Mối quan hệ giữa tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo trong quá trình phát triển kinh tế ở Đồng Bằng Sông Cửu Long

Mối quan hệ giữa tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo trong quá trình phát triển kinh tế ở Đồng Bằng Sông Cửu LongMục Lục Tóm tắt Phần I: Lý luận chung về tăng trưởng và XĐGN. 1. Các khái niệm và các chỉ tiêu để đo 1.1. Tăng trưởng kinh tế. 1.2. Phỏt triển kinh tế. 1.3. Nghốo 1.4. Cụng bằng và bất bỡnh đẳng. 2. Cỏc mối quan hệ. 2.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo. 2.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinhtế và công bằng 2.3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và cỏc chớnh sỏch giảm nghốo 3. Kinh nghiệm của một số nước NICs Châu Á trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và XĐGN. Phần II: Thực trạng tăng trưởng kinh tế và XĐGN ở ĐBSCL 1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế-xó hội ở ĐBSCL 2. Chính sách XĐGN ở ĐBSCL . 3.Thành tựu tăng trưởng kinh tế và XĐGN ở ĐBSCL. 3.1.Thành tựu tăng trưởng kinh tế ở ĐBSCL. 3.2.Thành tựu về XĐGN ở ĐBSCL. 4. Nguyên nhân nghèo ở ĐBSCL. Phần III: Kiến nghị và giải pháp. 1.Giải pháp XĐGN ở ĐBSCL. 2. Kiến nghị giải pháp giải quyết việc làm và tăng thu nhập ở ĐBSCL. Kết luận Danh sách các tài liệu tham khảo.

doc44 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2250 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mối quan hệ giữa tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo trong quá trình phát triển kinh tế ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mối quan hệ giữa tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo trong quá trình phát triển kinh tế ở Đồng Bằng Sông Cửu Long Mục Lục Danh sách các bảng, biểu. Tóm tắt Phần I: Lý luận chung về tăng trưởng và XĐGN. 1. Các khái niệm và các chỉ tiêu để đo 1.1. Tăng trưởng kinh tế. 1.2. Phát triển kinh tế. 1.3. Nghèo 1.4. Công bằng và bất bình đẳng. 2. Các mối quan hệ. 2.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo. 2.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinhtế và công bằng 2.3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và các chính sách giảm nghèo 3. Kinh nghiệm của một số nước NICs Châu Á trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và XĐGN. Phần II: Thực trạng tăng trưởng kinh tế và XĐGN ở ĐBSCL 1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội ở ĐBSCL 2. Chính sách XĐGN ở ĐBSCL . 3.Thành tựu tăng trưởng kinh tế và XĐGN ở ĐBSCL. 3.1.Thành tựu tăng trưởng kinh tế ở ĐBSCL. 3.2.Thành tựu về XĐGN ở ĐBSCL. 4. Nguyên nhân nghèo ở ĐBSCL. Phần III: Kiến nghị và giải pháp. 1.Giải pháp XĐGN ở ĐBSCL. 2. Kiến nghị giải pháp giải quyết việc làm và tăng thu nhập ở ĐBSCL. Kết luận Danh sách các tài liệu tham khảo. Danh sách các bảng, biểu và các từ viết tắt. Biểu 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua. Biểu 2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế ĐBSCL. Biểu 3: Thu nhập bình quân 1 người/tháng của ĐBSCL. Biểu đồ 4: Tỷ lệ hộ nghèo ở ĐBSCL Bi ểu 5: Tác động của tăng trưởng kinh tế tới giảm nghèo ở ĐBSCL. nhập thấp nhất ở ĐBSCL. .Biểu 6: Mức thu nhập của nhóm thu nhập cao nhất và thấp nhất ở ĐBSCL. Biểu 7: Chênh lệch giữa nhóm thu nhập cao nhất và nhóm thu nhập thấp nhất ở ĐBSCL. Biểu 8: Dân số trung bình ở ĐBSCL. Bảng 1: Thu nhập bình quân 1 người/tháng theo giá thực tế của ĐBSCL. bảng 2: Tỷ lệ hộ nghèo của ĐBSCL Bảng 3: Mức thu nhập và chênh lệch thu nhập của nhóm thu nhập cao nhất và nhóm thu nhập thấp nhất. Bảng 4: Số giường bệnh và số y bác sĩ, y sĩ, y tá ở ĐBSCL. Bảng 5: Tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ lao động có việc làm ở nông thôn ĐBSCL. Bảng 6:Các chiến lược và chính sách thúc đẩy tăng trưởng và giảm nghèo Các từ viết tắt: ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long. XĐGN: Xoá đói giảm nghèo. GD_ĐT: Giáo dục _đào tạo. TÓM TẮT Bài viết nay sẽ gồm 3 phần lớn là: phần I :Lý luận chung tăng trưởng và XĐGN. Trong phần này sẽ đưa ra các khái niệm cơ bản như tăng trưởng kinh tế, nghèo, bình đẳng và bất bình đẳng. Cùng với các chỉ tiêu để đo, các mối quan hệ giữa tăng trưởng và bình đẳng, tăng trưởng và giảm nghèo, các chính sách tác động đến tăng trưởng. Trong đó em sẽ tập trung vào khái niệm “nghèo”, tác động của các chính sách tới tăng trưởng kinh tế, mối quan hệ tăng trưởng kinh tế với vấn đề công bằng. Phần II: Thực trạng tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo ở ĐBSCL. Phần này bao gồm các nội dung là: Trước hết là nói về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của ĐBSCL. Các chính sách mà ĐBSCL đã thực hiện trong 5 năm qua, tiếp đến là thực trạng tăng trưởng và XĐGN ở ĐBCL, từ đó thấy được nguyên nhân đói nghèo ở đây. Phần này em sẽ khai thác sâu tác động của tăng trưởng kinh tế tới XĐGN ở ĐBSCL, nguyên nhân dẫn đến ghèo ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Phần III. Kiến Nghị và giải pháp. Trong phần này gồm những giải pháp XĐGN dựa trên những nguyên nhân đói nghèo ở phần II.Trong đó sẽ nhấn mạnh vào những khuyến nghị giải pháp tạo việc làm, tăng thu nhập cho những người dân không có đất, thiếu đất ở ĐBSCL. I. Lý luận chung về tăng trưởng kinh tế và XĐGN. 1.Các khái niệm và các chỉ tiêu để đo 1.1. Tăng trưởng kinh tế. Khái niệm: tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là 1 năm). Thu nhập của nền kinh tế được biểu hiện dưới dạng hiện vật và giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu GDP, GNI và được tính cho toàn nền kinh tế hoặc tính bình quân đầu người. 1.2. Phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển được xem như quá trình biến đổi cả về lượng và về chất của nền kinh tế, nó là một cách kết hợp chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Nội dung của phát triển được khái quát theo ba tiêu thức. Một là sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu nhập bình quân trên đầu người. Đây là tiêu thức phản ánh sự biến đổi về lượng của nền kinh tế. Hai là, sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế. Đây phản ánh sự biến đổi về chất của nền kinh tế của một quốc gia. Ba là, sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển kinh tế không phải là tăng trưởng kinh tế hay chuyển dịch kinh tế, mà là việc xoá bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, sự tăng lên của tuổi thọ bình quân, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ y tế, nước sạch, trình độ dân chí giáo dục của quảng đại quần chúng nhân dân. Như vậy mục tiêu cuối cùng của sự phát triển chính là phát triển vì con người. 1.3. Nghèo. Theo Hội nghị chống đói nghèo Châu Á –Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Kốc, Thái Lan (9/1993) đã đưa ra định nghĩa chung như sau: Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã được thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương. Định nghĩa này đang được nhiều quốc gia sử dụng trong đó có Việt Nam. Phải công nhận rằng không có một định nghĩa duy nhất nào về nghèo đói, theo báo cáo phát triển Việt Nam thì các khía cạnh của nghèo đó là tình trạng thiếu thốn ở nhiều phương diện như: thu nhập hạn chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn, dễ bị tổn thương trước những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và khó khăn tới những người có khả năng giải quyết, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định, cảm giác bị xỉ nhục, không được tham người khác tôn trọng ..v..v... Nghèo khổ tuyệt đối biểu thị một mức thu nhập (chi tiêu) tối thiểu cần thiết để đảm bảo những “nhu cầu vật chất cơ bản” như lương thực, quần áo, nhà ở dể cho mỗi người có thể “ tiếp tục tồn tại”. Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát triển, Robert McNamara, khi làm giám đốc của ngân hàng thế giới, đã đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối như sau: “Nghèo ở mức độ tuyệt đối là sống ở ranh giới ngoài cùng của sự tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta.” Ngân hàng thế giới xem thu nhập 1 đô la Mỹ/ngày theo sức mua tương đương của địa phương so với (đô la thế giới) để thoả mãn nhu cầu sống như là chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt đối. Trong những bước sau đó các trị ranh giới tuyệt đối (chuẩn) cho từng địa phương hay từng vùng được xác định, từ 2 đô la cho châu Mỹ La Tinh và Carribean đến 4 đô la cho các nước Đông Âu cho đến 14,40 đô la cho các nước công nghiệp (Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc 1997). Đối với Việt Nam, Chính Phủ Việt Nam đã 4 lần nâng mức chuẩn nghèo trong giai đoạn từ 1993 đến cuối năm 2005. Theo Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ ngày 27 tháng 9 năm 2001, trong đó phê duyệt “chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói và giảm nghèo giai đoạn 2001-2005”, thì những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ 80.000 đồng /người/ tháng (960.000 đồng /người/ năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực nông thôn đồng bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/người/tháng (1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 150.000 đồng/người/tháng (1.800.000 đồng/người/năm trở xuống là hộ nghèo. Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) là hộ nghèo. Trong những xã hội thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó. Nghèo tương đối có thể khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi nghèo tương đối chủ quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất (tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn. Việc nghèo đi về văn hoá, thiếu sự tham gia vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một phần được các nhà xã hội xem như là một thách thức xã hội nghiêm trọng. Nghèo diễn ra ở khắp mọi nơi, cả những nước giàu nhất thế giới. ( Ở Mỹ cũng không tránh khỏi nghèo! Theo số liệu từ báo cáo của Cục điều tra dân số tháng 8 năm 2005 thì ở Mỹ con số những người có thu nhập dưới ranh giới nghèo đã liên tiếp tăng đến lần thứ tư. Có 12,7% dân số hay 37 triệu người nghèo và đã tăng 0,2% so với năm trước đó. Một gia đình 4 người được coi là nghèo khi chỉ có thể chi tiêu ít hơn 19.310 đô la Mỹ trong một năm. Đối với những người độc thân thì con số này ở vào khoảng 9650 đô la. ( Ở Đức, theo số liệu từ “Báo cáo giàu và nghèo lần thứ hai” do chính phủ liên bang đưa ra trong tháng 3 năm 2005 thì trong năm 2003 có 13,5% dân số nghèo. Năm 2002 cũng theo số liệu này thì con số đó là 12,7%, năm 1998 là 12,1%. Hơn 1/3 những người nghèo này là những người nuôi con một mình và con của họ. Vợ chồng có nhiều hơn 3 con chiếm 19%. Trẻ em và thanh niên ở Đức có nguy cơ nghèo cao. 15% trẻ em dưới 15 tuổi và 19,1% thanh niên từ 16 đến 24 tuổi thuộc vào diện này. Số trẻ em sống nhờ vào trợ cấp xã hội ở Đức tăng thêm 64.000, lên đến 1,08 triệu trong năm 2003 và đạt đến 1,45 triệu trong thời gian 2004-2005. Theo UNICEF, trẻ em ở Đức tăng nhanh hơn so với phần lớn các nước công nghiệp. Thêm vào đó nghèo có ảnh hưởng tới cơ hội giáo dục theo nghiên cứu của Tệp hội Từ thiện Công nhân (Arbeiterwohlfahrt). Ngược lại thì người già ở Đức lại giảm từ 13,3% năm 1998 xuống còn 11,4% năm 2003. Thế nhưng nạn nghèo ở đây lại được dự đoán là sẽ tăng vì những người thất nghiệp, làm việc nửa ngày và những người về hưu trong tương lai (tức là tất cả những người làm việc hiện nay) sẽ bị giảm đi theo các cải tổ. Theo một nghiên cứu của Deutsches Institut Altersvsorge thì 1/3 công dân liên bang có nguy cơ bị nghèo đi trong tuổi già. Nguyên nhân bên cạnh việc tăng tuổi thọ là các cải tổ về chế độ hưu của năm 2001 và năm 2004 giảm mức độ tiền hưu theo luật pháp xuống khoảng 18% và việc nhiều công dân liên bang không sẵn sàng tự lo trước cho tuổi già vì không muốn hay không có khả năng (khoảng 16%). ( Ở Áo, theo số liệu thống kê của Bộ Xã Hội thì trong năm 2003 có hơn 1 triệu người Áo (13,2% dân cư) có nguy cơ nghèo. Trong năm 2002 thì 900.000 hay 12%, năm 1999 là 11%. Ranh giới nguy cơ nghèo là 60% của thu nhập trung bình. theo đó thì cứ mỗi 8 người thì có một người là có thu nhập ít hơn 785 Euro/tháng. Phụ nữ có tỷ lệ nguy cơ nghèo cao hơn (14%). Bên cạnh nghèo về thu nhập như là chỉ số cho tình trạng tài chính của một gia đình, ở Áo còn có “nghèo nguy kịch” khi ngoài thiệt thòi về tài chính còn có thiếu thốn nhất định trong những lãnh vực sống cơ bản. Trong năm 2003 có 467.000 người (5,9% dân số) nghèo nguy kịch. trong năm trước còn là 300.000 người hay 4%. theo một bản báo cáo của hội nghị về nạn nghèo, lần đầu tiên có số liệu về cái gọi là “Working poor”: Tại Áo có 57.000 người nghèo mặc dù là có việc làm. Ngoài ra mức độ nguy cơ nghèo phụ thuộc vào công việc làm: Những người làm việc cho đến 20 tiếng hằng tuần có nguy cơ nghèo gấp 3 lần, những người làm việc từ 21 đến 30 tiếng có nguy cơ nghèo gấp đôi những người làm việc 31 đến 40 tiếng. Các thước do nghèo khổ về thu nhập: Tỷ lệ nghèo và khoảng cách nghèo. Các thước đo về nghèo khổ đa chiều: ( Về giáo dục: tỷ lệ biết chữ, tỷ lệ nhập học ở các cấp học, chi chính phủ cho giáo dục. ( Về y tế: Tuổi thọ bình quân, tỷ lệ tử vong ở trẻ, tỷ lệ suy dịnh dưỡng ở trẻ, tình trạng nức sạch, tỷ lệ người không được tiếp cận với các dịch vụ y tế. ( Thu nhập: Ngưỡng nghèo lương thực, thu nhập, việc làm. 1.4. công bằng và bất bình đẳng. Như bất cứ một khái niệm chuẩn nào, từ “công bằng”đối với nhiều người khác nhau mang ý nghĩa không giống nhau. Đây là một khái niệm khó, từ trước đến nay đã có nhiều cách giải thích khác nhau tuỳ theo từng quốc gia và từng chuyên ngành học thuật. Theo báo cáo của NHTG thi Công bằng được đinh nghĩa theo 2 cách cơ bản là: Cơ hội công bằng và tránh sự cùng khổ tuyệt đối. Cơ hội công bằng: Kết cục trong một đời người, xét theo nhiều khía cạnh khác nhau, phải phản ánh phần lớn các nỗ lực và tài năng của họ chứ không phải là hoàn cảnh cá nhân. Những hoàn cảnh đã định trước như giới, màu da, nơi sinh, nguồn gốc gia đình và nhóm người xã hội mà cá nhân đó sinh ra không nên góp phần quyết định xem liệu con người đó có thành công về kinh tế, xã hội hay chính trị hay không. Tránh sự cùng khổ tuyệt đối: Một quan điểm không chấp nhận một sự cùng khổ hay chính xác là một dạng ác cảm với sự bất bình đẳng về các kết cục theo kiểu Raoxow cho rằng, các xã hội có thể quyết định nên hay không nên có sự can thiệp để bảo vệ sinh kế cho những người có nhu cầu bức thiết nhất (sống dưới ngưỡng tuyệt đối nào đó về nhu cầu), ngay cả khi nguyên tắc về cơ hội bình đẳng đã được đảm bảo. Con đường từ cơ hội đến kết cục có lắm trông gai, kết cục có thể thấp kém do không may, hoặc thậm chí do sự thất bại của bản thân từng người. Vì mục đích bảo hiểm hoặc vì lòng chắc ẩn mà xã hội có thể khổng để các thành viên của mình không phải chịu cảnh đói, ngay cả khi họ đã được hưởng đúng phần của mình trong “chiếc bánh” cơ hội, nhưng vì lý do nào đó mà mọi việc trở nên quá tồi tệ với họ. Các thước đo bất bình đẳng thu nhập: ( Đường cong Lorenz (do nhà kinh tế học Mỹ Coral Lorenz 1950). Đường cong Lorenz được biểu thị trong một hình vuông mà cạnh bên là tỷ lệ % thu nhập cộng dồn, còn cạnh đáy là tỷ lệ % cộng dồn của các nhóm dân cư được sắp xếp theo thứ tự mức thu nhập tăng dần. Đường cong Lorenz phản ánh tỷ lệ % của tổng thu nhập quốc dân cộng dồn được phân phối tương ứng cới tỷ lệ % cộng dồn của các nhóm dân số đã biết. Tất cả các đường cong Lorenz đều bắt đầu từ gốc của hình vuông và kết thúc ở điểm A đối diện mình. Điều đó cho biết, % dân số được nhận tương ứng bao nhiêu % thu nhập và 100% dân số sẽ có 100% thu nhập. Trong trường hợp thu nhập được phân phối tuyệt đối bình đẳng thì bao nhiêu % dân số sẽ được hưởng tương ứng với bấy nhiêu % thu nhập. Khi đó đường cong Lorenz sẽ trùng vào đường chéo OA của hình vuông và đường này được gọi là đường bình đẳng tuyệt đối. Nếu một người nhận được toàn bộ thu nhập và những người khác thì không có chút thu nhập nào, đường cong Lorenz sẽ chạy theo cạnh đáy và cạnh bên của hình vuông, đó là trường hợp phân phối hoàn toàn bất bình đẳng. Nhìn chung đường cong Lorenz thường nằm ở khoảng giữa đường chéo và đường bất bình đẳng tuyệt đối. Đường cong Lorenz càng gần đường chéo thì mức độ công bằng càng cao (bất bình đẳng càng thấp). và càng xa đường chéo thì mức độ công bằng càng thấp (bất bình đẳng càng cao). ( Hệ số GINI.(mang tên nhà thống kê học người Italia C.GiNi.): là thước đo bất bình đẳng được sử dụng phổ biến nhất. G==2A. Trên thực tế hệ số G được tính theo công thức: G=. 0 Hệ số GINI (G): nhận giá trị từ 0 đến 1. nếu G=0 thì là bình đẳng tuyệt đối thì diện tích A bằng 0 và đường cong Lorenz trùng đường chéo. Nếu G=1 thì đường cong Lorenz xa đường chéo nhất. Nhưng trên thực tế thì G=0 hay G=1 chỉ có ỹ nghĩa lý thuyết. ( Tỷ lệ giữa bách phân vị thứ 90 với 10. Được xây dựng bằn cách chia thu nhập (hoặc tiêu dùng) của bách phân vị thứ 90 cho thu nhập (tiêu dùng) của bách phân vị thứ 10. Tỷ lệ giữa bách phân vị thứ 90 và thứ 10 bằng 5 có nghĩa là hộ gia đình trong bách phân vị thứ 90 chiếm được thu nhập (hoặc chi tiêu) gấp 5 lần so với hộ gia đình đứng ở bách phân vị thứ 10. ( Tiêu chuẩn 40% của NHTG. Tính xem 40% dân số có thu nhập (chi tiêu) thấp nhất chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng thu nhập (chi tiêu). Nếu 17% thì là tương đối bình đẳng. 2.Các mối quan hệ. 2.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và XĐGN. Xoá đói giảm nghèo (XĐGN) là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững. Xoá đói giảm nghèo không chỉ là công việc trước mắt mà còn là nhiệm vụ lâu dài. Trước mắt là xoá hộ đói, giảm hộ nghèo: lâu dài là xoá sự nghèo, giảm khoảng cách nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh , công bằng, dân chủ văn minh. XĐGN không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách thụ động mà phải tạo ra một lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn lên thoát nghèo. Xoá đói giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và đảm bảo cho giai đoạn “cất cánh”. Do đó XĐGN là một trong những mục tiêu của tăng trưởng (cả trên góc dộ tăng trưởng và kinh tế), đồng thời cũng là một diều kiện tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Trên phương diện nào đó, xét về ngắn hạn, khi phân phối một phần đáng kể trong thu nhập xã hội cho chương trình xoá đói giảm nghèo thì nguồn lực dành cho tăng trưởng kinh tế có thể bị ảnh hưởng, song xét một cách toàn diện về dài hạn thì kết quả XĐGN sẽ tạo tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững. 2.2 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng. Một là có quan điểm cho rằng tăng trưởng và công bằng có mâu thuẫn. Hai là cũng co quan điểm cho rằng tăng trưởng và công bằng không có mâu thuẫn. Trong dài hạn công bằng và tăng trưởng có thể hỗ trợ cho nhau chứ không phải thay thế nhau. Xuất phát điểm của các nghiên cứu nhằm liên hệ phát triển kinh tế với bất bình đẳng thu nhập gắn với các công trình nghiên cứu nổi tiếng của hai tác giả được nhận giải thưởng Nobel, đó là W. Arthur Lewis (1954) và Simon Kuznets (1955). Trong bài báo cáo kinh điển của mình năm 1954 nhan đề “phát triển kinh tế với cung lao động vô hạn”, Lewis đã xây dựng một mô hình lý thuyết trong đó tăng trưởng và tích luỹ trong một nền kinh tế hai khu vực sẽ bắt đầu từ khu vực công nghiệp hiện đại, nơi các nhà tư bản sẽ thuê công nhân ở mức lương cho trước và tái đầu tư phần lời nhuận của họ. Số công nhân nông nghiệp truyền thống sẵn sàng chuyển sang làm việc trong khu vực lương cao và năng suất cao này là vô hạn. Trong quá trình phát triển, chừng nào giả định này còn có giá trị thì chừng đó sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập còn làm tăng mức thu nhập trung bình. Nhưng có một bước ngoặt mà sau điểm đó, sự bất bình đẳng sẽ giảm khi kết thúc giai đoạn dư thừa lao động và nền kinh tế công nghiệp hoá hoàn toàn. Tuy Kuznets không công khai xây dựng mô hình cho sự chuyển dịch dân số từ ngành này sang ngành khác trong quá trình phát triển, nhưng ông đã lựa dựa vào đó để trình bày ý tưởng cơ bản của ông về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập (“Đường kuznets”). Trong bài phát biểu ở cương vị chủ tịch tại cuộc họp thường niên Hiệp hội Kinh tế Hoa Kỳ năm 1954, ông đã giả thuyết rằng trong quá trình tăng trưởng và công nghiệp hoá, bất bình đẳng lúc nào đầu sẽ tăng lên do sự chuyển dịch từ nông nghiệp và nông thôn sang công nghiệp và thành phố, rồi sau đó sẽ giảm xuống khi lợi nhuận giữa tất cả được bình quân hoá. Số liệu mà Kuznets sử dụng để đưa ra nhận đinh đó lấy ra từ chuỗi chỉ số bất bình đẳng dài hạn của Anh, Đức và Mỹ, và từ một quan sát thời điểm của ba nước đang phát triển-Ấn Độ, Xây Lan(Srilanca ngày nay) và Puéctô Rico. Đó là những số liệu sẵn có vào thời điểm đó, và Kuznets hoàn toàn nhận thức được sự hạn chế của những hậu thuẫn thực nghiệm đối với lập luận của ông, mà theo ngôn ngữ của ông, “có 5% là thông tin thực nghiệm và 95% là sự suy đoán, trong đó có thể có một số thông tin đã bị sai lệch do sự mơ tưởng. Suy đoán của Kuznets được dựa chủ yếu trên các số liệu đơn tuyến và cần có những tình huống nghiên cứu sâu về tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Nhưng nhiều nghiên cứu sau đó lại đơn thuần sử dụng các số liệu tổng hợp giữa các nước (thường không có chất lượng cao lắm) và các mô hình giản tiện hoá để tìm hiểu và ủng hộ cho giả thuyết về một sự đánh đổi khó tránh giữa phát triển kinh tế và bẩt bình đẳng. Đường cong Kuznets trở thành một trong những sự kiện điển hình hoá và được nhiều người trích dẫn nhất trong nghiên cứu về phân phối thu nhập trong suốt gần bốn thập kỷ. Với việc xây dựng các số liệu lớn hơn nhiều, chẳng hạn như cơ sở dữ liệu về bất bình đẳng quốc tế của Deininger and Squire (1996) (kế tiếp công trình của Fields (1989)), các cuộc “kiểm định” thực nghiệm về đường cong Kuznets đã được đông đảo các học giả thực hiện. Nhưng người ta dần hiểu ra rằng, sử dụng số liệu quốc gia để phân tích cái về bản chất là những quá trình độngcó thể dẫn đến sự sai đường khủng khiếp. Hơn nữa, rất nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ các bằng chứng hậu thuẫn cho đường Kuznets không phải lúc nào cũng vững chắc theo các tiêu chuẩn kinh tế lượng, cơ cấu mẫu hay thời gian quan sát. Tại sao đường Kuznets không đúng trong thực tế có lẽ còn phải viện đến một điều là các nước đang phát triển nói chung không thoả mãn giả định về quá trình di cư và phát triển ngành như trong giả thuyết của Kuznets. Để giải thích sự khác khác biệt quốc tế trong bất bình đẳng về thu nhập, điều quan trọng là mối liên hệ giữa bất bình đẳng kinh tế và các yếu tố khác, chẳng hạn như tính chất hai khu vực kinh tếm đất đai,giáo dục, sự khác biệt vùng…cần được phân tích kỹ lưỡng hơn. Kết luận lại, ngày nay đã có sự đồng thuận nhất định rằng không thể xác lập được một mối quan hệ đơn giản giữa thu nhập và bất bình đẳng. Như Kanbur (2000) đã lập luận trong công trình đánh giá thấu đáo các nghiên cứu về đường cong Kuznets được viết trong cuốn sổ tay về phân phối thu nhập: “có lẽ tốt hơn hết là chúng ta nên tập trung trực tiếp vào các chính sách hoặc sự kết hợp các chính sách điều đó sẽ tạo ra tăng trưởng mà không gây những hiệu ứng phân phối bất lợi, chứ không nên dựa vào sự tồn tại hay không một mối quan hệ tổng hợp, giản đơn hoá giữa thu nhập bình quân đầu người và bất bình đẳng.” 2.3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và các chính sách giảm nghèo. Một nền kinh tế nếu chỉ co sự thị trường hoạt động riêng lẻ thì sẽ chỉ như “vỗ tay trên một bàn tay” do vậy tính hiệu quả của nó sẽ giảm đi, nhiều khi có thể dẫn dến phi hiệu quả và khủng hoảng kinh tế bởi vì chính thị trường cũng có những khuyết tật của nó. Vì vậy mà cần phải có sự điều tiết của chính phủ. Các chính sách vĩ mô điều tiết của chính phủ là một công cụ quan trọng và cơ bản để nhà nước có thể thực hiện vai trò điều tiết của mình. Nhưng bản thân nhà nước cũng có những hạn chế của mình vì vậy cần phải có sự kết hợp một cách linh hoạt giữa nhà nước và thị trường. Các chính sách phải làm những việc mà thị trường thất bại như chính sách công cộng, chính sách pháp luật điều tiết vĩ mô. Và những chính sách XĐGN cũng không nằm ngoài mục đích nhằm làm tăng tính hiệu quả và khắc phục những thất bại của thị trường. Như trên đã nêu thì tăng trưởng và giảm nghèo có thể hỗ trợ tích cực cho nhau nên khi hoạch định các chính sách thì cần có sự cân nhắc chính sách để có thể kết hợp tăng trưởng và giảm nghèo một cách hiệu quả và bền vững. ( Một chính sách hoặc một tập hợp các chính sách nhằm sửa chữa những sai lệch trong giá cả. Có được mức giá hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất , tạo công ăn việc làm và xoá đói giảm nghèo. ( Một chính sách hoặc một tập hợp các chính sách nhằm đem lại những thay đổi về cơ cấu trong phân phối tài sản nguồn lực và khả năng được giáo dục cùng các cơ hội có liên quan và tạo ra thu nhập. Những chính sách như vậy vượt ra ngoài phạm vi hạn hẹp của kinh tế học và động chạm tới toàn bộ cơ cấu xã hội, thể chế, văn hoá, chính trị của các nước đang phát triển khác nhau. Nhưng nếu không có những thay đổi triệt để về cơ cấu và phân phối lại tài sản như vậy dù là đặt hiệu quả ngay tức thời ( chẳng hạn như thông qua các trình diễn chính trị) thì những thay đổi nhằm cải thiện đáng kể điều kiện sống của người nghèo ở nông thôn và thành thị , thậm chí không thể thực hiên được. ( Chính sách hoặc tập hợp các chính sách nhằm điều chỉnh phân phối thu nhập theo quy mô ở các tầng lớp trên bằng cách áp dụng chế độ thuế luỹ tiến theo luật định đánh vào thu nhập tài sản, còn đối với các tầng lớp dưới thì mở rộng cung cấp hàng tiêu dùng và dịch vụ công cộng. ( Một chính sách hoặc một tập hợp các chính sách nhằm thúc đẩy nghiên cứu và triển khai công nghệ trong nước phù hợp với các vấn đề thế giới thứ 3, trong đó chú trọng vào việc tìm kiếm các phương pháp hiệu quả (mà hầu hết là sử dụng nhiều lao động) để cung cấp các dịch vụ y tế, nhà ở và đào tạo với chi phí thấp , cải thiện nông nghiệp ở quy mô nhỏ và mở rộng các cơ hội tìm kiếm công ăn việc làm ở nông thôn và thành thị. 3. Kinh nghiệm của một số nước Nics châu Á trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và XĐGN. Sự cất cánh của nền kinh tế Xinggapo, Hồng Công, Hàn Quốc và Đài Loan ở châu Á đã làm chấn động thế giới. Mọi người cố tìm ra bí quyết cất cánh của nền kinh tế bốn nước và khu vực đó. Các nhà kinh tế đã suy tôn họ là “các quốc gia và khu vực công nghiệp hoá mới” (NICs). Người ta dùng hình tượng “bốn con rồng nhỏ” như một còng nguyệt quế tặng cho họ để biểu thị lòng thán phục sự phát triển thần kỳ chỉ trong một thời gian ngắn như vậy của những nước và khu vực đó. Sự cất cánh của bốn con rồng châu Á là bài học lớn cho các nước đang phát triển đi sau học tập để có thể “cất cánh” được. Tại các nước đang phát triển luôn phải đối mặt với vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói là: Khung 1: Bẫy đói nghèo  Đứng trước tình hình này đòi hỏi các nước đang phát triển phải có biện pháp để phá vỡ vòng luẩn quẩn đó. Kinh nghiệm của các nước NICs châu Á, họ đã có những biện pháp hiệu quả để giải quyết tốt sự căng thẳng về thu nhập, để từ đó tăng thu nhập của người dân và dần phá vỡ vòng luẩn quẩn trong thu nhập. Đây có thể là một bài học tốt cho các nước đang phát triển học theo. Trong 4 nước này chúng ta có thể lấy Đài Loan là một ví dụ điển hình. Thu nhập của cư dân Đài Loan rất thấp, tính bình quân đầu người chỉ 205,5 USD, nhiều người sống dưới mức nghèo khổ. Nhưng qua mấy chục năm phát triển , thu nhập của cư dân Đài Loan tính theo đầu người năm 1987 đạt 4989 USD, trong 30 năm tăng 23 lần. Tình hình tiêu dùng ở Đài Loan cũng phản ánh thu nhập thực tế của người Đài Loan tăng rất nhanh. Từ 1952-1962 mức tiêu dùng ở Đài Loan tính thưo đầu người bình quân hằng năm tăng 3,25%, từ 1963-1972 tăng 3,3%, từ 1973-1982 tăng 8,2%. Từ 1982-1986 mức tiêu dùng tính theo đầu người là 66.824 đồng tiền mới Đài Loan. Từ 1952-1980 mức tiêu thụ calo hàng ngày của mỗi người Đài Loan từ 2078 ngàn tăng lên 2812 ngàn; lượng tiêu thụ protein hằng ngày của mỗi người Đài Loan từ 49 gam tăng lên 78 gam. Từ 1949-1980 diện tích nhà ở bình quân đầu người của Đài Loan từ 4,6m2 tăng lên 17,9m2. Đồ dùng cao cấp của người Đài Loan tăng rất nhanh. Hiện nay, đồ dùng gia đình như tủ lạnh, máy thu hình, máy giặt, máy ảnh đã tương đối phổ biến, thậm chí ôtô con cũng đã bắt đầu phổ biến ở mỗi gia đình. Khoảng cách về số ngưòi theo học, ví dụ giáo dục tiểu học, về tuổi thọ trung bình của người Đài Loan so với các nước phat triển đã rút ngắn, phản ánh mức sống của người Đài Loan đã nâng cao rất nhiều. Sở dĩ chỉ trong một thời gian ngắn, Đài Loan đã làm cho thu nhập bằng tiền và thu nhập thực tế của cư dân tăng nhanh là do họ đã áp dụng những biện pháp chủ yếu sau đây: ( Thông qua tăng năng suất lao động và đẩy nhanh tiến bộ kỹ thuật, tăng tổng giá trị sản phẩm quốc dân với tốc độ nhanh, để tăng thu nhập. Từ 1951-1955 giá trị tổng sản phẩm quốc dân Đài Loan tăng bình quân hàng năm 9,7%, từ 1958-1960 tăng 7,0%, từ 1961-1965 tăng 10,1%. Từ 1952-1987 giá trị tổng sản phẩm quốc dân Đài Loan tăng bình quân hàng năm tăng 8,7%, trong thời gian đó có 14 năm tăng trên 10%, 19 năm tăng trên 5%. Tốc độ tăng trưởng đó đã hơn tất cả các nước phát triển khác, chỉ kém Nhật Bản. Ví dụ: trong thời gian từ 1965-1987 cao hơn Mỹ, Anh, Pháp từ 2 đến 3 lần. Mức tăng trưởng cao của giá trị tổng sản phẩm quốc dân làm cho mức tăng trưởng thu nhập của dân cư luôn cao và ổn định. ( Thông qua công nghiệp hoá nhanh chóng, tăng nhanh thu nhập cho các gia đình nông dân, làm cho họ vừa tăng thu nhập nông nghiệp, vừa tăng thu nhập phi nông nghiệp. Theo tài liệu thống kê, từ 1966-1979 thu nhập nông nghiệp của mỗi gia đình Đài Loan tăng 111%, thu nhập phi nông nghiệp tăng 988%, thu nhập phi nông nghiệp năm 1966 chiếm 34,1% thu nhập nông nghiệp, năm1979 tỷ lệ đó tăng lên 72,7%. Tính chung, thu nhập phi nông nghiệp chiếm 40% toàn bộ thu nhập của mỗi gia đình nông dân, trở thành một nguồn thu nhập quan trọng của họ. Việc tăng thu nhập phi nông nghiệp đã giải quyết được vấn đề mà các nước đang phát triển thường gặp phải- thu nhập của các gia đình nông dân quá thấp-làm cho thu nhập của gia đình nông dân Đài Loan được nâng lên tương đối cao. Thu nhập phi nông nghiệp chiếm 40% toàn bộ thu nhập có nghĩa là mức thu nhập của mỗi hộ gia đình nông dân trước đây được tăng lên 40%. Việc tăng thu nhập của những gia đình nông nghiệp có tác động thúc đẩy việc tăng thu nhập của toàn bộ dân cư. ( Thông qua việc phát triển các ngành nghề cần nhiều lao động, thu hút một lực lượng lớn những người lao động không có tay nghề cao, để tăng thu nhập cho những gia đình vốn có thu nhập thấp. Việc làm này ở Đài Loan đã dẫn tới kết quả hai mặt: Một mặt, việc tiếp nhận một số lượng lớn những người lao động không lành nghề đã làm cho thu nhập của các hộ gia đình vốn có thu nhập thấp được tăng về số lượng tuyệt đối theo mức tăng của số người tìm được việc làm. Mặt khác, việc tiếp nhận một số lượng lớn những người lao động không lành nghề làm cho người lao động trở nên hiếm. Trong tình hình sức lao động cung không đủ cầu, có thể làm cho mức lương của những gia đình vốn có thu nhập thấp được tăng nhanh, làm cho thu nhập của họ được nâng cao. Chính là nhờ phát triển các ngành sản xuất cần nhiều lao động mà đời sống của những gia đình vốn có thu nhập thấp được cải thiện rất nhiều, vì vậy mà thu nhập của cư dân Đài Loan có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. ( Thông qua cải cách chế độ phân phối thu nhập thúc đẩy việc thực hiện công bằng về thu nhập, nâng cao mức tăng trưởng về thu nhập của dân cư. Chính quyền Đài Loan rất coi trọng hiệu quả kinh tế xã hội của chế độ phân phối, coi việc cải cách chế độ phân phối thu nhập của cư dân, và trong thực tế đã không ngừng điều chỉnh quan hệ tỷ lệ giữa thu nhập lao động và thu nhập tài sản. Theo số liệu thống kê, từ năm 1951 đến năm 1979, tỷ trọng thu nhập tiền lương trong tỷ trọng chung tăng 1,4%. Do vậy, sự không công bằng trong phân phối thu nhập tài sản ở Đài Loan đã được giảm bớt. Điều đó dẫn tới hai hậu quả: Tỷ trọng thu nhập lao động được nâng cao đã làm tăng thu nhập tiền lương của dân cư, từ đó thúc đẩy tốc độ tăng trưởng thu nhập của dân cư, sau nữa là, tỷ trọng thu nhập lao động được nâng cao, có thể khuyến khích tinh thần tích cực lao động của dân cư, từ đó làm tăng thêm của cải vật chất cho xã hội phong phú sẽ quay trở lại làm tăng thu nhập của dân cư. Vì vậy, cải cách và hoàn thiện chế độ phân phối thu nhập cũng là một nhân tố quan trọng dẫn tới mức tăng trưởng cao của thu nhập. ( Phát huy vai trò quan trọng của mậu dịch đối ngoại trong việc tăng thu nhập, tích cực mở rộng xuất khẩu, làm cho kinh tế hướng ngoại trở thành nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ sự tăng trưởng của thu nhập quốc dân. Mở rộng xuất khẩu mậu dịch có thể tác động hai mặt tới sự tăng trưởng thu nhập quốc dân. Một mặt có thể mở rộng thị trường, tạo ra việc làm, làm tăng lượng tuyệt đối của thu nhập quốc dân. Vì vậy, xuất khẩu mậu dịch là nhân tố quan trọng có thể kích thích mạnh mẽ sự tăng trưởng của thu nhập quốc dân. Theo tài liệu thống kê, năm 1961, nhờ sự kích thích của xuất khẩu Đài Loan đã tạo ra được một giá trị bằng 12,2% tổng thu nhập quốc dân. Đến năm 1976 con số đó lên tới 34,8%. Tương ứng với sự tăng trưởng đó, trong thời kỳ này, phần thu nhập của người lao động có được nhờ xuất khẩu đã tăng từ 9,7% năm 1961 lên 26,1% năm 1976. Từ đó có thể thấy rằng, mở rộng xuất khẩu mậu dịch là một nguyên nhân quan trọng nâng cao mức thu nhập quốc dân của Đài Loan. Như vậy cùng với các chính sách tăng thu nhập của Đài Loan thì thu nhập của người dân Đài Loan đã không ngừng tăng lên không những ở những người giàu mà cả những người nông dân có trình độ thấp và thu nhập thấp cũng được tăng lên rõ rệt. Đây chính là bài học lớn cho các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam xây dựng kết hợp các chính sách tăng thu nhập cho người dân và hướng sự tăng trưởng đó tới việc giảm nghèo! I.Thực trạng tăng trưởng kinh tế, XĐGN ở ĐBSCL. 1. Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội ở ĐBSCL. Đồng bằng sông Cửu long (ĐBSCL) với diện tích tự nhiên là 39.738 km2 với dân số năm 2005 là 17.267.600 người. ĐBSCL gồm 13 tỉnh, thành phố: Long An, Tiền Giang, Bến tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc trăng, Hậu Giang, Cà Mau, Kiên Giang, Đồng Tháp, Bạc Liêu, An Giang và thành phố Cần Thơ. Vị Trí địa lý : ĐBSCL ở phần cuối của bán đảo Đông Dương, liền kề với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh, nên có mối quan hệ hai chiều chặt chẽ. Nằm giáp với Campuchia và cùng chung sông Mê Kông là điều kiện giao lưu hợp tác với các nước trên bán đảo, trung khu vực để phát triển kinh tế xã hội. Đây là vùng sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản lớn nhất nước ta, với diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng gần 3 triệu ha (chiếm 32% đất nông nghiệp), hàng năm sản xuất khoảng 50% sản lượng lúa, 52% sản lượng thuỷ sản, đóng góp khoảng 90% số lượng gạo xuất khẩu và gần 60% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của cả nước. ĐBSCL là một vùng có đường giao thông hàng hải và hàng không quốc tế quan trọng giữa Nam Á và Đông Á; giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, gần với các nước Thái Lan, Malaixia, Singapo, Indonêxia, Brulây, một khu vực kinh tế năng động của thế giới. Đó là những thị trường và những đối tác quan trọng đối với sự phát triển của Vùng. Trong vùng có thành phố Cần Thơ là trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa học công nghệ, có trường đại học, có sân bay, có cảng sông, cảng biển, và các cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội khác. Nhận thức rõ được vị trí quan trọng, tiềm năng to lớn và những khó khăn trong việc phát triển kinh tế xã hội của vùng, Đảng và nhà nước đã đặc biệt quan tâm chỉ đạo đầu tư và trong thời gian qua tăng trưởng ĐBSCL đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Phải đánh giá đúng các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của ĐBSCL để có thể có những giải pháp phù hợp trong phát triển kinh tế và XĐGN. Lâu nay nói tới ĐBSCL chúng ta thường nghĩ đó là vùng đất phì nhiêu, ruộng đồng thẳng cánh cò bay, thời tiết khí hậu vô cùng thuận lợi, không hạn hán, không bão lũ,…với sự ưu đãi của thiên nhiên người dân ở đây sống ngày hôm nay không phải lo ngày mai. Chính vì thế, từ bao đời nay trong đầu người dân Việt Nam thường đều coi đây là vùng “làm chơi, ăn thật”, không cần đầu tư nhiều sản xuất cũng phát triển, đời sống của người dân cũng được đảm bảo. Tuy nhiên, từ thực tiễn phát triển của ĐBSCL những năm vừa qua cho thấy tư duy về ĐBSCL là không sát thực, đó là những suy nghĩ cũ trong điều kiện cũ. Phải thấy rằng, ĐBSCL cũng gặp khá nhiều khó khăn trong sự phát triển đó là: Do sự phát triển nhanh của dân số, nên không ít nơi ở ĐBSCL đã trở thành nơi đất chật, người đông gây khó khăn cho sự phát triển kinh tế_xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Đây cũng là một trong những nguyên nhân phải kể đến góp phần làm tăng số người nghèo đói ở ĐBSCL. Nó góp phần giải thích rõ ràng hơn một trong những nguyên nhân của đói nghèo là người làm thì ít mà người ăn theo thì nhiều. Do địa hình bằng phẳng và cốt đất thấp, nên một bộ phận không nhỏ đất đai ở ĐBSCL bị nhiễm phèn, nhiễm mặn; nhất là về mùa khô và trong điều kiện có lũ như năm 1998. Tình trạng trên đã và sẽ tác động bất lợi đến sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp. Những năm gần đây, thiên tai liên tiếp xảy ra ở ĐBSCL gây thiệt hại không nhỏ về người và tài sản cho nhà nước và nhân dân. Điều này nó làm tình trạng dễ bị tổn thương của người dân ĐBSCL tăng lên và cũng làm tình trạng nghèo ở ĐBSCL khó giải quyết hơn. Vấn đề đất đai là một vấn đề gây nhiều bức súc ở ĐBSCL. Tình trạng không có đất và thiếu đất trở thành cản trở lớn cho công tác xoá đói giảm nghèo ở ĐBSCL. So sánh giữa các vùng cho thấy ĐBSCL đứng thứ 2 về tỷ lệ nông dân không có đất, chỉ sau cùng Đông Bắc. Nông dân không có đất ở ĐBSCL ngày càng phụ thuộc vào thu nhập từ việc bán sức lao động trong ngành nông nghiệp trong khi thu nhập này cũng thấp và không ổn định vì tính mùa vụ cao.Vì vậy vấn đề không có đất trở thành vấn dề cấp bách ở vùng nông thôn. Về cơ sở hạ tầng của vùng ĐBSCL rất thấp kém. Đặc biệt là giao thông, hệ thống điện, hệ thống cấp nước, hệ thống trường học và trạm y tế. Sự thấp kém này, một mặt nào đó làm cho vùng khó chống chọi được với những biến cố do thiên tai gây ra, mặt khác nó hạn chế nhịp độ phát triển kinh tế xã hội của vùng, nhất là khi triển khai công nghiêp hoá, hiện đại hoá. Trình độ dân chí ở ĐBSCL khá thấp. Đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc khơmer. Dân chí thấp đã ảnh hưởng rất lớn đến cách suy nghĩ, cách tổ chức đời sống và cách làm ăn của người dân và ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển kinh tế- xã hội của vùng cả hiện tại đến tương lai. Hiện nay, ở ĐBSCL,tỷ lệ lao động không có chuyên môn kỹ thuật chỉ khoảng 17%. Các nhà máy, khu công nghiệp, khu chế xuất bình quân chỉ có 20% người lao độngcó trình độ chuyên môn hoá và tay nghề kỹ thuật hiện đại. Trước thềm hội nhập WTO, yêu cầu ngày càng cao về trình độ công nhân, quản lý có tay nghề, kiến thức thì đối với ĐBSCL đây là bài toán nan giải trong việc thực hiện hội nhập của mình. Như vậy ĐBSCL có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế-xã hội, song nó cũng không ít những khó khăn cản trở. Chính vì thế mà chúng ta cầnphải đánh giá đúng những tiềm năng và thách thức để có thể có thể có lời giải đúng cho con đường phát triển ĐBSCL ở hiện tại và tương lai. 2. Các chính sách xoá đói giảm nghèo ở ĐBSCL. Cùng với những chính sách chung của cả nước về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo của cả nước trong chiến lược toàn diện và xoá đói giảm nghèo như: Tạo môi trường tăng trưởng nhanh, bền vững và xoá đói, giảm nghèo; phát triển kết cấu hạ tầng có quy mô lớn phục vụ tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo; Các chính sách, giải pháp chủ yếu phát triển các ngành lĩnh vực bảo đảm sự tăng trưởng bền vững và xoá đói giảm nghèo; huy động và phân bổ nguồn lực cho tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo. Chúng ta có thể kể đến những chính sách, dự án đầu tư trọng điểm trong 5 năm gần đây 2001-2005 của vùng ĐBSCL như sau: ( Một là, chương trình giao thông vận tải toàn vùng ĐBSCL với tổng số vốn đầu tư lên đến 13000-14000 tỷ đồng. Chương trình này có mục tiêu là hoàn thiện các trục giao thông chính về đường bộ, đường thuỷ; hoàn thành hệ thống các đường đến các trung tâm xa, xoá bỏ cầu khỉ. Nâng cấp QL1-GĐ3 (Cần Thơ- Năm Căn và các đoạn ngập). QL1 thành phố Hồ Chí Minh-Trung Lương, đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh- Cần Thơ, Tuyến N2 (Thanh Hoá -Đức Hoà), Quốc lộ 50, 53, 54, 57, 61; Cầu Cần Thơ; Cầu Rạch Miễu; Cầu Vàm Cống; 38 cầu giao thông nông thôn; Nâng cấp các nhà , nâng cấp các hệ thống cảng biển tổng số vốn khoảng 1500 tỷ đồng; Cải tạo hệ thống đường thuỷ nội vùng, sự kiến khoảng 1000-1100 tỷ đồng. ( Hai là, Chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh ĐBSCL đặc biệt là các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, với tổng số vốn lên tới 2100-2200 tỷ đồng. Mục tiêu của chương trình này là sản xuất lúa 2 vụ ăn trắc trên diện tích lúa; Mở rộng diện tích trồng Ngô, đẩy mạnh chăn nuôi theo hướng nạc hoá, năm 2005 đạt sản lượng nuôi trồng đánh bắt haỉa sản 1,7 triệu tấn. Chương trình này có nội dung là ổn định diện tích trồng lúa 1,7-1,8 triệu ha, có điều kiện thuỷ lợi tốt sản xuất ăn chắc 2 vụ; Chuyể 200-3000 nghìn ha sang nuôi trồng thuỷ sản, ngô và các loại cây công nghiệp khác, hình thành các vùng chuyên canh (chuyên canh lúa) XK Bạc Liêu. ( Ba là, Chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp với tổng số vốn là 1500 tỷ đồng thực hiện trên phạm vi toàn bộ ĐBSCL. Mục tiêu của chương trình này là xây dựng hệ thống các trạm nghiên cứu và sản xuất các loại giống mới, nâng cao chất lượng và năng suất các loại giống cây trồng và vật nuôi. Nội dung của Chương trình này là sản xuất giống chất lượng cao một số loại cây ăn quả Miền Nam; Trại thực nghiệm nhan giống CAQ Kiên Giang; Các trang trại; Dự án sản xuất giống lúa mới Cần Thơ. ( Bốn là, chương trình nhà ở nông thôn diễn ra trên phạm vi toàn vùng, đặc biệt là các huyện ven biển các tỉnh dọc hệ thống sông Cửu Long, kênh thoát lũ. Với mục tiêu là tránh thiệt hại do lũ lụt gây ra, nâng cao mức sống dân cư nông thôn, vùng sâu vùng xa nói chung.. Nội dung cua chương trình là Thay thế các nhà tạm, kiên cố hoá nhà ở, tôn nền nhà những vùng thường xuyên ngập lũ. Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng tại các trung tâm xã và các cụm dân cư…Nghiên cứu các kiểu nhà lắp ghép, phù hợp với các điều kiện ĐBSC hợp lý giữa diện tích nuôi trồng thuỷ sản và diện tích rừng, khoanh vùng, xây dựng hệ thống đê bao. ( Năm là, chương trình trồng rừng phòng hộ và rừng ven biển với tổng số vốn đầu tư lên tới 1500 tỷ đồng thực hiện trên các tỉnh ven biển, khu vực rừng U Minh, Đồng Tháp Mười, Bảy Núi. Với mục tiêu là phục hồi và phát triển diện tích rừng ngập mặn ven biển, rừng tràm, rừng môi sinh, tạo điều kiện phát triển bền vững sau này, đồng thời khai thác và bảo vệ môi trường sinh thái tại các vùng rừng của ĐBSCL. Nội dung của Chương trình là trồng mới, quy hoạch hợp lý giữa diện tích nuôi trồng thuỷ sản và diện tích rừng, khoanh vùng, xây dựng hệ thống đê bao. ( Sáu là, chương trình chế biến nông sản và thuỷ sản với tổng số vốn đầu tư lên tới 890-892 tỷ đồng, thực hiện ở các tỉnh ven biển An Giang, Đồng Tháp. Mục tiêu của chương trình là khai thác tối đa những lợi thế tuyệt đối và tương đối của ĐBSCL về sản xuất nông nghiệp và thuỷ sản, tạo nguồn ngoại tệ cho vùng cũng như cho cả nước nói chung; hỗ trợ cho các ngành nông nghiệp và thuỷ sản phát triển. Với nội dung là Nâng cấp các nhà máy chế biến hiện có, xây mới một số nhà máy mới với thiết bị hiện đại; cải tiến mẫu mã, nâng cao khả năng cạnh tranh của các loại hàng nông sản; Nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi gia súc Tiền Giang. ( Bảy là, chương trình phát triển các khu tập trung công nghiệp, với tổng số vốn đầu tư lên tới 600 tỷ đồng, được thực hiện trên phạm vi toàn vùng. Mục tiêu của chương trình là nâng dần tỷ trọng sản xuất công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế (khi tiềm năng nông lâm ngư nghiệp đã được khai thác ở mức cao nhất); nâng cao năng suất lao động xã hôi trên phạm vi toàn vùng. Nội dung của chương trình là xây dựng hệ thống các khu tập trung công nghiệp; Trà Kha (Bạc Liêu, Trần Đề; Khu công nghiệp thị xã Sóc Trăng, khu công nghiệp Long Xuyên…) đầu tư chế biến số nguyên liệu nông lâm thuỷ sản thu hút vốn đầu tư bên ngoài vào phát triển các ngành công nghiệp cao. ( Tám là, Chương trình phát triển nguồn nhân lực trên phạm vi toàn vùng. Mục tiêu phụ vụ mục tiêu phát triển kinh tế, nâng cao mức sống dân cư, cung ứng lao động chất lượng cao cho các địa bàn khác trong cả nước, cạnh tranh trên thị trường lao động trong điều kiện hội nhập nâng cấp tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30%. Nội dung của chương trình là củng cố và thành lập mới hệ thống các trường đào tạo (từ đại học, cao đẳng đến dạy nghề tại các địa phương), hình thành một số trung tâm đào tạo cho cả vùng như Cần Thơ, Bạc Liêu, An Giang..Khuyến khích đào tạo tại chỗ hoặc du học. ( Chín là, chương trình dự án khí điện đạm, với tổng số vốn lên đến 21000-22000 tỷ đồng, được thực hiện ở các tình dọc hệ thống sông Cửu Long, Kiên Giang, Đồng Tháp. Mục tiêu của chương trình là khai thác dầu và khí khu vực Tây Nam, tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp không truyền thống ở ĐBSCL, hoàn thiện mạng lưới điện; sản xuất urê phục vụ nhu cầu của đồng bằng, sản xuất nhiên liêuj cho các ngành công nghiệpvật liệu xây dựng..chất đốt cho tiêu dùng dân cư, hạn chế phá rừng. Nội dung của chương trình là khai thác dầu và khí khu vự MP3 (1,4-2 tỷ m2/năm và 0,5 triệu tấn dầu); phát triển khu công nghiệp khí điện đạm Cà Mau; các nhà máy điện Ô Mô và lưới điện. Tổng kinh phí dự kiến khoảng 21000-22000 tỷ đồng (tương đương 1,5 tỷ USD). ( Mười là, Dự án thoát lũ ra miền tây với tổng số vốn là 8500-8800 tỷ đồng, được thực hiện ở các tỉnh dọc theo hệ thống Cửu Long, Kiên Giang, Đồng Tháp. Mục tiệu của chương trình này là tạo điều kiện thực hiện chương trình “sống chung với lũ”, tránh thiệt hại do lũ gây ra. Nội dung của chương trình này là tiếp tục thực hiện các công trình chuyển tiếp giai đoạn 1996-2000, thực hiện một số dự án mới như thoát lũ vùng đồng Tháp Mười. ( Mười một là, các dự án thuỷ lợi phục vụ ngọt hoá với tổng số vốn là 3100-3200 tỷ đồng, được thực hiện ở tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Cần Thơ, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu. Mục tiêu của chương trình là khai thác hiệu quả tiềm năng đất nước ĐBSCL. Nội dung của chương trình này là khởi công mới các dự án Ba lai Bến Tre; dự án nam măng thít 9WB0; dự án ô môn-xà nòng 9WB0 với tổng vốn đầu tư 3100-3200 tỷ đồng. Với những chương trình này thì ĐBSCL đã có nhiều thành tựu lớn trong tăng trưởng kinh tế và đặc biệt là thành tựu trong công cuộc xoá đói giảm nghèo. 3. Những thành tựu về tăng trưởng kinh tế và XĐGN ở ĐBSCL. 3.1. Thành tựu về tăngg trưởng ở ĐBSCL. Biểu 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua.  Việt Nam trong thời gian qua đã có một sự tăng trưởng rất cao, cùng với xu thế chung của cả nước thì ĐBSCL cũng đạt tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 1995-1999 là 7.8%, năm 1999-2000 là 7.5%, trung bình năm 2000-2001 là 8.1% (cao hơn mức tăng trưởng của cả nước), và đặc biệt mấy năm trở lại đây thì tốc độ tăng trưởng của ĐBSCL trung bình lên tới 11.5% (cao hơn 8.4% của cả nước). Biểu 2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế ĐBSCL.  Như vậy, từ đây ta thấy tuy có những khó khăn nhất định về điều kiện tự nhiên như trên nhưng ĐBSCL vẫn tận dụng được những thuận lợi về điều kiện tự nhiên của mình để thúc đẩy tăng trưởng nhanh và liên tục trong thời gian qua. Những chính sách kinh tế xã hội đã nêu ở trên cũng góp phần đáng kể cho tăng trưởng của ĐBSCL. Bởi vì chúng ta sẽ không có tăng trưởng liên tục như trên của ĐBSCL mà không kể đến những chính sách phát triển đường giao thông, chính sách phát triển nguồn nhân lực như trên của các tỉnh ĐBSCL. Bởi vì giao thông là điều kiện cần thiết cho vận chuyển hàng hoá, giao lưu buôn bán với bên ngoài và đặc biệt là tạo điều kiện tiên quyết để thu hút các nhà đầu tư vào ĐBSCL. Còn giáo dục từ trước đến nay đã được coi như là nguồn lực quan trọng nhất cho sự phát triển. Kinh tế vùng đã tăng trưởng liên tục với tốc độ cao, GDP bình quân đầu người 5 năm (2001-2005) tăng khoảng 11.5%năm (đóng góp khoảng 18% GDP của cả nước).Vậy với tốc độ kinh tế cao như vậy thì việc XĐGN ở ĐBSCL đã đạt những kết quả như thế nào. 3.2. Thành tựu XĐGN ở ĐBSCL. Nhờ có tăng trưởng kinh tế cao mà thu nhập của người dân ĐBSCL đã tăng rất nhanh trong thời gian qua. Bảng 1: Thu nhập bình quân 1 người/tháng theo giá thực tế của ĐBSCL. (Đơn vị: 1000đ) Năm  Thu nhập bình quân 1 người/tháng.      1994  181.65   1995  221.96   1996  242.3   1999  342.1   2002  371.3   2004  471.3   Nguồn: Tổng cục thống kê. Biểu 3: Thu nhập bình quân 1 người/tháng của ĐBSCL.  Ta thấy thu nhập của người dân ĐBSCL không ngừng tăng lên trong các năm từ năm 1996 đến năm 2004. Và không phải mà ngẫu nhiên mà thu nhập của người dâ lại tăng liên tiếp như vậy ở ĐBSCL. Sở dĩ co điều đó là vì ĐBSCL đã thực hiện các chính sách về giao thông, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển y tế, phát triển nguồn nhân lực tạo tiền đề quan trọng cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Và chính tăng trưởng kinh tế nhanh và liên tục, nó đã làm cho mức thu nhập bình quân của người dân ĐBSCL tăng lên nhanh chóng. Bởi vậy ta có thể khẳng định các chính sách không những có tác dụng giảm nghèo mà nó cũng thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững, làm cho thu nhập của người cũng không ngừng được nâng lên đáng kể. Với mức thu nhập của người dân ĐBSCL như trên thì tỷ lệ hộ nghèo của ĐBSCL cũng đã giảm mạnh. Bảng 2: Tỷ lệ hộ nghèo của ĐBSCL. (Đơn vị: %) Năm  nghèo lương thực, thực phẩm  Nghèo chung   1993  17.73  36.82   1996  13.41  29.12   1999  10.22  23.71   2002  7.6  23.4   2004  5.2  19.5   Nguồn: Tổng cục thống kê. Biểu đồ 4: Tỷ lệ hộ nghèo ở ĐBSCL.  Như vậy, tỷ lệ hộ nghèo ở ĐBSCL có xu hướng giảm dần từ năm 1993 đến nay. Điều này cũng cho thấy, cùng với các chính sách giảm nghèo và tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh của ĐBSCL thời gian qua đã phát huy tác dụng lớn làm cho tỷ lệ hộ nghèo ở ĐBSCL đã giảm rõ rệt (nghèo chung ở ĐBSCL từ 36,82% năm 1993, đến năm 2004 chỉ còn 19,5%). Tuy nhiên tỷ lệ này vẫn còn lớn (19,5%). Và đây vẫn còn là một thách thức cho ĐBSCL giảm hơn nữa tỷ lệ nghèo trong thời gian tới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc66416.DOC
Tài liệu liên quan