Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam các năm đến 2020

Hoàn thiện chính sách liên quan đến phát triển nguồn nhân lực. Hệ thống các chính sách liên quan đến phát triển nguồn nhân lực rất rộng lớn, tuy nhiên trong các năm đến 2020 cần chú trọng vào các chính sách như: i). Nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động và dân cư, trên cơ sở đảm bảo quyền tiếp cận các dịch vụ cơ bản của con người (giáo dục, đào tạo, y tế, bảo hiểm xã hội, điện, nước, thông tin ) ii). Đảm bảo quyền và lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động trong quan hệ lao động về tiền lương, điều kiện làm việc, thời giờ làm việc và nghỉ ngơi, chế độ an sinh xã hội, đối thoại và thương lượng tập thể iii). Khuyến khích, hỗ trợ phát triển hệ thống công ty cung ứng nguồn nhân lực cao cấp iiii). Cải cách triệt để chính sách tiền lương, trong đó cần thiết có chế độ tôn vinh, đãi ngộ xứng đáng đối với người đem lại hiệu quả kinh tế, xã hội cao cho đất nước iiiii). Hoàn thiện các chính sách di chuyển lao động, thúc đẩy tăng mức độ linh hoạt của cung lao động trên thị trường. Điều tiết di chuyển là một giải pháp quan trọng tác động đến cung lao động. Đây là công cụ quan trọng để điều chỉnh thị trường lao động và thu nhập giữa các vùng. Hiện nay, ở nước ta có những xu hướng di chuyển nhân lực nội địa đáng chú ý là từ miền Bắc và miền Nam, từ các tỉnh phía Bắc và Duyên Hải Miền Trung, từ nông thôn ra thành thị, từ khu vực nhà nước đến khu vực FDI và khu vực ngoài nhà nước và ra nước ngoài. Bên cạnh các tác động tích cực của nó như điều tiết thị trường lao động, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động thì việc di chuyển lao động ồ ạt truớc mắt có thể gây tác động tiêu cực như làm cạn kiệt lao động CMKT cao ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng kinh tế tăng trưởng chậm.

pdf10 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 195 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam các năm đến 2020, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 24/Quý III- 2010 20 MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM CÁC NĂM ĐẾN 2020 Trần Văn Hoan Phòng Nghiên cứu Quan hệ lao động Viện Khoa học Lao động và Xã hội Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế trong các năm đến 2020 là nhiệm vụ chiến lược đặt ra hết sức bức xúc ở nước ta. Ngày nay, ngoài các nguồn lực vốn, khoa học và công nghệ, tài nguyên thiên nhiên thì yếu tố nguồn nhân nhân lực được xem như yếu tố quan trọng bậc nhất đảm bảo cho sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cả về mặt quy mô và chất lượng. Kinh nghiệm của lịch sử và thế giới, cho thấy, muốn đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững chỉ có bằng giáo dục, đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Thế kỷ XXI là thế kỷ của thời đại văn minh thông tin, công nghệ mới, toàn cầu hoá, hạnh phúc và công bằng, đưa cuộc sống và hoạt động xã hội lên một tầm cao mới đầy hấp dẫn với một tốc độ mới, chất lượng mới và giữ một vai trò hết sức đặc biệt mà người ta gọi là cuộc cách mạng tri thức để tạo nên nền kinh tế tri thức. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, như một quy luật, tất cả các quốc gia đều trải qua thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và theo đó là phải có nguồn nhân lực tương ứng để đáp ứng cho quá trình này, nếu không sẽ thất bại. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X cũng đã chỉ rõ “công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi cơ bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý kinh tế, quản lý xã hội từ dựa vào lao động thủ công là chính sang dựa vào lao động kết hợp cùng với phương tiện, phương pháp công nghệ, kỹ thuật, tiên tiến hiện đại để tạo ra năng suất lao động cao”. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế ở nước ta các năm đến 2020 về bản chất là quá trình phát triển toàn diện, nhanh chóng của nền kinh tế thông qua phát triển công nghiệp, dịch vụ dựa trên công nghệ và cơ chế vận hành theo hướng áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ mới hiện đại vào quá trình sản xuất và dịch vụ. Do đó, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng công nghiệp hoá, hiện đại hoá các năm đến 2020 có mối liên hệ mật thiết với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. 1. Một số thực trạng phát triển nguồn nhân lực Nguồn nhân lực nói chung có xuất xứ từ quy mô, cơ cấu và chất lượng dân số, bao gồm dân số hoạt động kinh tế (những người đang làm việc và những người thất nghiệp) và dân số có khả năng lao động nhưng không hoạt động kinh tế (những người đi học, làm nội trợ, không có nhu cầu làm việc). Hay nói cách tổng quát, nguồn nhân lực là những người 15 tuổi trở lên có khả năng lao động. Phát triển nguồn nhân lực là việc thực hiện các giải pháp Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 24/Quý III- 2010 21 nhằm làm gia tăng giá trị con người trên các mặt kiến thức, kỹ năng, đạo đức, tâm hồn, thể lực Sau đây xem xét một số yếu tố thành phần của nguồn nhân lực nước ta: - Quy mô nguồn nhân lực: Theo số liệu báo cáo của Bộ LĐTBXH, năm 2008, dân số hoạt động kinh tế từ 15 tuổi trở lên là 47508,1 ngàn người, tăng 2,3% so với năm 2007. Cụ thể, qua các năm ở biểu sau: Bảng 1: Dân số hoạt động kinh tế của Việt Nam thời kỳ 2001-2008 2001 2005 2006 2007 2008 DSHĐKT (1000 người) 39489,8 44382,0 45304,4 46413,7 47508,1 Cơ cấu theo nhóm tuổi (% so tổng số) 15-34 51,01 45,44 44,72 43,86 43,05 35-59 45,23 50,79 51,52 52,41 53,25 60+ 3,76 3,78 3,76 3,73 3,71 Nguồn: Điều tra LĐ- VL, Bộ LĐTBXH, 2001-2007; Thống kê dân số - lao động, TCTK, 2008 Trong các năm 2001-2008 dân số hoạt động kinh tế của nước ta không ngừng tăng lên. Nguyên nhân là do gia tăng dân số của Việt Nam những năm 80 của thế kỷ XX luôn ở mức cao (2,5 - 3%/năm), nên những năm từ 2001 trở lại đây, hàng năm nước ta luôn được bổ sung một bộ phận nhân lực mới, khoảng từ 1,4-1,5 triệu người/ năm. Nguồn nhân lực trẻ được bổ sung là điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội trong các năm tới. Tuy nhiên, nếu không được đào tạo phát triển và thu hút vào nền kinh tế thì thực sự là thách thức, gánh nặng lớn đối với các vấn đề xã hội trong tương lai. Nhìn chung, nguồn nhân lực của Việt Nam có quy mô lớn, kết quả điều tra dân số 4/2009 cũng cho thấy, dân số là 86 triệu người với tháp dân số trẻ, bắt đầu bước vào thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”. Trong đó, dân số trong độ tuổi lao động chiếm 63% (54 triệu người), tốc độ tăng dân số trong độ tuổi lao động là 2,5%/năm, lao động độ tuổi 20-39 chiếm tỷ lệ 50%. Tuy nhiên, nguồn nhân lực nông thôn có tỷ lệ lớn, dân số nông thôn 62 triệu người, chiếm khoảng 70% dân số cả nước. Số việc làm trong khu vực nông nghiệp năm 2008 chiếm tỷ lệ 52% việc làm của cả nước nhưng chỉ tạo ra 22,1% GDP. - Chất lượng nguồn nhân lực: Năm 2008, trong nguồn nhân lực, tỷ lệ lao động chưa tốt nghiệp tiểu học trở xuống 15%, số lao động tốt nghiệp phổ thông trung học 25%. Trong các năm 2001-2008, trình độ chuyên môn, kỹ thuật của nguồn nhân lực có sự cải thiện theo xu hướng tích cực dưới tác động của phát triển hệ thống đào tạo, dạy nghề, hội nhập quốc tế và Nhà nước, người dân quan tâm nhiều hơn đầu tư cho đào tạo, dạy nghề... Sự phát triển của nguồn nhân lực chuyên môn kỹ thuật có thể thấy ở hình dưới đây: Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 24/Quý III- 2010 22 Hình 1: Tỷ lệ lao động qua đào tạo CMKT trong lực lượng lao động, đơn vị: % so với LLLĐ 39.65 50.7 53.29 56 58.86 18.94 33.25 30.38 27.79 25.33 17.05 21.16 23.67 10.2 16.88 0 10 20 30 40 50 60 70 2001 2005 2006 2007 2008 Toµn quèc Thµnh thÞ N«ng th«n Nguồn: Điều tra Lao động - Việc làm, Bộ LĐTBXH,1/7/2007; Thống kê dân số - lao động, TCTK, 2008 Trong các năm chuyển đổi nền kinh tế, Nhà nước đã thực sự có quan tâm lớn đến công tác đào tạo nghề các cấp. Hệ thống đào tạo nghề có sự phát triển nhanh, góp phần đáp ứng nhu cầu về lao động kỹ thuật, lao động chất lượng cao cho nền kinh tế. Hệ thống dạy nghề đã hình thành với 3 cấp trình độ: cao đẳng nghề, trung cấp nghề và sơ cấp nghề, hàng năm đã dạy nghề cho trên 1,5 triệu lượt người. Sự thay đổi trong đào tạo nghề thể hiện xu hướng mới trong hoạt động của các trường dạy nghề. Các cơ sở đào tạo nghề không còn hoàn toàn dựa vào kinh phí do ngân sách cấp mà chuyển sang hoạt động có thu, dạy nghề trên cơ sở các hợp đồng ký với các doanh nghiệp. Hoạt động dạy nghề đã gắn nhất định với địa chỉ sử dụng, gắn với nhu cầu của thị truờng lao động. Chính các hoạt động này lại là sức ép thúc đẩy đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên, hoàn thiện nội dung, phương pháp giảng dạy Tuy nhiên, hệ thống dạy nghề nước ta còn có nhiều tồn tại, đặc biệt là đối với đào tạo nghề cho lao động nông thôn quy mô còn nhỏ, đào tạo cao đẳng nghề còn ít, dẫn đến tình trạng khan hiếm công nhân lành nghề cho các ngành kinh tế mũi nhọn, ngành kinh tế trọng điểm và ngành kỹ thuật cao. Nguồn nhân lực trình độ cao đẳng, đại học trở lên có sự phát triển tương đối nhanh. Năm 2000, tỷ lệ nhân lực từ cao đẳng trở lên trong nguồn nhân lực chiếm tỷ lệ 3,5% và năm 2008 là 5,6%. Trong các năm 1996-2000 nhân lực tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên tăng bình quân với tốc độ cao là 12,7% /năm và thời kỳ 2001 - Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 24/Quý III- 2010 23 2008 là 11,5%. Tính đến năm 2008, cả nước có trên 15 nghìn tiến sỹ và tiến sỹ khoa học, trên 1200 giáo sư, 5300 phó giáo sư, 16 nghìn người có trình độ thạc sỹ. Nhận thức rõ vai trò của đào tạo cao đẳng, đại học, Nhà nước đã tăng ngân sách (năm 2008 chi cho giáo dục đào tạo từ ngân sách nhà nước là 76200 tỷ đồng, tăng 14,1% so với 2007) ban hành những văn bản pháp quy tạo khung hành lang pháp lý cho hoạt động đào tạo cao đẳng, đại học, trật tự hoá các hoạt động đào tạo trên lĩnh vực này. Số lượng trường học, giáo viên và sinh viên tăng nhanh, năm 1996, cả nước có 96 trường đại học, 22,5 nghìn giảng viên và 509,3 nghìn sinh viên; năm 2002 có 179 trường đại học với 38,7 nghìn giảng viên và 1020,7 nghìn sinh viên và năm 2008 có 369 trường (209 trường cao đẳng và 160 trường đại học) với 56,12 nghìn giảng viên, 1603 nghìn sinh viên. Quy mô phát triển của đào tạo cao đẳng, đại học giai đoạn này không chỉ tăng ở khu vực công lập mà tăng nhanh ở cả các trường ngoài công lập, giáo dục từ xa qua hệ thống phát thanh truyền hình. Tính đến 12/2007 cả nước có 40 trường đại học và 24 trường cao đẳng ngoài công lập. Trong các cơ sở đào tạo cũng thực hiện đa dạng hoá các loại hình đào tạo, ngoài phương thức học tập tập trung chính khoá còn có các hệ đào tạo khác và phát triển liên kết đào tạo với nước ngoài, hàng năm cung cấp hàng chục vạn người có trình độ cao đẳng, đại học cho thị trường lao động. Du học nước ngoài được mở rộng, tạo ra kênh quan trọng cung ứng lao động có chuyên môn, kỹ thuật cho thị trường lao động. Chất lượng giáo dục cao đẳng, đại học trở lên đang có những cải tiến cơ bản theo hướng gắn chặt hơn với thực tiễn Việt Nam và phù hợp với xu thế hội nhập thế giới. Số sinh viên đủ năng lực tìm được việc làm hay tự tạo việc làm sau khi tốt nghiệp đã tăng lên, có nhiều sinh viên thi lấy bằng đại học thứ hai, thi thêm chứng chỉ ngoại ngữ, tin học, tìm được cho mình một vị trí phù hợp trong xã hội. - Một số hạn chế của nguồn nhân lực: Trong hệ thống đào tạo, dạy nghề nuớc ta có nhược điểm lớn mà các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước thường nhắc đến là chưa chú trọng giáo dục, rèn luyện các phẩm chất nghề nghiệp cần thiết cho người lao động. Do đó, phần lớn người lao động vẫn còn mang thói quen và tập quán của người nông dân, thiếu năng động, năng lực sáng tạo thấp, chưa mạnh dạn trong việc tiếp thu và khai phá những cách làm ăn mới, khả năng phối hợp và tinh thần hợp tác trong công việc còn yếu, năng lực làm việc theo nhóm và khả năng thích ứng, hội nhập theo sự biến đổi của môi trường làm việc còn hạn chế... Trong số các sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng mỗi năm vẫn còn một tỷ lệ cao chưa thành thạo các công cụ cần thiết cho làm việc, như trình độ ngoại ngữ, sử dụng máy vi tính Theo báo cáo về nguồn nhân lực của cơ quan chức năng giáo dục thì trong nguồn nhân lực lao động có trình độ cao đẳng trở lên, tỷ lệ người có chứng chỉ ngoại ngữ trình độ C trở lên là 66,1%, B là 25,7%, A là 6,7%. Tuy nhiên, kỹ năng nghe, nói, viết, giao tiếp rất hạn chế. Về tin học, đa số chủ yếu sử dụng máy tính để xử lý văn bản với Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 24/Quý III- 2010 24 43,5%, sử dụng chương trình excel và các chương trình phần mềm tính toán khác 13%, 12% sử dụng chương trình powerpoint, có 7% nhân lực cao đẳng trở lên sử dụng các phần mềm chuyên dụng. Trong dự án hỗ trợ kỹ thuật, kế hoạch tổng thể của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy, chỉ số đánh giá chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam còn quá thấp, thua xa các nước trong khu vực, thể hiện ở: * Chỉ số tổng hợp là 3,79 điểm (cao nhất là 10 điểm), trong khi chỉ số này ở Trung Quốc là 5,73, Hàn Quốc là 6,91. * Mức độ đáp ứng nhân lực sản xuất kinh doanh trình độ cao chỉ đạt 3,25/10 điểm. * Mức độ đáp ứng nhân lực hành chính trình độ cao là 3,5/10 điểm. * Mức độ thành thạo tiếng Anh là 2,26/10 điểm. * Mức độ thành thạo công nghệ cao 2,5/10 điểm. Do chương trình đào tạo ở các trường đại học của nước ta chưa bám sát thực tiễn, nặng về lý thuyết, nhẹ về kỹ năng thực hành nên sinh viên khi ra trường phải trải qua một thời gian nhất định để tích luỹ kinh nghiệm làm việc, hoặc phải đào tạo lại mới tìm được việc làm. Ví dụ, theo khảo sát của công viên phần mềm Quang Trung, có đến 72% ứng viên xin việc thiếu kinh nghiệm thực tiễn khi xin việc, 46% thiếu kiến thức ngành, 42% không biết làm việc theo nhóm, 41% kỹ năng làm việc kém. Hoặc theo khảo sát của TS Nguyễn Thanh Mai (ĐHQGTPHCM) thì có trên 60% sinh viên ra trường phải được đào tạo lại hoặc tự đào tạo để phù hợp với yêu cầu của người sử dụng lao động... - Thiếu nhân lực trình độ cao: Trên thị trường lao động nước ta, đối với nhân lực phổ thông thì cung lớn hơn cầu nhưng đối với nhân lực chuyên môn kỹ thuật trình độ cao còn khan hiếm. Điều này thể hiện ở việc nhiều doanh nghiệp không tuyển được người đáp ứng yêu cầu các vị trí làm việc, trong khi đó hàng nghìn sinh viên ra trường lại không tìm được việc làm. Rõ ràng, trên thị trường lao động đang thiếu nhân lực cao cấp, nhất là trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, quản trị doanh nghiệp, chuyên gia kỹ thuật... Hiện nay, nhu cầu tuyển nhân lực trình độ cao của các doanh nghiệp đăng ký tại các cơ quan cung ứng nhân lực tăng hàng năm 41 - 50%, trong đó nóng nhất là nhân lực trình độ cao cho các vị trí như tổng giám đốc, giám đốc, trưởng phòng, chuyên gia thương hiệu hàng hoá, chuyên gia kỹ thuật, kế toán trưởng... Ví dụ, để tuyển được một giám đốc kinh doanh công nghệ thông tin cho công ty MDPM Việt Nam, Fist ALLances phải mất ròng rã 8 tháng trời, sàng lọc 400 hồ sơ mới tìm được một ứng cử viên chỉ ở mức tương đối. (Thời báo Kinh tế Việt Nam 28/4/2006). Nguyên nhân của tình hình này chủ yếu là do hệ thống đào tạo nhân lực cao cấp ở nước ta còn có bất cập so với thực tiễn kinh doanh. - Cơ cấu đội ngũ cán bộ nghiên cứu ở nước ta trong các ngành, lĩnh vực chưa cân đối. Tỷ lệ tiến sĩ khoa học, tiến sĩ chuyên ngành trên tổng số nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học tự nhiên là 25,66%, Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 24/Quý III- 2010 25 khoa học xã hội và nhân văn là 21,19%, y - dược là 7,03%, khoa học kỹ thuật là 6,35%, khoa học nông nghiệp (gồm cả nông - lâm - ngư nghiệp) chỉ chiếm 4,43%. Nguồn nhân lực trình độ cao đẳng, đại học trở lên theo ngành nghề còn nhiều bất hợp lý, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tế. Đào tạo các ngành kỹ thuật công nghệ, nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tỷ trọng chưa hợp lý so với các ngành xã hội, luật, kinh tế, ngoại ngữ... Vì vậy, cùng với cơ cấu ngành nghề đào tạo chưa phù hợp và chất lượng còn thấp, hiện nay Việt Nam đang thiếu nhiều kỹ sư (Việt Nam chỉ có 1,5 kỹ sư trên 1.000 dân, trong khi đó của Anh là 136, Thuỵ Điển 115 và của Nhật Bản là 100). - Một trong những nguyên nhân hạn chế đến đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực là tiền lương của người lao động nước ta còn thấp, chỉ mới đủ trang trải chi nhu cầu sinh hoạt thường ngày (bảng 2). Trong khi để đào tạo một người có trình độ đại học ít nhất người học phải bỏ ra bình quân 45 triệu đồng, đối với trường tư thục, liên doanh, du học nuớc ngoài thì chi phí còn lớn gấp hơn rất nhiều lần. Bảng 2: Thu nhập bình quân của người lao động trong các doanh nghiệp, các năm 2000 - 2008, đơn vị : nghìn đồng/tháng Năm Tiền lương bình quân chung Tiền lương DNNN Tiền lương DN dân doanh Tiền lương DN FDI 2000 1054 1072 737 1767 2005 1712 2140 1303 1945 2006 1969 2633 1488 2175 2007 2250 2930 1720 2480 2008 2630 3150 1950 2750 2009 2750 3200 2300 2600 Nguồn: Niên giám thống kê 2000-2006, TCTK; kết quả điều tra mẫu 2007-2008, Bộ LĐTBXH Bảng trên cho thấy, trong các năm 2001-2008, tiền lương của lao động trong các khu vực doanh có xu hướng tăng, mức tăng bình quân trong các năm 2001-2005 là 11,5%/năm và 2006-2008 11,7%/năm. Nguyên nhân tăng là do tăng tiền lương tối thiểu, tăng năng suất lao động và hiệu quả hoạt động của các khu vực doanh nghiệp. Phân phối tiền lương trong nền kinh tế đã có công bằng hơn giữa nhân lực có đào tạo và không qua đào tạo, là động lực có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với thúc đẩy tham gia đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Năm 2008, tiền lương bình quân của lao động cao đẳng, đại học trở lên cao gấp 3,6 lần so với tiền lương của lao động phổ thông, cao hơn 2,2 lần so với tiền lương bình quân của nhân lực trình độ trung học chuyên nghiệp và 2,9 lần so với công nhân kỹ thuật và nhân lực sơ cấp. Trong đó, tiền lương bình quân của người lao động trong một số ngành đạt cao như (năm 2009) vận tải hàng không trên 13 triệu đồng/tháng, Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 24/Quý III- 2010 26 dầu khí 12 triệu đồng/tháng, tài chính, tín dụng 5,2 triệu động/tháng, sản xuất thiết bị văn phòng và máy tính 4,4 triệu đồng/tháng Nhiều chức danh nhân sự cao cấp (tổng giám đốc, giám đốc, kế toán trưởng, chuyên gia kỹ thuật cao cấp) đã được trả với mức lương lên đến 10.000 - 20.000 USD/tháng. Cũng cần thấy rằng, tiền lương của lao động CMKT cao trong khu vực hành chính nhà nước còn thấp làm hạn chế phát triển nguồn nhân lực khu vực này. Tiền lương khu vực hành chính chưa gắn với tiền lương khu vực thị trường, tiền tệ hoá tiền lương chưa được thực hiện triệt để, chưa tính đến đặc điểm lao động dịch vụ công. Do đó, vai trò kích thích của tiền lương khu vực hành chính nhà nước còn mờ nhạt, sức ỳ của chủ nghĩa bình quân vẫn còn lớn trong chế độ tiền lương. - Tình trạng thất nghiệp trong nguồn nhân lực còn khá cao, trong đó có nguyên nhân từ chất lượng nguồn nhân lực. Trong nguồn nhân lực không chỉ có lao động phổ thông thất nghiệp mà cả lao động qua đào tạo các cấp trình độ khác nhau. Bảng 3: Thất nghiệp của toàn quốc Đơn vị: người Tổng số LĐ CMKT cao (CĐ, ĐH, trên ĐH) Trung học chuyên nghiệp Qua đào tạo nghề và tương đương Chưa qua đào tạo 1). Lao động từ 15 tuổi trở lên 582589 369070 79290 52725 81504 2). Lao động trong độ tuổi lao động 574219 363767 78151 51968 80333 Nguồn: Điều tra Lao động- Việc làm, Bộ LĐTBXH, 2007 Theo số liệu của trung tâm thông tin quản lý giáo dục đào tạo ở 51 trường đại học, cao đẳng trong cả nước, tỷ lệ sinh viên các trường sau khi tốt nghiệp có 72,4% sinh viên có việc làm, chưa có việc làm là 23,84% và 3,69% đang đi học thêm. Điều đó chứng tỏ, chất lượng, cơ cấu ngành nghề đào tạo cao đẳng, đại học còn có khảng cách với yêu cầu của người sử dụng. - Về chính sách phát triển nguồn nhân lực thì đến nay Nhà nước đã có các chính sách mang tính đột phá nhằm thúc đẩy nhanh đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Trong đó phải kể đến là các chính sách như xã hội hoá giáo dục, đào tạo; phát triển nhanh hệ thống các trường cao đẳng, đại học, dạy nghề tại khắp các vùng của đất nước; nhà nước hỗ trợ, cho vay vốn để đào tạo, học nghề, tạo khung pháp luật thuận lợi cho học sinh ra nước ngoài du học bằng tự túc, đã có hàng chục nghìn học sinh Việt Nam đang học ở các nước có nền giáo dục, đào tạo phát triển như Mỹ, Canađa, Úc, Anh, Pháp, Nga, Đức Nhà nước dành một khoản đầu tư gửi người đi đào tạo ở các trường danh tiếng của các nước Anh, Pháp, Mỹ, Pháp, Úc, năm 2009 có 324 cán bộ được chọn đi nghiên Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 24/Quý III- 2010 27 cứu sinh bằng ngân sách Nhà nước. Đặc biệt là gần đây Chính phủ đã ra quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 về đề án đào tạo nghề cho nông thôn giai đoạn 2009 - 2020 với tổng kinh phí dự kiến 41290 tỷ đồng để dạy nghề cho 24,45 triệu người và Nhà nước cũng đang nghiên cứu xem xét phê duyệt chương trình thúc đẩy dự án đào tạo 20 nghìn tiến sỹ giai đoạn 2007-2020. Đối với sử dụng nguồn nhân lực, Nhà nước cũng đã đầu tư cho thực hiện các chương trình việc làm, tạo khung pháp luật cho phát triển thị trường lao động, hệ thống giới thiệu việc làm, ban hành Luật Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế mở rộng cho tất cả các đối tượng của nguồn nhân lực, thực hiện các giải pháp đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao trong các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ để tạo ra nhiều việc làm cho nguồn nhân lực. 2. Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực Từ đánh giá một số thực trạng cho thấy, nguồn nhân lực nước ta mặc dù có sự phát triển đáng kể trong các năm chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường nhưng vẫn có nhiều hạn chế. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta các năm đến 2020 đòi hỏi phải có chiến lược đúng đắn, gắn với các mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá về chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao mức sống của người lao động và dân cư, nâng cao trình độ nguồn nhân lực, tăng vượt bậc năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao về số lượng và chất lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển an sinh xã hội... Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực đáp ứng cho các mục tiêu nói trên là: Phát triển mạnh hệ thống đào tạo, dạy nghề, đảm bảo cho tăng nhanh quy mô nhân lực qua đào tạo, dạy nghề cho cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế trọng điểm và cho xuất khẩu lao động và chú trọng đào tạo nghề cho khu vực nông thôn. Bằng các cơ chế thích hợp, huy động các nguồn lực để nâng cao cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, đào tạo mới đội ngũ giảng viên, đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy để tạo chuyển biến căn bản về chất lượng giáo dục phổ thông, đào tạo, dạy nghề. Đồng thời, tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới, đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích các hình thức giáo dục phổ thông, đào tạo, dạy nghề đa dạng, linh hoạt... Nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, đào tạo, dạy nghề một cách toàn diện trên cơ sở đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá", chấn hưng nền giáo dục, đào tạo, dạy nghề Việt Nam. Khuyến khích các trường, các cơ sở đào tạo, dạy nghề phấn đấu đạt các thương hiệu về chất lượng đầu ra. Chuyển dần mô hình giáo dục, đào tạo hiện nay sang mô hình giáo dục, đào tạo mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người với những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 24/Quý III- 2010 28 xuyên, tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục, đào tạo, dạy nghề Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng trọng dụng nhân tài; xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý về ngành nghề, trình độ đào tạo, dân tộc, vùng miền Có cơ chế và chính sách gắn kết có hiệu quả trường đại học với cơ sở nghiên cứu khoa học và doanh nghiệp để chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ vào sản xuất kinh doanh, xây dựng một số trường đại học trọng điểm đạt trình độ khu vực và quốc tế. Đến năm 2020, hệ thống giáo dục, đào tạo, dạy nghề đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và tiếp cận trình độ tiên tiến trên thế giới. Phát triển việc làm để kích thích hệ thống đào tạo, thu hút lao động qua đào tạo, dạy nghề tham gia vào hoạt động kinh tế. Trong đó, cần tập trung vào các vấn đề i). Đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao (>7- 15%) để tạo ra nhiều việc làm và chuyển dịch nhân lực nông thôn sang khu vực dịch vụ và công nghiệp ii). Phát triển nhanh các ngành công nghệ cao, ngành kinh tế mũi nhọn, ngành dịch vụ chất lượng cao tại các vùng kinh tế trọng điểm để thu hút số lượng lớn nhân lực CMKT cao của vùng kinh tế trọng điểm và của cả nước vào làm việc. Trong đó, phải đồng thời với việc giải quyết các vấn đề xã hội như: phát triển đồng bộ hạ tầng cơ sở xã hội (điện, nước, trường học, chợ, hệ thống tín dụng), đảm bảo các điều kiện sinh sống thuận lợi cho lao động CMKT cao đến làm việc iii). Hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ để tạo ra nhiều cơ hội mới, nhất là các nguồn vốn, công nghệ mới, mở rộng thị trường hàng hoá, lao động, tạo nhiều việc làm cho lao động CMKT cao và mở ra khả năng đào tạo nhân lực trên nhiều lĩnh vực. Hoàn thiện chính sách liên quan đến phát triển nguồn nhân lực. Hệ thống các chính sách liên quan đến phát triển nguồn nhân lực rất rộng lớn, tuy nhiên trong các năm đến 2020 cần chú trọng vào các chính sách như: i). Nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động và dân cư, trên cơ sở đảm bảo quyền tiếp cận các dịch vụ cơ bản của con người (giáo dục, đào tạo, y tế, bảo hiểm xã hội, điện, nước, thông tin) ii). Đảm bảo quyền và lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động trong quan hệ lao động về tiền lương, điều kiện làm việc, thời giờ làm việc và nghỉ ngơi, chế độ an sinh xã hội, đối thoại và thương lượng tập thể iii). Khuyến khích, hỗ trợ phát triển hệ thống công ty cung ứng nguồn nhân lực cao cấp iiii). Cải cách triệt để chính sách tiền lương, trong đó cần thiết có chế độ tôn vinh, đãi ngộ xứng đáng đối với người đem lại hiệu quả kinh tế, xã hội cao cho đất nước iiiii). Hoàn thiện các chính sách di chuyển lao động, thúc đẩy tăng mức độ linh hoạt của cung lao động trên thị trường. Điều tiết di chuyển là một giải pháp quan trọng tác động đến cung lao động. Đây là công cụ quan trọng để điều chỉnh thị trường lao động và thu nhập giữa các vùng. Hiện nay, ở nước ta có những xu hướng di chuyển nhân lực nội địa đáng chú Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 24/Quý III- 2010 29 ý là từ miền Bắc và miền Nam, từ các tỉnh phía Bắc và Duyên Hải Miền Trung, từ nông thôn ra thành thị, từ khu vực nhà nước đến khu vực FDI và khu vực ngoài nhà nước và ra nước ngoài. Bên cạnh các tác động tích cực của nó như điều tiết thị trường lao động, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động thì việc di chuyển lao động ồ ạt truớc mắt có thể gây tác động tiêu cực như làm cạn kiệt lao động CMKT cao ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng kinh tế tăng trưởng chậm. Thiết lập hệ thống thông tin về nguồn nhân lực hữu ích, hiệu quả, dân chủ, nhằm sử dụng cho Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức và hộ gia đình trong trong nghiên cứu, tham khảo, lựa chọn ngành nghề, cấp trình độ đào tạo và các khả năng gia nhập vào các vị trí việc làm trên thị trường lao động. Thông tin về nguồn nhân lực phải bao hàm toàn diện được tất cả các mặt của nguồn nhân lực như trình độ kiến thức, kỹ năng, chất lượng sinh sống, các phẩm chất xã hội của nguồn nhân lực TÀI LIỆU, SỐ LIỆU THAM KHẢO 1. Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2007. 2. Chính sách thị trường lao động ở các nước châu Á, ILO, 1998. 3. Di chuyển con người để cung cấp dịch vụ, Ngân hàng Thế giới, 2004 (sách dịch). 4. Các website của Chính phủ, Bộ LĐTBXH, Tổng cục thống kê, Bộ Tài chính, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. 5. GS.TS, Nguyễn Trọng Chiên, PGS. TS Nguyễn Thế Nghĩa, PGS TS Đặng Hữu Toàn (2002) Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. TS.Nguyễn Hữu Dũng (2002) "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế", Lý luận chính trị, tr. 20-25. 7. GS - VS Đặng Hữu (2002), Phát triển kinh tế tri thức gắn với quá trình CNH, HĐH, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Tổng cục thống kê, Điều tra dân số - lao động, 2008. 9. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, điều tra lao động, việc làm 2000-2007. 10. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, điều tra Tiền lương - Bảo hiểm xã hội 2006- 2008.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmot_so_giai_phap_phat_trien_nguon_nhan_luc_o_viet_nam_cac_na.pdf
Tài liệu liên quan