Lý luận chung về nhà nước và vai trò của nhà nước xhcn Việt Nam đối với nền kinh tế thị trường hiện nay

Tuy nhiên, vai trò của nhà nước trong nền KTTT cũng có những thách thức, khó khăn và tính hai mặt của nó. Nhà nước can thiệp để tránh những tác động tự phát có hại của thị trường, tuy nhiên, những chính sách thiện ý này được ban hành ở thời điểm nhất định vẫn có nguy cơ đi ngược lại sự phát triển của xã hội hoặc lỗi thời, hoặc mâu thuẫn với những chính sách mới ban hành. Sự đúng đắn và thích hợp của chính sách can thiệp của nhà nước phải được đếm bằng tác động tích cực hay tiêu cực mà nó đem lại trong thực tế, sau khi được ban hành, và những chính sách này có được thường xuyên cập nhật để thích hợp với hoàn cảnh thay đổi của thị trường, của xã hội hay không. Thách thức này đòi hỏi phải có giám sát thi hành chính sách và tách bạch được sự can thiệp mang tính chất nhất thời và sự can thiệp mang tính nguyên tắc, không can thiệp vào những vấn đề, lĩnh vực đòi hỏi thị trường tự điều chỉnh bằng những quy luật riêng. Phân tách được chính sách ngắn hạn khỏi dài hạn sẽ giúp tránh mau thuẫn, chồng chéo các quy định. Những chính sách ngắn hạn phải có giới hạn hiệu lực theo thời gian, sau đó phải có sự điều chỉnh. Nhiều khi một chính sách can thiệp về lâu dài có thể rất đúng đắn, nhưng lại bị lỗi thời, không có tác dụng do công nghệ mới, làm cho cách thức can thiệp bằng hành chính trở thành lực cản về thủ tục đối với sự phát triển của thị trường. Ví dụ rõ nhất có thể nêu là độc quyền nhà nước trong viễn thông và giao thông công cộng. Mục đích cao cả của sự can thiệp này là tạo hạ tầng cơ sở công cộng thuận lợi, giảm đầu vào của chi phí sản xuất và cung cấp dịch vụ công cộng cơ bản cho xã hội, tránh những cú sốc vì ở thời điểm ở thời điểm ban hành chính sách độc quyền này, ngoài nhà nước không thể có nhà đầu tư khác do chi phí cao, lợi nhuận thấp. Đến một thời điểm phát triển, công nghệ viễn thông cho phép những nhà đầu tư tư nhân hoàn toàn có thể đảm nhận lĩnh vực với chi phí thấp hơn. Nếu không kịp điều chỉnh, chính sách mang thiện ý hỗ trợ sự phát triển này lại trở thành lực cản. Điện lực và đồng thời cũng là những ví dụ tương tự về cách thức, công cụ và giới hạn thời gian can thiệp trực tiếp của nhà nước. Tóm lại, muốn tạo sự phát triển đồng bộ, là tác nhân cho sự phát triển thị trường, Nhà nước phải cộng tác với thị trường, chứ không thay thế thị trường.

doc18 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 962 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lý luận chung về nhà nước và vai trò của nhà nước xhcn Việt Nam đối với nền kinh tế thị trường hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n chính của giai cấp này đối với giai cấp khác và đối với toàn xã hội. Đó lànền chuyên chính của giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế trong xã hội. Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của giai cấp này để trấn áp một giai cấp khác”. Nhà nước chính là một bộ máy cai trị do giai cấp thống trị về kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức của chúng với quần chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để đàn áp, cưỡng bức giai cấp khác trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp thống trị. Đó là bản chất của nhà nước theo nguyên nghĩa, tức nhà nước của giai cấp bóc lột. Không có nhà nước thì giai cấpthống trị không thể duy trì ách áp bức thống trị của nó với giai cấp bị trị. Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng nhưng đều mang một số đặc điểm chung. Nhà nước XHCN cũng có những nét chung đó nhưng với bản chất là chuyên chính vô sản, nó không còn là nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ là “nửa nhà nước”. Nhà nước XHCN tồn tại trên cơ sở nguyên tắc công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu là lao động tự nguyện. Đó là sản phẩm của nhân dân lao động nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử là xây dựng một xã hội không còn áp bức bóc lột, không còn giai cấp. Nhà nước là một bộ phận quan trọng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội, và nó có ba đặc trưng cơ bản sau: Một là, nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định. Đặc trưng này phân biệt sự khác nhau của các tổ chức nhà nước với các tổ chức thị tộc, bộ lạc trước kia. Các tổ chức thị tộc, bộ lạc được hình thành trên cơ sở những quan hệ huyết thống, còn tổ chức nhà nước gắn liền với việc phân chia dân cư theo phạm vi lãnh thổ mà họ cư chú. Nói cách khác quyền lực nhà nước có hiệu lực với tất cả các thành viên ở trong một biên giới quốc gia, bất kể họ thuộc quan hệ huyết thống nào. Hai là, bộ máy quyền lực của nhà nước mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội. Đó là những đội vũ trang đặc biệt (quân đội, cảnh sát, ), những công cụ (toà án ,trại giam ,trại giáo dưỡng, ) và một bộ máy đông đảo các viên chức được trả lương để chuyên làm việc hành chính cai trị. Ba là, nhà nước hinh thành hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị. Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào hệ thống thuế khoá. Nói cách khác, về cơ bản mọi nhà nước đều tồn tại được nhờ vào sự chu cấp của nhân dân bằng con đường cưỡng bức hay tự nguyện hoặc cả hai. Ngoài ba đặc trưng cơ bản kể trên, hiện nay có quan điểm cho rằng, nhà nước mang cả đăc trưng chủ quyền quốc gia và khả năng cai trị xã hội bằng pháp luật. Chủ quyền quốc gia thể hiện đặc trưng về quyền lợi tuyệt đối của nhà nước trong một lãnh thổ. Nhà nước là người đại diện cho sự toàn vẹn bên trong lãnh thổ và sự độc lập đối với bên ngoài. Chủ quyền quốc gia còn thể hiện ở việc nhà nước thay mặt toàn bộ nhân dân tham gia các quan hệ đối ngoại, các công ước quốc tế Nhà nước cai trị xã hội bằng pháp luật. Nhà nước là cơ quan duy nhất có quyền làm ra luật, tổ chức thực hiện luật, giám sát và xét xử đối với những vi phạm pháp luật. Đây là đặc quyền của nhà nước mà các tổ chức xã hội khác không có. Pháp luật do nhà nước đặt ra, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, nhằm điều chỉnh mọi quan hệ xã hội theo định hướng và mục tiêu xác định. Tính cưỡng chế của pháp luật thể hiện sức mạnh cưỡng chế của nhà nước với toàn xã hội. Bản chất giai cấp của nhà nước còn được thể hiện ở chức năng của nó. Khi tiếp cận với nhà nước từ giác độ khác nhau, người ta có thể phân chia các chức năng của nhà nước thành những loại khác nhau. Tất cả những chức năng khác nhau đó đều là những cái vốn có của nhà nước. Khi xem xét phạm vi tác động của quyền lực nhà nước ở tầm vĩ mô, nhà nước có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng thống trị của giai cấp - chức năng giai cấp là chức năng nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Chức năng giai cấp bắt nguồn từ lý do ra đời của nhà nước và tạo thành bản chất chủ yếu cuả nó. Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thoả mãn một số nhu cầu riêng của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước. Trong hai chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất, chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị chính trị. Giai cấp thống trị bao giờ cũng biết giới hạn chức năng xã hội trong khuôn khổ lợi ích của mình.Song, chức năng giai cấp chỉ có thể được thực hiện thông qua chức năng xã hội .Ph.Ăngghen viết: “Ở khắp nơi chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội của nó”. Khi xã hội không còn giai cấp thì những nội dung thuộc chức năng xã hội sẽ do xã hội tự đảm nhận, và khi đó chế độ tự quản của nhân dân được xác lập. Chức năng đối nội của nhà nước nhằm duy trì trật tự kinh tế ,xã hội, chính trị, và những trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp thống trị. Thông thường điều đó phải được pháp luật hoá và được thực hiện nhờ sự cưỡng bức của bộ máy nhà nước. Ngoài ra, nhà nước còn sử dụng nhiều phương tiện khác để xác lập ,củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành chính thống trong xã hội. Chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi lọi ích quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cầp thống trị. Ngày nay, trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, việc mở rộng chức năng đối ngoại của nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt. Cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước dều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất. Tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại của nhà nước, ngược lại tính chất và những nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội. “Kiểu nhà nước” là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế- xã hội nào. Kiểu nhà nước do chế độ kinh tế của xã hội sinh ra nó quy định. Do đó, tương ứng với ba hình thái kinh tế- xã hội có giai cấp đối kháng thì có ba kiểu nhà nước: nhà nước chiếm hữu nô lệ, phong kiến, và nhà nước tư sản. Còn nhà nước XHCN là kiểu nhà nước đặc biệt, nhà nước kiểu mới. Kiểu nhà nước chủ nô, kiểu nhà nước phong kiến, kiểu nhà nước tư sản mặc dù có những đặc điểm riêng nhưng chúng đều là những “nhà nước theo đúng nghĩa”, được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về TLSX và là công cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp bóc lột đối với đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Khác với các kiểu nhà nước của giai cấp bóc lột, kiểu nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới, nhà nước của nhân dân lao động, thực hiện dân chủ và công bằng xã hội cho tất cả công dân. Sứ mệnh lịch sử của nhà nước XHCN là ở chỗ vừa chuyên chính bằng bạo lực, trấn áp đối với thù trong, giặc ngoài, vừa tổ chức xây dựng thành công CNXH, CNCS; trong đó chức năng tổ chức, xây dựng là căn bản nhất. “Hình thức nhà nước” là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực hiện quyền lực nhà nước. Nói cách khác, đó là hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị.Hình thức nhà nước có ảnh hưởng trong việc củng cố, bảo vệ và thực thi quyền lực nhà nước.Chính vì vậy mà các giai cấp cầm quyền rất quan tâm đến việc tìm kiếm hình thức nhà nước cho phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước để thực thi quyền lực thống trị chính trị của mình một cách hiệu quả nhất. Trong lịch sử xã hội loài người có hai hình thức nhà nước cơ bản là: Hình thức chính thể và hình thức cấu trúc. Hình thức chính thể bao gồm: chính thể quân chủ chuyên chế (Trung Quốc, ), chính thể quân chủ lập hiến (Anh, Thái Lan, ), và hình thức nhà nước cộng hoà (Pháp, ). Hình thức cấu trúc bao gồm: cấu trúc đơn nhất và cấu trúc liên bang. Nhà nước chiếm hữu nô lệ là nền chuyên chính của giai cấp chủ nô tồn tại dưới những hình thức khác nhau như: chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà. Song dù tồn tại dưới chính thể nào thì giai cấp nô lệ cũng không có quyền về kinh tế và chính trị, không được tham gia vào công việc nhà nước. Nhà nước phong kiến có những hình thức: quân chủ phân quyền và quân chủ tập quyền. Song dù tồn tại dưới hình thức nào thì nhà nước phong kiến vẫn là nền chuyên chính của giai cấp địa chủ phong kiến nhằm bảo vệ chế độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến và những đặc quyền đặc lợi của nó. Ở phương Đông (tiêu biểu là Trung Quốc và Ấn Độ), hình thức quân chủ tập quyền là hình thức nhà nước phổ biến dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về ruông đất. Trong nước này, quyền lực của vua được tăng cường rất mạnh, hoàng đế có uy quyền tuyệt đối, ý chí của vua là pháp luật. Nhà nước tư sản cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng nói chung chỉ có hai hình thức cơ bản nhất là: hình thức cộng hoà và hình thức quân chủ lập hiến. Hình thức cộng hoà lại được tổ chức dưới những hình thức khác nhau như: cộng hoà đại nghị, cộng hoà tổng thống; trong đó hình thức cộng hoà đại nghị là hình thức điẻn hình và phổ biến nhất. Sự khác nhau về hình thức của nhà nước tư sản không làm thay đổi bản chất của nó – đó là nền chuyên chính của giai cấp tư bản đối với các giai cấp và tầng lớp khác trong xã hội. Đề cập đến bản chất đó của nhà nước tư sản, V.I.Lênin viết: “Những hình thức của các nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung quy lai thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản”. Nhà nước vô sản có thể tồn tại dưới những hình thức khác nhau. “Công xã Pari 1871” đã đi vào lịch sử như hình thức đầu tiên của nhà nước vô sản. Hình thức thứ hai của chuyên chính vô sản là “Xô Viết” do Cách mạng tháng Mười năm 1917 sáng lập.Và có một số nhà nước vô sản tồn tại dưới hình thức “dân chủ nhân dân” Thực tiễn xây dựng CNXH mang lại cho nhà nước chuyên chính vô sản nhiều hình thức mới. Tính đa dạng của nhà nước của nhà nước đó tuỳ thuộc vào từng điều kiện lịch sử cụ thể của thời điểm xác lập nhà nước ấy; tuỳ thuộc vào tương quan lực lượng giữa các giai cấp và khối liên minh giai cấp tạo thành cơ sở xã hội của nhà nước. Hình thức cụ thể của nhà nước trong thời kỳ quá độ có thể rất khác nhau nhưng bản chất của chúng chỉ là một – chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. Tư tưởng tích cực, tiến bộ về Nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ, bảo đảm quyền con người, loại trừ chuyên chế, vô chính phủ bằng công cụ pháp luật đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng tiêu biểu thời kỳ này như Xôcrat (469-399 Tr.CN). Đêmôcrit (460-370 Tr.CN), Palaton (427-347 Tr.CN) Arixtốt (384-322 Tr.CN), Xixêrôn (106-43 Tr.CN)... Những quan điểm tư tưởng này thể hiện khát vọng của nhân dân về tự do, công bằng, dân chủ, chống lại nhà nước chuyên chế, độc tài.             Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của các nhà tư tưởng thời cổ đại đã được các nhà tư tưởng chính trị và pháp lý tư sản sau này như JohnLocke (1632-1704), Montesquieu (1698-1755), J.J.Rút-xô (1712-1778), I.Kant (1724-1804), Hêghen (1770-1831), Tômát Jepphecxơn (1734-1826) của tác giả Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776), Tômát Pên (1737-1809), Jôn Ađam tiếp tục bổ sung, phát triển, thể hiện đầy đủ hơn trong các học thuyết chính trị pháp lý, hình thành học thuyết về nhà nước pháp quyền. Đó là sự kết tinh trí tuệ của nhân loại tiến bộ, là thế giới quan tích cực, tiến bộ về nhà nước, pháp luật trong việc bảo đảm dân chủ, quyền con người.             Nhìn chung, các quan điểm tư tưởng về Nhà nước pháp quyền rất phức tạp, phong phú và có cách tiếp cận khác nhau. Tuy vậy, có thể khái quát những đặc trung cơ bản của Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại như sau :          Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm tính tối cao của pháp luật trong đời sống xã hội, trong đó pháp luật phải phản ánh ý chí chung của nhân dân, lợi ích chung của xã hội.             Nhà nước pháp quyền là nhà nước thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do, dân chủ của công dân: Nhà nước pháp quyền không chỉ công nhận và tuyên bố các quyền tự do của công dân, mà còn phải bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi chúng bị xâm hại.             Nhà nước pháp quyền là nhà nước chịu trách nhiệm trước công dân về những hoạt động của mình, còn công dân phải thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước xã hội.             Nhà nước pháp quyền phải có hình thức tổ chức quyền lực nhà nước thích hợp, bảo đảm chủ quyền thuộc về nhân dân và có cơ chế giám sát sự tuân thủ pháp luật, xử lý các vi phạm pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích của nhân dân, chống lại sự tùy tiện của nhà nước. Muốn thế phải phân chia và ngăn chặn lẫn nhau giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (“tam quyền phân lập”); bảo đảm tính pháp quyền của các thiết chế quyền lực nhà nước và xác lập sự tôn trọng Hiến pháp, bảo đảm sự độc lập của tòa án và tính chất dân chủ, minh bạch của pháp luật.             Như vậy, với bản chất tiến bộ và nhân đạo, các tư tưởng và quan điểm khoa học về nhà nước pháp quyền đã trở thành một giá trị văn minh của nhân loại đang được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện.            Trong học thuyết Mác-Lênin, mặc dù, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin chưa sử dụng khái niệm nhà nước pháp quyền, nhưng, những tư tưởng khoa học về nhà nước pháp quyền đã được kế thừa, phát triển theo quan điểm khoa học và cách mạng: xây dựng một nhà nước kiểu mới thực sự của dân, do dân, vì dân, hợp hiến, hợp pháp; một hệ thống pháp luật dân chủ triệt để, pháp chế nghiêm minh theo hướng giải phóng con người và tất cả vì con người. “Nhà nước XHCN”, đó là một trong những tổ chức chính trị cơ bản nhất của hệ thống chính trị XHCN, một công cụ quản lý mà đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân tổ chức ra để qua đó là chủ yếu, nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình; cũng qua đó là chủ yếu mà giai cấp công nhân và Đảng của nó lãnh đạo xã hội về mọi mặt trong quá trình bảo vệ và xây dựng CNXH. Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng quan niệm nhà nước XHCN là thống nhất về căn bản với nhà nước chuyên chính vô sản cả về bản chất, mục tiêu, vai trò, chức năng và các hoạt động theo những nguyên tắc, pháp luật, chính sách của nó. Nhà nước XHCN nằm trong nền dân chủ XHCN và hệ thống chính trị XHCN. Đã là một loại hình nhà nước dân chủ thì nó có kế thừa và phát huy các thành quả chung - những giá trị của quá trình phát triển dân chủ mà nhân loại đã sản sinh ra. Ví dụ, dân chủ XHCN cũng kế thừa khái niệm và thuật ngữ “dân chủ”, với bản chất nhất là “quyền lực của dân”. Nhà nước XHCN cũng do nhân dân bầu ra và có thể bãi miễn nó. Nhà nước XHCN cũng kế thừa tính hợp lý về cơ cấu tổ chức có tính pháp quyền của nhà nước dân chủ tư sản: cũng có các cơ quan lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ) và tư pháp (Toà án, Viện kiểm sát). Tất nhiên, về bản chất, mục tiêu, quyền lực, lợi ích thì khác về căn bản so với nhà nước “tam quyền phân lập tư sản”. Theo chủ nghĩa Mác-Lênin thì nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước trong đó mọi chủ thể, kể cả nhà nước đều tuân thủ và chấp hành pháp luật. Tính chất của nhà nước pháp quyền XHCN của nhà nước được thể hiện trong các dấu hiệu cơ bản sau: Thứ nhất, mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp,tổ chức kinh tế, đơn vị cũ trang nhân dân và của mọi công dân đều phải được đặt trong khuôn khổ pháp luật. Thứ hai, nhà nước xây dựng một một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và ngày càng hoàn thiện nhằm điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội, trong đó các đạo luật chiếm vị chí tối thượng. Thứ ba, nhà nước đảm bảo các quyền tự do, dân chủ của nhân dân thông qua sự quy định và bảo vệ của pháp luật. Thứ tư, quyền lực nhà nước là thống nhất, tập trung nhưng các quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp được phân định rõ ràng có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền lực đó. Như vậy, nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước của dân, do dân và vì dân nhưng mỗi thành viên trong xã hội đều phải tuân thủ và thực hiện tốt những điều khoản pháp luật do nhà nước đề ra. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một hệ thống các quan điểm lý luận về bản chất, chức năng, cơ chế hoạt động, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước; trong đó, quan niệm về nhà nước pháp quyền là một tư tưởng nhất quán, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại và có giá trị lâu bền. Trong di sản lý luận của mình, Hồ Chí Minh đã có lần chính thức sử dụng thuật ngữ "chế độ pháp trị". Tiếp xúc với nền văn minh Âu - Mỹ, nhất là kinh nghiệm tổ chức, điều hành đời sống xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng, quản lý xã hội bằng pháp luật là dân chủ, tiến bộ và có tính chất phổ biến đối với các xã hội hiện đại. Nhận thức được tầm quan trọng của luật pháp, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đề cập đến vai trò của chúng trong điều hành và quản lý xã hội. Năm 1919, tám yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc- xây đã có bốn điểm liên quan đến vấn đề pháp quyền, còn lại liên quan đến công lý và quyền con người. Sau này, bản Yêu sách của nhân dân An Nam được Hồ Chí Minh chuyển thành "Việt Nam yêu cầu ca", trong đó yêu cầu thứ bảy là: "Bảy xin hiến pháp ban hành, Trăm điều phải có thần linh pháp quyền". "Trăm điều" là một đại lượng được sử dụng theo cách ẩn dụ để đề cập một cái chung, bao quát. Còn "thần linh pháp quyền" là một cách nói theo ngôn ngữ ngày nay, là ý thức, tinh thần pháp luật phải chi phối, chỉ đạo mọi hành vi, hoạt động của bộ máy, cơ quan nhà nước; môi trường pháp lý phải bao trùm mọi mặt, mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đây là tư tưởng rất đặc sắc của Hồ Chí Minh, phản ánh nội dung cốt lõi của Nhà nước dân chủ mới - Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Đồng thời, đây cũng là nguyên tắc xuyên suốt trong hoạt động quản lý nhà nước của Người. Sau Cách mạng Tháng Tám, năm 1945, Hồ Chí Minh đề ra một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là: Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Cùng với chủ trương xây dựng Hiến pháp, ngày 10-10-1945, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh SL/47 cho phép sử dụng một số điều khoản của pháp luật cũ để điều chỉnh các quan hệ dân sự. Trong nhận thức của Hồ Chí Minh, pháp luật của các chế độ xã hội có những giá trị nhân bản chung mà chúng ta có thể kế thừa, phát triển. Ở đây, Hồ Chí Minh đã nhìn nhận pháp luật trong chiều sâu văn hóa của nó. Sau năm 1954, khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều quy định trong Hiến pháp năm 1946 không còn phù hợp, Hồ Chí Minh đã chủ trương sửa đổi và ban hành Hiến pháp mới - Hiến pháp năm 1959. Trong tư duy Hồ Chí Minh, một khi điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì pháp luật, nhất là đạo luật "gốc" - Hiến pháp, cũng phải thay đổi để bảo đảm khả năng điều chỉnh hợp lý các quan hệ xã hội đã phát sinh và định hình. Ngoài hai bản Hiến pháp, từ năm 1945 đến 1969, Hồ Chí Minh còn chỉ đạo soạn thảo, ký quyết định công bố 16 đạo luật và 1.300 văn bản dưới luật. Khối lượng văn bản luật đó luôn thể hiện rõ việc đề cao tính nhân đạo và nhân văn, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của nhà nước mà nhân dân là chủ và do nhân dân làm chủ. Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, phải nghiêm minh và phát huy hiệu lực thực tế. Nhà nước ta cũng sử dụng pháp luật để quản lý xã hội. Song pháp luật của ta đã có sự thay đổi về chất, mang bản chất của giai cấp công nhân, là một loại hình pháp luật kiểu mới, pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Tuy nhiên, pháp luật dân chủ ở Hồ Chí Minh cũng được xem xét trong các mối quan hệ hết sức đặc trưng: Trong quan niệm về thực chất của dân chủ: "Không nên hiểu lầm dân chủ. Khi chưa quyết định thì tha hồ bàn cãi. Nhưng khi đã quyết định rồi thì không được bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng chỉ là để bàn cách thi hành cho được, cho nhanh, không phải để đề nghị không thực hiện. Phải cấm chỉ những hành động tự do quá trớn ấy" Trong việc xác định rõ giới hạn của các quyền tự do cá nhân, Người nói: Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức là phạm đến tự do của người khác, là phạm pháp. Không thể có tự do cho bọn việt gian, bọn phản động, bọn phá hoại tự do của nhân dân. Trong việc xử lý mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ công dân, pháp luật dân chủ vừa thể hiện các quyền, lợi ích của công dân, nhưng cũng quy định rõ các nghĩa vụ mà người dân phải thực hiện. Hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ là thuộc tính hai mặt của một người dân làm chủ nhà nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ; mọi công dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều bình đẳng trước pháp luật cả về quyền lợi và nghĩa vụ; ai vi phạm pháp luật đều phải xử lý nghiêm khắc, cho dù người đó ở vị trí nào trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước. Theo Người, hiệu lực của pháp luật chỉ có được khi mọi người đều nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; pháp chế chỉ bảo đảm khi các quy phạm pháp luật được thực thi trong các quan hệ xã hội; mọi hành vi vi phạm pháp luật phải bị xử lý. Như vậy, trong thực thi luật pháp, việc thưởng phạt phải nghiêm minh. Vì nếu thưởng phạt không nghiêm minh thì người cúc cung tận tụy lâu ngày cũng thấy chán nản, còn người hư hỏng, vi phạm pháp luật, kỷ luật sẽ ngày càng lún sâu vào tội lỗi, làm thiệt hại cho nhân dân. Trong một nước, thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công. Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền của Người không chỉ dừng lại ở các quyền con người được ghi trong các văn bản pháp luật mà còn thấm đượm một tấm lòng thương yêu nhân dân, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân, thấm đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Vì thế, pháp quyền Hồ Chí Minh là pháp quyền đặc biệt, pháp quyền nhân nghĩa - một thứ nhân nghĩa có nội hàm triết lý, mang đậm tính dân tộc và dân chủ sâu sắc. Trên thế giới, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây tồn tại hai phương thức trị nước chủ yếu: đức trị và pháp trị. Bản thân Hồ Chí Minh cũng đã có lần đề cập đến chế độ pháp trị: ... Tư pháp cần góp phần của mình là thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân. Nhưng trong thực tế, Người đã kết hợp chặt chẽ việc quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật với việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh công dân, giác ngộ lý tưởng cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh nhận rõ cả pháp luật và đạo đức đều dùng để điều chỉnh hành vi của con người, nâng con người lên, hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Pháp luật góp phần hoàn thiện nhân cách làm người, còn đạo đức làm cho người ta thực hiện luật pháp một cách tự giác. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức là cơ sở để xây dựng, thực hiện pháp luật. Nền pháp quyền của ta là một nền pháp quyền hợp đạo đức, có nhân tính. Hồ Chí Minh lý giải: nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp, cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức. Phải làm sao đóng góp vào việc làm cho nước độc lập, dân được tự do, hạnh phúc, nhân loại khỏi đau khổ. Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở quan niệm xử lý các hành vi phạm pháp, nguyên tắc "có lý","có tình" chi phối mọi hành vi ứng xử của con người, tôn trọng cái lý, đề cao cái tình, tùy từng trường hợp, tình huống cụ thể mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh mặt này hay mặt khác. Xử lý hành vi vi phạm pháp luật phải kịp thời, nghiêm minh. Pháp luật không loại trừ một ai, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi cái xấu, cái ác, khuyến khích, nâng đỡ, phát huy cái tốt, cái thiện vốn có trong mỗi con người, chứ không đơn thuần trừng phạt, răn đe. Trong việc thực thi pháp luật cũng phải bảo đảm tính hài hòa giữa các mặt tưởng chừng như đối lập nhau. Phương châm của Hồ Chí Minh là: không xử phạt là không đúng; song, cái gì cũng trừng phạt cả cũng là không đúng, nên phải tránh lạm dụng pháp luật. Tính nghiêm minh và hiệu lực của luật pháp không chỉ phụ thuộc vào sự đúng đắn của pháp luật mà trong quan hệ thực tế còn phụ thuộc vào cả cái tâm của chính người đại diện cho pháp luật. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu các giá trị tư tưởng hiện đại của loài người, trước nhu cầu thực tiễn phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta. Quan điểm về nhà nước pháp quyền của Đảng là một bộ phận hợp thành tổng thể lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức của Đảng về nhà nước pháp quyền là một quá trình. Trước những năm 90 của thế kỷ XX, trên bình diện lý luận, chúng ta chỉ dùng các khái niệm "Nhà nước chuyên chính vô sản", "Nhà nước xã hội chủ nghĩa". Đến năm 1994, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khóa VII, khái niệm "nhà nước pháp quyền" đã được nêu lên. Từ đó, Đảng ta nhận thức rất rõ rằng, nhà nước pháp quyền là một thành tựu vĩ đại của tư tưởng nhân loại; xét về bản chất, không chỉ có một loại nhà nước pháp quyền duy nhất; mà dựa trên cơ sở kinh tế - xã hội, bản chất chế độ xã hội khác nhau, vẫn tồn tại Nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhận thức này ngày càng thống nhất trong toàn Đảng và được khẳng định rõ tại Đại hội IX của Đảng (4-2001): Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Quan điểm này đã được thể hiện trong việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và cụ thể hóa trong Điều 2: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Thị trường là phạm trù kinh tế - xã hội phức tạp, một lĩnh vực khoa học vẫn đang có sự trao đổi, nghiên cứu nhằm đạt được sự thống nhất về lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó tìm ra những biện pháp quản lý, khai thác những tiềm năng của nó phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch, tập chung, bao cấp trước kia, thị trường được xem xét, nhìn nhận thong qua quá trình tái sản xuất xã hội thong qua cá công đoạn: Sản xuất; trao đổi, lưu thong; tiêu dung. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, thị trường được xem như một hệ thống thống nhất của cả quá trình tái sản xuất xã hội, trong đó sản xuất kinh doanh được gắn chặt chẽ với nhau. Vì vậy, có thể hiểu: “thị trường là nơi diễn ra các hoạt động sản xuất kinh doanh, là nơi phát sinh và giải quyết các mối quan hệ giữa cung và cầu”. Dưới góc độ quản lý nhà nước, thị trường được xem xét, phân loại theo một số tiêu thức sau đây: Thị trường nội địa (thị trường trong nước) và thị trường ngoài nước (thị trường khu vực, quốc tế) Thị trường phân theo các lĩnh vực hoạt động kinh tế: Thị trường tài chính tiền tệ, thị trường bất động sản, thị trường sức lao động, thị trường hang hoá nói chung Thị trường phân theo nhóm hang hoá cụ thể như: Thị trường xăng dầu, thị trường nhà đất, thị trường hàng nông sản, Thị trường nội địa là một hệ thống kinh tế thống nhất trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Phát triển thị trường nội dịa cũng đồng nghĩa với phát triển nền kinh tế quốc dân. Đây là một ván đề, một nhiệm vụ quan trọng và khó khăn nhất đối với các chính phủ nhiều nước trên thế giới. Một nền kinh tế phát triển nhanh hay chậm, phát triển cân đối, bền vững hay phát triển không ổn định (nền kinh tế nóng dạng bong bóng xà phòng) nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố quản lý của nhà nước là quan trọng nhất, quyết định đến sự phát triển của thị trưiừng và toàn bộ nền kinh tế. Khi nói đến vai trò quản lý của nhà nước đối với quá trình phát triển của nền kinh tế cũng có nghĩa là nói đến vai trò, khả năng, mức độ can thiệp của Chính phủ vào thị trường, vào quá trình vận động của nền kinh tế. Sự can thiệp này đến đâu, bằng biện pháp gì, vào lĩnh vực nào trong từng thời điểm, để một mặt vừa định hướng cho sự phát triển đúng đắn của thị trường, mặt khác vẫn khuyến khích tính chủ động, sang tạo của cơ sở cá doanh nghiệp, tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế. Nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch tập trung, bao cấp trước kia đã tuyệt đối hoá vai trò quản lý của nhà nước, phủ nhận vai trò điều tiế của thị trường.Từ quản lý vĩ mô đến quản lý vi mô đều do bàn tay của nhà nước điều hành thong qua cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ từ trung ương đến địa phương và các đơn vị cơ sở bằng hệ thống các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh cứng nhắc. Cơ chế tập trung bao cấp đã sinh ra bộ máy quản lý nhà nước cồng kềnh và hang nghìn doanh nghiệp quốc doanh luôn dựa vào sự bao cấp của nhà nước, dẫn đến hậu quả là sản xuất kinh doanh không có lãi, thị trường không phát triển. Nhận thực được những mặt hạn chế của cơ chế cơ chế cũ, Đảng và nhà nước đã kịp thời chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường theo tinh thần nội dung của Nghị Quyết Đại Hội Đảng lần thứ VII là: “phát triển nền kinh tế hang hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”. Chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường là bước đi đúng đắn, kịp thời của Đảng và nhà nước ta. Song điều đáng chú ý ở đây là chúng ta vẫn giữ vững vai trò “Quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN” chứ không phải theo cơ chế thị trường tự do với sự tuyệt đối hoá vai trò tự điều tiết của thị trường như các học thuyết kinh tế học cổ điển và lý thuyết “Bàn tay vô hình” mà A. Smith đã nêu ra. Thực tế phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta trong những năm qua cho thấy “nền kinh tế hang hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước” là mô hình phát triển hợp lý, vì nó có sự kết hợp giữa “Thị trường” với “Nhà nước”, tức là có sự kết hợp giữa “Bàn tay vô hình” với “Bàn tay hữu hình” của nhà nước để tạo nên một thể chế quản lý mới có tính hiệu quả cao hơn. Vấn đề vần nghiên cứu, trao đổi ở đây là vai trò quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay được thể hiện như thế nào, Nhà nước cần và không cần can thiệp vào lĩnh vực nào của thị trường? Đây là một vấn đề có thể còn có nhiều cách giải đáp theo những cách tiếp cận khác nhau. Nhưng, từ thực tế quản lý đã rút ra được trong những năm qua, kết hợp với những bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới đã cho thấy vai trò quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau: Một là, xây dựng một chính sách vĩ mô ổn định, hợp lý nhằm định hướng cho thị trường phát triển theo đúng mục tiêu, đồng thời tạo niềm tin cho các nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước yên tâm đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh. Bài học thực tế của các nước phát triển đã cho thấy: hệ thống chính sách vĩ mô, hệ thống pháp luật đầy đủ, ổn định sẽ là nền tảng vững chắc cho nền kinh tế phát triển bền vững, lành mạnh, đúng định hướng, đồng thời nó còn là cơ sở tạo ra một sân chơi bình đẳng, rộng rãi cho các nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước. Với ý nghĩ đó, trong những năm thực hiện đường lối đổi mới vừa qua, nhà nước ta đã ban hành đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật nhằm đáp ứng kịp thời công tác quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với việc hoàn chỉnh, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật, những chính sách điều hành quản lý vĩ mô cũng không ngừng được củng cố, hoàn thiện tạo nên một cơ chế quản lý mới, trong đó chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước ngày càng được tăng cường, đồng thời quyền chủ động ở cơ sở và các doanh nghiệp ngày càng được nâng cao. Ở một chừng mực nào đó, nhà nước đã thể hiện đúng vai trò, chức năng là người trọng tài điều khiển chứ không trực tiếp tham gia vào cuộc chơi trong không gian của thị trường. Cơ chế quản lý mới đã có sự phân định rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước về kinh tế của các bộ, nghành với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Theo đó là việc giảm dần cơ chế bộ chủ quản đã tạo cho các công ty, các doanh nghiệp quốc doanh có nhiều quyền tự quyết định trong sản xuất kinh doanh, đồng thời phía nhà nước đã giảm được gánh nặng bao cấp. Đây chính là một bước hoàn thiện cơ chế quản lý vĩ mô, thiết lập sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tạo cơ sở cho sự phát triển của thị trường trong nước. Hai là, vai trò tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn và bình đẳng. Môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn được biểu hiện thong qua nhiều yếu tố như: hạ tầng cơ sở tốt, hệ thống pháp luật đầy đủ, ổn định, nền hành chính rõ rang và bộ máy công quyền trong sạch, lành mạnh Những yếu tố trên đều do nhà nước và chỉ có nhà nước tạo dựng nên nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước phục vụ cho mục tiêu phát triển. Môi trường kinh doanh thuận lợi còn thể hiện ở sự lành mạnh, bình đẳng trong cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân hoạt động trong một không gian kinh tế. Bởi vì, KTTT lấy cạnh tranh làm cơ sở, động lực thúc đẩy sự phát triển của thị trường, nhà nước cần tạo ra cơ chế khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, trước hết phải hạn chế và chống độc quyền, bởi vì độc quyền là “bản án tử hình” của cơ chế thị trường, dù đó là độc quyền nhà nước hay độc quyền tư nhân. Kinh nghiệm thực tiễn đã cho thấy, đối với những nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi như ở nước ta hiện nay, thì cạnh tranh chưa thực sự đi vào tiềm thức trong hoạt động kinh tế, chưa trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của thị trường. Trong khi đó, độc quyền nhà nước vẫn đang ngự trị trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. Độc quyền nhà nước lại chủ yếu dựa trên quyền lực hành chính chứ không phải trên năng lực hoạt động kinh tế, bởi vì chính các doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước hoạt động không có hiệu quả. Độc quyền dựa trên quyền lực hành chính được xem như rào cản hành chính đối với cạnh tranh. Theo một số tác giả Trung Quốc ( là nước có môi trường gần giống với Việt Nam) thì có hai hình thức độc quyền chủ yếu dựa trên quyền lực hành chính là: độc quyền ngành và độc quyền địa phương. Độc quyền ngành hay còn gọi là độc quyền theo chiều dọc là độc quyền của các bộ quản lý chuyên ngành, hoặc của các tổng công ty, các công ty, các tập đoàn kinh tế lớn vừa có chức năng quản lý hành chính nhà nước, vừa là sản xuất hoặc nhà kinh doanh trên một lĩnh vực hay một số ngành nào đó. Có thể xem họ là những chủ thể hành chính – kinh tế, bởi vì họ vừa có quyền lực, vừa có nhiều lợi thế về vốn, về địa vị pháp lý, lại luôn nhân được những ưu đãi đặc biệt từ phía chính phủ hoặc chính quyền địa phương. Nhờ những lợi thế đó, cho nên trong hoạt động sản xuất kinh doanh, họ “tự nhiên” có được thế mạnh trên thị trường. Một số ngành như: bưu chính viễn thong, điện lực, các tổng công ty 90, tổng công ty 91 hiện nay chính là những hình mẫu của hình thức dộc quyền theo ngành. Độc quyền địa phương còn gọi là độc quyền theo chiều ngang, là hình thức bảo hộ sản xuất địa phương bằng những biện pháp hành chính nhằm ngăn cấm những hang hoá, dịch vụ từ địa phương khác xâm nhập vào địa phương mình. Đây là hành vi chia nhỏ thị trường, gây mất cân đối trên thị trường toàn quốc, làm suy yếu thị trường trong nước. Kinh nghiệm của Trung Quốc cũng cho thấy: từ khi cải cách diễn ra, việc phân cấp cho chính quyền địa phương càng mạnh thì hiện tượng độc quyền địa phương cũng càng phát triển. Thứ ba, là vai trò bảo hộ của nhà nước. Để thị trường phát triển, nhà nước cần có sự bảo hộ hợp lý đối với một số lĩnh vực và ngành hàng trong nước. Bởi vì, nhà nước là chủ thể quản lý cao nhất, là người đại diện cho quyền lợi của cả cộng đồng quốc gia, chỉ có nhà nước mới có đủ tư cách, sức mạnh, tiềm lực để thực hiện quyền bảo hộ. Thông qua các cơ quan bảo vệ pháp luật và bộ máy hành chính, nhà nước có trách nhiệm bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trên thị trường, như: quyền sở hữu (dù là sở hữu nhà nước hay sở hữu tư nhân), quyền tự do kinh doanh theo pháp luật quy định, bảo vệ bản quyền, nhãn hiệu hang hoá Theo nghĩa bao quát hơn, hình thức bảo hộ của nhà nước còn được thể hiện ở sự bảo hộ nền sản xuất trong nwocs trước sự cạnh tranh từ bên ngoài, bảo vệ những quyền lợi của công dân, các tổ chức doanh nghiệp trong nước khi có sự tranh chấp với các tổ chức, các tập đoàn kinh tế nước ngoài. Trong giai đoạn hiện nay, tuy xu thế “hội nhập”, “mở cửa” đang diễn ra một cách mạnh mẽ, những vấn đề bảo hộ sản xuất trong nước vẫn luôn là biện pháp, là chính sách có ý nghĩa quan trọng, thuộc tầm quản lý vĩ mô của các chính phủ. Bốn là, vai trò can thiệp, điều chỉnh, bổ sung thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước không những chỉ giữ vai trò bảo hộ, khuyến khích,tạo lập môi trường kinh doanh, mà còn có khả năng can thiệp, điều chỉnh, bổ sung cho thị trường, hướng thị trường vận động, phát triển theo đúng mục tiêu quản lý. Đây là một vấn đề thực tế, một nhiệm vụ quan trọng thuộc chức năng quản lýcủa nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay vẫn không ít quan điểm cho rằng: Nhà nước không thể và cũng không nên can thiệp vào thị trường. Điều tiết thị trường là khẳ năng tác động, can thiệp của nhà nước vào quá trình vận động của thị trường nhằm loại bỏ hoặc hạn chế những ảnh hưởng xấu của thị trường, hướng thị trường vận động, phát triển theo đúng mục tiêu đã định. Trong thực tế, không có nhà nước nào lại không có sự tác động,can thiệp ít hay nhiều vào thị trường, làm biến đổt thị trường. Chỉ có điều là sự tác động, can thiệp đó đến mức nào, hình thức và biện pháp can thiệp ra sao, hiệu qủa của sự can thiệp đó đến đâu? Lại là vấn đề khác,phụ thuộc vào tình huống của thị trường,vào khả năng điều hành của Chính phủ và thực lực của nền kinh tế Nhà nước đang nắm giữ.Thực tế quản lý đã cho thấy,trong những năm qua Nhà nước đã có những biện pháp can thiệp kịp thời vào thị trường, nên những tác động xấu do cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở khu vực trong những năm 1997-1998, những tổn thất do thiên tai, bão lụtđã không ảnh hưởng lớn đến tốc độ phát triển kinh tế của nước ta. Thông thường sự tác động, can thiệp của Nhà nước vào thị trường được thực hiện bằng quyền lực hành chính thông qua các biện pháp hành chính. Biện pháp hành chính là hình thức sử dụng quyền lực hành chính của Nhà nước tác động vào thị trường, hướng thị trường vận động theo mục tiêu định trước phù hợp với đường lối phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cơ chế tập trung bao cấp trước đã quá lạm dụng quyền lực hành chính trong quản lý, không thừa nhận những quy luật khách quan trong sự vận động của thị trường. Do vậy nền kinh tế được điều hành chủ yếu bằng các biện pháp hành chính, các quyết định quản lý đều dựa theo ý chí chủ quan của Nhà nước,dẫn đến hậu quả là thị trường bị thu hẹp, các quy luật kinh tế không phát huy tác dụng, nền kinh tế không phát triển. Thực tiễn quản lý đã cho thấy, muốn điều tiết thị trường có hiệu quả cần phải sử dụng kết hợp hài hoà các biện pháp hành chính với biện pháp kinh tế thông qua các công cụ quản lý là pháp luật, các chính sách kinh tế như: chính sách thuế, chính sách giá cả, chiến lược đầu tư, chính sách tiêu dùngtrong cơ chế thị trường, biện pháp kinh tế đã ngày càng trở thành biện pháp cơ bản để điều tiết, định hướng cho sự phát triển của thị trường. Tóm lại, thị trường và công tác quản lý Nhà nước đối với thị trường luôn là một vấn đề,một đề tài có tính thời sự. Bởi vì thị trường là nơi chứa đựng những tiềm năng và chứa đựng cả những ẩn số,những rủi ro đối với sự phát triển của nền kinh tế. Hoàn thiện và định hướng cho thị trường vận động, phát triển theo đúng mục tiêu, phục vụ kịp thời chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước là chức năng, nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan quản lý nhà nước.Trong cơ chế thị trường hiện nay,một mặt cần tôn trọng sự vận động mang tính quy luật của thị trường , nhưng mặt khác, Nhà nước vẫn có vai trò và khả năng can thiệp ,bổ sung, định hướng đối với sự vận động của thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vai trò của nhà nước trong nền KTTT cũng có những thách thức, khó khăn và tính hai mặt của nó. Nhà nước can thiệp để tránh những tác động tự phát có hại của thị trường, tuy nhiên, những chính sách thiện ý này được ban hành ở thời điểm nhất định vẫn có nguy cơ đi ngược lại sự phát triển của xã hội hoặc lỗi thời, hoặc mâu thuẫn với những chính sách mới ban hành. Sự đúng đắn và thích hợp của chính sách can thiệp của nhà nước phải được đếm bằng tác động tích cực hay tiêu cực mà nó đem lại trong thực tế, sau khi được ban hành, và những chính sách này có được thường xuyên cập nhật để thích hợp với hoàn cảnh thay đổi của thị trường, của xã hội hay không. Thách thức này đòi hỏi phải có giám sát thi hành chính sách và tách bạch được sự can thiệp mang tính chất nhất thời và sự can thiệp mang tính nguyên tắc, không can thiệp vào những vấn đề, lĩnh vực đòi hỏi thị trường tự điều chỉnh bằng những quy luật riêng. Phân tách được chính sách ngắn hạn khỏi dài hạn sẽ giúp tránh mau thuẫn, chồng chéo các quy định. Những chính sách ngắn hạn phải có giới hạn hiệu lực theo thời gian, sau đó phải có sự điều chỉnh. Nhiều khi một chính sách can thiệp về lâu dài có thể rất đúng đắn, nhưng lại bị lỗi thời, không có tác dụng do công nghệ mới, làm cho cách thức can thiệp bằng hành chính trở thành lực cản về thủ tục đối với sự phát triển của thị trường. Ví dụ rõ nhất có thể nêu là độc quyền nhà nước trong viễn thông và giao thông công cộng. Mục đích cao cả của sự can thiệp này là tạo hạ tầng cơ sở công cộng thuận lợi, giảm đầu vào của chi phí sản xuất và cung cấp dịch vụ công cộng cơ bản cho xã hội, tránh những cú sốc vì ở thời điểm ở thời điểm ban hành chính sách độc quyền này, ngoài nhà nước không thể có nhà đầu tư khác do chi phí cao, lợi nhuận thấp. Đến một thời điểm phát triển, công nghệ viễn thông cho phép những nhà đầu tư tư nhân hoàn toàn có thể đảm nhận lĩnh vực với chi phí thấp hơn. Nếu không kịp điều chỉnh, chính sách mang thiện ý hỗ trợ sự phát triển này lại trở thành lực cản. Điện lực và đồng thời cũng là những ví dụ tương tự về cách thức, công cụ và giới hạn thời gian can thiệp trực tiếp của nhà nước. Tóm lại, muốn tạo sự phát triển đồng bộ, là tác nhân cho sự phát triển thị trường, Nhà nước phải cộng tác với thị trường, chứ không thay thế thị trường. Công bằng xã hội, an ninh, trật tự, an toàn công cộng và phúc lợi chung thường là những lý do chính đáng cho sự can thiệp thường xuyên hoặc bất thường của nhà nước. Đó là những chính sách điều tiết kinh tế giảm tăng trưởng nóng, khuyến khích đầu tư cho xoá đói, giảm nghèo, can thiệp bảo vệ môi trường và sự phát triển bền vững, những chính sách giáo dục cơ bản và chăm sóc sức khoẻ Tuy nhiên, phải nhận thấy ngay cả trong những hoàn cảnh “hợp lý” này, sự can thiệp nhà nước không phải là công cụ duy nhất, mà nhà nước phải biết động viên cơ chế thị trường tham gia đạt được những mục đích này. Đó là sự khôn ngoan của chính sách can thiệp trên cơ sở hợp tác với thị trường. Tóm lại, sử dụng quyền lực công hoặc công cụ cưỡng chế là độc quyền nhà nước, và độc quyền là con dao hai lưỡi, luôn tiềm ẩn những nguy cơ độc đoán, can thiệp trái với quy luật thị trường. Đó là yếu kém của nhà nước. Yếu kém này cần nhận biết liên tục và được điều chỉnh thích hợp. Về vấn đề nâng cao vai trò của nhà nước trong nền KTTT hiện nay thì chúng ta thực hiện các biện pháp sau: Do năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên còn nhiều mặt yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Nhiều tổ chức cơ sở đảng, chi bộ chưa thực hiện đúng và đủ chức trách, nhiệm vụ theo quy định. Việc phổ biến, quán triệt, khả năng vận dụng cụ thể hoá và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn nhiều hạn chế. Chất lượng sinh hoạt đảng thấp, chậm đổi mới, có nơi còn hình thức, vi phạm nguyên tắc, chạy theo thành tích. Chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên nhìn chung còn nhiều hạn chế. Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, giáo dục cán bộ, đảng viên có nơi bị buông lỏng. Mô hình tổ chức cơ sở đảng ở nhiều nơi chưa đồng bộ, thống nhất với các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở, việc xây dựng tổ chức đảng, phát triển đảng viên ở một số địa bàn, lĩnh vực trọng yếu còn khó khăn. Chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở còn bất cập, thiếu đồng bộ. Thực tiễn đó đòi hỏi Đảng ta phải tập trung sức xây dựng, củng cố, nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tạo được sự chuyển biến về chất lượng hoạt động của các loại hình cơ sở đảng, làm cho tổ chức cơ sở đảng thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, là cầu nối giữa Đảng với quần chúng, đủ sức lãnh đạo giải quyết kịp thời những vấn đề phức tạp xảy ra ở cơ sở. Kiện toàn, sắp xếp tổ chức của hệ thống chính trị đồng bộ, thống nhất, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Tập trung củng cố, xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên ở những nơi chưa có tổ chức đảng, có ít hoặc chưa có đảng viên. Bảo đảm các loại hình tổ chức cơ sở đảng đều có quy định về chức năng, nhiệm vụ và quy chế làm việc phù hợp. Chăm lo xây dựng đội ngũ cấp uỷ viên, trước hết là bí thư cấp uỷ và cán bộ, đảng viên thật sự tiền phong, gương mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, có uy tín, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Kiên quyết thay thế những cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, không được cán bộ, đảng viên và nhân dân tín nhiệm; đồng thời kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên. Để thực hiện tốt mục tiêu đó, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về phẩm chất và năng lực, đủ sức hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao. Công tác chính trị, tư tưởng phải được tiến hành một cách tích cực, chủ động, trang bị kịp thời những thông tin chính thống có định hướng, kiên quyết đấu tranh với các luận điệu sai trái, độc hại của các thế lực thù địch và phần tử xấu; lý giải kịp thời các vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, củng cố niềm tin vào đường lối của Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng sự đoàn kết thống nhất có nguyên tắc trong chi bộ, đơn vị. Về mặt tổ chức, chúng ta phải hoàn thiện mô hình tổ chức trong các loại hình tổ chức cơ sở đảng theo hướng gắn tổ chức cơ sở đảng với trách nhiệm lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội; chăm lo phát triển đảng viên, nhất là ở những địa bàn, lĩnh vực chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên. Thực hiện mạnh mẽ chủ trương trẻ hoá, tiêu chuẩn hoá và thí điểm từng bước "nhất thể hoá" một số chức danh cán bộ; tạo bằng được bước chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động, chất lượng sinh hoạt của các loại hình tổ chức cơ sở đảng theo hướng vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng cường kỷ cương, kỷ luật; khắc phục tính hình thức, đơn điệu, tăng cường sức sống mới, tính chiến đấu, tính giáo dục để nâng cao nhận thức và tạo sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng. Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, quản lý đảng viên, thực hiện tự phê bình và phê bình sâu sắc, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. III, KẾT LUẬN Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc điều hành và quản lý xã hội. Nhà nước có nhiệm vụ duy trì trật tự kinh tế xã hội, chính trị và những trật tự khác có trong xã hội theo pháp luật; Nhà nước bảo vệ lãnh thổ quốc gia. Vì vậy, việc đổi mới hệ thống chính trị nói chung và đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của nhà nước là cần thiết, đặc biệt là nhà nước vô sản - một nhà nước do dân và vì dân. Nước ta đã và đang thực hiệnđổi mới đã thu được một số thành công nhất định. Tuy nhiên, chúng ta gặp không ít khó khăn trong quá trình đổi mới. Chúng ta bắt đầu quá trình dân chủ hoá trong một xã hội còn mang nặng dấu vết phong kiến và chủ nghĩa thực dân, một xã hội mà trình độ kinh tế - văn hoá còn thấp. Chúng ta đã đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nhà nước XHCN Việt Nam. Tuy nhiên đó không phải là những giải pháp đầy đủ, hoàn chỉnh, ưu việt nhất, đặc biệt trong hoàn cảnh nước ta có nhiều biến động về mọi mặt, nhất là trong kinh tế. Vì thế, phải đổi mới như thế nào cho phù hợp, để nhà nước XHCN Việt nam phát huy hết chức năng phục vụ nhân dân, quản lý xã hội là cả vấn đề quan trọng và cấp thiết. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Vũ Tuấn Anh – Vai trò của nhà nước trong quản lý kinh tế - NXB Khoa học xã hội 1999. Nguyễn Duy Hùng – Vai trò quản lý kinh tế của nhà nước trong kinh tế thị trường – kinh nghiệm các nước ASEAN. Võ Đại Lượng – Vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế.Kinh nghiệm ASEAN và Việt Nam – NXB Khoa học xã hội năm 1993. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI – NXB Sự thật – 1987. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII – NXB Sự thật – 1991 Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII –NXB Sự thật – 1996 Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X – NXB Chính trị quốc gia – 2007 Kinh tế chính trị Mác-Lênin ( tập 2)- NXB Giáo dục – 1998 Tạp chí Quản lý Nhà nước Tạp chí Thương mại Tạp chí giáo dục và thời đại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7363.doc
Tài liệu liên quan