Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu tại công ty dâu tằm tơ I - Hà Nội

Công ty nên lựa chọn phương thức cạnh tranh bằng giá cả dựa trên việc thực hiện chiến lược nhấn mạnh chi phí. Để tạo ra giá thành sản phẩm hấp dẫn công ty cần phải tạo được một bước chuyển biến tích cực trong quản lý chế biến tơ như: khâu quản lý thu mua, quản lý tiêu hao, quản lý chi phí công nghiệp, quản lý chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó công ty cần xây dựng một chính sách giá cả chặt chẽ để việc cạnh tranh bằng giá không làm giảm nhiều lợi nhuận của công ty. Ngoài việc căn cứ vào chi phí để xây dựng giá, công ty phải tìm được đối thủ đang chi phối giá trên thị trường và những thông tin thường xuyên về mức giá bình quân của sản phẩm cùng loại, kết hợp với việc tìm hiểu sự hình dung về giá của hãng tiêu dùng (mức giá nào là đắt, rẻ, phải chăng) để từ đó công ty xác định được mức giá hợp lý, tránh được phản ứng tiêu cực từ phía đối thủ cạnh tranh. Việc xây dựng chính sách giá thấp hoặc giá phải chăng sẽ khiến công ty không có được lợi nhuận cao, hoặc phải chịu lỗ trong thời gian đầu để tăng thị phần. Thị phần cao có thể tạo ra tính kinh tế trong qua trình mua nguyên liệu, hàng hoá làm giảm chi phí. Vị trí chi phí thấp một khi đã đạt được sẽ cho phép làm tăng tỷ lệ lợi nhuận và như vậy có thể tái đầu tư vào những máy móc thiết bị mới, vùng nguyên liệu.có khả năng duy trì lợi thế về chi phí. Như vậy sau một chu trình sản xuất từ đầu vào tới đầu ra, giá cả thấp lại duy trì lợi thế cạnh tranh của công ty. Tất nhiên giá cả là quay xung quanh giá trị, nên tới khi chất lượng sản phẩm cao hơn, giá cả sản phẩm cũng cần phải thay đổi phù hợp, cũng để tránh tâm lý nghi ngờ của khách hàng về chất lượng sản phẩm của công ty.

doc69 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1691 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu tại công ty dâu tằm tơ I - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiến hành các công việc sau: . Đối chiếu lệnh xuất khẩu với hàng thực tế có trong kho . Chuẩn bị các phương tiện, công cụ, nhân lực bốc xếp hàng . Xác định địa điểm giao hàng Khi giao hàng công ty yêu cầu người xuât kho và người nhận hàng phải ký vào phiếu xuât kho hay phiếu giao hàng để xác nhận. Kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu: Về phía công ty từ khâu sản xuất cho đến hoàn tất sản phẩm thì tại mỗi công đoạn đều có bộ phận kiểm tra chất lượng, chất lượng công đoạn này có đảm bảo thì chất lượng công đoạn sau mới tốt có như vây tơ sản xuất ra mới tốt. Đối với hàng thu mua trước khi đưa về công ty cũng phải được kiểm tra cẩn thận xem chất lượng sản phẩm mình mua vào có đúng với giá tiền, với yêu cầu của mình không, tránh xảy ra những sai lầm đáng tiếc. Việc kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu rất quan trọng bởi về phía khách hàng họ cũng không dễ dàng chấp nhận ngay sản phẩm công ty giao. Trước khi hàng được xếp lên tàu còn phải qua các công ty kiểm định mà họ thuê để kiểm tra chất lượng. Thuê phương tiện vận chuyển, mua bảo hiểm hàng hoá: Việc vận chuyển hàng hoá qua biên giới quốc gia đỏi hỏi phải sử dụng các phương tiện có tầm hoạt động xa và khả năng vận chuyển lớn, thông thường thì tàu biển là phương tiện được sử dụng rộng rãi nhất và thông dụng nhất. Hầu hết các hàng hoá xuất nhập khẩu đều được vận chuyển bằng tàu biển. Tuy nhiên đội tàu Việt Nam chưa phát triển, bên cạnh đó kinh nghiệm của các công ty trong việc thuê tàu và vận chuyển chưa nhiều, điều này khiến công ty gặp khó khăn khi lựa chọn điều kiện cơ sở giao hàng CIF. Hầu hết các hợp đồng ký kết với nước ngoài công ty đều sử dụng điều kiện cơ sở giao hàng CIF, vì vậy công ty phải đảm nhận việc thuê tàu, mua bảo hiểm hàng hoá. Công ty thuê tàu của các hãng vận tải ở Châu á như hãng: Hajn, Mearskline, Voza, Viefrarst... Công ty ký hợp đồng vận chuyển với các hãng này với chi phí theo thoả thuận của hai bên. Chi phí vận chuển cho môt lô hàng xuất khẩu sang ấn Độ là 1150USD (chi phí vận chuyển một container 8 tấn), trong đó: chi phí vận chuyển từ Hà Nội đến cảng Hải Phòng là 100USD, còn 1050USD là chi phí vận chuyển từ Hải Phòng đến Madras. Sau khi ký hợp đồng vận chuyển, công ty còn phải mua bảo hiểm để đảm bảo cho sự an toàn của hàng hoá. Phần lớn hợp đồng bảo hiểm công ty mua ở Bảo Việt với phí suất bằng 0,3% tổng giá trị lô hàng xuất khẩu. Làm thủ tục hải quan: Khai báo hải quan: nhân viên phòng kinh doanh XNK có trách nhiệm kê khai chi tiết về hàng hoá trên tờ khai hải quan. Thông thường công ty làm thủ tục hải quan ở cục hải quan Hải Phòng. Xuất trình hàng hoá: sau khi làm thủ tục khai báo hải quan nhân viên hải quan kiểm tra hàng hoá, niêm phong kẹp chì. Thực hiện các quyết định của hải quan: sau khi kiểm tra cơ quan hải quan sẽ có quyết định về lô hàng. Giao hàng lên tàu: Công ty giao hàng theo phương thức hàng đủ một container (8 tấn). Sau khi giao hàng lên tàu thì lấy vận đơn đường biển (seaway bill). Thanh toán: Sau khi giao hàng công ty gửi bộ chứng từ tới ngân hàng mở L/C, thông qua ngân hàng thông báo yêu cầu thanh toán tiền hàng. Hầu hết công ty sử dụng phương thức thanh toán bằng L/C nhưng một số trường hợp làm ăn với khách hàng truyền thống thì công ty sử dụng phương thức chuyển tiền. Giải quyết khiếu nại: Trong thực tế trường hợp này rất ít xảy ra với công ty. 4.Đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty dâu tằm tơ I. 4.1: Những mặt đã làm được. Là một doanh nghiệp chủ chốt trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh tơ lụa của cả nước nói chung và khu vực phía Bắc nói riêng. Công ty dâu tằm tơ I với truyền thống sản xuất kinh doanh của mình đã đạt được những thành tựu to lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận của công ty luôn gia tăng, tiền lương của cán bộ công nhân viên ngày một cải thiện. Trên thương trường công ty đã tạo được uy tín với nhiều bạn hàng thế giới. Sản phẩm của công ty ngày càng được ưa thích, bạn hàng ký kết ngay càng nhiều hợp đồng tiêu thụ. Với máy móc thiết bị mới được trang bị năng lực sản xuất được nâng cao, yêu cầu số lượng cán bộ công nhân viên để vận hành và sử dụng máy móc ngày một tăng. Ngoài ra, nguyên liệu đầu vào cần nhiều hơn thúc đẩy gia tăng số hộ trồng dâu nuôi tằm. Công ty đã, đang và sẽ góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, đặc biệt trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc- một nơi đời sống của người dân còn nhiều khó khăn này. Đội ngũ công nhân ươm tơ của công ty được công ty trực tiếp tổ chức đào tạo, đáp ứng tốt nhu cầu thực tế của sản xuất. Với tay nghề ngày một nâng cao công nhân ươm tơ góp phần tích cực trong việc áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, tiếp nhận và vận hành tốt các thiết bị tiên tiến đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Đội ngũ cán bộ quản lý của công ty có trình độ học vấn cao, có kinh nghiệm quản lý, năng nổ, nhịêt tình, có trách nhiệm trong công việc đã giúp cho doanh nghiệp định được hướng đi đúng và đi vào tăng trưởng. Công ty đã phát động nhiều đợt thi đua ngắn ngày, dài ngày, phục vụ kịp thời cho các lô hàng xuất khẩu đảm bảo đúng tiến độ giao hàng. Đảm bảo được chữ tín với khách hàng nên thị trường của công ty ngày càng được mở rộng, giúp tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng lợi nhuận. Công ty rất chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ để chiếm lĩnh thị trường. Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ được tổ chức thường xuyên, việc sắp xếp bố trí cán bộ hợp lý đúng chức năng phát huy tối đa khả năng của họ giúp cho hoạt động kinh doanh của công ty có hiệu quả hơn. Thêm vào đó thị trường tơ lụa thế giới trong những năm gần đây ngày càng mở rộng cho các nước sản xuất và xuất khẩu tơ, trong khi sản lượng của các nước sản xuất tơ lớn trên thế giới như Trung Quốc, ấn Độ có xu hướng sụt giảm. Đây là thuận lợi lớn với thị trường tiêu thụ tơ lụa Việt Nam nói chung và của công ty dâu tằm tơ I nói riêng. 4.2: Những tồn tại chủ yêú và nguyên nhân kìm hãm sự phát triển hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở công ty. Trong thời gian qua, ngành dâu tằm tơ nói chung và công ty dâu tằm tơ I nói riêng vẫn còn tồn tại một thực tế là không tận dụng được hết khả năng của mình, hoạt động kém hiệu quả do gặp phải một số khó khăn. Những khó khăn này xuất phát từ nguyên nhân khách quan và chủ quan, từ trong công ty cũng như từ phía bên ngoài công ty. Những khó khăn chủ yêú phải kể đến là: Nguồn hàng cho hoạt động xuất khẩu của công ty: Như đã phân tích ở những phần trước, hàng tơ lụa xuất khẩu của công ty chủ yếu có được từ thu mua của các đơn vị ươm tơ dệt lụa trong nước. Hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty phụ thuộc rất lớn vào nguồn hàng này. Trên thực tế nguồn hàng này vừa thiếu lại vừa yếu. Thiếu vì lúc cần thì không có, yếu vì có mà không đáp ứng được nhu cầu. Nhìn chung các xí nghiệp ươm tơ của ta phân tán, công nghệ cũ, lạc hậu, tiêu hao nguyên liệu và cho chất lượng đầu ra không tốt. Thiết bị dệt lụa của ta cũng vậy, chỉ có thể cho ra các loại vải khổ nhỏ...Với đặc điểm đầu vào như vây, trước yêu cầu đa dạng của thị trường công ty chỉ có khả năng đáp ứng một phần nhu cầu cấp thấp, còn đối với nhu cầu cấp cao công ty không đủ khả năng đáp ứng. Do đó trong những năm vừa qua công ty đã bỏ lỡ nhiều đơn hàng có giá trị của một số bạn hàng ở Pháp, Italia, Hàn Quốc... Như vậy là công ty đã bỏ mất cơ hội trong kinh doanh, điều kiện tiên quyết đối với bất kỳ một công ty nào muốn phát triển đi lên trong cơ chế thị trường. Công tác nghiên cứu thị trường và lựa chọn đối tác: Trong bối cảnh hiện nay công ty phải đối mặt với nhiều hình thức về thị trường xuất khẩu. Khả năng cạnh tranh về giá cả, chất lượng, mẫu mã hàng cũng như kỹ thuật, vốn của công ty đã được cải thiện nhưng nhìn chung còn rất yếu so với các nước có danh mục xuất khẩu tương tự. Có một thực tế là thị trường xuất khẩu của công ty vẫn còn rất nhỏ bé, tên tuổi của công ty vẫn đứng hàng sau tên tuổi của các đơn vị có uy tín khác trên thương trường. Chính vì vậy, trong thời gian qua công ty đã tích cực hơn trong công tác xúc tiến thương mại, quảng cáo, theo dõi thị trường giá cả. Công ty đã phối hợp tổ chức gặp gỡ, làm việc cụ thể với nhiều tham tán Việt Nam ở nước ngoài, tham gia nhiều hội trợ trong và ngoài nước. Ngoài ra, công ty còn thường xuyên bám các thị trường, ban xúc tiến thương mại của bộ và các thương vụ nước ngoài, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam để nắm rõ chủ trương chính sách về thị trường. Tuy nhiên, cho đến nay công tác thị trường của công ty còn nhiều hạn chế. Công ty chưa quan tâm đúng mức về vấn đề này. Hiện công ty chưa có một bộ phận chuyên sâu nghiên cứu thị trường riêng biệt mà nó được nhập trong phòng kinh doanh xuất nhập khẩu, công ty cũng chưa có một đội ngũ chuyên môn để thu thập và xử lý các thông tin nhằm đưa ra các quyết định cho từng thời kỳ. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu và lựa chọn đối tác giúp công ty tìm kiếm được nhiều bạn hàng tin cậy, ổn định, có khả năng hợp tác lâu dài. Đồng thời việc nghiên cứu và lựa chọn khách hàng cũng giúp cho công ty có những phương thức kinh doanh thích hợp và hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra. Tuy nhiên công ty đã không chủ động trong việc lựa chọn đối tác, đa phần các đối tác tự tìm đến công ty. Điều này phần nào hạn chế việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Nguyên vật liệu, hàng hoá phục vụ sản xuất kinh doanh: Trong thực tế khó có thể tiêu chuẩn hoá chất lượng và khối lượng kén đầu ra cho hàng trăm cơ sở trồng dâu nuôi tằm nhỏ lẻ khác nhau. Vùng nguyên liệu cho hoạt động sản xuất của công ty dâu tằm tơ I nói riêng, của các công ty sản xuất tơ đầu vào cho hoạt động xuất khẩu của công ty nói chung, thường không ổn định. Dẫn đến sản lượng sản xuất và thu mua hàng năm không ổn định. Khó khăn này có thể xuất phát từ nguyên nhân khách quan là giá cả tơ trên thị trường không ổn định, thay đổi thất thường dẫn đến sự thất thường trong sản xuất kén nguyên liệu. Thật vậy, khi giá tơ lên bà con hăng hái trồng đâu nuôi tằm lượng kén nguyên liệu có thể tăng nhanh, nhưng khi giá sụt giảm thì bà con không ngần ngại chặt bỏ diện tích dâu đã trồng lượng kén giảm mạnh, đến khi giá tăng trở lại thì không lấy đâu ra nhiều lá dâu để nuôi tằm, các nhà máy xí nghiệp ươm tơ thì thiếu nguyên liệu để sản xuất. Rõ ràng trồng dâu nuôi tằm phải tính hiệu quả kinh tế trong một thời gian dài. Bởi cây dâu cho lá làm thức ăn tốt cho tằm trong vòng 8 đến 10 năm mới cần hoại bỏ. Vì vậy việc chặt bỏ bừa bãi của bà con như hiện nay là rất lãng phí. Thêm vào đó tính chất mùa vụ của ngành trồng dâu nuôi tằm rất cao. Việc tằm sống và sinh trưởng tốt phụ thuộc rất lớn vào điều kiện thời tiết: nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng,... Ví dụ như nhiệt độ thích hợp nhất cho tằm dâu sống là 250C đến 26 0C, nhiệt độ nóng qua hay lạnh quá tằm đều không sống được hoặc sinh trưởng kém, hiệu quả đạt được rất thấp. Khó khăn từ khía cạnh con người Hiện chưa có một trường dạy nghề nào đào tạo tay nghề cho công nhân ươm tơ. Công ty phải tự tổ chức đào tạo lấy. Đội ngũ công nhân ươm tơ của công ty đa phần tuổi đời còn rất trẻ, tâm lý không ổn định đặc biệt với công việc ươm tơ chỉ có thời vụ như ở công ty. Họ thường xuyên thay đổi nơi làm, vì vậy công ty tốn kém chi phí đào tạo công nhân mới. Đội ngũ cán bộ quản lý còn chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng kinh tế cũ, quan liêu, trì trệ. Mặc dù họ là những người có kinh nghiệm nhưng do đức tính quá thận trọng mà họ không có được sự năng động và mạo hiểm như lớp trẻ. Vấn đề giá cả, chất lượng sản phẩm và cạnh tranh: Chấp nhận nền kinh tế thị trường điều đó cũng có nghĩa là phải chấp nhận tính cạnh tranh khốc liệt của nó. Do tham gia vào thị trường xuất khẩu tơ lụa với khối lượng nhỏ, hàng tơ lụa của ngành dâu tằm tơ Việt Nam nói chung và công ty dâu tằm tơ nói riêng không có khả năng ảnh hưởng đến giá cả tơ lụa trên thị trường thế giới. Giá tơ xuất khẩu phụ thuộc chặt chẽ vào giá tơ trên thị trường thế giới. Mặc dù công ty đã có bộ phận hoạch định giá xuất khẩu nhưng trước diễn biến thất thường của thị trường việc định giá sai lệch nhiều khi gây tổn thất lớn. Bên cạnh đó chất lượng sản phẩm tơ lụa xuất khẩu của công ty nhìn chung không cao, khả năng cạnh tranh kém. Khó khăn từ phía Nhà nước: Không thể phủ nhận tơ tằm là một mặt hàng quý hiếm và có giá thành tương đối cao so với các mặt hàng sợi khác. Cho đến nay vẫn chưa có một loại tơ nào, dù là tơ tự nhiên hay nhân tạo nào có đầy đủ đặc tính sử dụng như tơ tằm. Vốn được coi là một nước có điều kiện thuận lợi để phát triển phát triển ngành tơ tằm, một dân tộc có nhiều kinh nghiệm về nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. ấy vậy mà cho đến nay dường như ngành tơ tằm của ta phát triển tự phát. Với một đất nước có đến 80% dân số là lao động nông nghiệp, rõ ràng ngành tơ tằm có được quan tâm tuy nhiên chưa thật tương xứng với tiềm năng phát triển của một ngành tổng hợp này. Đặc điểm của sản xuất tơ tằm cần phải được quan tâm từ cây dâu, con giống, vậy mà trên thực tế việc chặt bỏ cây dâu bừa bãi, tăng giảm sản lượng thất thường vẫn luôn xảy ra. Chính bởi thiếu sự quan tâm đúng mức của nhà nước: Nhà nước có đưa ra các biện pháp để phát triển ngành tơ tằm nhưng còn ở mức rất chung chung không có chính sách rõ ràng, cụ thể. Nói tóm lại, trong bối cảnh chung của tình hình thế giới hiện nay, bên cạnh những thuận lợi nhất định, việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng tơ lụa cũng gặp phải nhiều khó khăn thách thức. Do đó, mục tiêu đạt hiệu quả cao trong công tác xuất khẩu hàng tơ lụa ở công ty dâu tằm tơ I Hà Nội không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực cố gẵng của công ty trong việc tìm hướng đi, biện pháp phù hợp mà còn cần phải có sự tác động tích cực của cơ quan quản lý nhà nước, thúc đẩy xuất khẩu hàng tơ lụa ngày càng phát triển, tăng nhanh kim ngạch và ngoại tệ cho đất nước, củng cố uy tín và vị thế của công ty không chỉ ở thị trường trong nước mà trên toàn thế giới. Chương III Định hướng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty dâu tằm tơ I trong thời gian tới. I. Định hướng phát triển hoạt động xuât khẩu của công ty trong thời gian tới. 1. Định hướng phát triển ngành tơ tằm Việt Nam trong thời gian tới. Theo ýkiến đánh giá của các nhà phân tích thị trường thời gian qua tuy có những biến động về giá nhưng thị trường tơ lụa thế giới và khu vực chưa bao giờ cung đáp ứng đủ cầu do nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng tăng, trong khi những nước sản xuất dâu tằm lớn như Trung Quốc, Brazil đang thu hẹp dần diện tích dâu và sản lượng kén. Từ năm 2000 những nước phải nhập khẩu tơ lụa có nhu cầu tăng lên nhưng diện tích dâu và sản lượng tơ lại có chiều hướng giảm. Xét ngay trong điều kiện nền kinh tế trong nước chưa thực sự phát triển song nhu cầu nội tiêu cũng tăng nhanh từ 150.000 mét năm 1990 vọt lên 1,5 triệu mét trong năm 1999. Tin chắc từ đây trở đi, nhu cầu tiêu dùng tơ lụa của người Việt Nam sẽ là con số không nhỏ; cộng với sự gia tăng cả về tơ nguyên liệu và sản phẩm may mặc từ tơ tằm ngày càng cao trên thị trường thế giới. Đó là những tiền đề to lớn cho phép ngành dâu tằm tơ Việt Nam khôi phục và phát triển với tốc độ cao. Theo ý kiến của các nhà nông nghiệp thì cây dâu phát triển khá thuận lợi ở điều kiện khí hậu nhiệt đới và quỹ đất quy hoạch trồng dâu ở nước ta còn từ 40.000 đến 100.000 hecta, nhiệt độ thích hợp cho tằm sinh trưởng, tuỳ giống, tuỳ mùa, trình độ tay nghề trên cả nước đều có thể nuôi tằm lưỡng hệ, nhất là vùng cao nguyên rất thích hợp cho việc nuôi các giống tằm cao cấp. Ngành dâu tằm tơ xác định phương hướng phát triển đến năm 2010 phải phát huycao tiềm năng và năng lực sản xuất dâu tằm hiện có. Trong đó: Từ nay đến năm 2005, tập trung: +Thâm canh, khôi phục lại diện tích trồng dâu trong các vùng quy hoạch + Cải tiến thiết bị ươm tơ cơ khí cũ bằng thiết bị tiên tiến để nâng chât lượng tơ + Cải tiến công nghệ, đầu tư chiều sâu công đoạn dệt và sau dệt nhằm phát huy hiệu quả. Sau năm 2005: + Mở rộng diện tích dâu tằm ở những nơi có quy hoạch, có thể cạnh tranh; đồng thời, mở rộng thêm công suất chế biến tơ lụa, thứ liệu tơ tằm tương ứng với diện tích dâu, sản lượng kén gia tăng. + Chú trọng nâng cao cơ cấu sản phẩm lụa hoàn chỉnh cùng các mặt hàng khác để tăng giá trị xuất khẩu. Mặt khác, theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 55/2001/QĐ-TTg ngày 23/4/01 phê duyệt chiến lược phát triển và một số cơ chế, chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010, trong đó có những nội dung liên quan đến ngành dệt nói chung, ngành ươm tơ dệt lụa nói riêng như: Về mục tiêu: phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuât khẩu; thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hôi; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. Về chiến lược phát triển: Đối với ngành dệt, bao gồm: sản xuất nguyên liệu dệt...: . Kinh tế nhà nước làm nòng cốt, giữ vai trò chủ đạo, khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư trực tiếp của nước ngoài tham gia phát triển lĩnh vực này. . Đầu tư phát triền phải gắn với bảo vệ môi trường . Tập trung đầu tư trang thiết bị hiện đại, công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến, trình độ chuyên môn hoá cao . Tổ chức lại hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo bước nhảy vọt về chất lượng, tăng nhanh sản lượng các sản phẩm dệt, nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Đẩy mạnh đầu tư phát triển các vùng trồng bông, dâu tằm, các loại cây có xơ, tơ nhân tạo, các loại nguyên liệu, phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm cung cấp cho ngành dệt may nhằm tiến tới tự túc phần lớn nguyên liệu, vật liệu và phụ liệu thay thế nhập khẩu. Các chỉ tiêu chủ yếu: - Sản xuất: đến năm 2005, sợi các loại đạt 150.000 tấn, vải lụa thành phẩm 8000 triệu m2. Đến năm 2010, sợi các loại đạt 300.000 tấn, vải lụa thành phẩm 1.400 triệu m2. - Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may: Đến năm 2005: 4.000 đến 5.000 triệu USD. Đến năm 2010: 8.000 đến 9000 triệu USD. - Sử dụng lao động: Đến năm 2005 thu hút 2,5 đến 3 triệu lao động. Đến năm 2010 thu hút 4 đến 4,5 triệu lao động. Một số cơ chế chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lược phát triển: - Nhà nước hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách, vốn ODA đối với các dự án quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu, trồng dâu, nuôi tằm; quy hoạch các cụm công nghiệp dệt; xây dựng cơ sở hạ tầng đối với các cụm công nghiệp mới; đào tạo và nghiên cứu của các viện, trường và trung tâm nghiên cứu chuyên ngành dệt may... - Các dự án đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất: nguyên liệu dệt... . Được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, trong đó 50% vay với lãi suất bằng 50% mức lãi suất theo quy định hiện hành tại thời điểm rút vốn, thời gian vay 12 năm, có 3 năm ân hạn; 50% còn lại được vay theo quy định của quỹ hỗ trợ phát triển. . Được coi là lĩnh vực ưu đãi đầu tư và được hưởng các ưu đãi đầu tư theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước. - Đối với các doanh nghiệp nhà nước sản xuất nguyên liệu dệt... . Trong trường hợp cần thiết, được chính phủ bảo lãnh khi mua thiết bị trả chậm, vay thương mại của các nhà cung cấp hoặc tổ chức tài chính trong và ngoài nước; . Được cấp lại tiền sử dụng vốn trong thời gian 5 năm (2001- 2005) để tái đầu tư; . Được ưu tiên cấp bổ sung một lần đủ 30% vốn lưu động đối với từng doanh nghiệp 2. Định hướng phát triển hoạt động xuất khẩu của công ty trong thời gian tới. Trong tương lai, công ty dâu tằm tơ I sẽ được phát triển để hướng tới mô hình một “ Trung tâm sản xuất- kinh doanh- thương mại tổng hợp”. Hiện tại ban giám đốc của công ty đang tập trung xây dựng mô hình tổ chức sản xuất quản lý kinh doanh gọn nhẹ, hiệu quả cao: Tinh giản bộ máy quản lý và nâng cao trình độ đội ngũ lao động, đồng thời tiếp tục đầu tư cho xí nghiệp ươm tơ Mê Linh đạt tới trình độ công nghệ tiên tiến, hiện đại, nâng cao năng suất và sức cạnh tranh sản phẩm. Phát triển tốt mối quan hệ với các đơn vị ươm tơ trong nước để có có nguồn tơ ổn định cho hoạt đông tiêu thụ của công ty Thường xuyên nắm bắt nhu cầu của thị trường, theo sát xu hướng phát triển của thế giới và mở thêm ngành nghề kinh doanh phù hợp khác khi có thời cơ. Mũi nhọn của sản xuất kinh doanh là sản phẩm tơ cơ khí cấp A- 2A các loai, tơ ươm tự động cấp 3A- 4A các loại. Phát huy hơn nữa hiệu quả của các cơ sở ươm tơ của công ty, kí hợp đồng thu mua kén để có được nguồn nguyên liệu sản xuất ổn định. Duy trì phát triển các thị trường đã có, từng bước mở rộng thị trường,... Vì thế từ nay đến năm 2005 công ty dâu tằm tơ I cần phấn đấu đạt tổng doanh thu khoảng 16 tỷ, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 800 nghìn USD. Tổng số nộp ngân sách nhà nước phải gấp đôi năm 2003, thu nhập bình quân đầu người tăng từ 535.000đ năm 2003 lên 700.000đ vào năm 2005. Xem bảng sau để thấy rõ hơn một số chỉ tiêu chủ yếu của công ty cần phấn đấu đạt được trong thời gian tới: Bảng 7: Các chỉ tiêu chủ yếu của công ty trong thời gian tới Chỉ tiêu Đơn vị 2004 2005 I. Giá trị tổng sản lượng Tr. đ 17.000 20.000 1. Giá trị công nghiệp Tr. đ 12.000 14.000 2. Kinh doanh Tr. đ 4.500 5.400 3. Hoạt động khác Tr. đ 500 600 II. Doanh thu Tr. đ 14.000 16.000 1. Kịnh doanh tơ Tr. đ 12.500 14.000 2. Hoạt động khác Tr. đ 1.500 2.500 III. Kinh doanh XK USD 680.000 800.000 IV. Sản phẩm chủ yếu 1. Sản xuất Tơ cơ khí Tấn 10 14 Tơ tự động Tấn 22 25 Gốc rũ Tấn 4 5 2. Thu mua Tơ cơ khí Tấn 30 35 Kén tằm Tấn 110 130 Trứng tằm Kg 32.500 37.500 V. Lao động tiền lương 1. Tổng lao động bình quân/năm Người 190 200 2. Lương bình quân/người/tháng Đồng 650.000 700.000 VI. Nộp ngân sách nhà nước Tr. đ 205 220 (Nguồn: phòng kế hoạch sản xuất) II.Giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở công ty dâu tằm tơ I. 1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, mở rộng thị trường xuất khẩu. Công tác thị trường có một vai trò quan trọng trong kinh doanh, nó hướng dẫn, chỉ đạo và phối hợp các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Nhờ các hoạt động nghiên cứu thị trường các quyết định đề ra trong sản xuất kinh doanh có cơ sở hoạt động vững chắc hơn. Có thể nói công tác nghiên cứu thị trường cực kỳ quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh xuất khẩu. Để thâm nhập vào các thị trường mới cần phải có cách tiếp cận, có phương pháp và có hệ thống để thu hút khách hàng mới. Vấn đề này phải được lập kế hoạch tốt, với một cam kết đầu tư dài hạn vào các nguồn lực cần thiết (về ngân sách, đi lại, chào hàng...) nhằm đảm bảo phát triển quan hệ bền vữngvới các khách hàng mục tiêu. Như đã nói ở trên, hiện công ty dâu tằm tơ I chưa có một bộ phận chuyên trách nghiên cứu thị trường, công việc này được giao cho cán bộ phòng kinh doanh xuất nhập khẩu đảm nhận. Điều này một phần hạn chế khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường xuất khẩu của công ty. Như vậy với tầm quan trọng của công tác nghiên cứu thị trường trong hoạt động tiêu thụ nói chung, trong hoạt động xuất khẩu nói riêng. Với thực trạng của công tác nghiên cứu thị trường tại công ty dâu tằm tơ I. Vấn đề trước mắt công ty cần phải thực hiện đó là: cần thành lập thêm phòng kinh doanh tiếp thị hoặc tuyển thêm cán bộ marketing cho phòng kinh doanh xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó công ty cần chú ý đến các giải pháp cụ thể sau: Tích cực theo dõi sự phát triển của các hiệp định thương mại thế giới và điều kiện bên ngoài thị trường thế giới, đồng thời tìm hiểu về khả năng của các đối thủ cạnh tranh lớn trên thị trường thế giới nói chung, thị trường mục tiêu nói riêng... Lập ngân sách cho việc tiếp thị ở nước ngoài, bao gồm thường xuyên đi lại và khuyếch trương sản phẩm nhằm làm cho công ty có khả năng thâm nhập vào các thị trường mới. Nghiên cứu các phân đoạn thị trường mục tiêu và xác định nhu cầu tiềm năng của sản phẩm trước khi tiến hành đầu tư. Làm tốt công tác thông tin quảng cáo. Cần quan tâm hơn nữa đến phòng kinh doanh xuất nhập khẩu. Công ty phải thực sự đề cao vai trò của công tác thị trường, thông qua việc thành lập mới phòng kinh doanh tiếp thị biến nó thành một hoạt động mang tính thường xuyên và có chính sách đầu tư thích đáng cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên gia giỏi, đảm nhận việc nghiên cứu và tiếp cận thị trường. Một mặt công ty cần tìm cách mở rộng quan hệ với các thị trường mới, song mặt khác phải nên chú trọng trong việc chủ động đưa ra các giải pháp nhằm củng cố mối quan hệ với bạn hàng truyền thống bởi đó là các đối tác quen thuộc, công ty không phải tốn nhiều chi phí trong việc quảng cáo giới thiệu về mình. 2. Tiếp tục đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ sản xuất hiện đại. Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, phù hợp đó là yếu tố then chốt tạo nên sản phẩm có chất lượng cao, thực sự mang lại sức cạnh tranh mạnh mẽ cho sản phẩm của công ty trên thị trường thế giới. Nhưng bên cạnh đó công ty cần tránh hiện tượng đầu tư một cách ồ ạt. Trong việc nhập công nghệ mới công ty cần phải nắm được thông tin khoa học kỹ thuật.Bởi thông tin khoa học kỹ thuật sẽ giúp công ty đầu tư được dây truyền công nghệ thích hợp cho sản xuất. Cũng như nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác, đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ hiện đại là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng sản phẩm, song khó khăn nhất đối với công ty hiện nay là vấn đề về vốn. Do vậy việc huy động có hiệu quả nguồn vốn trong và ngoài nước là giải pháp quan trọng để tháo gỡ khó khăn này. 3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty. Cán bộ công nhân viên trong một doanh nghiệp ngoại thương phát triên phải là những người có đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời nhu cầu thị trường quốc tế, quy mô của nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của doanh nghiệp mình. Đồng thời phải nắm được chính xác mọi thông tin về sự thay đổi nhu cầu và giá cả thị trường, nguyên nhân gây nên sự thay đổi đó và báo cáo cho ban lãnh đạo công ty. Đó là con đường duy nhất giúp cho lãnh đạo của doanh nghiệp ngoại thương kịp thời xử lý một vấn đề trước khi nó vượt ra ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Để có một đội ngũ cán bộ công nhân viên như vậy mỗi nhân viên và cán bộ công ty trước tiên phải là những người giỏi chuyên môn nghiệp vụ ở vị trí hoạt động của mình trong doanh nghiệp, luôn rèn luyện thói quen theo dõi, ghi nhận, nghiên cứu và phân tích các thị trường liên quan tới sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, thị trường mục tiêu.. đồng thời phải nắm được kỹ năng sử dụng một số phương tiện phân tích thông tin và truyền thông hiện đại như máy tính, fax... để nâng cao khả năng phân tích thông tin chính xác, nhanh và kịp thời. Muốn điều này thành hiện thực công ty cần quan tâm đến một số giải pháp: Nâng cao kỹ năng quản lý của cán bộ công nhân viên ở tất cả các cấp mặc dù công tác quản lý nguồn nhân lực ở công ty tương đối tốt. Cơ cấu nhân sự tốt có thể được sử dụng để xây dựng các chương trình hỗ trợ nâng cao năng suất lao động và tiếp tục phát triển trình độ người lao động. Công ty cần tìm hiểu lý do thôi việc của người lao động và xây dựng chiến lược duy trì tỷ lệ thay thế nhân viên. Đào tạo bổ sung cung cấp kiến thức chuyên môn về kinh tế nói chung và về nghiệp vụ buôn bán ngoại thương nói riêng, nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ trong công ty, đặc biệt là cán bộ phòng kinh doanh xuất nhập khẩu để có thể giao dịch tốt hơn, tránh sự hiểu lầm do hạn chế về kiến thức ngoại ngữ gây ra, nhằm nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý công ty sao cho gọn nhẹ, linh hoạt, có trình độ cao giúp cho công ty hoạt động liên tục có hiệu quả. Công ty cần đặt ra các chỉ tiêu đánh giá hoạt động của mình theo các tiêu chuẩn lao động quốc tế đối với các cơ sở hoạt động tương tự và xây dựng chiến lược nâng cao năng suất lao động. Nên mở rộng chương trình đào tạo để nâng cao tay nghề cho công nhân, có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với người lao động. 4. Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. - Vấn đề về chất lượng sản phẩm. Nói đến chất lượng người ta nghĩ ngay đến chất lượng sản phẩm cuối cùng, còn đi sâu tìm hiểu chất lượng là một phạm trù rộng lớn. Chất lượng liên quan đến cả quá trình từ khâu đầu tiên cho đến khâu cuối cùng. Chất lượng ở đây như một mục tiêu áp đặt từ trên xuống, từ ngoài vào mà bất kỳ người nào tham gia vào quá trình đều phải thực hiện, nó được tạo ra từ sự tự giác, tinh thần trách nhiệm của mọi người tham gia vào quá trình này. Mặc dù đã có sự nhận thức đầy đủ về chất lượng nhưng công tác quản trị chất lượng của công ty vẫn bị hạn chế. Bởi một thực tế rằng, tham gia vào quá trình này không chỉ có cán bộ công nhân viên trong công ty mà còn có cả các đơn vị, cá nhân ngoài công ty, công ty chỉ có thể làm tốt hơn công đoạn mà mình phụ trách. Nếu như phân quá trình này thành 2 giai đoạn: giai đoạn từ trồng trọt chăn nuôi đến tạo ra kén và giai đoạn từ khi có kén đến tạo ra tơ thành phẩm thì giai đoạn sau có ý nghĩa quyết định còn giai đoạn đầu có ý nghĩa quan trọng đối với chất lượng tơ được sản xuất. Chính vì vậy, công tác quản trị chất lượng của công ty cần phải coi trọng cả hai giai đoạn này. Công ty cần quán triệt quan điểm: Đảm bảo chất lượng là trách nhiệm của mọi người, mọi bộ phận trong công ty từ giám đốc đến cán bộ quản lý và công nhân. Quản trị chất lượng phải đảm bảo và nâng cao chất lượng phải phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Đổi mới và tăng cường các hoạt động cải tiến chất lượng trong phạm vi toàn công ty. Sự phát triển chất lượng phải bền vững, đạt hiệu quả cao và thường xuyên cải tiến thông qua việc đổi mới công tác quản lý chất lượng và áp dụng hệ thống chất lượng thích hợp, hình thành một phong trào chất lượng có hiệu quả cao trong đó con người giữ vai trò động lực. -Vấn đề về giá cả sản phẩm. Công ty nên lựa chọn phương thức cạnh tranh bằng giá cả dựa trên việc thực hiện chiến lược nhấn mạnh chi phí. Để tạo ra giá thành sản phẩm hấp dẫn công ty cần phải tạo được một bước chuyển biến tích cực trong quản lý chế biến tơ như: khâu quản lý thu mua, quản lý tiêu hao, quản lý chi phí công nghiệp, quản lý chất lượng sản phẩm.. Bên cạnh đó công ty cần xây dựng một chính sách giá cả chặt chẽ để việc cạnh tranh bằng giá không làm giảm nhiều lợi nhuận của công ty. Ngoài việc căn cứ vào chi phí để xây dựng giá, công ty phải tìm được đối thủ đang chi phối giá trên thị trường và những thông tin thường xuyên về mức giá bình quân của sản phẩm cùng loại, kết hợp với việc tìm hiểu sự hình dung về giá của hãng tiêu dùng (mức giá nào là đắt, rẻ, phải chăng) để từ đó công ty xác định được mức giá hợp lý, tránh được phản ứng tiêu cực từ phía đối thủ cạnh tranh. Việc xây dựng chính sách giá thấp hoặc giá phải chăng sẽ khiến công ty không có được lợi nhuận cao, hoặc phải chịu lỗ trong thời gian đầu để tăng thị phần. Thị phần cao có thể tạo ra tính kinh tế trong qua trình mua nguyên liệu, hàng hoá làm giảm chi phí. Vị trí chi phí thấp một khi đã đạt được sẽ cho phép làm tăng tỷ lệ lợi nhuận và như vậy có thể tái đầu tư vào những máy móc thiết bị mới, vùng nguyên liệu...có khả năng duy trì lợi thế về chi phí. Như vậy sau một chu trình sản xuất từ đầu vào tới đầu ra, giá cả thấp lại duy trì lợi thế cạnh tranh của công ty. Tất nhiên giá cả là quay xung quanh giá trị, nên tới khi chất lượng sản phẩm cao hơn, giá cả sản phẩm cũng cần phải thay đổi phù hợp, cũng để tránh tâm lý nghi ngờ của khách hàng về chất lượng sản phẩm của công ty. -Đảm bảo cung cấp đầy đủ nguyên liệu, hàng hoá cho sản xuất và tiêu thụ. Nguyên liệu, hàng hoá đầu vào của công ty ổn định, chất lượng đảm bảo bao nhiêu thì sản phẩm của công ty được sản xuất và tiêu thụ có chất lượng cao, ổn định bấy nhiêu. Do đó kết quả tìm nguồn nguyên liệu hàng hoá đầu vào ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm tiêu thụ của công ty. Hịên nguyên liệu đầu vào tốt và hàng hoá thu mua đảm bảo chất lượng cho sản xuất và xuất khẩu của công ty còn rất hạn chế, nên cũng như các công ty khác cùng ngành trong nước công ty luôn kỳ vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn với ngành ươm tơ dệt lụa Việt Nam. Vì hiện trạng bế tắc trong khả năng liên kết, hợp tác sản xuất giữa nông nghiệp trồng dâu nuôi tằm và công nghiệp ươm tơ dệt lụa đã đem lại quá nhiều bất lợi cho cả hai. Vì vậy trước mắt khi chưa có sự quan tâm đúng mức từ phía các cơ quan chức năng, công ty cần chủ động thiết lập mối quan hệ gắn kết giữa các cơ sở sản xuất và vùng nguyên liệu để chủ động về nguyên liệu cho sản xuất kinh doanh bằng cách ký các hợp đồng dịch vụ và tiêu thụ sản phẩm trong thời gian dài. Cần khuyến khích người dân nuôi tằm tập trung ở xung quanh các cơ sở ươm tơ để dễ dàng hơn trong việc vận chuyển, bảo quản kén đảm bảo chất lượng kén trong khi ươm. Cán bộ kỹ thuật của công ty cần tính toán cụ thể đảm bảo sự cân đối giữa các khâu trong nội bộ ngành tằm dâu quanh khu vực sản xuất của công tylà trồng dâu, nuôi tằm và ươm tơ. Có như vậy mới đảm bảo lợi ích cho cả bà con và công ty. Trên cơ sở: dựa vào số lượng kén nguyên liệu công ty định thu mua để có kế hoạch cụ thể về lượng trứng giống công ty định cung cấp đồng thời dựa vào diện tích trồng dâu và thời vụ dâu trong vùng để hướng dẫn bà con: Diện tích trồng dâu phải ăn khớp khả năng hom giống, phân bón, nhân lực ... trồng phải đúng kỹ thuật, đúng thời vụ. Nuôi tằm phải ăn khớp với diện tích trồng dâu. Trứng giống phải ăn khớp với thời vụ dâu. Có dâu mà không có giống thì lãng phí dâu, ngược lại thì lãng phí giống. Tuổi tằm phải phát triển thích hợp với lứa dâu, tằm còn nhỏ, ăn ít mà nhiều dâu thì lãng phí; ngược lại khi tằm lớn, ăn rỗi mà thiếu dâu thì sẽ gây thiệt hại, có khi phải đổ tằm đi. Nuôi tằm phải ăn khớp với khả năng nhà cửa, với việc chuẩn bị phương tiện như nong, đũi, né... với trình độ kinh nghiệm, kỹ thuật chăn nuôi. Ngoài ra, còn phải ăn khớp với các cơ sở ươm tơ nếu không khi tằm chín rộ không ươm kịp cũng sẽ gây thiệu hại. Chất lượng kén phải phù hợp với yêu cầu của công nghiệp ươm tơ nếu không sẽ giảm giá trị rất nhiều. Như vậy, công ty cần tính đến một sự phát triển vững chắc, có tính toán cụ thể đồng thời hướng dẫn bà con trong kỹ thuật trồng đâu nuôi tằm không để xảy ra dâu xấu tằm bị hỏng xảy ra thiệt hại sẽ làm cho hiệu quả kinh tế của nghề tằm dâu giảm sút, làm cho người nuôi trồng kém tin tưởng ảnh hưởng đến cả đời sống kinh tế của người nuôi trồng và sự tồn tại lớn mạnh của các cơ sở sản xuất của công ty nói riêng, của công ty dâu tằm tơ I nói chung. Bên cạnh đó khi có khả năng và điều kiện thích hợp công ty cần tiến tới tạo ra các vùng nguyên liệu của riêng mình để có thể chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh. Nói chung, trước mắt công ty cần làm tốt hơn các dịch vụ sản xuất và thu mua: Dịch vụ khép kín từ sản xuất dâu, tằm đến cơ sở ươm tơ cơ khí quy mô vừa và nhỏ tại các vùng nguyên liệu ở địa phương có hợp đồng với công ty để sản xuất tơ cơ khí đạt tiêu chuẩn để thu mua xuất khẩu. Liên kết sản xuất chế biến tơ với các nhà máy của các tỉnh để sản xuất và tiêu thụ tơ, công ty cho các nhà máy vay vốn để mua kén tại vùng nguyên liệu của công ty và tiêu thụ tơ theo giá thoả thuận. - Về vấn đề hình ảnh uy tín sản phẩm. Hiện sản phẩm của công ty chưa có một nhãn hiệu riêng, trên thị trường nó chỉ được biết đến là sản xuất tại Việt Nam. Trong thực tiễn, nhãn hiệu hàng hoá là một công cụ cạnh tranh đảm bảo lợi thế trên thị trường nước ngoài. Việc gắn tên nhãn vào sản phẩm không chỉ đơn thuần để xác nhận sản phẩm của công ty và phân bịêt với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, mà còn để đảm bảo một và duy trì một danh tiếng. Để thâm nhập vào thị trường nước ngoài, nhất là thị trường các nước công nghiệp phát triển, việc tạo uy tín qua nhãn hiệu hàng hóa sẽ gặp phải những khó khăn nhất định và công ty dâu tằm tơ I cần phải khắc phục những khó khăn đó trong phạm vi có thể. + Kỹ thuật: hàng hoá đăng ký nhãn hiệu phải đảm bảo chất lượng ổn định, công ty không nên để tính chất lao động thủ công ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm. + Tài chính: chi phí cho các công tác quảng cáo, xúc tiến... là rất cao do đó công ty cần sử dụng và kết hợp chỉ tiêu một cách hợp lý và có hiệu quả. + Cung cấp: sản phẩm đã có nhãn hiệu phải đảm bảo lúc nào cũng cung cấp đủ nhu cầu của thị trường một thời gian vì một lý do nào đó sẽ bị lu mờ và bị sản phẩm khác thế chỗ. Vị trí của những người đến sau thường thấp và không có được thị phần lớn. Nhưng khi đã có đủ điều kiện, công ty cần mạnh dạn gắn nhãn mác riêng của mình lên sản phẩm, bước đầu có thể khó khăn do chưa được người mua tin tưởng, song không có bước đầu đó công ty sẽ không bao giờ đến được với khách hàng bằng chính tên tuổi của mình. 5. Hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý và tổ chức xây dựng chiến lược kinh doanh phát triển thị trường. Để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu, công ty cần hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý của mình. Trong thời gian tới công ty cần quan tâm đến một số vấn đề sau: - Cần phân công hợp lý đúng người, đúng việc với khả năng chuyên môn. - Cần phân bổ chức năng, nhiệm vụ cho các phòng ban một cách hợp lý hơn tránh chồng chéo làm giảm hiệu quả hoạt động. - Cần thực hiện triệt để cơ chế khoán quản để các phòng ban có mục tiêu phấn đấu rõ ràng. Đồng thời có cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của từng thành viên qua đó có chế độ thưởng phạt đảm bảo công bằng bình đẳng giữa các bộ phận cá nhân, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ công nhân viên trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện hiện nay, việc tổ chức hoạch định và triển khai một chiến lược phát triển thị trường là cách làm hữu hiệu để công ty có thể chiếm lĩnh thị trường nội địa và thâm nhập sâu hơn vào thị trường quốc tế. Để có thể thực hiện thành công chiến lược phát triển thị trường, những điểm mà công ty nên quan tâm trong quá trình hoạch định chiến lược và triển khai thực hiện là: + Xác định mục tiêu dài hạn, ngắn hạn và mục tiêu phải mang tính thực tiễn xét đến năng lực tổng thể và tiêu chuẩn chất lượng hiện tại của công ty có phù hợp với mục tiêu chung của toàn ngành. + Kế hoạch đề ra phải trên cơ sở nghiên cứu và hiểu biết về các nhân tố bên ngoài chứ không chỉ bó buộc trong khuôn khổ của toàn ngành. +Kế hoạch đề ra phải dựa vào nhu cầu thị trường không mang nặng tính đầu tư sản xuất. + Công ty cần nghiên cứu và lập trình tự kế hoạch thực hiện các mục tiêu, biện pháp thực hiện một cách hợp lý và khoa học. Mặt khác công ty cũng cần xây dựng các chiến lược dự phòng bởi môi trường kinh doanh luôn thay đổi và dù công ty có khả năng dự báo tốt đến đâu cũng không thể chắc chắn rằng chiến lược hiện tại của mình là hoàn hảo và đã tính toán hết được những xu hướng biến đổi của môi trường. + Công ty cần lựa chọn đội ngũ cán bộ có chuyên môn giỏi, có kinh nghiệm và tinh thần trách nhiệm cao ở các phòng ban để tham gia vào quá trình hoạch định và xây dựng chiến lược phát triển thị trường của mình. Thêm vào đó công ty cần tham khảo ý kiến của Tổng công ty dâu tằm tơ Việt Nam, ý kiến của các chuyên gia và nghiên cứu kinh nghiệm của các doanh nghiệp cùng ngành đã thực hiện chiến lược phát triển thị trường từ trước. + Công ty cần đầu tư thích đáng vào công tác hoạch định cũng như cung cấp kinh phí hoạt động cho kế hoạch triển khai và các biện pháp thực hiện để có thể thu được kết quả tốt nhất. Nguồn kinh phí tập trung cho công tác triển khai và tổ chức thực hiện, công ty có thể đề nghị cơ quan chủ quản tạo điều kiện giúp đỡ, cho phép được huy động vốn trong nội bộ doanh nghiệp hoặc kêu gọi đầu tư từ bên ngoài. + Ban lãnh đạo công ty cần thường xuyên theo dõi, kiểm tr, đôn đốc quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược. Kịp thời phát hiện và có biện pháp khắc phục những yếu kém, tồn tại để các kế hoạch thực hiện diễn ra theo đúng tiến trình đã vạch sẵn. Đồng thời có các biện pháp khen thưởng và kỷ luật kịp thời để nâng cao hiệu quả hoạt động và tinh thần trách nhiệm của cán bộ thực hiện. 6. Hoàn thiện nghiệp vụ xuất khẩu. Về thủ tục hải quan: thủ tục hải quan rất phức tạp và mất nhiều thời gian, do đó công ty nên cử ra cán bộ lo thủ tục hải quan, bên cạnh đó thường xuyên cử họ đi học để tiếp nhận một cách nhanh chóng các chính sách về hải quan và thủ tục hải quan. Kiểm tra L/C: thanh toán trong xuất khẩu là khâu cuối cùng rất quan trọng, là thành quả sau cả một quá trình khó khăn vất vả đưa hàng đến với nhà tiêu dùng. Do đó, công ty phải cử người có trình độ thông thạo nghiệp vụ để kiểm tra L/C, nếu không phù hợp phải đưa được ra biện pháp sử lý kịp thời, tránh những sai sót đáng tiếc mà xảy ra tranh chấp sau này. Thủ tục thanh toán: trong xuất khẩu hàng tơ lụa, côgn ty luôn phải thực hiện tốt nghiệp vụ thanh toán quốc tế với nhiều phương thức khác, đối với mỗi hợp đồng cần lựa chọn phương thức nào thích hợp nhất để hai bên cùng có lợi. Thanh toán với nguồn hàng nên tạo điều kiện đúng hạn, thậm chí nếu cơ sở gặp khó khăn về tài chính có thể ứng vốn trước, thủ tục thanh toán đơn giản sẽ giúp công ty tạo uy tín với bạn hàng trong nước, giữ được nguồn hàng khi khan hiếm. Trong thanh toán với khách hàng nhập khẩu, công ty nên chọn phương thức bảo đảm an toàn nhất, cần thảo luận kỹ với bạn hàng khi ký hợp đồng ngoại thương. Tốt nhất nên thanh toán bằng L/C không huỷ ngang có xác nhận bảo lãnh của ngân hàng. Không nên chiều theo ý của người mua mà chấp nhận các phương thức thanh toán chậm D/A, D/P... mà không đảm bảo chắc chắn việc người nhập khẩu trả tiền hay không, hoặc bị trả chậm hơn thời gian quy định. Cuối cùng, để có thể thực hiện thành công các yêu cầu trên ngoài sự quyết tâm của ban lãnh đạo công ty còn cần có sự đoàn kết, trên dưới một lòng của tập thể cán bộ công nhân viên. Đó sẽ là động lực tốt nhất giúp công ty vượt qua được những bước khó khăn khắc nghiệt của môi trường cạnh tranh, thực hiện thắng lợi chiến lược mở rộng và phát triển thị trường, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong mục tiêu phát triển toàn ngành nói chung và của doanh nghiệp nói riêng trong tương lai. III. Một số kiến nghị với nhà nước. Là một ngành nghề tổng hợp mang lại hiệu qủa kinh tế lớn, ngành tơ tằm Việt Nam đã và sẽ góp phần không nhỏ vào quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, ngành tơ tằm Việt Nam hiện còn quá nhỏ so với tiềm năng của nó và so với ngành tơ lụa của một số nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc, ấn Độ... Chính bởi một phần do thiếu sự quan tâm đúng mức của nhà nước. Vì vậy trong thời gian tới, để thực hiện được phương hướng phát triển ngành đã đề ra, đưa ngành tơ tằm lên ngang tầm với tiềm năng phát triển của nó, coi đó là một trong những ngành sản xuất quan trọng để phát triển nông nghiệp toàn diện và xây dựng thành một nguồn nguyên liệu dân tộc vững mạnh, một ngành hàng xuất khẩu chủ lực thu nhiều ngoại tệ. Nhà nước cần có chính sách đầu tư thích hợp: Phát triển trồng dâu nuôi tằm có chức năng tạo nguyên liệu cho ươm tơ dệt lụa. +Cần quy vùng trồng dâu, nuôi tằm tập trung: quy vùng sản xuất dựa trên cơ sở những vùng có điều kiện thuận lợi về đất đai, nhân lực, có tập quán và kinh nghiệm trồng dâu nuôi tằm. Bản thân các địa phương có phát triển dâu tằm sớm xây dựng quy chế khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào sản xuất kinh doanh dâu tằm tơ, lụa theo nguyên tắc chung là các cơ sở chế biến phải bảo đảm vùng nguyên liệu cân đối với công suất chế biến và nằm trong quy hoạch chung của từng địa phương. Đồng thời, phát triển trồng dâu nuôi tằm phải đảm bảo cân đối với các mặt sản xuất khác, nhất là đối với sản xuất lương thực, không lấn diện tích và kế hoạch nhân lực trồng cây lương thực cũng như các cây công nghiệp khác. Ngược lại, có tác dụng hỗ trợ cho sản xuất lương thực và các mặt sản xuất chăn nuôi khác. Nhìn chung nhà nước cần có chính sách cụ thể quy vùng phát triển trồng dâu nuôi tằm hiệu quả, tạo nguyên liệu quý cho công nghiệp ươm tơ dệt lụa và xuất khẩu. + Nhà nước đẩy mạnh hơn nữa các hình thức đầu tư, liên doanh liên kết của nước ngoài vào công nghiệp ươm tơ. Có những chính sách ưu đãi, chinh sách đầu tư hợp lý để nhà đầu tư coi đây là một lĩnh vực, một thị trường ổn định và đầy tiềm năng giúp họ yên tâm khi đầu tư vào Việt Nam. Vốn ngân sách chỉ đẩu tư cho sản xuất trứng giống tằm, công tác khuyến nông, một phần hạ tầng nông thôn ở vùng cao, vùng sâu và một phần trồng dâu ở vùng cao theo chương trình trồng 5 triệu hecta rừng.. Nhà nước và Ngân hàng tạo điều kiện duyệt các dự án nhỏ cho hộ nông dân được vay vốn theo chương trình xoá đói giảm nghèo, vốn, tạo việc làm... để trồng dâu; hỗ trợ xây nhà nuôi tằm. Mặt khác cho ngành huy động thêm vốn từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhằm đầu tư đổi mới công nghiệp chế biến khi vùng nguyên liệu mở rộng. Bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực: Hiện nay chúng ta đã cơ giới hoá ngành ươm tơ, trong tương lai sẽ tiến lên tự động hóa. Nhưng muốn tiến lên tự động hoá chúng ta phải có thời gian để xây dựng và chuẩn bị lực lượng kỹ thuật, nhất là phải đưa kỹ thuật nuôi tằm lên trình độ cao hơn mới có thể cung cấp được kén tốt, phù hợp với yêu cầu của công nghiệp ươm tơ. Về ươm tơ, theo yêu cầu phát triển công nghiệp ươm tơ, ươm tơ đã tách khỏi nông nghiệp và đi vào cơ giới hoá, tự động hoá và trở thành một ngành công nghiệp. Vì vậy, ươm tơ đòi hỏi phải được tổ chức theo yêu cầu của sản xuất công nghiệp, thợ ươm tơ phải có trình độ lành nghề mới đảm bảo được yêu cầu về chất lượng tơ xuất khẩu và mới có điều kiện tăng năng suất, hạ giá thành. Rõ ràng vai trò của con người là vô cùng quan trọng trong quá trình sản xuất tơ. Để hàng hoá sản xuất ra đáp ứng tốt yêu cầu của người tiêu dùng, ngoài việc trang bị máy móc thiết bị phải có những cán bộ, công nhân kỹ thuật giỏi. Hiện nay, trong ngành dâu tằm tơ của ta tồn tại một thực tê là thiếu những cán bộ công nhân kỹ thuật giỏi, chính bởi những cơ sở đào tạo đội ngũ nhân công này chỉ “đếm trên đầu ngón tay”. Thật vậy, hiện VISERI có phối hợp với Đại học nông nghiệp I- Hà Nội và Đại học nông lâm thành phố Hồ Chí Minh mở bộ môn dâu tằm nhằm đào tạo kỹ sư trồng dâu nuôi tằm, phòng trừ dịch bệnh, sản xuất trứng giống; thời gian học 4 năm với số lượng 100 sinh viên/năm. Thêm vào đó VISERI có trường trung học dạy nghề tại Bảo Lộc, đào tạo kỹ thuật viên trung cấp về dâu, tằm, tơ; thời gian học 3 năm, quy mộ 500 học sinh/năm. Tổng cộng con số 600 học sinh, sinh viên được đào tạo mỗi năm là một con số quá ít ỏi so với yêu cầu phát triền của công nghiệp ươm tơ. Do đó muốn phát triền ngành dâu tằm tơ trong tương lai nhà nước cần phải tăng cường mở thêm các cơ sở đào tạo nhằm đáp ứng một cách tốt nhất nguồn nhân lực cho sự phát triền lớn mạnh của ngành trong tương lai. Nhà nước cần có chính sách về giá, thuế quan phù hợp tạo điều kiện cho nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa trong nước phát triển. Tăng cường các cơ sở nghiên cứu tạo ra những giống dâu, giống tằm phù hợp với điều kiện nước ta cho năng suất, chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu chế biến công nghiệp. Ngoài ra, phải xác định rằng để tạo điều kiện thuận lợi cho ngành dâu tằm tơ Việt Nam phát triển một cách vững chắc và mang lại hiệu quả kinh tê cao cho nền kinh tế thì về lâu, về dài phải đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ ngoài nước, đặc biệt là các sản phẩm may mặc từ chất liệu tơ tằm. Muốn vậy, các cơ quan chức năng và ngành dâu tằm tơ phải tổ chức làm tốt công tác nghiên cứu, tiếp cận thị trường, phân tích và dự báo xu hướng của thị trường- giá cả các sản phẩm tơ tằm của các nước trong khu vực và trên thế giới, từng bước hội nhập và phát triển trong xu thế chung của nền kinh tế đất nước. Kết luận Chiến lược công nghiệp hoá hướng mạnh vào xuất khẩu là một chiến lược đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, tạo điều kiện cho nềnkinh tế phát triển và đuổi kịp thời đại. Trong đó, xuất khẩu là một mũi nhọn là bước đi tiên phong, khai thác triệt để lợi thế của đất nước. Đồng thời hướng ra thị trường nước ngoài, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh, vừa xuất phát từ yêu cầu phát triển nội tại của nước ta, vừa có thể nhận được sự “ hưởng ứng và ủng hộ” của các nước phát triển trong khuôn khổ không ảnh hưởng tới sự phát triển của các nghành nghề kinh tế ở các nước này. Căn cứ vào tiềm năng, điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội, dân số, truyền thống dân tộc Việt Nam... Nông nghiệp từ xưa tới nay là một thế mạnh vốn có của ta và cho đến nay nhiêu lĩnh vực nông nghiệp ta đã khai thác hết tiềm năng. Đất nước ta còn nghèo vì vậy phải đi lên từ những gì mình sẵn có. Tuy vậy, trong thời đại công nghiệp, ta cần phải biết kết hợp phát triển nông nghiệp và công nghiệp, để tránh bị loại ra khỏi nền kinh tế toàn cầu đồng thời góp phần thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Có thể nói dâu tằm tơ là một trong những ngành đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu trên, một ngành còn nhiều tiềm năng cần được khai thác triệt để. Với những đặc điểm kinh tế kỹ thuật riêng có ngành dâu tằm tơ được đánh giá là có nhiều ưu điểm để sản xuất và xuất khẩu, rất phù hợp với điều kiện sẵn có của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, trong bối cảnh chung tình hình thế giới hiện nay, bên cạnh những thuận lợi nhất định, việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng tơ lụa cũng gặp phải nhiều khó khăn thách thức cả trong và ngoài nước. Chẳng hạn như trình độ sản xuất thấp kém nên hàng hoá khó đáp ứng được nhu cầu của thị trường quốc tế, khả năng trình độ tiếp thị quốc tế kém cỏi, thiếu kỹ năng và kinh nghiệm trong hoạt động TMQT, sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước cùng sản xuất một mặt hàng trên thị trường... Do đó, để có thể đẩy mạnh xuất khẩu hàng tơ lụa ở công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội, không chỉ sự nỗ lực cố gắng của công ty trong việc tìm hướng đi, biện pháp phù hợp mà còn cần phải có sự tác động tích cực của các cơ quan quản lý Nhà nước. Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng tơ lụa ngày càng phát triển, tăng nhanh kim ngạch và ngoại tệ cho đất nước, củng cố uy tín và vị thế của công ty không chỉ thị trường trong nước mà trên toàn thế giới. Tài liệu tham khảo Giáo trình: Thương mại quốc tế (PGS.PTS Nguyễn Duy Bột- NXB thống kê, Hà Nội- 1997). Giáo trình: Marketing thương mại quốc tế (PGS.PTS Nguyễn Duy Bột- Hà Nội- 1997). Giáo trình: Quản trị kinh doanh thương mại quốc tế (PGS.PTS Trần Chí Thành- NXB Giáo Dục). Giáo trình: Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương (Vũ Hữu Tửu- NXB Giáo Dục- 2002). Luật thương mại (NXB chính trị quốc gia, Hà Nội- 1997). Tạp chí Thị trường - giá cả. số 11-2000: Dâu tơ tằm Việt Nam thực trạng và giải pháp. Báo cáo tổng kết hàng năm của công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội và một số tài liệu khác. Trang Web:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTM008.Doc
Tài liệu liên quan