ra những giải pháp dựa trên việc ứng dụng hợp đồng giao sau để giảm thiểu tác động biến động giá cà phê, đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp và người nông dân. 3. Phương pháp nghiên cứu Bằng phương pháp phân tích nghiên cứu, tổng hợp thông tin từ các tài liệu, sách báo, Internet có liên quan đến ngành sản xuất kinh doanh cà phê, các công cụ phái sinh, để cho thấy tổn thất của ngành kinh doanh cà phê do ảnh hưởng của biến động giá và tác dụng của chiến lược phòng ngừa rủi ro biến động giá thông qua hoạt động của thị trường giao sau. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu Dựa trên tình hình thực tế của ngành sản xuất kinh doanh cà phê Việt Nam, đề tài đề xuất một số giải pháp khả thi trên nền tảng xây dựng và phát triển thị trường giao sau để giảm ảnh hưởng xấu của biến động giá cà phê đến ngành này. 5. Kết cấu của luận văn § Lời mở đầu. § Chương 1: Tìm hiểu những rủi ro gặp phải do biến động giá đến sản xuất nông nghiệp, đồng thời tìm hiểu về vai trò của thị trường giao sau. § Chương 2: Tìm hiểu thực trạng kinh doanh cà phê ở Việt Nam và khả năng ứng dụng thị trường giao sau cà phê tại Việt Nam. § Chương 3: Đề xuất các giải pháp liên quan đến xây dựng và phát triển thị trường giao sau nhằm phòng ngừa rủi ro biến động giá cà phê. § Kết luận

pdf74 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1794 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng thị trường giao sau nhằm phòng ngừa rủi ro biến động giá cà phê tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 thuật phân  tích đo  lường, ước  lượng mô hình mô  phỏng biến động giá cả còn rất thiếu và yếu. Chỉ một bộ phận nhỏ các cán bộ trong  doanh nghiệp được đào tạo nhưng chưa có sự chuyên sâu. Vừa kinh doanh vừa học  do vậy những sai lầm mắc phải là không thể tránh khỏi.  Đội ngũ các nhà kinh doanh rủi ro trên thị trường thứ cấp chưa thật sự mạnh  về cả chất lẫn lượng. Do mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn  thấp, trên thị trường cón thiếu vắng các nhà đầu tư am hiểu kỹ về lợi ích cũng như  kỹ  thuật  tính  toán  lợi nhuận  từ các  loại nghiệp vụ này. Bên cạnh đó, các nhà môi  giới còn quá ít để thúc đẩy các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ thị trường này.  Kết luận chương II  Cũng như những mặt hàng nông sản khác của Việt Nam đều chỉ tham gia ở  khâu ít giá trị gia tăng, rủi ro cao và nhiều lệ thuộc, cà phê Việt Nam tuy chiếm giữ  thị phần xuất khẩu không nhỏ trên thế giới nhưng chủ yếu ở khâu trồng cấy và thu  gom sản phẩm thô, cà phê nhân được xuất cho các công ty nước ngoài. Họ chế biến,  chắt lọc, phân đoạn làm nhiều tầng, thu nhiều khoản lời và đóng nhãn mác của họ  bán cho người tiêu dùng. Vì chiếm giữ những phần ít rủi ro, lại nắm được thông tin  đầu nguồn nên họ chủ động  tránh được  thiệt hại. Phần bất  lợi đẩy về phía những  doanh nghiệp xuất khẩu và được doanh nghiệp đẩy về khu vực sản xuất  là những  người nông dân trồng cà phê. Nếu không đảm bảo được lợi ích cho người trồng cà  phê thì khả năng họ chuyển sang canh tác cây trồng khác là điều chắc chắn, vấn đề  này về lâu về dài không có lợi cho nền sản xuất quốc gia nói chung và cho ngành  xuất khẩu cà phê nói riêng.  Vấn đề trước mắt là  làm  thế nào để giúp người nông dân  trồng cà phê yên  tâm sản xuất và có thể đương đầu với rủi ro biến động giá ngày càng gia tăng  thì 47  ngoài việc  thiết  lập  lại một mô hình sản xuất kinh doanh mới với  sự  liên kết chặt  chẽ giữa các khâu, chúng ta cần xây dựng và phát triển thị trường giao sau cà phê.  Bởi ít nhất cho đến lúc này, người nông dân đã dần mất niềm tin vào cung cách mua  bán,  giao  dịch  cũ  theo  kiểu  phi  thương mại  từ  các  đại  lý  thu mua  cà  phê  truyền  thống, việc họ sẽ tìm đến giao dịch với sàn cà phê Buôn Ma Thuột là điều tất nhiên.  Vấn đề còn lại là làm sao để họ đến với con đường ngắn nhất và trong thời gian sớm  nhất có thể.  Tuy nhiên với những hạn chế đã nêu ở trên trong việc triển khai  thị  trường  này thì  cần có những giải pháp  thích hợp để khắc phục những hạn chế đó. Trong  phần tiếp theo chúng ta sẽ đi vào một số giải pháp chính và giải pháp có tính định  hướng để xây dựng và phát triển thị trường giao sau cà phê tại Việt Nam.  Với những khó khăn như vậy nhưng chúng ta cũng vẫn cần phải  triển khai  giao dịch cà phê giao sau tại BCEC nhanh chóng vì hai lẽ: một là tăng công cụ bảo  hộ cho người sản xuất và kinh doanh cà phê; hai  là hiện tại, ngoài Nybot và Liffe  mà doanh nghiệp Việt Nam  thường  tham  gia, mới đây,  sàn  hàng hóa Sicom  của  Singapore cũng sang Việt Nam mời doanh nghiệp tham gia, nếu chúng ta chậm nữa  giao dịch cà phê kỳ hạn sẽ trở thành thị trường cho các sàn nước ngoài vào chiếm  chỗ. 48  CHƯƠNG III: XÂY DỰNG THỊ TRƯỜNG GIAO SAU CÀ  PHÊ TẠI VIỆT NAM ĐỂ PHÒNG NGỪA RỦI RO BIẾN  ĐỘNG GIÁ  3.1. Xây dựng thị trường giao sau trên cơ sở  triển khai giao dịch giao sau tại  Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột  3.1.1.  Thay đổi mô hình tổ chức sàn giao dịch  Sơ đồ 3.1: Cơ cấu tổ chức sàn giao dịch  v  Khối lãnh đạo:  ­  Giám đốc: gồm 1 giám đốc, có nhiệm vụ quản lý và điều hành hoạt động của  các phòng ban. Giám đốc là người đại diện pháp lý cho sàn giao dịch.  GIÁM ĐỐC  PHÓ GIÁM ĐỐC  PHÓ GIÁM ĐỐC  Trung tâm giao dịch  Trung tâm kiểm định ,  chuyển giao sản phẩm  Sàn  giao  dịch  cà  phê  Trung  tâm  thanh  toán bù trừ  Phòng  quản  lý  thành viên  Phòng công  nghệ  và tin học  Phòng  thông  tin  thị trường  Văn phòng tổng hợp  Phòng  quản  lý  kiểm định  Phòng chuyển giao  sản phẩm  Quản  lý  kho  hàng  hóa  Phòng pháp chế 49  ­  Phó Giám đốc: 2 Phó Giám đốc hỗ trợ cho Giám đốc trong việc quản lý hoạt  động của sàn.  v  Trung tâm Kiểm định và chuyển giao sản phẩm:  Bao gồm các phòng ban: phòng quản lý kiểm định, phòng chuyển giao  sản  phẩm, phòng quản  lý  kho hàng hóa có chức năng phục vụ quá  trình kiểm  tra tính  chuẩn hóa của hàng hóa (người bán có trách nhiệm đem nộp mẫu hàng hoá cho bộ  phận kiểm tra giám định chất lượng hàng hoá trước khi tiến hành giao dịch trên sàn)  và phục vụ quá trình giao nhận hàng.  v  Trung tâm Giao dịch:  Bao gồm các phòng ban: sàn giao dịch cà phê, Trung tâm thanh toán bù trừ,  phòng  quản  lý  thành  viên,  phòng  công  nghệ  và  tin  học  và  phòng  thông  tin  thị  trường.  ­  Sàn giao dịch: nơi diễn ra các giao dịch. Có nhiệm vụ tổ chức và điều hành  các phiên giao dịch. Các thành phần tham gia giao dịch trên sàn: ·  Người mua: bao gồm các doanh nghiệp sản xuất nhựa trong nước, các doanh  nghiệp  lọc  dầu  nước  ngoài  (mua  dầu  thô). Ngoài  ra,  còn  bao  gồm  tất  cả  những người có nhu cầu phòng ngừa rủi ro khi giá các nguyên vật  liệu đầu  vào cho quá trình sản xuất kinh doanh tăng. ·  Người  bán:  các  doanh  nghiệp  xuất  khẩu  hạt  nhựa  nước  ngoài,  các  doanh  nghiệp xuất khẩu dầu thô trong nước. Đây là những người có nhu cầu phòng  ngừa rủi ro giá và không có mục đích đầu cơ kiếm lời. ·  Nhà đầu cơ: là những người mua đi bán lại các hợp đồng giao sau để thu lợi  nhuận từ chênh lệch giá. Họ là những nhân tố chính tạo tính thanh khoản cho  thị trường, khiến cho mục đích tạo lập sàn giao sau để phòng ngừa rủi ro giá  cả trở nên gần với thực tiễn hơn. ·  Nhà môi giới trên sàn: thực hiện các giao dịch cho khách hàng, nhà đầu tư  đến giao dịch phải  thông qua nhà môi giới  trên sàn. Nhà môi giới ở đây có  thể là của công ty môi giới hoặc là nhà môi giới độc lập nhưng phải có tín chỉ  hành nghề do các tổ chức có liên quan cấp giấy chứng nhận. 50 ·  Công  ty môi giới  trên sàn:  có nhiệm vụ  tiếp nhận các hồ sơ giao dịch của  khách  hàng,  sau  khi  tiến hành  kiểm  tra  kiểm soát  tính  hợp  lý  của  các hợp  đồng phù hợp với các quy định giao dịch của sàn sẽ tiến hành đẩy lệnh giao  dịch lên sàn. ·  Người tạo lập thị  trường: có vai  trò đảm bảo cho lệnh mua và lệnh bán có  thể thực hiện ở một vài mức giá mà không có bất kỳ sự chậm trễ nào. Chính  họ làm tăng tính linh hoạt cho thị trường và tự tạo lợi nhuận cho mình thông  qua chênh lệch giá.  ­  Trung  tâm  thanh  toán  bù  trừ  (clearing  house):  theo  dõi  tất  cả  các  hoạt  động giao dịch trong ngày để tính toán các vị thế của mỗi thành viên. Từ đó loại trừ  các rủi ro tín dụng, quản lý các tài khoản.  ­  Phòng  quản  lý  thành  viên:  tìm và hướng dẫn cho khách hàng  các  thủ  tục  cần thiết khi tham gia giao dịch trên sàn.  ­  Phòng  thông  tin  thị  trường:  chịu  trách  nhiệm  thu  thập  và  phân  tích  các  thông tin về giá cả trên thị trường trong nước và thế giới. Phối hợp với các công ty  mô giới  của phòng giao dịch  cung cấp  cho  khách hàng những  thông  tin  cần  thiết  trên thị trường.  v  Khối  văn  phòng  tổng  hợp:  phòng  nhân  sự,  phòng  kế  toán,  bộ  phận  kỹ  thuật,….  v  Phòng nghiên cứu pháp chế: nghiên cứu ban hành các quy chế hoạt động  của sàn, sửa đổi các quy mô kích thước hợp đồng, đề xuất các mặt hàng mới tham  gia hợp đồng; xử lý các tranh chấp xảy ra giữa các bên giao dịch tại sàn; trực tiếp  chịu trách nhiệm trước ban giám đốc; ký quỹ giao dịch, đánh giá các giao dịch hàng  ngày và thực hiện thanh toán các giao dịch.  3.1.2.  Quy chế giao dịch tại sàn (điều khoản)  v  Quy định về thời gian làm việc của sàn: từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần( trừ  ngày nghỉ lễ theo quy định của pháp luật Việt Nam). Mỗi ngày có 1 phiên giao dịch  vào buổi chiều từ 14h đến 17h. 51  v  Quy định về chủng loại hàng hoá: Cà phê Robusta loại R2B.  v  Quy định cách yết giá: VND/kg và áp dụng cho tất cả các loại hợp đồng.  v  Quy định biên độ giao động giá trong ngày: 10 VND/kg  v  Quy định về khối lượng mỗi hợp đồng giao dịch: 2 tấn (1.000kg).  v  Quy định về khoản ký quỹ: Khi  tham gia hợp đồng giao sau, người mua  phải ký quỹ 20% giá trị hợp đồng. Mức ký quỹ duy trì sẽ là 10%, xuống dưới mức  này người tham gia hợp đồng sẽ phải nộp vào khoản ký quĩ cho đủ 20%.  Mức ký quỹ: do sàn giao dịch quy định và có thể thay đổi tuỳ theo tình hình  của thị trường.  v  Quy định về thanh toán và giao hàng: Vào ngày cuối cùng của hợp đồng,  nếu người bán quyết định không bù đắp vị thế hợp đồng (không chuyển nhượng lại  hợp đồng và quyết định mua hàng) thì sẽ phải  thực hiện việc giao hàng vào tháng  giao hàng bằng việc thực hiện “lệnh giao hàng” đến Sàn. Sau khi “Lệnh giao hàng”  được công bố  trên  thị  trường  thì  sàn có  trách nhiệm  tìm kiếm và  xác định người  mua theo phương pháp khớp lệnh liên tục. Người mua có thể là người đã mua hợp  đồng giao sau cà phê hoặc có thể là người mua trên thị trường giao ngay do Sàn tìm  được.  Cả người mua và người bán hoặc bên được ủy  thác (nếu có) phải cung cấp  đầy đủ thông tin để tiến hành giao dịch và giao nhận hàng. Điều này phục vụ cho  công tác thống kê, kiểm tra giao dịch của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước,  nhằm quản lý việc đầu cơ, thao túng thị trường. Ngoài ra, việc chuẩn hóa thông tin  còn nhằm mục đích ràng buộc nghĩa vụ của người mua và người bán khi tham gia  hợp đồng giao sau.  Nếu bên đối tác tham gia hợp đồng không cư trú thường xuyên tại Việt Nam  thì bắt buộc phải có bên ủy thác để chịu mọi trách nhiệm liên đới của hợp đồng.  ­  Thời gian giao hàng: hợp đồng giao sau dầu thô, hạt nhựa: được giao dịch  trong tháng liên tiếp. Sau ngày giao dịch cuối cùng một ngày là ngày giao hàng.  ­  Tháng giao hàng: là tháng ba, tháng năm, tháng bảy, tháng chín.  ­  Địa điểm giao hàng: 52 ·  Giao hàng tại kho của người bán nếu người mua và người bán ở trong cùng  một quốc gia. ·  Giao  hàng  tại  cảng  của  nước  xuất  khẩu  (người  bán)  nếu  người  mua  và  người bán ở hai quốc gia khác nhau. Chi phí vận chuyển từ kho của người  bán ra cảng do hai bên tự thoả thuận.  ­  Phương thức thanh toán: cách thức thanh toán do các bên tự thoả thuận.  ­  Ngày thông báo đầu tiên: Là ngày làm việc đầu tiên của 05 ngày làm việc  cuối cùng của tháng trước Tháng giao hàng.  ­  Ngày giao dịch cuối cùng:  là ngày làm việc cuối cùng của tháng giao dịch  trước tháng giao hàng. Mọi trạng thái giao dịch phải được đóng bằng một giao dịch  đối  ứng hoặc gia hạn  bằng một giao dịch mới  trước giờ đóng  cửa của  thị  trường  ngày hôm đó.  v  Quy định về hoa hồng và phí giao dịch:  Mức hoa hồng  trả  cho  người môi  giới  là  0.03%  trên  giá  trị một  hợp đồng  được giao dịch trên sàn. Phí giao dịch mà môi giới  trả cho sàn giao dịch là 5.60%  của mức hoa hồng mà môi  giới nhận được  từ  khách  hàng. Hoa hồng và phí  giao  dịch sẽ được trả vào ngày làm việc ngay sau ngày giao dịch.  Phí giao dịch mà người mua và người bán phải trả cho sàn là 0.05%  giá trị  hợp đồng trên mỗi hợp đồng được giao dịch trên sàn. Phí giao dịch này nộp sau khi  phòng đăng ký và lưu trữ phát hành hợp đồng giao dịch.  v  Kiểm định chất lượng hàng hóa  ­  Các giấy tờ yêu cầu gồm có: ·  Tờ khai quyền sở hữu ·  Hợp đồng mẫu có chữ ký bên bán ·  Lệnh giao hàng ·  Vận đơn hoặc hóa đơn chuyên chở  ­  Quy định về chất lượng hàng hóa:  Người bán phải chứng minh chất  lượng hàng hóa thông qua chứng chỉ chất  lượng hàng hóa của bộ phận kiểm định chất lượng hàng hóa tại sàn. 53  Chứng chỉ phải ghi rõ số lượng kiện hàng của mỗi lô hàng. Việc kiểm định  phải được hoàn tất trong vòng 5 ngày kể từ ngày nhận được mẫu hàng và chứng chỉ  chất  lượng phải gởi đến cho người mua  trước 10 ngày  làm việc  so với ngày cuối  cùng của khoảng  thời gian  yêu cầu giao hàng. Mỗi  lô  phải  trích  ra 3 mẫu và mỗi  mẫu đều phải có con dấu khu vực tồn trữ thuộc sàn giao dịch.  Một mẫu phải gởi đến  tay người mua để họ kiểm  tra chất  lượng, một mẫu  được bộ phận kiểm định lưu giữ, mẫu còn lại được lưu giữ tại sàn để có cơ sở giải  quyết tranh chấp về chất lượng hàng hóa khi giao hàng sau này. Các chứng chỉ chất  lượng phải thực thi đủ các yêu cầu trên nếu không sẽ không có giá trị pháp lý.  Nếu  hàng  hóa  khác  với  tiêu  chuẩn  quy  định  của  Sàn  sẽ  không  được  giao  hàng, phải trả lại cho người bán để đổi hàng đúng chất lượng, tiêu chuẩn trên. (trừ  trường hợp 2 bên chấp thuận phương thức thanh toán bù trừ bằng tiền mặt). Hàng  hóa được lưu trong kho hàng của Sàn là những hàng hóa đảm bảo đúng tiêu chuẩn,  chờ giao cho bên mua.  v  Quy định về thanh toán và xác định lợi nhuận  Đến ngày kết thúc giao dịch, nếu bên mua và bên bán thỏa thuận không giao  hàng thì có thể thanh toán bằng tiền mặt bằng cách tính chênh lệch giữa giá giao sau  vào  thời điểm ký hợp đồng giao sau và giá giao ngay  thời điểm hiện  tại để  thanh  toán. Trong vòng 15 ngày, người bán phải thanh toán cho người mua. Quá thời hạn  trên, khoản thanh toán trên sẽ được tính với lãi suất nợ quá hạn của ngân hàng.  Tất cả các hợp đồng được thanh toán và xác định lợi nhuận đều phải  thông  qua Trung tâm thanh toán bù trừ của sàn MADEX.  v  Bồi thường  Sàn giao dịch có quyền và các biện pháp theo luật hoặc các thỏa thuận khác  buộc khách hàng phải bồi thường hoặc chịu những bất lợi do tổn thất phát sinh do  các nguyên nhân sau: ·  Khách hàng không đáp ứng đầy đủ các điều khoản và điều kiện giao dịch. ·  Sự đại diện và bảo đảm của Khách hàng trong giao dịch không đúng sự thật. 54  (1b)  (3)  (1a)  (2) ·  Những thỏa thuận giữa khách hàng và Sàn không được thực hiện đầy đủ và  đúng hạn  Trường hợp bất khả kháng: Sàn sẽ không chịu trách nhiệm về mặt pháp lý  đối với Khách hàng về bất cứ những mất mát hay chậm trễ gây ra bởi những sự kiện  vượt quá khả năng kiểm soát của Sàn như hoả hoạn, động đất, lụt lội, đình công, nổi  loạn, chiến tranh, sự đứt đoạn về thông tin viễn thông, hỏng hóc máy tính và những  sự kiện tương tự được gọi chung là bất khả kháng.  v  Giải quyết tranh chấp  Mọi  tranh  chấp  phát  sinh  được  giải  quyết  trên  cơ  sở  thương  lượng  và  hòa  giải, trung gian hòa giải có thể là Ủy ban chứng khoán Nhà nước.  Trường hợp hòa giải không thành, cơ quan giải quyết sẽ là trọng tài kinh tế  hoặc tòa án theo sự thỏa thuận của hai bên để xét xử theo quy định của Pháp luật  Việt Nam.  v  Chuyển nhượng: trong khoảng thời gian được yêu cầu giao nhận hàng, bên  bán và bên mua có quyền yêu cầu chuyển nhượng cho bên thứ ba với điều kiện phải  thông báo cho Sàn giao dịch biết. Mọi trách nhiệm liên đới về chất lượng hàng hóa,  bên chuyển nhượng và bên được chuyển nhượng tự thỏa thuận với nhau.  3.1.3.  Quy trình giao dịch tại sàn cà phê Buôn Ma Thuột (sơ đồ)  Sơ đồ 3.2: Quy trình giao dịch tại Sàn giao dịch  Doanh nghiệp  xuất khẩu cà phê  Người nông dân  NHÀ MÔI  GIỚI TẠI  SÀN  Nhà đầu cơ 55  Quy trình:  (1a): Doanh nghiệp xuất khẩu cà phê tìm đến nhà môi giới  tại sàn giao sau  đặt mua các hợp đồng giao sau cà phê  (1b): Các hộ nông dân/nhà cung cấp đến gặp nhà môi giới tại sàn để bán giao  sau cà phê cho người cần mua.  (2) : Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và người nông dân/nhà cung cấp gặp  nhau và trực tiếp giao dịch thông qua môi giới.  (3)  : Ngoài ra, trên thị trường còn có các nhà đầu cơ cũng tham gia giao dịch  tại sàn để tìm kiếm lợi nhuận.  v  Quy trình thanh toán  Vào  cuối mỗi ngày  giao  dịch, phòng  thanh  toán  bù  trừ xác  định  giá  thanh  toán. Mỗi tài khoản sẽ điều chỉnh theo giá thị trường căn cứ vào biến động giá thanh  toán hàng ngày. Phòng thanh toán bù trừ sẽ tính toán chênh lệch giữa giá thanh toán  hiện tại và giá thanh toán ngày trước đó.  v  Quy trình giao nhận hàng – tiền  Hai ngày giao dịch trước ngày giao dịch cuối cùng: sàn giao sau sẽ nhắc nhở  bộ phận giao dịch yêu cầu khách hàng lượng thép như thoả thuận để đảo ngược vị  thế của họ hoặc mở các vị thế khác.  Ngày cuối cùng của giao dịch: Hợp đồng thanh toán sẽ kết thúc vào lúc 16h.  Thông báo giao nhận hàng: trước 17h ngày giao dịch cuối, bộ phận giao dịch  gửi thông báo giao hàng có nội dung như sau: ·  Mã khách hàng ·  Hợp đồng ·  Qui định mỗi  lô hàng: về địa điểm giao hàng, ngày giao hàng, đường kính,  chiều dài của lô hàng, thông tin khác theo quy định. 56  Sơ đồ 3.3: Quy trình giao hàng  (1) Người bán ra lệnh giao hàng  (2) Môi giới của người bán chuyển lệnh đến sàn giao dịch  (3) Người bán chuyển hàng đến kho hàng thuộc sàn giao dịch  (4) Kho hàng khi có kết quả của bộ phận kiểm định tiến hành gởi 3 mẫu và  chứng chỉ chất lượng cho sàn giao dịch. Nếu bộ phận kiểm định xác nhận hàng hóa  không đủ tiêu chuẩn thì khu tồn trữ sẽ gởi 2 mẫu hàng hóa cùng các văn bản chứng  minh chất  lượng hàng không phù hợp cho sàn giao dịch,  sàn giao dịch gởi 1 mẫu  cho người bán và yêu cầu người bán đổi hàng lại (quay lại bước 3)  (5) Sàn giao dịch chuyển 1 mẫu và chứng chỉ chất  lượng cho môi giới của  người bán. Gởi 1 mẫu cho người mua ra lệnh nhận giao hàng hoặc bị chỉ định nhận  giao hàng. Mẫu còn lại sàn giao dịch lưu lại.  (6) Môi  giới  gởi mẫu và  chứng chỉ chất  lượng  theo quy  định  của sàn  giao  dịch MADEX cho người mua. Môi giới gởi mẫu cho người bán.  (7) Người mua chấp nhận hàng được giao và gởi thông báo đến cho môi giới.  Nếu người mua không chấp nhận thì sàn giao dịch tiến hành xử lý tranh chấp theo  quy định của sàn.  (8) Môi giới phản hồi ý kiến của người mua cho sàn giao dịch.  (9) Sàn giao dịch thông báo chấp nhận giao hàng của người mua.  TT thanh  toán bù trừ  Người  bán giao  Môi  giới  Người  mua giao  sau  Môi  giới  SÀN GIAO  DỊCH  Kho hàng  (1)  (2)  (3)  (4)  (5)  (6)  (5)  (6)  (7)  (8)  (9)  (10  (11 57  (10)  và  (11) Người mua đến  kho hàng và  trung  tâm  thanh  toán bù  trừ  tiến  hành thủ tục nhận hàng và thanh toán theo quy định của sàn.  3.2. Xây dựng mô hình sản xuất –  xuất khẩu cà phê mới cho  thị  trường Việt  Nam nhằm phòng ngừa rủi ro biến động giá  Như đã đề cập trong phần 2.3, BCEC hiện nay chỉ thực hiện giao dịch giao  ngay, tuy vậy BCEC vẫn chưa thể dẫn dắt được thị trường do không kiểm soát được  thị trường sơ cấp, nghĩa là vẫn đứng ngoài các giao dịch mua bán cà phê của người  nông dân nên việc triển khai giao dịch giao sau như đề xuất  tại mục 3.1 sẽ không  đạt hiệu quả như mong muốn.  Để giảm thiểu rủi ro do biến động giá cả, đầu tiên và quan trọng nhất là cần  nhanh chóng triển khai giao dịch giao sau tại BCEC, bên cạnh đó cần thay đổi mô  hình sản xuất – xuất khẩu cà phê hiện nay thông qua việc thiết lập các đại lý nhận  lệnh để thu hút nông dân và các đại lý nhỏ lẻ vào tham gia giao dịch tại sàn có như  vậy mới phát huy được thế mạnh của sàn này.  3.2.1.  Thành lập các đại lý nhận lệnh của Trung tâm giao dịch cà phê Buôn  Ma Thuột  Hiện nay BCEC đang được đặt tại thành phố Buôn Ma Thuột thuộc Đak Lak,  trung  tâm  của vùng Tây Nguyên,  gồm 5  tỉnh Đăk Lăk, Đăk Nông, Gia Lai, Kon  Tum và Lâm Đồng. Diện tích sản xuất và sản lượng cà phê vùng Tây Nguyên chiếm  90% diện  tích  và  sản  lượng  của  cả  nước. Các  nông  trường,  chủ  trang  trại, hộ  gia  đình và công ty xuất khẩu cà phê lớn đều tập trung ở đây.  Khảo sát sơ bộ ngành cà phê Đăk Lăk, nơi chiếm hơn 70% diện tích cà phê  và 50% sản lượng cà phê của cả nước, trong đó 90% sản lượng cà phê của tỉnh tập  trung vào một số huyện chủ yếu – thường được gọi là vùng nguyên liệu như sau: 58  STT  Tên huyện  Số lượng thị trấn + thị xã  1  Huyện Ea H’leo  1 thị trấn và 11 xã  2  Huyện Cư M’gar  2 thị trấn và 15 xã  3  Huyện Krông Búk  1 thị trấn và 14 xã  4  Huyện Krông Pắc  1 thị trấn và 15 xã  5  Huyện Krông Năng  1 thị trấn và 11 xã  6  Huyện Đakmil  1 thị trấn và 9 xã  Trong đó chỉ có huyện Krông Pắc và Cư M’gar là giáp thành phố Buôn Ma  Thuột, do đó nếu người dân trực tiếp mang cà phê ký gửi tại Trung tâm giao dịch cà  phê Buôn Ma Thuột sẽ rất khó khăn vì khoảng cách địa lý từ vùng nguyên liệu đến  trung  tâm  đều  trên  50km  đường  đồi  núi  trong  khi  thiếu  thốn  phương  tiện  vận  chuyển và chi phí cao. Tình trạng tương tự cũng diễn ra  tại các tỉnh Gia Lai, Kon  Tum, Lâm Đồng và Đăk Nông. Nếu BCEC thiết lập một đơn vị trực thuộc tại mỗi  vùng này thì sẽ đáp ứng được nhu cầu ký gửi cà phê cho nông dân.  Hiện nay tại các vùng nguyên liệu đều có các doanh nghiệp lớn xuất khẩu cà  phê với đầy đủ hệ thống sân phơi và kho chứa. Tuy nhiên thường các doanh nghiệp  này không thực hiện mua tồn trữ cà phê vì lý do không đủ năng lực tài chính. Bên  cạnh đó hầu hết các huyện đều có các phòng giao dịch của các ngân hàng. Nếu có  thêm đại diện của BCEC và đơn vị kiểm định Vinacontrol thì chúng ta sẽ thiết lập  được một BCEC thu nhỏ (ta tạm gọi là đại lý nhận lệnh) với mục đích chính là nhận  ký gửi cà phê của nông hộ, hoạt động trên thị trường sơ cấp. Các đại lý nhận lệnh  của BCEC sẽ chuyên về giao dịch giao ngay và giao dịch kỳ hạn trong khi BCEC sẽ  chuyên về giao dịch giao sau.  Đây sẽ  là một hệ  thống  liên  kết  chặt  chẽ  với  nhau,  trong đó quy  trình  vận  hành sẽ như sau: 59  (1)  (5)  (4)  (3)  (1a)  (1b)  (2)  (6b)  (7)  (4) (7)  Sơ đồ 3.4: Quy trình vận hành của đại lý nhận lệnh  (1),(1a), (1b)  :  Người nông dân giao dịch với đại  lý nhận lệnh của BCEC  để đăng ký trở  thành thành viên bán của Trung tâm  (2)  :  Sau khi thu hoạch cà phê, người nông dân mang cà phê đến ký gửi tại  BCEC thông qua hệ thống kho của các DN xuất khẩu cà phê. Cà phê được phân loại  và kiểm định bởi đại diện của Vina Control, sau đó được cấp chứng thư chứng nhận  số lượng và chất lượng lô hàng ký gửi  (3)  :  Đại lý nhận lệnh của BCEC thông báo kết quả giao dịch về BCEC  (4)  :  Với  chứng  thư  kiểm  định,  người  nông dân  có  thể  đi  vay  vốn  ngân  hàng để trang trải nợ nần và một phần chi phí cho vụ mùa sau  (5)  :  Doanh nghiệp xuất khẩu mua cà phê của người nông dân  thông qua  môi giới của đại diện BCEC.  (6a), (6b)  :  Doanh nghiệp xuất khẩu vay tiền ngân hàng để thanh toán tiền  mua cà phê của nông dân.  (7)  :  Ngân hàng giải ngân  tiền  vay  vào  tài  khoản của người nông dân và  trích thu nợ gốc và lãi.  Mô hình này rất thuận lợi với những yếu tố sau:  Doanh nghiệp  xuất khẩu cà phê  BCEC  BUÔN MA THUỘT  Ngân hàng  Người nông dân  Đại lý nhận lệnh  của BCEC  (6a) 60  ­  Không tốn nhiều nhân lực, BCEC và đơn vị kiểm định chỉ cần đặt một nhân  viên của mình tại đại lý nhận lệnh.  ­  Người nông dân thuận tiện hơn trong việc mang hàng đến ký gửi tại hệ thống  kho liên kết của BCEC có sẵn tại vùng nguyên liệu.  ­  Các doanh nghiệp xuất khẩu trên địa bàn nắm rõ nguồn cung trên địa bàn để  có  kế hoạch  thực hiện  hợp đồng, chủ động được việc  vay  vốn  và chủ động được  nguồn nguyên liệu.  Đối  với  các  giao dịch  giao ngay,  các  đại  lý nhận  lệnh  có đầy  đủ  các  chức  năng  giống  như BCEC,  được  toàn quyền  thực  hiện  các  lệnh  nhập  kho,  xuất  kho  trong mua bán hàng và chỉ báo cáo lại số liệu giao dịch hàng ngày cho BCEC.  Riêng  đối  với các  giao dịch  giao sau,  các  thành  viên  có  thể  lựa chọn giao  dịch trực tiếp tại BCEC, giao dịch qua mạng hoặc tham gia đặt  lệnh tại các đại  lý  nhận lệnh, các đại lý sẽ chuyển các thông tin cần thiết liên quan đến giao dịch về trụ  sở chính là sàn giao dịch tại BCEC phục vụ cho việc đấu giá.  Như vậy với sự xuất hiện của các đại lý nhận lệnh, không những hỗ trợ đắc  lực cho việc triển khai hoạt động giao sau mà còn giúp BCEC trở thành trung tâm  của mọi giao dịch cà phê trong nước.  Người nông dân sẽ  là  lực  lượng chính  tham gia vào  thị  trường giao sau cà  phê ở nước ta. Tham gia thị trường này, nông dân có một lợi thế là họ nắm giữ hàng  hóa thật. Tuy nhiên, người nông dân chưa có nhận thức được tầm quan trọng và lợi  ích của công cụ giảm thiểu rủi ro trong môi trường cạnh tranh ngày hôm nay để từ  đó cải thiện cuộc sống.  Khó khăn của doanh nghiệp và nông dân là chưa có mối liên kết chặt chẽ đầu  vào và đầu ra. Do đó, việc xây dựng một mô hình mới để doanh nghiệp và nông dân  liên  kết  với  nhau  từ  khâu  sản  xuất  đến marketing  sản  phẩm  là  cần  thiết  để  giảm  những rủi ro biến động số lượng và chất lượng đầu ra hoặc đầu vào.  Dựa trên giải pháp đề xuất thay đổi mô hình tổ chức và cách thức hoạt động  của BCEC ở trên, ta sẽ thiết lập được mô hình sản xuất – kinh doanh mới cho ngành 61  cà phê Việt Nam,  trong đó BCEC nắm giữ  vai  trò  trung  tâm  trong  việc  chi phối,  điều tiết và kiểm soát thị trường.  Sơ đồ 3.5: Quy trình kinh doanh mới của ngành cà phê Việt Nam  Nông dân sản xuất nhỏ  (chiếm 80% diện tích  trồng cà phê)  Nông trường và trang trại  (chiếm 20% diện tích  gieo trồng)  Cà phê nhân xô  Thị trường nội địa  Thị trường quốc tế  Doanh nghiệp xuất khẩu cà phê  nhân  (95% tổng sản lượng sản xuất)  Hệ thống kho của BCEC tại mỗi vùng nguyên liệu  Đơn vị ủy thác  quản lý kho:  Doanh nghiệp xuất  khẩu cà phê nhận ký  gửi hàng  Đơn vị ủy thác  kiểm định:  kiểm định và phân  loại => phát hành  chứng thư  Đơn vị ủy thác  thanh tóan:  hỗ trợ cho vay 70%  trên giá trị hàng ký  gửi  Doanh nghiệp chế biến cà phê  rang xay  (5% tổng sản lượng sản xuất) 62  Tuy nhiên đây mới chỉ giải quyết vấn đề đầu ra cho người nông dân, còn các  vấn đề khác liên quan đến cách thức thu hoạch – khâu quyết định chất lượng và giá  cà phê trên thị trường thế giới – cũng cần có giải pháp bởi vì nếu chỉ đưa ra những  khuyến cáo để người dân không còn bán non và thu hái cà phê quả xanh thì rất khó.  Để giải quyết vấn đề này có lẽ VICOFA cần phải phát huy mạnh hơn nữa vai  trò  của mình.  3.2.2.  Phát huy vai trò của Hiệp Hội Cà Phê Ca Cao Việt Nam (VICOFA)  §  Đối với người nông dân:  Cái yếu kém và dễ gặp rủi ro của nhà nông, doanh nghiệp nông nghiệp hiện  nay bắt nguồn từ quy mô sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn. Sản xuất nhỏ lẻ đã ăn sâu  vào tiềm thức nhà nông từ bao đời nay, thể hiện rõ là không có sự liên kết, hợp tác  trong sản xuất, trong cộng đồng. Để hướng người nông dân thực hiện việc tổ chức  thu hoạch, phân loại và bảo quản cà phê đúng quy cách,VICOFA cần tổ chức lại sản  xuất,  làm sao để các nông hộ sản xuất cà phê đơn lẻ hiện nay đứng vào hàng ngũ  của Hiệp hội, từ đó thống nhất được một cách làm. Sau đó, áp dụng tiêu chuẩn VN  4193­2005  vào  xuất  khẩu,  người  sản  xuất  nào  không  bảo  đảm  tiêu  chuẩn  đó  sẽ  không bán được hàng cho bất kỳ doanh nghiệp  thành viên nào của Hiệp hội, việc  này cũng cần sự cam kết đồng  thuận và thực  thi  từ chính các doanh nghiệp  thành  viên.  Bên cạnh đó, để hỗ trợ nông dân trong khâu thu hái cà phê, Hiệp hội cần trao  đổi với Hội nông dân tại mỗi vùng nguyên liệu đề ra hướng thành lập đội bảo vệ rẫy  kiêm thu hoạch cà phê vào mỗi mùa trên cơ sở tận dụng lao động nhàn rỗi sẵn có tại  địa phương.  Một điểm cần chú ý là do đặc điểm của ngành sản xuất nông nghiệp chịu ảnh  hưởng  của  thời  tiết,  thiết  nghĩ  VICOFA  nên  thiết  lập  chế  độ  bảo  hiểm  đối  với  phương tiện sản xuất và sản lượng cà phê cho người nông dân. Cơ chế bảo hiểm vận  hành  trên cơ sở  tự nguyện và trong khuôn khổ quan hệ kết ước bình đẳng: người  được bảo hiểm ­ người nông dân ­ nộp một khoản phí bảo hiểm theo thoả thuận và 63  đúng kỳ hạn; người bảo hiểm cam kết sẽ bù đắp cho người được bảo hiểm theo một  mức nào đó được thoả thuận trước trong trường hợp tổn thất về tài sản, mùa màng  do nguyên nhân khách quan. VICOFA cần có đề xuất  lên Nhà nước về việc thành  lập quỹ này nhằm có sự bảo hộ và tài trợ kinh phí hoạt động từ phía Nhà nước.  §  Đối với doanh nghiệp xuất khẩu:  Trong thời gian tới hiệp hội cần phát huy vai trò là tổ chức liên kết các doanh  nghiệp thành một khối vững về tài chính, mạnh về tiềm lực có tác động bảo vệ các  doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nhỏ lẻ, làm sao để không còn tình trạng mạnh ai  nấy bán khiến giá đã giảm càng giảm thêm.  VICOFA có thể hỗ trợ bằng cách đứng ra tổ chức các cuộc hội thảo và mời  các chuyên gia, các giảng viên am hiểu sâu, có kinh nghiệm về quản trị  rủi ro, về  các công cụ phái sinh, trong đó có hợp đồng giao sau này cho các doanh nghiệp sản  xuất, kinh doanh cà phê. Về nguồn kinh phí cho đào tạo có thể dùng nguồn của hiệp  hội nếu có hoặc trên cơ sở đóng góp của các doanh nghiệp thành viên.  §  Đề xuất thành lập Quỹ hỗ trợ ngành cà phê  Vừa rổi Hiệp hội đề nghị Nhà nước hỗ trợ lãi suất cho một số DN mua để dự  trữ cà phê cho đến giờ có kết quả không được như mong muốn, một số ngân hàng  cũng không muốn làm điều đó.  Chúng ta có thể xem xét việc thành lập một Quỹ hỗ trợ ngành cà phê. Đây là  mô hình Brazil đang thực hiện là rất tốt, hiện nay Brazil có quỹ hỗ trợ ngành cà phê,  Chính phủ có quyền chọn bán, giữ được hàng tuỳ thuộc vào tính hình giá cả trên thị  trường. VICOFA có thể đề xuất  lên Chính phủ về việc thành lập Quỹ này với các  nguồn:  ­  Từ Ngân sách nhà nước, tập trung chủ yếu cho đầu tư kết cấu hạ tầng (giao  thông,  thủy lợi, phục vụ sản xuất, hỗ trợ xây dựng hạ tầng thương mại…); nghiên  cứu khoa học, khuyến nông, xúc tiến thương mại;  ­  Từ nguồn tài trợ ODA cho đầu tư cải tạo, thâm canh, thực hiện sản xuất an  toàn, bền vững;  ­  Nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp và nông dân. 64  Về tổ chức thực hiện, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với  các Sở Nông nghiệp và PTNT, Hiệp hội thực hiện.  3.2.3.  Thành lập một cơ quan dự báo chuyên nghiệp cho ngành cà phê  Hiện nay khâu dự báo nông sản ở Việt Nam gần như mới khởi đầu từ việc  Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn bắt đầu tổ chức hội thảo ngành hàng nông  nghiệp hàng năm từ năm 2007 tới nay,  trong khi  trên thế giới nhiều nước đã hình  thành các tổ chức phân tích, dự báo chuyên nghiệp từ hàng chục năm nay. Sỡ dĩ các  doanh nghiệp nhập khẩu có thể thao túng và ép giá các doanh nghiệp xuất khẩu của  Việt Nam vì họ nắm rất rõ tình hình sản xuất của chúng ta qua việc thống kê diện  tích cà phê của Việt Nam hiện có bao nhiêu và trong đó bao nhiêu đang trong kỳ thu  hoạch với những chi tiết cụ thể, độ chính xác cao, thậm chí họ biết tường tận từng lô  hàng của từng doanh nghiệp trong nước, giao tháng nào, giá bao nhiêu và lời lỗ bao  nhiêu để ép giá.  Lâu nay các cơ quan chức năng của Việt Nam dự báo sản lượng cà phê từng  niên vụ theo kiểu phỏng đoán chung chung, nên kết quả đều không chính xác, chính  vì vậy khi ta công bố dự báo sản lượng của Việt Nam hàng năm đều không ai tin mà  chỉ dựa vào thông tin của các hãng tư nhân nước ngoài khiến việc thao túng giá của  họ trở nên dễ dàng hơn. Cần có một cơ quan dự báo chuyên nghiệp cho từng ngành  nói chung và ngành cà phê nói riêng, khi số liệu càng chi tiết và chính xác bao nhiêu  càng có lợi cho ngành sản xuất cà phê nước nhà bấy nhiêu. Để thiết lập được một hệ  thống thông tin về ngành có độ chính xác cao cần có sự chia sẻ thông tin, dữ liệu  của các cơ quan quản lý như Tổng cục Hải quan, Bộ nông nghiệp,… và các cơ quan  khoa học như nhiều nước đang áp dụng. Ví dụ về việc thống kê toàn bộ sản lượng  xuất khẩu cà phê của Việt Nam từng tháng, từng niên vụ sẽ được cung cấp bởi Tổng  cục Hải quan. Bên cạnh đó cần có Chuyên gia tổng hợp và phân tích các số liệu có  được thì kết quả dự báo mới chính xác và hữu dụng.  Ngoài  ra  cơ  quan  này  còn  có  chức  năng dự báo  cung  cầu,  giá  cả,  tổ  chức  công tác thống kê, phân tích tình hình vụ mua và hoạt động của thị  trường cà phê 65  trong nước và quốc tế, dự báo diễn biến thị trường và năng lực sản xuất trung và dài  hạn  trong  nước  cũng  như  trên  thế  giới.  Cung  cấp  thông  tin  tập  trung  cho  các  tổ  chức, cá nhân có tham gia sản xuất, kinh doanh cà phê cả nước. Tạo sự đồng nhất  và chính xác về mặt thông tin. Đồng thời hỗ trợ cho nông dân về thông tin, dịch vụ  ngân hàng, khuyến nông,… giúp người nông dân quen dần với phương  thức mua  bán, giao dịch hiện đại trên thị trường giao sau.  3.3. Nhóm giải pháp giảm thiểu  rủi  ro biến động giá bằng việc phát  triển  thị  trường giao sau cà phê  3.3.1.  Xây dựng khung pháp  lý đồng bộ  và  hoàn  thiện  cho  các hoạt động  của thị trường giao sau  Hiện nay khung pháp lý để cho sàn giao dịch hàng hoá đối với mặt hàng cà  phê,  các  công  cụ  phái  sinh  nói  chung  và hợp đồng giao  sau  nói  riêng,  cũng như  khung pháp lý đối với các nhà kinh doanh khi tham gia thị trường giao sau cà phê ở  Việt Nam còn thiếu và chưa đồng bộ. Chưa có một quy định cụ thể mang tính chất  riêng cho hàng hoá nông sản. Mà mới chỉ  là những quy định chung các hàng hoá  khi chúng là sản phẩm được giao dịch trên sàn giao dịch. Như chúng ta đã biết mặt  hàng cà phê và các mặt hàng nông sản chịu rất nhiều nhân tố cả chủ quan lẫn khách  quan tác động do vậy nếu chỉ có những quy định chung thì rất khó có thể quản lý và  phù  hợp với  tình hình  kinh  doanh. Do vậy,  để  thị  trường giao sau  cà  phê  ở Việt  Nam phát triển và hoạt động có hiệu quả, trở thành một trong những công cụ quan  trọng trong chiến lược phòng ngừa rủi ro biến động giá của các doanh nghiệp sản  xuất, kinh doanh thì nhà nước cần thực hiện một số công việc sau:  ­  Thứ nhất, phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện. Khi có một hệ  thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, các thiết chế kinh tế nói chung, các thị trường  nói riêng mới được hình thành và bảo đảm từ phía Nhà nước, từ phía pháp luật. Hơn  nữa, giao dịch hợp đồng giao sau là một giao dịch tài chính phức tạp, việc phải có  hành lang pháp lý điều chỉnh sẽ giúp cho quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham 66  gia trên thị trường được bảo vệ, đồng thời giúp cho Nhà nước quản lý tốt hơn loại  thị trường mới mẻ này.  Do đó, chúng ta cần sớm hoàn chỉnh các thể chế quản lý Nhà nước thông qua  việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, quy định chi tiết và hướng dẫn thực  hiện các luật có liên quan đến sở giao dịch hàng hóa,  liên quan đến các giao dịch  qua thị  trường giao sau, nhất  là Luật Thương mại  thông qua ngày 14 tháng 6 năm  2005  (về mua bán hàng hóa qua  sở  giao dịch  hàng hóa, môi  giới  thương mại,  ủy  thác  mua  bán  hàng  hóa,  chế  tài  trong  thương  mại,  giải  quyết  tranh  chấp  trong  thương mại…), Luật giao dịch điện tử ngày 29 tháng 11 năm 2005. Triển khai thực  hiện các  luật: Luật  thương mại,  luật  cạnh  tranh,  luật doanh nghiệp,  luật giao dịch  điện tử và các pháp  lệnh, nghị định,  thông  tư có  liên quan tạo khung pháp  lý cho  hoạt động của thị trường giao sau cà phê được thuận lợi.  Đồng thời Nhà nước cũng cần sớm xây dựng và hoàn thiện cơ chế hoạt động  của  các sở giao dịch hàng hóa  (trước mắt  là các  trung  tâm giao dịch hàng hóa do  quy mô nhỏ)  đối  với  sản phẩm  cà  phê,  cũng như hoạt  động mua bán  cà  phê  của  những nhà sản xuất, kinh doanh qua sở giao dịch hàng hóa. Trong Luật Thương mại  năm 2005 có đề cập, sau đó Chính phủ đã có Nghị định 158/2006/NĐCP quy định  chi tiết về hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa. Tuy nhiên, Nghị  định này mới là những quy định chung.  Mới đây, Bộ Công Thương có Thông tư 03/2009/BCT hướng dẫn việc cấp  phép thành lập và chế độ báo cáo của sở giao dịch hàng hóa, nhưng về tổ chức và  hoạt động của các sàn giao dịch hàng hóa vẫn chưa có quy định cụ thể. Vướng mắc  lớn nhất hiện nay là khi doanh nghiệp Việt Nam tham gia giao dịch qua các sàn giao  dịch quốc  tế  cần  tuân  theo  những  thủ  tục  nào  cũng  cũng  chưa  thấy  đề  cập  trong  khung pháp lý hiện hành. Chẳng hạn, doanh nghiệp cà phê băn khoăn khi tham gia  giao dịch kỳ hạn thị trường giao dịch cà phê London có phải xin phép cơ quan chức  năng, hay mua bán trên các sàn quốc tế có đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đầu tư  vốn ra nước ngoài. Bởi muốn tham gia thị trường kỳ hạn phải có tiền đặt cọc, tiền  mua chỗ. 67  Về cách  thức hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa  thì Sở cần  được quyền  quản lý hoạt động mua bán cà phê của những nhà sản xuất, kinh doanh qua Sở bằng  việc đặt ra các quy tắc của Sở giao dịch nhưng phải đảm bảo đúng quy định của nhà  nước và pháp luật. Đồng thời, thực hiện tự do trong kinh doanh, đảm bảo công bằng  cạnh tranh, đề cao bình đẳng trước pháp luật, tôn trọng các quy luật khách quan của  nền kinh tế  thị  trường. Phát  triển Sở giao dịch hàng hóa đối với  sản phẩm cà phê  của Việt Nam trong sự tác động qua lại với các sở giao dịch hàng hóa trên thế giới,  góp  phần  thúc  đẩy  phát  triển  các  công  cụ  phái  sinh  tại  thị  trường  Việt  Nam  và  nhanh chóng hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần giảm chi phí giao dịch, đảm bảo lợi  ích của những người tham gia giao dịch mua bán qua Sở giao dịch hàng hóa.  ­  Thứ  hai,  cần  phải  tuân  thủ  nghiêm ngặt  các  quy  định  của  quốc  tế  về  tiêu  chuẩn hàng hóa. Bởi vì, chỉ có những hàng hóa đáp ứng đủ tiêu chuẩn quốc tế mới  được các Sở giao dịch hợp đồng giao sau  trên  thế giới chấp  thuận, mà  thị  trường  Việt Nam không thể tách ra khỏi thị trường quốc tế trong thời đại hiện nay.  ­  Thứ ba, phải có một cơ quan trực tiếp tham mưu cho Chính phủ ban hành các  chính  sách quản  lý  các  sàn  giao dịch hàng hóa  (như UBCK nhà nước đối  với  Sở  giao dịch  chứng  khoán:  hiện VN chỉ  có  hai  sở  giao dịch CK: HN  và  TP HCM).  Kinh nghiệm, như ở Trung Quốc  lúc đầu rất nhiều sàn giao dịch hàng hóa, nhưng  nay đã được gom lại còn ba đến bốn sàn giao dịch. Trung Quốc, Ấn Độ có hẳn cơ  quan quản lý các sàn giao dịch hàng hóa.  3.3.2.  Các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành nông sản tham gia phòng  ngừa rủi ro biến động giá  3.3.2.1.  Tăng cường sự hiểu biết về thị trường giao sau  Hiện nay các doanh nghịêp xuất nhập khẩu cà phê có hiểu biết  thiếu chính  xác về việc thực hiện hợp đồng giao sau. Các doanh nghiệp của chúng ta chủ yếu  xuất hàng trực tiếp theo giá trên sàn Liffe. Đây là một hình thức của bán giao ngay  hay còn gọi  là xuất hàng  thực. Tuy nhiên, rất nhiều nhân viên, cán bộ quản  lý đã  hiểu như thế là tham gia hợp đồng giao sau. Thực tế này xuất phát từ việc chính bản 68  thân các doanh nghiệp chưa có sự quan tâm đúng mức đến quản trị rủi ro, bên cạnh  đó với nguồn nhân  lực còn yếu về kiến  thức và  thiếu về kỹ năng  thì đa phần các  doanh nghiệp chưa thể chủ động trong việc nhận diện rủi ro biến động giá và chưa  thể xây dựng được các chiến lược phòng ngừa rủi ro mà hợp đồng giao sau đang là  công cụ khá hữu hiệu. Điều này dẫn đến tính bất ổn trong thu nhập và dẫn đến rủi ro  kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh cà phê của Việt Nam khá  cao. Đây  cũng  là một nguyên  nhân  làm  tăng  nguy  cơ  dẫn đến  kiệt quệ  tài  chính,  tăng nguy cơ phá sản của doanh nghiệp.  Chính vì vậy các doanh nghiệp cần phải  thay đổi  lại cách nhận thức và tìm  hiểu một cách đầy đủ và chính xác các đặc điểm của hợp đồng giao sau song song  với việc đào tạo nhân lực vì lợi ích của chính mình. Đây là một vấn đề lớn nhưng  không khó, quan trọng là có muốn làm hay không mà thôi. Còn về đào tạo để nâng  cao kiến thức, kỹ năng về quản trị rủi ro và phòng ngừa rùi ro bằng hợp đồng giao  sau chúng ta có thể thực hiện dưới các hình thức sau: bản thân các doanh nghiệp sản  xuất, kinh doanh cà phê có thể tự mình ký các hợp đồng đào tạo với các trường đại  học, các công ty tư vấn đào tạo trong và ngoài nước để đào tạo, bồi dưỡng các kiến  thức, kỹ năng về quản trị  rủi ro, các kiến thức, kỹ năng về các công cụ phái sinh,  trong đó có hợp đồng giao sau cho các nhà quản  lý, nhân viên của doanh nghiệp  mình. Còn đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê vừa và nhỏ thì có  thể một vài doanh nghiệp liên kết với nhau để cùng ký một hợp đồng đào tạo với  các trường đại học, các công ty tư vấn đào tạo trong và ngoài nước hoặc có thể cử  các nhà quản lý, nhân viên của mình tới các cơ sở này để đào tạo, bồi dưỡng.  Một  cách  chuyên  nghiệp  hơn,  sau  các  khóa  đào  tạo  các doanh nghiệp  cần  phải tự xây dựng cho mình một chương trình quản trị rủi ro nhằm điều chỉnh rủi ro  của biến động giá cả thị trường tùy theo đặc điểm kinh doanh của ngành mình. Nội  dung cơ bản của một chương trình quản trị rủi ro phải bao gồm việc kết hợp chuyển  đổi linh hoạt các quyết định kinh doanh với dự báo giá cả và sử dụng các công cụ  tài  chính hiện đại, được  thực hiện bởi một bộ phận chuyên  trách quản  trị  rủi  ro ở  doanh nghiệp. 69  3.3.2.2. Tích  cực  sử  dụng  công  cụ  bảo  hộ  bằng  hợp  đồng  giao  sau  do  ngân hàng cung cấp  Để  có  thể  đương  đầu  với  rủi  ro  biến  động  giá  ngày  càng  gia  tăng,  tránh  những tổn thất do thiếu thông tin họăc thông tin không chính xác, các doanh nghiệp  có  thể phòng ngừa  rủi ro bằng cách sử dụng công cụ hợp đồng giao sau hoặc các  hiện có trên thị trường VN. Bằng việc sử dụng các công cụ này, các DN và cá nhân  có thể chuyển bất cứ rủi ro nào họ không mong muốn cho các đối tác khác, thường  là các ngân hàng thương mại. Tất nhiên các ngân hàng này lại tiến hành chuyển các  rủi ro này cho các định chế tài chính nước ngoài.  Hệ thống liên kết giữa các ngân hàng môi giới và các doanh nghiệp cũng cần  đẩy mạnh hơn,  hai  tổ  chức này  có  quan  hệ  tương hỗ  lẫn  nhau,  sự  phát  triển  của  ngành này kéo theo sự lớn mạnh của ngành kia.  3.3.3.  Các ngân hàng tham gia vào thị trường giao sau  Để đưa nông dân vào  tham gia  sàn giao dịch  thì các quỹ  tài chính và ngân  hàng chính là nhịp cầu tốt nhất. Hầu hết người nông dân đều thiếu vốn nên sau khi  thu hoạch họ  thường ký gửi cho đại  lý để nhận  tạm ứng về  trang  trải các chi phí  phát sinh. Chính vì vậy ngân hàng cần hỗ trợ cho nông dân vay vốn thông qua cầm  cố lượng cà phê ký gửi tại hệ thống kho của BCEC, qua đó tạo điều kiện cho nông  dân chủ động trong việc chọn đối tác và thời gian cũng như giá tiêu thụ cà phê phù  hợp.  Đối  với  các  doanh nghiệp nhỏ đang  tham gia giao  dịch phòng ngừa  rủi  ro  trên các thị  trường giao sau nước ngoài hiện nay và sau này là  thị  trường giao sau  trong nước do tiềm lực tài chính không đủ mạnh nên thường không theo được mỗi  khi giá biến động bất lợi trong thời gian dài, do vậy lợi ích đem lại đã bị triệt tiêu.  Để doanh nghiệp có thể theo đuổi đến cùng chính sách phòng ngừa rủi ro của mình  cũng  cần có sự hỗ  trợ vốn từ phía các ngân hàng và các  tổ chức  tài chính với để  tham gia thị trường giao sau. 70  3.3.4.  Các quỹ đầu tư trong nước  Hiện nay thị  trường giao sau cà phê Việt Nam chưa phát triển nên các quỹ  đầu tư – những người làm thị trường này trở nên sôi động hơn, hấp dẫn hơn – chưa  có sự chú ý đến thị trường này. Tuy nhiên về lâu về dài đây sẽ là một thị trường đầy  tiềm năng. Với tư cách là một trong những chủ thể tham gia thị trường, các quỹ đầu  tư cũng cần có sự chuẩn bị sẵn về nhân lực với đầy đủ kiến thức để góp phần phát  triển thị trường giao sau một khi thị trường này hình thành.  3.3.4.1.  Đào tạo và mở rộng đội ngũ các nhà phân tích, quản lý  Quỹ đầu tư là kênh huy động vốn trung, dài hạn từ những nhà đầu tư nhỏ lẻ  để thành một tổ chức chuyên nghiệp trong đầu tư và quản lý vốn. Nguồn vốn này sẽ  được công ty quản lý quỹ phân bổ vào nhiều thị trường khác nhau, phù hợp với điều  kiện đầu tư trong bảng cáo bạch. Nhưng tính hiệu quả của quá trình đầu tư luôn là  mối quan tâm của hàng loạt các chủ thể đầu tư, đồng thời là chỉ tiêu xếp hạng cạnh  tranh quan trọng của quỹ. Do đó đội ngũ quản lý – phân tích cùng với đội ngũ tác  nghiệp giàu kinh nghiệm và có kiến thức chuyên môn vững vàng sẽ làm yên lòng  nhiều nhà đầu tư hơn. Điều này đòi hỏi quỹ đầu tư phải :  ­  Xây  dựng  chế  độ  đãi  ngộ  thích  đáng,  đảm  bảo môi  trường  làm  việc  thân  thiện và thúc đẩy sự sáng tạo trong tư duy của nhân viên.  ­  Không  ngừng  đào  tạo,  bồi  dưỡng,  nâng  cao  trình  độ  chuyên  môn,  tính  chuyên nghiệp cũng như trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán  bộ. Ngoài ra, luôn trau dồi công nghệ quản lý kinh doanh hiện đại, năng lực  đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác quản trị doanh nghiệp, tư vấn tái cơ  cấu doanh nghiệp, quy trình quản trị kinh doanh và hệ thống kiểm soát nội  bộ.  ­  Thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo chuyên ngành như thẩm định dự án,  tài  chính doanh nghiệp, quản  lý danh mục đầu  tư, quản  lý quỹ  đầu  tư…để  không ngừng bồi dưỡng kiến thức tác nghiệp cho quá trình đầu tư của quỹ. 71  ­  Khuyến khích thu hút và  trọng dụng các chuyên gia  tài chính – ngân hàng  trình độ cao từ các tổ chức, quốc gia trong khu vực và thế giới vào làm việc  tại Việt Nam…  3.3.4.2. Tăng  cường  sự  hiểu  biết  về  thị  trường  giao  sau  và  hoạt  động  quản lý đầu tư vào thị trường hàng hoá giao sau (manage future)  Để phát triển thị trường vốn theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu trúc (bao  gồm thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ phái sinh, thị  trường tập trung, thị trường phi tập trung…), vận hành theo các thông lệ quốc tế tốt  nhất, có khả năng liên kết với các thị trường khu vực và quốc tế thì tính hoàn thiện  trong kiến thức đầu tư của các chủ thể đầu tư luôn là mối quan tâm hàng đầu của  các nhà hoạch định. Đối với thị trường giao sau và hoạt động đầu tư vào thị trường  này cũng không ngoại lệ.  Giao dịch hợp đồng giao sau đầu tiên đối với mua bán cà phê được thực hiện  vào ngày 26/11/2004 giữa Cty đầu  tư xuất nhập khẩu Đắc Lắc (Inexim Dak Lak)  với  sàn  giao  dịch  Liffe  (London  Internationnal  Financial  Futures  &  Options  Exchange) mà Techcombank là môi giới (Ngân hàng Kỹ thương VN, nơi thực hiện  ký  quỹ).  Từ  đó  đến  nay,  đã  có  nhiều  DN  thực  hiện  phương  thức mua  bán  này,  nhưng qua khảo của Sở thương mại – du lịch thì đa số các doanh nghiệp đều bị thua  lỗ  trên  thị  trường giao dịch với  số  tiền ước  tính khoảng 31  tỷ đồng. Do đó để  thị  trường giao sau trở thành một kênh đầu tư, đầu cơ, phòng ngừa rủi ro biến động giá  quan trọng của thị trường vốn thì quỹ đầu tư cần:  ­  Tăng  cường phổ  cập  kiến  thức  về  thị  trường giao  sau  cho  các  nhà đầu  tư  thông qua các khóa đào tạo ngắn hạn, các buổi hội thảo chuyên sâu…  ­  Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn đáp ứng cho nhu cầu phát  triển của thị trường.  ­  Sự gia tăng hiểu biết về kiến thức giao dịch giao sau sẽ tạo điều kiện cho các  quỹ đầu tư tiếp cận được hoạt động managed futures một cách dễ dàng.  ­  Các buổi hội thảo chuyên đề là điều cần thiết để quỹ huy động vốn đáp ứng  nhu cầu đầu tư vào thị trường giao sau cà phê. 72  ­  Hợp tác, trao đổi kinh nghiệm với các quỹ khác có một phần danh mục cho  hoạt động managed futures.  Kết luận chương III  Để ngành cà phê Việt Nam phát triển một cách bền vững, để người nông dân  có thể sống được với cây cà phê của mình mà không phải thấp thỏm lo âu về giá cà  phê  liên  tục  biến động  thì ngoài việc  phải  xây  dựng một  quy  trình  sản  xuất  kinh  doanh mới  trong đó  thị  trường giao sau cà phê đóng một vai  trò quan  trọng  trong  phòng ngừa rủi ro biến động giá. Chính vì vậy hình thành và phát  triển thị  trường  giao sau có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát triển ngành cà phê nói  riêng và nền kinh tế nói chung.  Trên cơ sở thực tế tại Việt Nam người viết đã đưa ra các giải pháp cụ thể bao  gồm cả giải pháp thiết thực và giải pháp mang tính định hướng cho các đối tượng có  vai  trò quan trọng giúp thị  trường giao sau cà phê phát triển là Nhà nước  ­ các cơ  quan chức năng; người nông dân; doanh nghiệp; Hiệp hội cà phê; các tổ chức trung  gian ­ môi giới và các quỹ đầu tư. 73  KẾT LUẬN  Kinh tế thế giới luôn vận động không ngừng và có những biến động bất ngờ,  việc nghiên cứu để tìm ra những giải pháp tối ưu nhằm hạn chế rủi ro cho người sản  xuất và kinh doanh sẽ luôn là cần thiết. Theo đó đề tài được lựa chọn sẽ tập trung  vào ngành cà phê Việt Nam với mục đích đã được xác định là nghiên cứu, tìm hiểu  phương thức hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đề xuất những mô hình kinh  doanh hiệu quả dựa trên việc thiết lập thị trường giao sau cà phê nhằm đảm bảo cho  sự phát triển ổn định và bền vững của ngành này tại Việt Nam. Trong khuôn khổ đề  tài nghiên cứu, luận văn tốt nghiệp đã đạt được những nội dung sau:  Một  là,  khái  quát những  tác  động  do biến  động  giá  cả  đến  lĩnh  vực  nông  nghiệp, đồng thời mô tả được cấu trúc, cách thức hoạt động và vai trò của thị trường  giao  sau  đối  với  việc  phòng  ngừa  rủi  ro  biến  động  giá,  nhưng  hiệu  quả  của  thị  trường giao sau chỉ được phát huy với một mô hình kinh doanh hoàn thiện hơn cả  về quy mô, trình độ và hiệu quả với những hình thức mua bán hiện đại, phù hợp nền  kinh tế thị trường.  Hai là, phác thảo được hoạt động sản xuất kinh doanh thực tế của ngành cả  phê Việt Nam từ người nông dân đến khi xuất khẩu đi nước ngoài thể hiện rõ những  tồn tại, những hạn chế, khó khăn mà ngành này đang gặp phải. Từ đó nêu bật được  lợi ích và sự cần thiết của thị trường giao sau trong việc khắc phục những tồn tại đó  nhằm đảm bảo lợi ích cho người trồng và kinh doanh cà phê.  Ba là, thiết lập mô hình kinh doanh mới trên cơ sở ứng dụng hoạt động giao  sau cà phê tại Việt Nam. Để mô hình trên được hiện thực hóa sẽ đòi hỏi những nỗ  lực của nhiều phía trong hệ thống chính trị và kinh tế bao gồm vai trò của cơ quan  quản lý nhà nước trong việc lèo lái đưa thị trường giao sau phát triển đúng hướng đã  vạch ra và vai trò các nhà tạo lập thị trường nhằm đảm bảo thị trường giao sau thực  sự hoạt động hữu hiệu, phát huy được thế mạnh phòng ngừa rủi ro và tạo cơ hội tìm  kiếm lợi nhuận cho những người tham gia. 74  Tuy nhiên do sự hiểu biết của bản thân còn hạn hẹp trong nhiều lĩnh vực, do  vậy đề  tài không tránh khỏi những mặt hạn chế,  thiếu sót nhiều phần chưa đi  sâu  vào giải quyết cụ thể chi tiết, tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp của  Hội đồng khoa học cùng những ai quan tâm đến đề tài này để nội dung nghiên cứu  được hoàn thiện hơn, đóng góp thiết thực hơn cho ngành sản xuất kinh doanh cà phê  ở Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfxay_dung_thi_truong_giao_sau_nham_phong_ngua_rui_ro_bien_dong_gia_ca_phe_tai_viet_nam.pdf
Tài liệu liên quan