Lý luận chung về công nghệ và chuyển giao công nghệ

Để tăng khả năng thu hút chuyển giao công nghệ vào Việt Nam trong thời gian tới. Việt Nam phải thực hiện một chính sách đầu tư nước ngoài thông thoáng với nhiều ưu đãi về thuế, về sản phẩm, các ưu đãi về việc thuê quyền sử dụng mặt đất, mặt nước .Thực hiện những cải cách trong các thủ tục hành chính tránh gây phiền hà cho các nhà đầu tư nước ngoài, tạo ra những quy định hợp về việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài .những chính sách hợp lý của Đảng và Nhà nước sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Qua đó tiếp thu được những công nghệ cần thiết cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta. Để nâng cao hiệu quả của công nghệ thì vai trò của Nhà nước vô cùng quan trọng. Những biện pháp mà Nhà nước ta cần làm bao gồm: Một là, xây dựng chiến lược làm cơ sở cho sự chuyển giao công nghệ, đối thoại với các doanh nghiệp để cùng nhau xác định hướng chuyển giao công nghệ trong đó gồm có: chiến lược về thị trường và khách hàng, chiến lược sản phẩm, đổi mới sản phẩm và đa dạng hoá sản phẩm, chiến lược liên kết kinh tế, chiến lược đầu tư.ở một số nghành cần đảm bảo tính đồng bộ một cách khép kín ( từ sản xuất nguyên liệu, sơ chế đến chế biến thành sản phẩm cuối cùng).

doc36 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1418 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận chung về công nghệ và chuyển giao công nghệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hệ là một hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật chế biến vật chất, thông tin nên bản thân công nghệ có tính thông tin. Thông tin là một loại hàng hoá hết sức đặc biệt, nên đánh giá, định giá, xử lý, xác định quyền sở hữu và sử dụng nólà hết sức phức tạp. Nó đòi hỏi có sự can thiệp và bảo hộ của hệ thống luật pháp không chỉ ở phạm vi quốc gia mà cả trên bình diện quốc tế. 1.2 Nguồn gốc của công nghệ. Để phát triển kinh tế thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội,các quốc gia trên thế giới có hai cách để có công nghệ. Một là, tự nghiên cứu khoa học, triển khai ứng dụng hoặc cải tiến hoàn thiện các công nghệ truyền thống đang được sử dụng. Bằng cách này, người sở hữu công nghệ có được khả năng độc lập trong việc sử dụng công nghệ của mình và độc quyền nhất định trong sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm do công nghệ này tạo ra. Tuy nhiên, các nước đang phát triển thường không đủ khả năng về tài chính và nhân lực để hỗ trợ các nhà kinh doanh phát triển công nghệ theo cách này. Để có công nghệ tự nghiên cứu đòi hỏi thời gian khá dài và độ mạo hiểm cao. Hai là, mua công nghệ của nước ngoài thông qua các hợp đồng chuyển giao công nghệ. Ưu điểm của việc mua công nghệ là nhanh chóng có được công nghệ cần thiết đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước và khắc phục được nhược điểm của phương thức tự nghiên cứu. Tuy nhiên với phương thức này, nước chủ nhà phải phụ thuộc hoàn toàn hoặc một phần vào phía nước ngoài. Điều đó sẽ gây cản trở cả trong quá trình sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm. Trên thực tế, cả các nước phát triển và đang phát triển đều sử dụng kết hợp hai phương thức trên để có được công nghệ mà minh cần. Đối với các nước đang phát triển thì hình thức chủ yếu mà các quốc gia này thực hiện để có được công nghệ là thu hút công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài. Trong đó, thường là phía đối tác nước ngoài góp vốn, hoặc đưa công nghệ của mình vào đầu tư. Hình thức này tuy không phải không có những hạn chế nhưng ở thời điểm này nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nâng cao khả năng khoa học kỹ thuật công nghệ của các nước đang phát triển. 1.3. Khái niệm về chuyển giao công nghệ. Trên giác độ chung nhất, người ta cho rằng chuyển giao công nghệ là quá trình đưa (di chuyển ) công nghệ từ bên có công nghệ (người bán) sang bên nhận công nghệ (người mua). Trong cơ chế thị trường quá trình di chuyển ấy thường là quá trình trao đổi (mua –bán) một thứ hàng hoá đặc biệt là công nghệ. Có quan niệm lại cho rằng: chuyển giao công nghệ là hoạt động gồm hai chủ thể (hai bên). Trong đó, một bên bằng một hành vi pháp lý hoặc/và một hoạt động thực tiễn tạo cho Bên kia một năng lực công nghệ nhất định. Năng lực công nghệ là tập hợp những tri thức và giải pháp mà chủ thể có thể sử dụng để hoàn thành một mục tiêu nhất định. Có thể nói rằng, chuyển giao công nghệ là một quá trình bao gồm hai bên: Bên giao và Bên nhận công nghệ. Bên giao công nghệ gồm 1 hay nhiều tổ chức kinh tế, khoa học, công nghệ và các tổ chức khác có tư cách pháp nhân hoặc cá nhân ở nước ngoài có công nghệ. Bên nhận gồm một hoặc nhiều tổ chức kinh tế, khoa học hoặc các tổ chức khác có tư cách pháp nhân hoặc cá nhân tiếp nhận công nghệ. Tuy nhiên theo ESCAP thì chỉ có hoạt động chuyển giao công nghệ từ quốc gia này sang quốc gia khác mới được coi là hoạt động chuyển giao công nghệ. Như vậy, có thể nói thực chất của chuyển giao công nghệ là quá trình trong đó công nghệ được di chuyển qua biên giới các quốc gia. 1.4 Nội dung của chuyển giao công nghệ. Nội dung của chuyển giao công nghệ bao gồm: + Chuyển giao quyền sở hữu hoặc sử dụng sáng chế, sở hữu các giải pháp hữu ích hoặc các đối tượng sở hữu công nghiệp khác (kiểu dáng, nhãn hiệu hàng hoá...). + Chuyển giao công nghệ thông qua việc mua bán, cung cấp các bí quyết hoặc kiến thức kỹ thuật chuyên môn dưới dạng các phương án, các quy trình công nghệ, các tài liệu thiết kế, công thức bản vẽ sơ đồ, các thông số kĩ thuật, các kiến thức kĩ thuật chuyên môn. + Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ và tư vấn công nghệ như: - Hỗ trợ kĩ thuật, lựa chọn công nghệ, hướng dãn lắp đặt thiết bị, vận hành chạy thử dây chuyền công nghệ. - Nghiên cứu, phân tích, đánh giá, nghiên cứu cơ hội nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi các dự án đầu tư và đổi mới công nghệ. - Tư vấn và quản lý công nghệ, tổ chức vận hành các quá trình công nghệ-sản xuất. - Đào tạo, huấn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, kĩ thuật và quản lý của các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân. - Thực hiện nhiệm vụ về thu nhập, xử lý và cung cấp thông tin về thị trường công nghệ, pháp lý, tài nguyên và môi trường. Hầu hết các nước đang phát triển dựa vào việc nhập công nghệ,coi đó như một cách có lợi nhất để đạt được sự tiến bộ nhanh chóng về công nghệ làm tiền đề cho phát triển kinh tế . Tuỳ theo bối cảnh kinh tế, chình trị, xã hội có nước cho rằng phải dựa hẳn vào công nghệ nhập khẩu như: Philipine, Pakistan..., có nước dựa chủ yếu vào công nghệ nhập như: Hàn Quốc, Hồng Kông..., nhập hoàn toàn công nghệ của nước ngoài bằng cách cho thành lập những hãng riêng, sản xuất sản phẩm mang kiểu dáng nhãn hiệu của công ty mẹ như: Samsung,Goldstar..., hoặc doanh nghiệp đặt cơ sở sản xuất và đại lý ở nước mình, sản phẩm sản xuất vẫn mang tên và thuộc độc quyền của hãng sản xuất ở chính quốc như Honda... 2. Các luồng và các hình thức chuyển giao công nghệ. 2.1 Các luồng chuyển giao công nghệ. Chuyển giao dọc: Là luồng chuyển giao công nghệ từ khu vực nghiên cứu sang khu vực sản xuất nghĩa là đưa một kết quả nghiên cứu đã qua giai đoạn thử nghiệm vào ứng dụng trong thực tế. Ưu điểm của hình thức này là mang cho người sản xuất công nghệ hoàn toàn mới, nhờ vậy người có công nghệ có thể có được một sự độc quyền và khả năng dành thắng lợi trong cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, độ mạo hiểm cao. Để hạn chế rủi ro, phải đặc biệt chú ý xem xét những kết quả chắc chắn ở hai giai đoạn cuối cùng của sự triển khai. Chuyển giao nghang: Là luồng chuyển giao công nghệ hoàn thiện từ một doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác. Đây là những công nghệ đã được thử thách bằng những sản phẩm có uy tín trên thị trường. Ưu điểm của hình thức này là độ tin cậy cao, không có mạo hiểm. Tuy nhiên phải chấp nhận một sự phụ thuộc vào người bán, nhiều trường hợp mua phải công nghệ lạc hậu. Vì vậy khi áp dụng hình thức này phải tính toán kỹ lưỡng hiệu quả kinh tế, dự doán thời hạn tồn tại theo chu kỳ sốngcủa công nghệ, chú ý việc sản xuất sản phẩm thay thế sản phẩm do công nghệ này tạo ra trên thị trường. 2.2 Các hình thức chuyển giao công nghệ. Hiện nay trên thị trường chuyển giao công nghệ có một số hình thức chuyển giao công nghệ như sau: + Mua bán không kèm licence (li-xăng) : Licence là giấy phép để được quyền sử dụng các kiến thức kỹ thuật đã được cấp bằng bảo hộ và các kiến thức chưa được cấp bằng bảo hộ. + Mua bán có kèm licence. + Bán công nghệ kèm đầu tư vốn. Các quan hệ trên được thực hiện thông qua quan hệ trực tiếp giữa bên bán và bên mua, các cơ quan tư vấn trung gian, các hiệp định kí kết giữa các chính phủ. 2.3 Thị trường công nghệ quốc tế Công nghệ là một loại hàng hoá nên cũng được mua bán trên thị trường ở trong nước hoặc ở ngoài nước theo phương thức mua trực tiếp hoặc gián tiếp từ những nước có trình độ phát triển cao hơn sang các nước kém phát triển hơn. Phương thức mua bán trực tiếp bao gồm mua trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia, mua licence, thuê chuyên gia và người đấu thầu, gửi đào tạo chuyên gia kỹ thuật ở nứơc ngoài, có thể bao gồm cả các hoạt động mua phần cứng của công nghệ. Phương thức mua bán gián tiếp thông qua các cuộc hội thảo và hội nghị khoa học quốc tế, các hội trợ triển lãm ( là cơ hội để ký hợp đồng mua bán công nghệ ), xuất bản phẩm (sách báo và các bản mô tả sáng chế), đi công tác nước ngoài của các chuyên gia công nghệ, các nhà kinh doanh, các cuộc tham quan khảo sát, các hoạt động tình báo công nghiệp và tình báo khoa học kỹ thuật. Do xu thế quốc tế hoá nền kinh tế, do lợi ích của người có và người mua công nghệ nên phương thức chuyển giao công nghệ đi kèm đầu tư vốn ngày càng tăng cường. chuyển giao công nghệ và đầu tư quốc tế có mối quan hệ gắn bó với nhau. 3. Tác động của chuyển giao công nghệ vào nền kinh tế. Đối với các quốc gia đang phát triển thì việc càng thu hút, tiếp nhận càng nhiều công nghệ hiện đại vào nước mình thì càng có lợi cho nền kinh tế. Tuy nhiên tác động của chuyển giao công nghệ đối với cả bên nhận công nghệ và bên chuyển giao công nghệ rất phức tạp. Nó ảnh hưởng tới rất nhiều mặt của nền kinh tế nhất là đối với các nước tiếp nhận công nghệ. Việc chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài thường được thực hiện nhiều nhất trong các quan hệ chuyển giao công nghệ hiện nay trên thế giới. Tác động của nó tới các doanh nghiệp cũng như các quốc gia nhận công nghệ như sau: 3.1. Đối với công ty nhận công nghệ Tác động tích cực: Các công ty này sẽ tiết kiệm được các chi phí cho nghiên cứu và triển khai, nhanh chóng có được một loại sản phẩm mới mà không phải gánh chụi rủi ro do nghiên cứu và phát triển, có được kỹ năng công nghệ mới và đội ngũ lao động của công ty được đào tạo thêm những lĩnh vực mới, được đối thoại thường xuyên với người có kinh nghiệm trong việc chuyển giao công nghệ, có điều kiện để thiết lập các quan hệ với các công ty nước ngoài...Thông qua đó mà đạt được những tiến bộ về thương mại và kỹ thuật, tiếp cận với các sáng kiến, cải tiến mới trên thế giới. Tác động tiêu cực: Sự tiến bộ về kỹ thuật thường đi đôi với sự lệ thuộc,không làm chủ được công nghệ tiếp nhận, có thể bị thất bại về kỹ thuật, thương mại do có sự kém cỏi của bên cung cấp công nghệ như không có kinh nghiệm cần thiết trong chuyển giao công nghệ đó, thiết bị chuyển giao đến chậm, đánh giá sai về thị trường, đánh giá sai về giá trị của công nghệ gây thiệt hại không đáng có cho doanh nghiệp, tiếp nhận công nghệ không phù hợp, Bên chuyển giao không thực hiên theo đúng thoả thuận trong hợp đồng, doanh nghiệp có những sơ hở bị bên nước ngoài lợi dụng... 3.2. Đối với quốc gia nhận công nghệ Tác động tích cực: Các quốc gia nhận công nghệ sẽ có cơ hội để nâng cao năng suất lao động, giải quyết thêm việc làm, từ đó góp phần tăng thêm thu nhập quốc dân. Giảm nguy cơ đói nghèo và tụt hậu của các nước tiếp nhận. Chính phủ có thể tiết kiệm được ngoại tệ thông qua việc sản xuất ra sản phẩm thay thế nhập khẩu, phát triển thêm các ngành nghề mới và tăng thêm thu nhập của chính phủ, tạo điều kiện sử dụng các nguyên vật liệu ở trong nước để phát triển công nghiệp, tạo điều kiện để phát triển kỹ năng lao động và tạo môi trường tốt cho đầu tư nước ngoài. Những tác động tiêu cực: Các quốc gia tiếp nhận công nghệ có thể tiếp nhận phải công nghệ gây ô nhiễm môi trường, công nghệ đòi hỏi quá nhiều vốn, chi phí quá nhiều ngoại tệ do đòi hỏi trang bị và nguyên liệu nước ngoài. Sử dụng quá nhiều năng lượng, không phù hợp với điều kiện tự nhiên và trình độ phát triển của địa phương, nhập khẩu trùng lặp... 3. 3. Tác động đối với bên cung cấp: Tác động tích cực: Bên cung cấp công nghệ có cơ hội để cải tiến và làm thích ứng công nghệ với điều kiện nước sở tại (điều kiện tự nhiên) tăng thu nhập từ việc bán công nghệ, nguyên vật liệu, các phụ tùng thay thế, từ trợ giúp kỹ thuật và các dịch vụ khác mà không cần sản xuất sản phẩm, sử dụng lao động rẻ và lành nghề, tài nguyên địa phương, thông qua đó mà giảm chi phí sản xuất, tiếp cận nhanh chóng các thi trường mới, tạo ra uy tín khách hàng mới, thâm nhập lẫn nhau về công nghệ, mở đường vào các thị trường được bảo hộ... Tác động tiêu cực: Bên cạnh những tác động tích cực, hoạt động chuyển giao công nghệ gây ra không ít rủi ro đối với bên cung cấp công nghệ. Đó là tăng thêm tình trạng cạnh tranh do có thêm những đối thủ cạnh tranh mới có thể nguy hại đối với nhãn hiệu sản phẩm của bên cung cấp, giảm bớt các tiếp xúc với khách hàng do không bán sản phẩm, các bí quyết công nghệ được chuyển giao càng nhiều thì nó trở thành phổ biến trong quần chúng, thời kỳ hoàng kim của công nghệ càng ngắn đi. 4. Tính tất yếu của chuyển giao công nghệ Chuyển giao công nghệ là một tất yếu khách quan, do các lý do cơ bản sau đây: Do sự phát triển không đều về lực lượng sản xuất và khoa học công nghệ giữa các quốc gia. Do đòi hỏi của thực tiễn công nghệ trong quá trình hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và toàn cầu và nhu cầu phát triển ở từng quốc gia. Do sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc đã chia cắt quá trình nghiên cứu cơ bản với quá trình ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Do mức độ rủi ro và các yêu cầu có tính chất điều khiện của quá trình nghiên cứu cơ bản quá cao làm cho các quốc gia không thể thực hiện được các hoạt động nghiên cứu cơ bản trong hầu hết các lĩnh vực cần thiết. Do sự phát triển của cơ chế thị trường đòi hỏi các quốc gia phải tính toán xem đi theo con đường nào thì có hiệu quả hơn. Do vòng đời của công nghệ trên một thị trường nhỏ ngày càng ngắn lại nên các chủ thể có công nghệ đều phải tìm cách chuyển giao nó sang các thị trường khác để kéo dài chu kỳ sống của nó một cách hợp lý, tạo thành các làn sóng công nghệ trên thị trường thế giới. Việc chuyển giao công nghệ vào một nước có thể thực hiện bằng nhiều con đường như thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế... Xong ngày nay, đầu tư quốc tế là con đường phổ biến của chuyển giao công nghệ, nó là hoạt động tất yếu của các nước đang phát triển trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Các quốc gia đang phát triển luôn luôn có những thay đổi trong chính sách đầu tư quốc tế của mình để thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài, qua đó thu được những công nghệ cần thiết cho quá trình phát triển đất nước. II. Quản lý nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ. Như chúng ta đã biết, công nghệ là loại hàng hoá ngày càng có vai trò quốc tế trên thị trường công nghệ và là phương tiện để kinh doanh. Các chủ thể tham gia vào kinh doanh là các công ty doanh nghiệp tư nhân...Vì vậy, cũng như các hoạt động kinh doanh khác, hoạt động chuyển giao công nghệ cũng đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước. Mặc dù không can thiệp trực tiếp vào kinh doanh, nhưng vai trò của nhà nước trong chuyển giao công nghệ là hết sức quan trọng. Quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh nói chung có nội dung nhiều mặt: Từ kiểm kê, dự báo, định hướng, điều tiết, thúc đấy, hỗ trợ chủ yếu bằng các công cụ là chính sách và luật pháp. Trong hoạt động chuyển giao công nghệ, nội dung quản lý nhà nước được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây: 1. Nhà nước ban hành các quy định pháp lý và thực hiện bảo hộ đối với các công nghệ. Phần lớn việc chuyển giao công nghệ là chuyển giao tài sản vô hình. Quyền sở hữu đối với các tài sản vô hình phải được và chỉ có thể thiết lập bằng sự bảo hộ của nhà nước. Việc bảo hộ được thực hiện thông qua các thủ tục như đăng ký, xét nghiệm, công nhận, công bố cho phép sử dụng các quyền sở hữu đã được luật pháp thừa nhận, xét sử và áp dụng chế tài đối với các vi phạm do pháp luật quy định. Chỉ khi nào nhà nước làm tốt việc bảo hộ mới làm cho Bên có công nghệ “yên tâm” và có thể bảo đảm được quyền lợi cho cả nước mua lẫn nước bán. 2. Nhà nước đưa ra các biện pháp bảo vệ các chủ thể của hoạt động chuyển giao công nghệ . Nhà nước phải có các giải pháp để bảo vệ lợi ích của cả nước bán lẫn nước mua và lợi ích của quốc gia, đặc biệt là quốc gia và các công ty tiếp nhận công nghệ. Để thực hiện vai trò này, Nhà nước phải đặt ra các yêu cầu cơ bản đối với các công nghệ được chuyển giao vào nước tiếp nhận và quy định các vấn đề hoặc ràng buộc không được đưa vào hợp đồng chuyển giao công nghệ. Về yêu cầu đối với các công nghệ được chuyển giao, căn cứ các giai đoạn phát triển khác nhau của đất nước mà Nhà nước đưa ra các yêu cầu cụ thể cho phù hợp với điều kiện, trình độ của từng giai đoạn. Chẳng hạn như trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta đặt ra các yêu cầu đối với các công nghệ được chuyển giao và Việt Nam như sau: Môt là, công nghệ tạo ra sản phẩm mới và cần thiết tại Việt Nam hoặc sản xuất ra hàng xuất khẩu. Hai là, công nghệ được chuyển giao cho phép nâng cao tính năng kỹ thuật, năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm. Balà, công nghệ phải tiết kiệm nguyên liệu, khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên lao động, tạo công ăn việc làm. Bốn là, không gây những tác hại làm ảnh hưởng đến môi trường như: Ô nhiễm đất, nước, không khí, gây hại cho hệ động thực vật, làm mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng xấu tới môi trường dân cư về mặt văn hoá và xã hội. Năm là, công nghệ được chuyển giao phải bảo đảm an toàn lao động, và điều kiện lao động cho nước lao động. Nếu chưa bảo đảm phải trình bày chi tiết các giải pháp phòng ngừa cụ thể trong hợp đồng chuyển giao công nghệ. Đối với Bên tiếp nhận công nghệ Nhà nước cũng quy định các trường hợp không được đưa vào hợp đồng chuyển giao công nghệ cho dù hai bên đã thoả thuận nhằm bảo vệ những quyền lợi chính đáng của Bên tiếp nhận: Một là, buộc Bên tiếp nhận công nghệ phải mua hoặc phải tiếp nhận có điều kiện từ Bên cung cấp công nghệ những vật liệu tư liệu sản xuất (máy móc, thiết bị, xe cộ...), sản phẩm trung gian, lao động giản đơn. Nếu trường hợp do yêu cầu của công nghệ cần có những đảm bảo đặc biệt về các vấn đề trên thì phải kèm theo giải trình chi tiết và phải được cả hai bên đều chấp thuận. Hai là, buộc Bên nhận công nghệ phải chấp nhận và tuân theo một số hạn mức nhất định về: + Quy mô sản xuất, số lượng sản phẩm cho một thời hạn nhất định. + Giá cả, khối lượng và phạm vi tiêu thụ sản phẩm. + Chọn đại lý tiêu thụ sản phẩm hoặc đại diện thương mại của Bên nhận công nghệ, kể cả cơ chế hoạt động và quan hệ giữa Bên nhận công nghệ và các đại diện này. + Hạn chế thị trường xuất khẩu của Bên nhận công nghệ. Như quy định thị trường bắt buộc xuất khẩu, thị trường không được xuất khẩu, khối lượng và cơ cấu các nhóm sản phẩm được xuất khẩu theo từng thị trường và từng thời điểm. + Buộc Bên nhận công nghệ không được nghiên cứu và phát triển tiếp tục các công nghệ được chuyển giao hoặc không được tiếp nhận từ các nguồn khác những công nghệ tương tự. + Ngăn cấm Bên nhận tự do sử dụng công nghệ sau khi hợp đồng hết hiệu lực hoặc sau khi hết thời hạn của quyền sở hữu công nghiệp ghi trong hợp đồng. 3. Nhà nước thực hiệnVai trò định hướng. Nhà nước phải thường xuyên thông báo các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, các định hướng và ưu tiên phát triển khoa học công nghệ của toàn quốc, nghành và địa phương cho các doanh nghiệp để làm căn cứ lựa chọn hướng đổi mới công nghệ. Nhà nước cần phải hỗ trợ cho các doanh nghiệp về các vấn đề sau: + Đào tạo các cán bộ có trình độ nghiệp vụ về mua bán công nghệ. + Hướng dẫn các phương pháp đánh giá công nghệ. + Hướng dẫn các phương pháp nhận dạng lựa chọn và phân tích các công nghệ cần chuyển giao. + Hướng dẫn các phương pháp định giá công nghệ. + Cung cấp các thông tin về thị trường, về công nghệ đã có hoặc đã nhập, các xu hướng đổi mới công nghệ trên thế giới và trong khu vực. + Kiểm tra các đối tác cung cấp công nghệ . + Hướng dẫn các phương pháp và kỹ năng chuẩn bị đàm phán các hợp đồng chuyển giao công nghệ. + Kiểm tra, giám định giám sát việc thực hiện các hợp đồng chuyển giao công nghệ nhằm ngăn chặn việc lợi dụng danh nghĩa chuyển giao công nghệ để trốn thuế nhập khẩu hàng hoá, vật tư, thiết bị hoặc để chuyển tiền ra nước ngoài. III.Thực trạng công nghệ và chuyển giao công nghệ tại Việt Nam. 1. Tình hình công nghệ và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam từ trước những năm đổi mới đến năm 1995. Cuộc điều tra toàn diện về tình trạng kỹ thuật và công nghệ năm 1990 cho thấy rằng, tới thời điểm này 78% tài sản cố định trong các doanh nghiệp quốc doanh -bộ phận được trang bị tốt nhất trong toàn bộ nền kinh tế- có thời gian sử dụng từ 5 năm trở nên. So với nguyên giá, giá trị còn lại của số tài sản cố định là máy móc thiết bị chỉ còn 54,4%, trong khi đó, chỉ số tương ứng của nhà cửa, vật kiến trúc là 63,4%. Điều đó cũng có nghĩa là trong khoảng 5 năm 1986-1990, việc đầu tư chủ yếu tập trung vào các công trình xây dựng cơ bản, phần dành cho đổi mới thiết bị và công nghệ chiếm tỷ trọng thấp. Tuy công nghiệp có dành một tỷ lệ vốn lớn hơn cho thiết bị và công nghệ, nhưng mức lớn hơn này chỉ bằng 7,8% so với mức bình quân. Vả lại, cũng chính trong công nghiệp, lượng thiết bị dư thừa so với nhu cầu sử dụng của sản xuất kinh doanh cũng rất lớn, trị giá tới gần 886 tỷ đồng, bằng 43,5% tổng số tài sản cố định cần xử lý trong cả nước và bằng 6,5% tổng số tài sản cố định trong công nghiệp. Tình trạng dư thừa này bắt nguồn từ hai nguyên nhân cơ bản sau: Tình trạng lạc hậu của thiết bị, máy móc làm chúng không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất kinh doanh. Thêm vào đó, những biến động của nhu cầu và thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải chuyển hướng kinh doanh. Sự mất cân đối tồn tại khá lâu trong bản thân từng doanh nghiệp, trong khi đó việc hợp tác và liên kết giữa chúng để tận dụng năng lực sản xuất thừa lại chưa được tổ chức tốt. Sự mất cân đối này một mặt là do đầu tư thiếu đồng bộ, mặt khác do sự cấp phát của nhà nước nên các doanh nghiệp có thái độ “cho thì lấy, để dành phòng khi cần” chứ không nhất thiết là phải xuất phát từ nhu cầu sử dụng thực sự. Việc chuyển hàng loạt vật tư- thiết bị thành hàng “chậm luân chuyển” trong thời kỳ 1986-1989 chứng tỏ điều này. Sự mất cân đối thiếu đồng bộ này cũng đã được chỉ rõ trong cuộc điều tra đã nói ở trên: 75,7% các doanh nghiệp quốc doanh do trung ương quản lý, 85,7% các doanh nghiệp địa phương cùng loại được đánh giá là công nghệ không đồng bộ xét về mặt tổng thể. Các chỉ số tương ứng trong công nghiệp tuy có thấp hơn xong vẫn ở mức rất cao: 66% và 73%. Về trình độ kỹ thuật của công nghệ và thiết bị, các chỉ tiêu đã nêu trên đã phản ánh một phần sự cũ kỹ, lạc hậu và tính chắp vá. Sự lạc hậu của công nghệ và thiết bị còn được phản ánh qua các mặt sau: Tỷ lệ các công nghệ và thiết bị hiện đại, tiên tiến chỉ đạt 16%, tập trung chủ yếu và một số ngành công nghiệp như: may 46%, dệt 33%, khai thác than 37% và chế biến thuỷ sản xuất khẩu 33%. Đáng chú ý là ngay trong công nghiệp nhẹ, nhiều ngành còn ở dưới mức bình quân của toàn bộ nền kinh tế. Trình độ cơ khí hoá của nền kinh tế còn thấp. Chỉ có 43% lao động trong khu vực kinh tế trung ương, 23% lao động trong khu vực kinh tế địa phương đã được cơ khí hoá. Tỷ lệ này trong công nghiệp là 62% trong công nghiệp trung ương và 47% trong công nghiệp địa phương. Trong nông nghiệp chỉ tiêu này chỉ lần lượt là 19% và 18,4% cho hai khu vực trên. Nhìn chung, toàn bộ khối lượng thiết bị và công nghệ được trang bị và sử dụng trong nền kinh tế nước ta có những nguồn gốc khác nhau, nhưng các nhà nghiên cứu phân chia chúng thành bốn nhóm sau. Nhóm một: Bao gồm những thiết bị và công nghệ lạc hậu dưới mức trung bình của thế giới khoảng từ một đến hai thế hệ. Những đổi mới trong 3 năm qua đã đưa công nghệ và thiết bị của nghành lắp ráp điện tử, lắp ráp ô tô, lắp máy xây dựng... thuộc loại này. Nhóm hai: Bao gồm các thiết bị và công nghệ lạc hậu từ hai đến ba thế hệ so với mức trung bình của thế giới đang phổ biến trong các nghành điện, giấy, đường, chế biến thực phẩm, may... Nhóm ba: Bao gồm các thiết bị và công nghệ lạc hậu từ 3 đến 5 thế hệ ,chủ yếu là những công nghệ và thiết bị của các nghành như đường sắt, đường bộ, cơ khí, đóng tàu, sản xuất vật liệu xây dựng... Nhóm bốn: Bao gồm các loại thiết bị và công nghệ có độ lạc hậu cao hơn. Cho tới năm 1993, tuổi bình quân của tuyệt đại bộ phận các thiết bị của Việt Nam ở mức lạc hậu thuộc nhóm 2. Tính trong 5 năm (1990-1995), việc đổi mới bằng chuyển giao công nghệ đã được thực hiện với quy mô lớn, tôc độ nhanh hơn các thời kỳ trước rất nhiều. Việc chuyển giao công nghệ được thực hiện trong tất cả các nghành, nhưng mức độ có khác nhau. Những lĩnh vực có chuyển giao công nghệ cần kể đến trước hết là: dệt may, giấy, điện và thiết bị điện, lắp ráp điện tử, các thiết bị cho nghành bưu chính viễn thông, giày da, sứ dân dụng, sứ cao cấp, sản xuất sơn, chế biến lương thực thực phẩm, (trước hết là mi sợi,bia , rượu, bánh kẹo...), lắp ráp ô tô, xe máy... Tóm lại, trong thời kỳ này tình hình công nghệ và chuyển giao công nghệ không có gì nổi bật,công nghệ có ở Việt Nam trong thời kỳ này chủ yếu là các công nghệ lạc hậu từ những năm trước đổi mới được chuyển giao từ các nước trong khối XHCN. Còn về chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài thì bởi vì Bộ Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam mới được ban hành nên các nhà đầu tư nước ngoài còn có nhiều điều e nghại hoặc họ chỉ đưa vào Việt Nam những công nghệ có tính hiện đại thấp, giá trị còn lại không nhiều. Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam chưa tạo được những thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, ngoài ra, nền kinh tế thị trường mới hình thành ở Việt Nam chưa được bao lâu cũng khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài chưa nhìn ra được nhưng tiềm năng của thị trường này. Hơn nữa trình độ của nguồn lao động ở Việt Nam còn quá thấp so với các nước trên thế giới, kể cả các nước trong khu vực vì vậy những công nghệ hiện đại đưa vào Việt Nam chưa chắc đã phát huy hết được hiệu quả. 2. Tình hình công nghệ và chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài từ năm 1995 đến nay. Cho đến hết năm 2000 đã có 3170 dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam với tổng số vốn đăng ký là 39100,8 triệu USD trong đó vốn pháp định là 18537,7 triệu USD trong đó có khoảng 70% dự án có nội dung chuyển giao công nghệ. Sau khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành tại Việt Nam, số dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có chiều hướng tăng lên rất nhanh, và do vậy công nghệ, thiết bị của nước ngoài cũng theo đó mà được chuyển giao vào Việt Nam với một tốc độ tăng khá cao. Thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài trong những năm qua, nhiều công nghệ mới đã được thực hiện và nhiều sản phẩm mới đã được sản xuất trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhiều cán bộ, công nhân đã được đào tạo mới và đào tạo lại phù hợp với yêu cầu mới. Đồng thời hoạt động đầu tư nước ngoài cũng có tác động thúc đẩy phát triển công nghệ ở trong nước trong bối cảnh có sự cạnh tranh của cơ chế thị trường. Trong bối cảnh nền kinh tế của Việt Nam mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, thì có thể khẳng định đó là một thành công lớn mà sự cố gắng của Đảng và Nhà nước ta đã đem lại. Sau đây là bảng thống kê số dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 1988-2000. Số dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép 1988-2000 Năm Số dự án Tổng vốn đăng ký Vốn pháp định 1988 37 371,8 288,4 1989 68 582,5 311,5 1990 108 839 407,5 1991 151 1322,3 663,6 1992 197 2165,0 1418,0 1993 269 2900,0 1468,5 1994 343 3765,6 1729,9 1995 370 6530,8 2986,6 1996 325 8479,3 2940,8 1997 345 4649,1 2334,4 1998 275 3897,0 1805,6 1999 311 1568,0 693,3 2000 371 2012,4 1525,6 Tổng số 3170 39100,8 18573,7 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000 Qua bảng trên, có thể thấy các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng đều theo từng năm, chỉ có năm 1997 do nền kinh tế Châu á gặp khủng hoảng nên số dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có sự suy giảm mạnh. Tuy nhiên, vì nền kinh tế Việt Nam không chụi ảnh hưởng lớn từ cuộc khủng hoảng đó nên sau đó số dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam lại tiếp tục tăng. Dưới đây, là một số kết quả mà hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài đã đem lại trong thời gian qua. 2.1> Về trình độ công nghệ của sản xuất. Kết quả của hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài trong thời gian qua đã góp phần nâng cao một cách rõ dệt trình độ công nghệ của sản xuất trong nước so với thời kỳ trước đây. Một số nghành đã tiếp thu được công nghệ tiên tiến, tiếp cận với trình độ hiện đại của thế giới. Trong đó phải kể đến là các nghành: bưu chính viễn thông, thăm dò, khai thác dầu khí; một số dây chuyền sản xuất tự động đã được đưa vào trong nước như công nghệ CAD, CAM được đưa vào trong thiết kế cơ khí, chế tạo, dệt may, nhựa...Thông qua các dự án đầu tư nước ngoài, một số công nghệ mới đã được nhập vào nước ta như: công nghệ sản xuất ống gang chụi áp lực bằng gang graphít cầu, sản xuất ống thép bằng phương pháp cuốn và hàn tự động theo đường xoắn ốc, sản xuất cáp quang, sản xuất đồ trang sức bằng kim loại quý với quy mô công nghiệp bằng phương pháp đúc khuôn mẫu chảy. 2.2> Về trang thiết bị. Hầu hết các trang thiết bị được đưa vào các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tương đối đồng bộ và là các trang thiết bị có trình độ cơ khí hoá trung bình cao hơn các trang thiết bị cùng loại đã có trong nước và thuộc loại phổ biến ở các nước trong khu vực. Phần lớn các thiết bị đó được trang bị các bộ gá chuyên dùng kèm theo các phương tiện nâng-hạ-vận chuyên phục vụ cho dây chuyền sản xuất chuyên môn hoá (các máy đột, ép, dập trên các dây chuyền sản xuất các kết cấu kim loại...). Một số dây chuyền sản xuất chuyên môn hoá trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được trang bị các thiết bị riêng lẻ có trình độ tự động hoá cao, như các dây chuyền lắp ráp các bản mạch điện tử, lắp ráp tổng đài điện thoại tự động kỹ thuật số, lắp ráp các mặt hàng điện tử... Một số ít dây chuyền sản xuất chuyên môn hoá có các thiết bị tự động hoá hoàn toàn, sản phẩm được thiết kế và sản xuất được điều khiển bằng kỹ thuật vi tính (như thêu nhiều màu). Trình độ công nghệ, máy móc, thiết bị chính đang sử dụng tại Việt Nam ( So với cùng loại trên thế giới ) Thành phần kinh tế Hiện đại Trung bình Lạc hậu Quốc doanh 11,4 53,1 35,5 Trung ương 10,6 60,6 28,8 Địa phương 11,9 48,6 39,5 Ngoài quốc doanh 6,7 27.0 66,3 Cổ phần và TNHH 19,4 54,8 25,5 Doanh nghiệp tư nhân 30 30 40 HTX tiểu công nghiệp 16,7 33,3 50 Tổ hợp, cá thể 3,6 22,8 73,6 Đầu tư nước ngoài 44,4 55,6 Tổng số 10 38 52 Nguồn: Giáo trình chính sách kinh tế đối ngoại Theo thống kê trên, có thể thấy trình độ công nghệ máy móc, thiết bị đang sử dụng tại Việt Nam có tính hiện đại chưa cao lắm, phần công nghệ máy móc, thiết bị lạc hậu vẫn chiếm đa số. Tuy nhiên, trình độ công nghệ máy móc, thiết bị của các dự án đầu tư nước ngoài lại có tính hiện đại cao, không có máy móc, thiết bị lạc hậu. Điều đó thể hiện kết quả của các chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc thu hút đầu tư nước ngoài và giúp một phần lớn trong việc nâng cao tỷ trọng của công nghệ máy móc, thiết bị hiện đại trong nền kinh tế. Nói chung, bên cạnh một số tồn tại, công nghệ và thiết bị được nhập vào nước ta qua các dự án đầu tư nước ngoài trong thời gian qua nhằm mục đích mau chóng tạo ra lợi nhuận, đáp ứng nhu cầu trước mắt của các nhà đầu tư nước ngoài trong sản xuất, kinh doanh, đồng thời cũng phù hợp với giai đoạn phát triển ban đầu của nền kinh tế thị trường, đổi mới công nghệ trong sản xuất, tạo công ăn, việc làm cho người lao động, đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội. Đây là những công nghệ đã ổn định và phổ cập ở các nước đang phát triển, phù hợp với quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Nam á nên trong thời gian qua nó đã phát huy được hiệu quả cao. 2.3. Về sản phẩm và chất lượng sản phẩm. Qua những công nghệ được chuyển giao, nhiều mặt hàng trước đây ta phải nhập nguyên chiếc hoặc lắp ráp đơn giản, nay bằng công nghệ mới và trang thiết bị tương đối hiện đại đã sản xuất được ở trong nước, góp phần nâng cao dần tỷ lệ chế tạo nội địa các sản phẩm, linh kiện, bộ phận, chi tiết...Trong đó có nhiều sản phẩm có công nghệ chế tạo phức tạp như sản xuất đèn hình, các bộ phận của xe máy, tổng đài điện tử, máy biến thế điện áp cao... Hoạt động chuyển giao công nghệ trong đầu tư nước ngoài đã tạo ra được nhiều sản phẩm có chất lượng tốt và hình thức mẫu mã đẹp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Việc đầu tư và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào đã hạn chế tới mức tối đa các loại hàng hoá trước đây ta phải nhập khẩu với khối lượng lớn như bia, các loại gạch đá ốp lát, sứ vệ sinh, xi măng sắt, thép xây dựng... Chất lượng các loại sản phẩm của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói trên hầu hết đạt tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN), một số đạt tiêu chuẩn quốc tế (ISO). Cũng phải nói thêm rằng, do thúc ép của thị trường cạnh tranh được tạo ra bởi sản phẩm của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và hàng hoá ngoại nhập, nhiều doanh nghiệp trong nước đã cố gắng đổi mới công nghệ, nhập các thiết bị, công nghệ mới và đã tạo ra các sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, không thua kém hàng hoá ngoại nhập, với giá cả hợp lý, được người tiêu dùng ưa chuộng như: các loại quạt điện, giầy da, giầy vải, các sản phẩm nhựa dân dụng, bánh kẹo, bàn ghế...Như vậy, có thể nói những công nghệ được chuyển giao vào Việt Nam đã “đánh thức” các doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước tự hoàn thiện để có thể đứng vững trên thị trường. 2.4. Về trình độ quản lý sản xuất, kinh doanh. Thông qua đầu tư nước ngoài, trong một thời gian không dài, nhiều cán bộ quản lý các xí nghiệp, các tổ chức kinh doanh, kể cả quản lý nhà nước, đã tiếp cận được với phương pháp quản lý mới, quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ ra ngoài phạm vi đất nước. Hàng ngàn cán bộ quản lý, cán bộ, công nhân kỹ thuật được đi học tập, tham quan tại các công tình trạng, các nhà máy, xí nghiệp ở nước ngoài. Hàng chục ngàn cán bộ quản lý sản xuất, cán bộ, công nhân kỹ thuật khác được đào tạo ngay tại các xí nghiệp có vốn đầu tư, trên các dây chuyền sản xuất. Nhiều dây chuyền sản xuất phức tạp, có quy mô lớn đã được hình thành và đang được vận hành có hiệu quả với sự điều hành phối hợp của cán bộ Việt Nam và các chuyên gia nước ngoài.Cho đến nay, trong nhiều xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài số cán bộ là người nước ngoài đã rút đi một cách đáng kể, một số xí nghiệp hoàn toàn do cán bộ Việt Nam điều hành, bên nước ngoài chỉ cử người đến kiểm tra định kỳ. Nhìn chung, trong những năm vừa qua trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của số đông cán bộ trong các liên doanh đã được nâng lên một cách đáng kể. Có lẽ đây là một trong những mục tiêu chính trong chuyển giao công nghệ mà ta đã đạt được. Trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ trong nước chính là một trong những điều vô cùng quan trọng để những công nghệ được đưa vào Việt Nam phát huy hết hiệu quả. 2.5.Những mặt còn tồn tại. Bên cạnh những mặt được, trong hoạt động chuyển giao công nghệ từ các dự án đầu tư nước ngoài cũng còn một số tồn tại. + Về thực hiện luật pháp trong chuyển giao công nghệ. Nhiều hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài được thực hiện không theo các quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ như không lập và ký kết hợp đồng giữa bên giao và bên nhận hoặc chỉ ký kết hợp đồng mà không trình để phê duyệt, chuyển tiền cho chuyển giao công nghệ khi chưa được phê duyệt hợp đồng... Nhiều hợp đồng chuyển giao công nghệ được ký kết giữa các bên là do bên nước ngoài soạn thảo sẵn với những điều khoản có lợi cho họ; trách nhiệm của bên giao không rõ ràng và có những điều khoản trái với quy định của pháp luật Việt Nam; phí chuyển giao công nghệ không hợp lý, vượt quá nhiều so với quy định. Những hợp đồng đó thường được sửa lại nhiều lần, làm kéo dài thời gian phê duyệt. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên chủ yếu là do các bên tham gia hợp đồng không nắm được luật pháp Việt Nam, các đối tác Việt Nam không có đủ thông tin về công nghệ và thị trường, lép quyền và lép vốn. Một phần nào đó là do còn một số cán bộ của ta thiếu quan tâm đến lợi ích chung, có thể là vô thức, còn bên nước ngoài thì lợi nhuận là mục tiêu của kinh doanh. + Về mặt công nghệ thiết bị và chất lượng sản phẩm. Ngoài những mặt tích cực đã nêu trên, một số công nghệ lạc hậu mà nhiều nước trên thế giới đã loại bỏ cũng được nhập và nước ta, như công nghệ sản xuất chất tẩy rửa có sử dụng chất tạo bọt bằng DBSA. Những dự án như vậy đã buộc phải chuyển đổi sản xuất hoặc chuyển đổi việc sử dụng nguyên liệu. Nhiều dây chuyền sản xuất còn sử dụng nhiều lao động thủ công hoặc có trình độ cơ khí hoá thấp. Trong lĩnh vực cơ khí công nghệ được nhập và nước ta trong thời gian qua chủ yếu là công nghệ lắp ráp. Nhiều dây chuyền sản xuất trong lĩnh vực này chỉ có các khâu gia công đơn giản, lắp ráp, hoàn thiện và bao gói sản phẩm, không có khâu tạo phôi và gia công chính xác như sản xuất quạt điện, sản xuất ô tô, xe máy, chế tạo linh kiện, phụ tùng, sản xuất các linh kiện điện tử... Phần lớn các thiết bị trong các dự án đầu tư nước ngoài thuộc loại trung bình hoặc trung bình tiên tiến trong khu vực, ít thiết bị hiện đại. Nhiều thiết bị trong các dây chuyền sản xuất đã qua sử dụng, một số đã được sử dụng trên hai thập kỷ, dù đã được tân trang, cải tiến ít nhiều như các dây chuyền sơn- mạ tôn lợp, dây chuyền sợi- dệt, sản xuất thuốc lá..., có dây chuyền là các thiết bị thanh lý của bên nước ngoài ở chính quốc. Một số dự án đưa thiết bị đã qua sử dụng vào với các chi phí bảo dưỡng, sửa chữa quá lớn. Cũng còn có những dây chuyền thiết bị công nghệ từ nhiều nguồn gốc, lẫn lộn nhiều thế hệ, trình độ chưa thật đồng bộ. Điều này sở dĩ có thể xảy ra là do rất nhiều nguyên nhân trong đó có cả lý do chủ quan và khách quan, nhưng chủ yếu là khả năng định giá công nghệ của ta còn kém và những thông tin về thị trường công nghệ mà ta cập nhật được còn bị hạn chế. + Về mặt bảo vệ môi trường. Nhiều xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng công nghệ xử lý chất thải chưa có hiệu quả. Phần lớn các nhà máy dệt nhuộm có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng các phương án xử lý nước thải khó có khả năng giải quyết triệt để và khó đạt TCVN về môi trường. Trong việc sử dụng nguyên liệu đốt lò, hầu hết các chủ đầu tư đều trình phương án sử dụng loại nhiên liệu có hàm lượng lưu huỳnh cao nhưng không muốn đầu tư thiết bị xử lý khí thải. Việc xử lý chất thải rắn chưa được các nhà đầu tư quan tâm đúng mức ngay từ đầu, khi lập dự án. Việc xử lý chất thải rắn hầu như hoàn toàn dựa và hoạt động của các tổ chức vệ sinh môi trường địa phương. IV. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài. 1. Hoàn thiện và đảm bảo hiệu lực của các chính sách đầu tư nước ngoài. Sau khi ban hành luật đầu tư nước ngoài, ngày 29-12-1987 đến năm 1994 chính phủ đã ban hành tương đối đầy đủ các văn bản pháp quy về mặt công nghệ và môi trường có liên quan đến đầu tư nước ngoài. Các văn bản đó đã tạo nên nền tảng pháp lý cho việc chuyển giao công nghệ vào Việt Nam, góp phần vào việc thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên việc ban hành các văn bản dưới luật về mặt công nghệ và môi trường nói chung là quá chậm, một số văn bản đã được ban hành ít được đổi mới, không đáp ứng kịp thời yêu cầu đổi mới của Luật đầu tư nước ngoài. Một số điều khoản trong các văn bản khác nhau thiếu thống nhất, nhiều quy định còn gò bó, thiếu cụ thể, các thủ tục phê duyệt, đăng ký còn phức tạp, rườm rà. Việc ban hành các văn bản nói trên thiếu sự phối hợp với việc ban hành các chính sáchvề nghiên cứu - triển khai và phát triển công nghệ. Để khắc phục tình trạng trên đây, góp phần cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ mới, Nhà nước ta cần có những biện pháp sau: + Sớm ban hành nghị định quy định chi tiết việc thực hiện chuyển giao công nghệ với những đổi mới rộng rãi hơn cho các nhà đầu tư có chuyển giao công nghệ, sớm ban hành các thông tư hướng dẫn cụ thể trong việc thực hiện Nghị định về chuyển giao công nghệ. + Cho phép các viện, trường, bệnh viện được liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài. + Tiếp tục nghiên cứu theo dõi tình hình của công nghệ và chuyển giao công nghệ trên thị trường thế giới và trong khu vực để kịp thời có những sửa đổi cho phù hợp. + Ban hành những điều luật bắt buộc các chủ dự án phải có hợp đồng chuyển giao công nghệ trình Bộ khoa học,công nghệ và môi trường để xin phê duyệt. + Hoàn tất các văn bản dưới luật như: Luật đất đai, Luật trọng tài, Luật lao động, Luật xây dựng cơ bản... Nếu những điều này được thực hiện tốt thì luồng công nghệ chuyển giao vào Việt Nam sẽ đi vào một khuôn khổ theo những định hướng mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Qua đó tránh được một số hạn chế mà chuyển giao công nghệ đem lại. 2> Xây dựng cơ sở vật chất và đào tạo đội ngũ cán bộ. Để tiếp nhận công nghệ có hiệu quả những chuẩn bị về cơ sở vật chất và đội ngũ công nhân, cán bộ trong nước là vô cùng quan trọng. Việc đó phải được thực hiện từ lúc tìm hiểu về công nghệ, ký kết hợp đồng cho đến khi đưa dây chuyền công nghệ đi vào sản xuất. Một là, thiết lập một hệ thồng thông tin có tính cập nhật cao để nghiên cứu tình hình công nghệ đang diễn ra trên thế giới cũng như trong khu vực. Để làm tốt điều này việc cần thiết phải làm là thiết lập một bộ phận chuyên trách có trình độ thu thập và xử lý thông tin cao nhằm xác định những công nghệ phù hợp với tình hình trong nước. Hai là, đào tạo đội ngũ cán bộ có khả năng đánh giá chính xác công nghệ được chuyển giao nhằm tránh tình trạng các đối tác nâng cao giá trị của công nghệ chuyển giao. Giá trị của công nghệ chuyển giao có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong vấn đề xác định tỷ lệ vốn góp cũng như việc phân chia lợi nhuận vì vậy nếu đánh giá đúng giá trị của công nghệ chuyển giao sẽ tránh được tình trạng các đối tác trong nước bị thiệt hại hai lần. Ba là, nâng cao khả năng đàm phán và ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ cũng là một yếu tố quan trọng, bởi vì với một đội ngũ cán bộ có khả năng chúng ta có thể đoạt được những điều khoản có lợi về phía mình trên bàn đàm phán qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho các quá trình tiếp theo. Bốn là, nâng cao chất lượng của cơ sở hạ tầng trong nước như: Nâng cao hệ thống giao thông kết hợp với hệ thống điện nước, xây dựng hệ thống nhà xưởng phù hợp với tính chất của công nghệ. Bảo đảm cung cấp, phục vụ tốt cho quá trình lắp đặt vận hành của các dây chuyền công nghệ. Ngoài ra cần phải quy hoạch công nghệ chuyển giao vào từng khu vực một cách hợp lý sao cho công nghệ đó có thể khai thác một cách có hiệu quả nhất các nguồn tài nguyên như tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên lao động... Năm là, tổ chức huấn luyện, đào tạo cho đội ngũ công nhân, cán bộ vận hành dây chuyền trước khi công nghệ được đưa vào vận hành để công nghệ không mất đi một quãng thời gian “chết” do công nhân, cán bộ vận hành chưa có đủ trình độ, kỹ năng sử dụng công nghệ. Sáu là, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý kỹ thuật và cán bộ quản lý kinh tế để họ có khả năng tiếp thu, đánh giá và dự đoán xu hướng phát triển của những loại công nghệ có liên quan, có khả năng chọn được những công nghệ cần thiết, phù hợp với yêu cầu và điều kiện thực tế. 3> Nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc chuyển giao công nghệ. Để tăng khả năng thu hút chuyển giao công nghệ vào Việt Nam trong thời gian tới. Việt Nam phải thực hiện một chính sách đầu tư nước ngoài thông thoáng với nhiều ưu đãi về thuế, về sản phẩm, các ưu đãi về việc thuê quyền sử dụng mặt đất, mặt nước ...Thực hiện những cải cách trong các thủ tục hành chính tránh gây phiền hà cho các nhà đầu tư nước ngoài, tạo ra những quy định hợp về việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài ...những chính sách hợp lý của Đảng và Nhà nước sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Qua đó tiếp thu được những công nghệ cần thiết cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta. Để nâng cao hiệu quả của công nghệ thì vai trò của Nhà nước vô cùng quan trọng. Những biện pháp mà Nhà nước ta cần làm bao gồm: Một là, xây dựng chiến lược làm cơ sở cho sự chuyển giao công nghệ, đối thoại với các doanh nghiệp để cùng nhau xác định hướng chuyển giao công nghệ trong đó gồm có: chiến lược về thị trường và khách hàng, chiến lược sản phẩm, đổi mới sản phẩm và đa dạng hoá sản phẩm, chiến lược liên kết kinh tế, chiến lược đầu tư...ở một số nghành cần đảm bảo tính đồng bộ một cách khép kín ( từ sản xuất nguyên liệu, sơ chế đến chế biến thành sản phẩm cuối cùng). Hai là, tổ chức các loại hình kinh doanh tạo thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ có hiệu quả. Các loại hình kinh doanh có khả năng khai thác những tài nguyên sẵn có trong nước phù hợp với điều kiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Ba là, hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính và tín dụng như : hình thành quỹ quốc gia hỗ trợ chuyển giao công nghệ, thực hiện sự tài trợ trực tiếp (dưới hình thức cấp vốn) hoặc gián tiếp (dưới hình thức nâng cấp cơ sở vật chất, kỹ thuật ) cho các doanh nghiệp để họ tự tổ chức chuyển giao công nghệ. Ngoài ra Nhà nước có thể giảm thuế đố với các mặt hàng sản xuất bằng công nghệ mới, giới thiệu các doanh nghiệp với các tổ chức tài chính quốc tế, thông qua hệ thống ngân hàng tạo những điều kiên thuận lợi về vốn cho các nhà đầu tư. Bốn là, hình thành thị trường lao động và thị trường chứng khoán. Đặc biệt là hình thành một thị trường chứng khoán có quy mô lớn hơn và toàn diện hơn, bởi vì thị trường chứng khoán như một “chiếc cửa sổ” mà qua đó các nhà đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận với những cơ hội đầu tư vào Việt Nam qua đó chuyển giao những công nghệ mới. Hiện nay, ở Việt Nam cả hai thị trường lao động và thị trường chứng khoán đều mới chỉ ở quá trình sơ khai, trong khi đó hai thị trường này lại có những vai trò hết sức quan trọng đối với việc thu hút và sử dụng hiệu quả công nghệ. Vì vậy việc Nhà nước cần có những biện pháp nhằm hình thành một thị trường lao động và một thị trường chứng khoán năng động hơn là một điều tất yếu. Năm là, Phát triển mạng lưới thông tin. Như đã nói ở trên, mạng lưới thông tin có vai trò quyết định trong việc lựa chọn công nghệ, vì vậy một hệ thống thông tin có độ cập nhật cao sẽ tạo ra được những thuận lợi lớn trong chuyển giao công nghệ. Sáu là, tập trung trí lực, tài lực cho các viện nghiên cứu ứng dụng và phát triển các công nghệ được chuyển giao. Mạnh dạn sử dụng các giáo sư, các chuyên gia trẻ tài năng đã được đào tạo có hệ thống, thực hiện chế độ lương đặc biệt cho họ. Liên tục đổi mới cán bộ, chỉ giữ lại những cán bộ thực sự tài năng qua các công trình mà họ đã thực hiên. Trong trường hợp đội ngũ khoa học kỹ thuật và quản lý của ta chưa đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ khó khăn này trong giai đoạn đầu và trong những lĩnh vực cần thiết, ta nên mời chuyên gia của các nước công nghiệp phát triển, trước hết là Nhật. C. Kết luận Từ sau Đại Hội Đảng lân thứ VI, đất nước ta bước vào một thời kỳ phát triển kinh tế mới, với những bước tiến, những thay đổi vô cùng quan trọng, đưa nền kinh tế nước ta từ lạc hậu, kém phát triển lên nền kinh tế đang phát triển. Trong những năm vừa qua Đảng và Nhà nước ta đã bắt kịp được xu thế của thời đại và đưa ra những chính sách phù hợp với xu thế đó. Trong đó, chính sách kinh tế đối ngoại đã đóng góp một phần vô cùng quan trọng đưa nước ta từ chỗ có ít quan hệ với các nước trên thế giới, chỉ quan hệ với các nước trong khối quan hệ chủ nghĩa, sau khi đổi mới đến nay Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với hơn 100 quốc gia trên thế giới, các quan hệ đầu tư, thương mại, hợp tác khoa học kỹ thuật ngày càng được nâng cao và phát triển. Trong đó hoạt động đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ vào Việt Nam đã giúp cho Việt Nam có được những thay đổi đáng kể về kinh tế và bộ mặt khoa học kỹ thuật. Điều đó dựa trên những quan điểm, những lý luận đúng đắn về công nghệ và chuyển giao công nghệ của Đảng và Nhà nước ta. Qua các dự án đầu tư nước ngoài trình độ công nghệ máy móc, thiết bị, chất lượng sản phẩm, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ, trình độ lao động của đội ngũ công nhân đã được nâng lên ngang tầm với các nước trong khu vực và đã có đủ khả năng tiếp nhận những công nghệ máy móc, thiết bị hiện đại của thế giới. Tuy đã hết sức cố gắng nhưng bài viết chắc chắn sẽ còn nhiều khuyết điểm, rất mong được sự hướng dẫn, chỉ bảo của cô giáo Lê Ngọc Liên. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của cô. Tài liệu tham khảo + Giáo trình Kinh Tế Đầu Tư PGS.PTS Nguyễn Ngọc Mai + Giáo trình Quản trị các dự án đầu tư nước ngoài + Giáo trình Chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế thị trường và vận dụng vào Việt Nam PTS Đặng Kim Nhung + Giáo trình Chính sách kinh tế đối ngoại + Báo nghiên cứu ASEAN + Báo Khoa học công nghệ và môi trường + Báo Nghiên cứu kinh tế + Tạp chí Hoạt động khoa học Mục Lục A. Lời nói đầu 1 B. Nội dung chính 2 I. Lý luận chung về công nghệ và chuyển giao công nghệ 2 1. Khái niệm công nghệ và chuyển giao công nghệ 2 1.1Khái niệm về công nghệ 2 1.2 nguồn gốc của công nghệ 5 1.3 Khái niệm chuyển giao công nghệ 6 1.4 Nội dung của chuyển giao công nghệ 6 2. Các luồng và các hình thức chuyển giao công nghệ 8 2.1 Các luồng chuyển giao công nghệ 8 2.2 Các hình thức chuyển giao công nghệ 8 2.3 thị trường chuyển giao công nghệ quốc tế 9 3. Tác động của chuyển giao công nghệ vào nền kinh tế 9 3.1. Tác động đối với công tình trạng nhận công nghệ 10 3.2. Tác động đối với quốc gia nhận công nghệ 10 3.3. Tác động đối với Bên cung cấp 11 4. Tính tất yếu của chuyển giao công nghệ 12 II. Quản lý nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ 13 1. Nhà nước ban hành các quy định pháp lý và thực hiện bảo hộ đối với các công nghệ 13 2. Nhà nước đưa ra các biện pháp bảo vệc1 chủ thể của hoạt động chuyển giao công nghệ 13 3. Nhà nước thực hiện vai trò định hướng 15 III. Thực trạng công nghệ và chuyển giao công nghệ tại Việt Nam 16 1. Tình hình công nghệ và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam trước những năm đổi mới đến năm 1995 16 2. Tình hình công nghệ và chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài từ năm 1995 đến nay 19 2.1 Về trình độ công nghệ của sản xuất 21 2.2 Về trang thiết bị 21 2.3 Về sản phẩm và chất lượng sản phẩm 23 2.4 Về trình độ quản lý sản xuất kinh doanh 24 2.5 Những mặt còn tồn tại 25 IV. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài 27 1.Hoàn thiện và đảm bảo hiệu lực của các chính sách đầu tư nước ngoài 27 2. Xây dựng cơ sở vật chất và đào tạo đội ngũ lao động 28 3. Nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc chuyển giao công nghệ 30 Kết luận 32 Tài liệu tham khảo 33

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0171.doc
Tài liệu liên quan