Một số kiến thức và thực hành của bà mẹ về dinh dưỡng và chăm sóc trẻ sơ sinh

MỤC LỤC Đặt vấn đề1 Chương 1 : Tổng quan4 1.1. Nội dung của công tác CSSK thai sản và trẻ sơ sinh:4 1.2. Công tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ mang thai- trẻ sơ sinh ở Việt Nam hiện nay6 1.3. Một số giải pháp và mục tiêu đến năm 2010 :9 1.4. Khái quát về bối cảnh địa lý, kinh tế, văn hoá - xã hội và hệ thống y tế của 3 xã nghiên cứu10 Chương 2. Đối tượng - phương pháp nghiên cứu12 2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu:12 2.2. Đối tượng nghiên cứu:12 2.3. Phương pháp nghiên cứu12 Chương 3. Kết quả nghiên cứu14 3.1. Kiến thức –thực hành chăm sóc thai sản : trước, trong và sau sinh.14 3.2. Kiến thức của các bà mẹ về các dấu hiệu nguy hiểm cần phải đi khám21 3.3. Một số kiến thức và thực hành của bà mẹ về dinh dưỡng và chăm sóc trẻ sơ sinh:23 3.4. Thăm dò một số yếu tố tác động và nguyên nhân ảnh hưởng đến kiến thức, thực hành CSSK của các bà mẹ27 Chương 4. Bàn luận32 4.1. Kiến thức và thực hành cssk trước, trong, sau sinh của các bà mẹ tại 3 xã Hợp Thành, Phủ Lý, Ôn Lương :32 4.2. Kiến thức của các bà mẹ về những dấu hiệu nguy hiểm cần phải đi khám .38 4.3. Kiến thức và thực hành chăm sóc trẻ sơ sinh:40 4.4. Những yếu tố và nguyên nhân ảnh hưởng đến kiến thức , thực hành của các bà mẹ43 Kết luận46 Kiến nghị48

doc58 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2669 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số kiến thức và thực hành của bà mẹ về dinh dưỡng và chăm sóc trẻ sơ sinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm gần đây, sức khoẻ sinh sản (SKSS) đã trở thành một trong các lĩnh vực quan trọng được Đảng, Nhà nước và nhiều tổ chức quan tâm. Điều này không chỉ bởi SKSS có liên quan trên phạm vi dân số khá lớn mà còn do tác động của nó tới suốt cuộc đời mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội Chương trình SKSS của Liên hiệp quốc họp tại Cairo- Ai Cập năm 1994 trong đố Việt Nam có tham dự đã xác định SKSS bao gồm mười nội dung cơ bản trong đó CSSK bà mẹ trước, trong, sau khi sinh và trẻ sơ sinh là nội dung quan trọng bậc nhất [9]. Với những cố gắng, nỗ lực trong nhiều năm qua, ngành y tế Việt Nam đã thu được những thành tựu đáng kể trong công tác chăm sóc SKSS. Tuy nhiên Báo cáo chiến lược quốc gia về chăm sóc SKSS tại hội nghị quốc gia về dân số và phát triển bền vững cho thấy tỷ lệ các bà mẹ được khám thai và khi đẻ được cán bộ chuyên môn giúp còn thấp, việc chăm sóc sau sinh, việc hướng dẫn cho bú và cách nuôi con chưa được chú ý làm tốt. Nguyên nhân là do sự yếu kém của hệ thống cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em (CSSKBMTE) và sự thiếu hiểu biết của người dân trong cộng đồng, đặc biệt là ở một số vùng khó khăn. Do đó, tỷ lệ tử vong mẹ do những nguyên nhân liên quan tới quá trình sinh đẻ, mà chủ yếu là các tai biến sản khoa, cũng như tỷ lệ tử vong chu sinh còn cao, năm 2003 tỷ lệ tử vong mẹ là 85 trên 100.000 trẻ đẻ sống, tỷ lệ tử vong chu sinh là 21‰ [4]. Giáo dục sức khoẻ (GDSK) nâng cao nhận thức của người dân cũng như củng cố hệ thống y tế được coi là những giải pháp hữu hiệu để cải thiện tình trạng trên đây. Phủ Lý, Hợp Thành, Ôn Lương là ba xã nghèo ở phía Bắc huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Đây là địa bàn sơ tán của Trường Đại học Y Hà Nội trong những năm chiến tranh, và hiện nay là địa bàn của sinh viên Trường Đại học Y Hà Nội thực hành về y tế cộng đồng. Thực hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn, trong những năm vừa qua, Trường đã phối hợp với tổ chức Thầy thuốc thế giới hỗ trợ một dự án Chăm sóc sức khoẻ ban đầu trong đó hoạt động trọng tâm là hỗ trợ cải thiện vệ sinh môi trường và bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên theo đánh giá cuối dự án và báo cáo năm 2002 của trung tâm y tế huyện, tình hình sức khỏe sinh sản cho phụ nữ các dân tộc thiểu số tại đây hiện là một trong các vấn đề nổi cộm: chỉ có 75% phụ nữ có thai đi khám thai 3 lần, số ca đẻ tại nhà chiếm đến 33%, ở một số xóm xa xôi, tỷ lệ đẻ tại nhà có thể đạt tới mức 50%. Các hoạt động y tế trong lĩnh vực này còn gặp nhiều khó khăn đặc biệt là việc chăm sóc thai nghén, sinh đẻ và sau sinh do điều kiện địa lý của vùng miền núi, địa hình không thuận tiện cho đi lại và tiếp cận các dịch vụ y tế. Việc chăm sóc sức khỏe (CSSK) khi thai nghén, sinh đẻ và sau sinh phần lớn được thực hiện tại nhà theo phong tục và kinh nghiệm địa phương [11]. Một trong những hoạt động Nhà Trường dự định hỗ trợ tiếp cho địa phương trong thời gian tới là đào tạo một số kiến thức và kỹ năng GDSK sinh sản cho các cán bộ y tế thôn bản và qua họ kết hợp tiến hành các GDSK sinh sản cho các nhóm phụ nữ dân tộc thiểu số tại đây. Để có một chương trình đào tạo và GDSK sinh sản phù hợp, hiệu quả và theo hướng hợp tác cộng đồng phải dựa trên thực tiễn của cộng đồng. Do đó, một nghiên cứu về kiến thức chăm sóc SKSS, đặc biệt chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trong thời kỳ mang thai, trong cuộc đẻ, sau đẻ và chăm sóc trẻ sơ sinh được tiến hành, mà trong đề tài này tập trung ở nhóm các bà mẹ có con dưới 1 tuổi, qua đó giúp cung cấp các thông tin cần thiết cho việc xây dựng một chương trình can thiệp phù hợp và hiệu quả trên nhóm đối tượng này. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU : *Mô tả thực trạng một số kiến thức, thực hành về chăm sóc sức khoẻ mẹ trước, trong, sau sinh và chăm sóc trẻ sơ sinh của bà mẹ có con dưới 1 tuổi tại 3 xã Phủ Lý, Hợp Thành, Ôn Lương, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, năm 2003. *Phân tích một số ưu điểm và tồn tại trong nhận thức và thực hành của các đối tượng về những nội dung nêu trên và đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm cải thiện tình hình sức khoẻ bà mẹ và trẻ em tại 3 xã trên đây. Chương 1 TỔNG QUAN 1.1. NỘI DUNG CỦA CÔNG TÁC CSSK THAI SẢN VÀ TRẺ SƠ SINH: 1.1.1. Một số nội dung CSSK thai sản: Thai nghén với người phụ nữ là một hiện tượng sinh lý mang nhiều tính chất đặc biệt rất dễ chuyển thành bệnh lý vì thế chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trong quá trình thai nghén là một công việc quan trọng. Qúa trình này, theo quy định của Hướng dẫn chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản [3], gồm 3 thời kỳ : 1.1.1.1. Trước sinh : thời kỳ trước sinh được tính từ khi bắt đầu có thai đến trước khi có dấu hiệu chuyển dạ, trung bình kéo dài 38-40 tuần. Thời kỳ này, về chăm sóc y tế, bà mẹ cần được khám thai ít nhất 3 lần vào 3 quí của thai kỳ, được tiêm vắc xin phòng uốn ván, uống bổ sung viên sắt phòng thiếu máu. Việc khám và quản lý thai nghén là rất cần thiết để phát hiện kịp thời các nguy cơ như thể trạng mẹ không đảm bảo, các bệnh lý của người mẹ có sẵn cũng như mới xuất hiện do thai nghén lần này như thiếu máu, nhiễm độc thai nghén. Về nội dung uống bổ sung viên sắt phòng thiếu máu: - Bà mẹ mang thai cần uống 1 viên/ ngày trong suốt thời gian có thai đến hết 6 tuần sau đẻ. Tối thiểu phải uống ít nhất trước đẻ 90 ngày. - Việc cung cấp viên sắt cần được thực hiện ngay từ lần khám thai đầu. Để phòng uốn ván cho bà mẹ và trẻ sơ sinh, có 2 nội dung phải làm : - Tiêm vắc xin phòng uốn ván: mũi thứ nhất từ tháng thứ tư trở đi, mũi thứ hai cách mũi đầu ít nhất 1 tháng và chậm nhất là trước khi đẻ 1 tháng. - Làm rốn vô khuẩn. Ngoài những lần khám thai theo quy định, các bà mẹ mang thai cần đi khám ngay khi có những dấu hiệu bất thường như đau đầu dữ dội; nhìn mờ; rối loạn thị lực; phù mặt, tay chân; co giật; thai cử động không bình thường; ra máu âm đạo; sốt cao; đau bụng...[6] Về chề độ lao động, sinh hoạt, dinh dưỡng, bà mẹ cần được: Ăn tăng cả về lượng và chất. Làm việc theo khả năng, xen kẽ nghỉ ngơi, tránh làm việc nặng, nghỉ ngơi hoàn toàn trong tháng cuối. 1.1.1.2. Thời kỳ chuyển dạ: Chuyển dạ đẻ là quá trình từ khi có dấu hiệu chuyển dạ như ra nhầy hồng, đau bụng, ra nước ối đến khi thai và rau thai được đưa ra khỏi đường sinh dục của người mẹ. Một cuộc chuyển dạ đẻ kéo dài trung bình 12 giờ. Cuộc đẻ cần được thực hiện ở cơ sở y tế có nhân viên y tế có chuyên môn ( bác sỹ, y sỹ sản nhi, nữ hộ sinh ), đảm bảo đỡ đẻ sạch, an toàn. Có rất nhiều nguy cơ cho cả bà mẹ và trẻ được sinh trong khi chuyển dạ đẻ. Bên cạnh là đó các nguy cơ do bệnh có sẵn trong khi mang thai đã nêu ở trên. Chuyển dạ kéo dài (trên 12 giờ); nhiễm khuẩn ối (nước ối xanh,nâu,vàng bẩn); ra máu âm đạo nhiều; sốt cao, ngôi thai bất thường, không sổ rau trên 30 phút, co giật là những dấu hiệu nguy hiểm trong thời kỳ chuyển dạ cần được phát hiện và xử trí kịp thời để tránh tử vong mẹ và thai nhi [14]. Tử vong mẹ trong thời kỳ này phần lớn do các tai biến sản khoa: băng huyết; nhiễm trùng, đặc biệt nguy hiểm là uốn ván, nhiễm trùng nước ối; vỡ tử cung; sản giật...[9] . 1.1.1.3. Thời kỳ hậu sản được tính từ khi thai nhi được đẻ ra cho đến 6 tuần sau đẻ, và quan trọng nhất là 2 tuần đầu. Thời kỳ này các nguy cơ cho mẹ, liên quan đến cuộc đẻ vẫn tồn tại như nhiễm khuẩn hậu sản; băng huyết; nhiễm độc thai nghén. Thêm vào đó xuất hiện những vấn đề mới liên quan tới dinh dưỡng và chăm sóc trẻ sơ sinh [14].Thời kỳ này bà mẹ cần được nghỉ ngơi và ăn uống bồi dưỡng để phục hồi sức khoẻ và có nhiều sữa cho con bú. 1.2.2. Một số vấn đề chăm sóc trẻ sơ sinh : Thời kỳ sơ sinh được tính từ khi trẻ ra đời cho tới hết tuần thứ 4 sau đẻ. Ngay sau khi sinh, trẻ cần được ủ ấm, cho bú sớm và bú sữa non. Sữa non được tiết ra trong ba ngầy đầu sau đẻ, có hàm lượng các chất dinh dưỡng phù hợp với nhu cầu của trẻ sơ sinh. Việc cho trẻ bú sớm sẽ kích thích tiết sữa và xuống sữa [7]. Trong thời kỳ sơ sinh, những đặc điểm bệnh lý của trẻ khó nhận biết, dễ bị bỏ qua, bệnh lại dễ chuyển thành nặng, nguy hiểm đến tính mạng. Các dấu hiệu bệnh tật thường gặp là các dấu hiệu khó thở, thở nhanh, yếu, không cử động, màu da bất thường, hạ thân nhiệt hoặc sốt, nhiễm khuẩn mắt (mắt có gỉ). Đảm bảo thân nhiệt và dinh dưỡng là những nguyên tắc cơ bản trong xử trí ban đầu những bệnh thưồng gặp ở trẻ sơ sinh. Các nguyên nhân gây tử vong chủ yếu ở trẻ sơ sinh là nhiễm khuẩn, đặc biệt nhiễm khuẩn rốn; ngạt khi đẻ; chấn thương khi đẻ; đẻ non tháng; nhẹ cân; suy dinh dưỡng; viêm ruột hoại tử; ỉa chảy; xuất huyết não, màng não ... [15] 1.2. CÔNG TÁC CHĂM SÓC SỨC KHOẺ BÀ MẸ- TRẺ SƠ SINH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: 1.2.1. Thực trạng chăm sóc thai sản và chăm sóc trẻ sơ sinh: Việt Nam là nước có số dân lớn thứ hai trong khu vực Đông Nam Á, kết cấu dân số trẻ với tỷ lệ tăng dân cao, khoảng 1,7% mỗi năm, tỷ suất sinh thô 21,5%, số con trung bình của một phụ nữ là 2,33 con. Điều đó có nghĩa là số phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ chiếm tỷ lệ cao mà phần lớn trong số đó sống ở nông thôn, miền núi với những khó khăn trong đời sống cũng như trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế [2]. Nhà nước đã đặt nhiệm vụ chăm lo, bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em luôn luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu. Với chủ trương đó, công tác CSSKBMTE đã được triển khai rộng khắp trong cả nước. Tại tuyến cơ sở, công tác này được thực hiện bởi cán bộ trạm y tế xã và đội ngũ y tế thôn bản [8]. Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện CSSKBĐ ở Việt Nam năm 1999 cho biết 55% bà mẹ đươc khám thai, 26,5%được khám đủ 3 lần, 83,3% bà mẹ được tiêm phòng uốn ván, 73% bà mẹ đẻ tại trạm y tế xã, phường, bệnh viện [5]. Tuy nhiên tỷ lệ sử dụng các dịch vụ chăm sóc thai sản nhìn chung chưa cao và không đồng đều trong cả nước, cụ thể là những nghiên cứu ở một số vùng đồng bằng cho thấy tỷ lệ bà mẹ được khám thai khá cao. Tại Sóc Sơn, theo nghiên cứu của tác giả Trịnh Thanh Thuỷ năm 1998: 82,4% bà mẹ đươc khám thai, 89,2% bà mẹ được tiêm phòng uốn ván [18]. Một nghiên cứu tại Kim Bảng, Hà Nam năm 1999 của Nguyễn Thế Vỹ và Hoàng Văn Thái cho biết tỷ lệ khám thai của các bà mẹ là 82,1%, tỷ lệ tiêm phòng uốn ván là 65,8% [19]. Điều cần lưu ý là Sóc Sơn và Kim Bảng là địa bàn thực địa của Trường Đại học Y Hà Nội nên được hỗ trợ nhiều chương trình chăm sóc y tế. Cũng như vậy, năm 2000, tại Quảng Xương –Thanh Hoá, nơi triển khai dự án Lam của tổ chức Nhi Đồng Mĩ, theo báo cáo 2 năm sau dự án của tác giả Trần Hùng Minh có đến 95% thai phụ được khám thai, 73,7% được khám từ 3 lần trở lên, 95,8% được tiêm phòng uốn ván và 77,2% được tiêm đủ hai mũi. Tuy nhiên báo cáo này cũng ghi nhận 21,6% ca đẻ tại nhà và tỷ lệ bà mẹ được khám sau đẻ chỉ là 39,5% đồng thời nêu nên thực trạng kiến thức của phụ nữ về các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai, trong chuyển dạ và sau sinh còn rất hạn chế. Có khoảng 25% đến 50% trường hợp được hỏi không kể được bất cứ một dấu hiệu hay triệu chứng nguy hiểm nào [13]. Như vậy có thể thấy nơi nào y tế được quan tâm thì chất lượng chăm sóc SKSS được nâng cao rõ rệt, các chương trình can thiệp về SKSS đã có hiệu quả cao và cần được đẩy mạnh và triển khai trên diện rộng. Tuy nhiên, vấn đề còn tồn tại là tình trạng đẻ tại nhà và chăm sóc sau sinh cũng như sự thiếu hụt kiến thức của các bà mẹ về các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai. 1.2.2. Những tồn tại, nguyên nhân: - Tỉ lệ tử vong mẹ liên quan đến thai sản còn cao. Ở nước ta tỷ lệ tử vong bà mẹ và các bệnh liên quan đến sinh đẻ tuy đã giảm nhưng vẫn còn ở mức cao, khoảng 110- 137/100000 trẻ đẻ sống. Tỷ lệ chết mẹ cũng thay đổi theo từng vùng 107/100000 ở khu vực đồng bằng sông Hồng, 200/100000 ở vùng miền núi phía Bắc, 418/100000 ở Gia Lai. Theo ước tính hàng năm có từ 22000 –28000 bà mẹ tử vong tức là mỗi ngày có 7 bà mẹ chết do các nguyên nhân có liên quan tới thai nghén và sinh đẻ. Suy dinh dưỡng, thiếu máu và các tai biến sản khoa là những nguyên nhân nổi trội trong tử vong mẹ. Theo Báo cáo hội thảo quốc gia về chính sách chăm sóc sản khoa thiết yếu của Bộ Y tế và Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) năm 1999, 35% tổng số các trường hợp chết mẹ hoàn toàn có thể phòng ngừa được và 53% có thể phòng ngừa được nếu có được sự chăm sóc thai sản đầy đủ [5]. - Các dịch vụ chăm sóc mẹ ở Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu sức khỏe của người dân. Khoảng 66% phụ nữ có thai nhận được chăm sóc trước đẻ nhưng chỉ 1/3 được khám thai đủ 3 lần. Số lượng phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được tiêm vắc xin dao động từ 26% ở nông thôn đến 73% ở thành thị. Tỉ lệ thai phụ được khám thai đủ 3 lần và được nhân viên y tế có chuyên môn đỡ đẻ còn thấp. Các tồn tại nói trên chủ yếu ở các vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn. Hệ quả của nó là khoảng 80% tử vong mẹ xảy ra ở các vùng nông thôn, miền núi [17]. -Hệ thống cung cấp các dịch vụ bảo vệ sức khoẻ bà mẹ tuy đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh song vẫn còn nhiều nhược điểm và tồn tại. Cơ sở vật chất trang thiết bị dụng cụ còn hạn chế. Phương tiện vận chuyển các cấp cứu sản khoa còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thuốc, thiếu thông tin giáo dục sức khỏe và các phương tiện truyền thông, yếu kém trong xử lý thông tin và thiếu các chính sách phù hợp và các hướng dẫn chi tiết cho chăm sóc trước, trong và sau đẻ. Kinh phí của nhà nước cung cấp cho lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ thai sản rất hạn hẹp, phần lớn dựa vào ngân sách của địa phương. Như vậy, các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn lại càng không thể có được những hoạt động chăm sóc sức khoẻ cho toàn cộng đồng. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ còn thiếu nghiêm trọng, đặc biệt là y sỹ sản nhi, nữ hộ sinh, cộng thêm trình độ tay nghề chưa được cập nhật nên chưa đáp ứng tốt nhu cầu ngày một cao của các hoạt động này [17]. - Nhận thức về nội dung và ý nghĩa của chăm sóc sức khoẻ bà mẹ khi có thai chưa đầy đủ và chưa được quan tâm một cách chủ động. Sự thiếu hiểu biết về những kiến thức khoa học cùng với những tập tục lạc hậu trong lối sống nhất là ở những vùng dân tộc và các vùng khó khăn về địa lý, kinh tế, văn hoá xã hội đã góp phần tạo nên những tồn tại nói trên [2]. Đặc biệt, ở nước ta nhiều nơi còn phổ biến tình trạng bà mẹ sinh con và chăm sóc trẻ tại nhà, công tác khám sau đẻ không được làm tốt nên vai trò của người mẹ trong việc phát hiện và xử trí những dấu hiệu bệnh tật ở trẻ sơ sinh càng quan trọng. Chính vì vậy, tỷ lệ bệnh và tử vong trong thời kỳ sơ sinh phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức và thực hành của các bà mẹ. 1.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ MỤC TIÊU ĐẾN NĂM 2010 : Hiện nay Bộ Y tế đã thiết lập các chính sách khuyến khích chăm sóc sức khỏe thiết yếu nhằm giảm tỷ lệ tử vong mẹ. Giáo dục và truyền thông về thai nguy cơ cao và các tai biến sản khoa có thể nói là giải pháp hàng đầu, phù hợp với tinh thần và nguyên lý của chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Giáo dục sức khoẻ làm tăng sự nhận thức của các bà mẹ về tầm quan trọng, cách phòng tránh các nguy cơ của thai nghén và các tai biến sản khoa, trên cơ sở đó tác động làm thay đổi thái độ và tăng cường thực hành của các bà mẹ. Đây là giải pháp có hiệu quả cao trong phòng chống bệnh tật nói chung và phòng chống tai biến sản khoa nói riêng. Giải pháp thứ hai là tăng cường hỗ trợ cho phụ nữ khi sinh đẻ tại các vùng sâu, vùng xa và các vùng miền núi, hải đảo. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những tồn tại trong công tác chăm sóc sức khoẻ thai sản tại những vùng nói trên là một phần do điều kiện địa hình phức tạp, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, hệ thống đường giao thông chưa đảm bảo [12]. Vì vậy bên cạnh việc tăng cường công tác giáo dục truyền thông nâng cao nhận thức cần phát triển các chính sách chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em tại nhà như thiết kế, xây dựng mô hình đỡ đẻ và đội chăm sóc bà mẹ trẻ em tại nhà ở những vùng còn khó khăn nói trên. Mục tiêu chiến lược vào năm 2010 là: -Tỷ lệ phụ nữ có thai được khám trước sinh đạt 90%. - Tỷ lệ phụ nữ có thai được khám đủ 3 lần đạt 60% - Tỷ lệ sản phụ được nhân viên y tế trợ giúp khi sinh đạt 97%. - Tỷ lệ sản phụ sinh con tại cơ sở y tế đạt 80%. - Giảm tỷ lệ tử vong mẹ xuống dưới 70/100000 trẻ đẻ sống. - Giảm tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi xuống dưới 20o/oo - Giảm tỷ lệ trẻ mới đẻ có trọng lượng nhỏ hơn 2500g xuống dưới 6% - Giảm tỷ lệ tử vong chu sinh xuống dưới 18‰ [2]. 1.4. KHÁI QUÁT VỀ BỐI CẢNH ĐỊA LÝ, KINH TẾ, VĂN HOÁ - XÃ HỘI VÀ HỆ THỐNG Y TẾ CỦA 3 XÃ NGHIÊN CỨU: 1.4.1. Điều kiện kinh tế xã hội: Phủ Lý, Hợp Thành, Ôn Lương là 3 xã ở phía Bắc huyện Phú Lương, một huyện miền núi phía Bắc cách Hà Nội 102 km. Đất đai ở đây chủ yếu là đồi núi, đất rừng, chiếm 65%, đất canh tác nông nghiệp chỉ chiếm 12%. Các ngành kinh tế chủ yếu là nông nghiệp trồng chè và lúa nước, lâm nghiệp, khai thác gỗ. Thực trạng ở 3 xã có các vấn đề khó khăn tương tự như những vùng nông thôn miền núi khác ở miền Bắc Việt Nam: tỷ lệ người nghèo cao (20%), cơ sở hạ tầng hạn chế, tình trạng thiếu ăn còn phổ biến (25% số hộ còn thiếu ăn 1 đến 3 tháng trong năm), tỷ lệ SDD và tỷ lệ tử vong trẻ cao (40,2% trẻ dưới 5 tuổi bị SDD), thiếu nguồn vốn tín dụng để tăng thu nhập và thiếu cơ hội để cải thiện mức sống. Nhóm dân tộc chính sống ở 3 xã chủ yếu là người Tày ( chiếm 70,1% ), tiếp theo là người Kinh ( chiếm 25,5% ), người Dao, Nùng và Sán Chí chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Người dân giao tiếp bằng tiếng phổ thông là chính, bên cạnh đó họ vẫn dùng tiếng của dân tộc mình. Phụ nữ tuổi 15- 49 chiếm 29% tổng dân số. Trẻ dưới 1 tuổi chiếm 7,1% dân số. Bình quân mỗi hộ gia đình có 4,6 người. Đa số các gia đình có ba thế hệ sống chung [11]. Người dân tiếp nhận thông tin chủ yếu từ đài , ti vi và một phần nhỏ từ báo chí. Mạng lưới điện quốc gia vẫn chưa bao phủ hết cả vùng, người dân có sử dụng thêm các máy thuỷ điện nhỏ để sử dụng trong gia đình nhưng nguồn điện này không đủ cung cấp thường xuyên. Điện thoại đã được lắp ở UBND và trạm y tế các xã, nhưng mới có một số ít nhà dân ở trên trục đường chính có máy điện thoại riêng. Trước đây, người Tày và Sán Chí được phân biệt do một số đặc điểm văn hoá riêng. Với sự phát triển về kinh tế, sự di cư và giao lưu văn hoá nên ngày nay các phong tục tập quán của địa phương đã không còn khác nhiều so với phong tục tập quán của người Kinh [20]. 1.4.2. Y tế địa phương với hoạt động chăm sóc SKSS và làm mẹ an toàn Tại ba xã có ba trạm y tế, mỗi trạm đều có trưởng trạm là bác sĩ đa khoa. Ngoài ra các trạm đều có y sĩ và y tá sản nhi. Chăm sóc sức khoẻ ban đầu (CSSKBĐ) được thực hiện tới tuyến xã thông qua trạm y tế. Tất cả các chương trình y tế quốc gia được phối hợp ngay tại tuyến này. Do vậy có thể thấy là trạm y tế xã có chức năng thực hiện các hoạt động y tế cơ bản như là dinh dưỡng, CSSKBMTE/ KHHGĐ, TCMR, cung cấp thuốc chữa bệnh, phòng chống các bệnh dịch, giáo dục sức khỏe và vệ sinh môi trường, củng cố mạng lưới y tế. Tại trạm y tế ba xã đã thực hiện 16 chương trình y tế quốc gia. Trong số các chương trình này, TCMR và CSSKBĐ/ KHHGĐ là các hoạt động mạnh nhất và thường xuyên nhất. Với sự hợp tác của Hội phụ nữ, hàng tháng tại các trạm y tế đã tổ chức những buổi khám thai kết hợp với nói chuyện tuyên truyền GDSK cho các bà mẹ có thai. Kết quả của giáo dục sức khỏe tập trung là có thay đổi đáng kể về chăm sóc sức khỏe thai sản. Theo tổng hợp số liệu từ trạm y tế 3 xã, trong năm 2002, 75% phụ nữ có thai đi khám thai 3 lần và 90% phụ nữ có thai đã tiêm vắc xin phòng uốn ván. Số ca đẻ do nhân viên y tế trạm đỡ đã tăng trong những năm vừa qua lên đến gần 90% năm 2002. Tỷ lệ đẻ tại nhà so với đẻ tại trạm y tế xã giảm từ 64% năm 1996 xuống 33% năm 2002. Nhưng ở một số xóm xa xôi, tỷ lệ đẻ tại nhà vẫn có thể đạt tới mức 50%. Văn hóa và khoảng cách địa lý là những trở ngại để phụ nữ đến đẻ tại trạm y tế xã. Chương 2 ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU: Sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả căt ngang kết hợp hồi cứu. 2.2. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu được tiến hành tại 3 xã Phủ Lý, Hợp Thành và Ôn Lương, huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên, tháng 4/ 2003. 2.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu được tiến hành trên 105 bà mẹ có con nhỏ dưới 1 tuổi trên địa bàn 3 xã, chiếm 100% tổng số các bà mẹ có con dưới 1 tuổi tại 3 xã ở thời điểm nghiên cứu : 31 tại Phủ Lý 40 tại Hợp Thành 34 tại Ôn Lương Nghiên cứu này được thực hiện dựa trên cơ sở một dự án của Đơn vị nghiên cứu sức khoẻ cộng đồng (CHRU), Trường Đại học Y Hà Nội. Trong thiết kế nghiên cứu của dự án không sử dụng các đối tượng như cán bộ y tế, hội viên hội phụ nữ, là những người có am hiểu sâu và trực tiếp hay liên quan nhiều tới đối tượng nghiên cứu. Vì vậy việc đánh giá kiến thức và thực hành của các bà mẹ có phần bị hạn chế. 2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp nghiên cứu được áp dụng là phương pháp định lượng kết hợp với định tính, các thông tin trong nghiên cứu định tính sẽ góp phần bổ sung giải thích một số thông tin trong phần định lượng. - Phương pháp nghiên cứu định lượng : phỏng vấn 105 bà mẹ bằng bộ câu hỏi . - Phương pháp nghiên cứu định tính: tiến hành 6 cuộc thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu tại 3 xã. 2.4.1. Phương pháp thu thập thông tin: - Phỏng vấn định lượng theo phiếu hỏi - Thảo luận nhóm bà mẹ - Lấy số liệu có sẵn từ sổ sách xã 2.4.2. Công cụ thu thập thông tin: - Bộ phiếu hỏi - Hướng dẫn thảo luận nhóm. - Biểu mẫu lấy số liệu từ sổ sách của xã. 2.4.3. Xử lý số liệu: Số liệu định lượng được xử lý theo các phương pháp thống kê trên phần mềm Epi info 6.04 và xử lý số liệu định tính bằng phương pháp phân tích tổng hợp thông thường 2.3.4. Khía cạnh đạo đức của đề tài: - Điều tra được sự đồng ý và thống nhất của lãnh đạo địa phương từ huyện xuống xã. - Giải thích rõ mục tiêu, ý nghĩa nghiên cứu cho các đối tượng trên cơ sở đó đạt được sự tham gia tình nguyện của các đối tượng nghiên cứu. - Kết quả của nghiên cứu phục vụ cho việc cải thiện các hoạt dộng chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em tại địa phương. 2.4.5. Sai số và cách khống chế: Trong quá trình thu thập thông tin, do tiến hành phỏng vấn các bà mẹ có con dưới 1 tuổi về quá trình mang thai nên có thể mắc sai số thông tin. Cách khống chế: - Bố trí câu hỏi kiểm tra thông tin trong bộ phiếu điều tra. - Huấn luyện kỹ điều tra viên. - Tăng cường giám sát và giám sát lẫn nhau khi điều tra. - Kiểm tra lại các thông tin nghi ngờ. - Quá trình nhập số liệu vào máy được kiểm tra đối chiếu 2 lần. - Bộ câu hỏi đã được thử nghiệm tại thực địa và được chỉnh sửa để phù hợp với các đối tượng phỏng vấn. Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. KIẾN THỨC –THỰC HÀNH CHĂM SÓC THAI SẢN : TRƯỚC, TRONG VÀ SAU SINH. 3.1.1. Tình hình khám thai của các bà mẹ : 100% các bà mẹ được khám thai trước khi đẻ ít nhất 1 lần.  Biểu đồ 3.1: Số lần khám thai của các bà mẹ trong thời kỳ thai nghén Biểu đồ 3.1 cho thấy đa số bà mẹ được khám thai trên 3 lần. Khi hỏi những bà mẹ không đi khám thai đủ 3 lần, các bà mẹ cho biết những lý do như bận việc nhà, do thấy người khoẻ nên không đi khám, do điều kiện kinh tế khó khăn nên chỉ khám 1 hoặc 2 lần, hoặc quên không nhớ ngày khám thai. Bảng 3 1: Nơi khám thai  Bệnh viện huyện  Trạm y tế xã  Phòng khám tư  Y tế thôn bản, bà mụ vườn  Tổng số   Tần số  1  100  0  4  105   %  1,0  95,2  0,0  3,8  100,0   Bảng 3.2 cho thấy hầu hết các bà mẹ đều đi khám thai tại cơ sở y tế nhà nước. Chỉ có rất ít bà mẹ khám thai tại nhà của y tế thôn bản hoặc bà mụ vườn. Trong thảo luận nhóm, các bà mẹ cho biết đã quen với việc đi khám tại trạm y tế xã mỗi khi bị ốm vì vậy khi có thai cũng khám tại đây.  Biểu đồ 3.2 : Lý do đi khám thai Biểu đồ 3.2 cho thấy lý do hàng đầu được các bà mẹ quan tâm khi khám thai là theo dõi sự phát triển của thai. Việc khám thai theo sự chỉ dẫn của nhân viên y tế chiếm hàng thứ hai. Rất ít bà mẹ nhận thức được việc khám thai là để phòng biến chứng. Tại các cuộc thảo luận nhóm, các bà mẹ cho biết rằng họ đi khám thai một cách tự nguyện và để cảm thấy yên tâm hơn trong quá trình mang thai. 3.1.2. Tiêm phòng uốn ván khi mang thai và uống bổ sung viên sắt :  Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ tiêm phòng uốn ván của các bà mẹ trong khi mang thai. Biểu đồ 3.3 cho thấy khi mang thai, tỷ lệ bà mẹ được tiêm phòng uốn ván chiếm khá cao. Tuy nhiên vẫn còn có trường hợp không được tiêm phòng uốn ván hoặc không nhớ đã tiêm chưa. Khi hỏi lý do các trường hợp không tiêm phòng uốn ván, các bà mẹ cho biết do không đi khám thai đầy đủ nên không được tiêm phòng.  Biểu đồ 3.4 :Tỷ lệ uống viên sắt của bà mẹ trong khi mang thai. Biểu đồ 3.4. cho thấy chỉ có một nửa số bà mẹ được uống đầy đủ viên sắt trên 90 ngày.1/3 số bà mẹ có uống viên sắt nhưng không đủ 90 ngày. Vẫn còn một số nhỏ (11 bà mẹ) không uống viên sắt trong suốt thời kỳ có thai. Những trường hợp này là do bà mẹ không biết là cần phải uống hoặc họ thấy khoẻ nên nghĩ không cần uống. Cũng có bà mẹ do điều kiện kinh tế khó khăn nên bỏ qua không uống viên sắt. Qua thảo luận nhóm, hầu hết các bà mẹ tiêm phòng uốn ván, uống viên sắt theo chỉ dẫn của nhân viên y tế khi họ đi khám thai. Họ biết làm thế thì tốt cho sức khoẻ nhưng không nêu được ý nghĩa của những loại thuốc này. Theo lời một bà mẹ cho biết: “ Đi khám thai họ bảo mua thuốc gì, tiêm cái gì, uống cái gì thì làm theo thôi chứ cũng không biết để làm gì đâu.” (HT 6 ). 3.1.3. Chế độ ăn nghỉ của bà mẹ trong thời gian mang thai : Trong các cuộc thảo luận nhóm, các bà mẹ cho biết họ ăn cùng gia đình và không có chế độ bồi dưỡng riêng. Theo các bà mẹ khi có thai phải ăn tăng hơn bình thường để đảm bảo sức khỏe cho bản thân và đứa con sau này nhưng do điều kiện kinh tế còn khó khăn nên có gì ăn nấy. Một bà mẹ phát biểu: “Khi có thai đứa đầu thì còn có điều kiện ăn uống bồi dưỡng thêm chứ có đến đứa thứ hai rồi thì chẳng bồi dưỡng được mấy.” (ÔL 3). Bà mẹ khác cho biết: “Cũng biết là phải ăn đủ chất đấy nhưng ngoài làm ruộng chỉ trồng thêm được ít chè bán đi lấy tiền lo những việc lớn, lấy đâu tiền mà ăn.” (HT4). Hầu hết các bà mẹ nói rằng họ không kiêng cữ gì đặc biệt. Một số ít bà mẹ kiêng ăn những đồ cay nóng như thịt chó, tiêu ớt, kiêng ăn thịt lợn nái... Về thời gian nghỉ trước sinh, hầu hết các bà mẹ chỉ nghỉ làm việc nặng trước khi sinh khoảng một tháng đến 1-2 tuần. Các bà mẹ cũng biết rằng thời gian nghỉ như vậy là ít nhưng do điều kiện gia đình, do đặc thù của lao động nông nghiệp là theo mùa vụ nên khó có nhiều thời gian nghỉ hơn. Có bà mẹ cho biết: “Trước kia không nghỉ đâu, làm đến tận ngày đẻ. Bây giờ y tế người ta tuyên truyền là phải nghỉ trước khi đẻ với lại cũng có điều kiện hơn nên mới có thời gian nghỉ .” (ÔL 4). Tuy nhiên theo một bà mẹ phát biểu thì: “Người già còn bảo phải làm nhiều thì đẻ mới dễ.” (HT5). 3.1.4. Thực hành chuẩn bị cho cuộc đẻ của các bà mẹ : Bảng 3.2 : Dự kiến thời gian đẻ của các bà mẹ Tính ngày  Tần số  %   Theo tuần  51  49,5   Theo tháng  48  46,6   Không nhớ rõ  4  3,9   Tổng  105  100,0   Bảng 3.3 cho thấy có gần một nửa số người được hỏi không biết cách tính thời gian dự kiến đẻ theo tuần và một tỷ lệ nhỏ không tính thời gian dự kiến đẻ. Bảng 3.3: Chuẩn bị tại gia đình đồ dùng và phương tiện cần thiết cho việc sinh đẻ Các thứ được chuẩn bị  Quần áo  Thực phẩm  Tiền  Phương tiện đi lại  Nơi đẻ  Người đỡ đẻ  Không chuẩn bị gì   %  99,0  61,9  81,9  46,7  45,5  5,7  1,0   Bảng 3.4 cho thấy tiền, quần áo, thực phẩm là những thứ đã được nhiều bà mẹ quan tâm chuẩn bị nhất, tiếp đó là chuẩn bị nơi đẻ và phương tiện đưa mình đi đẻ. Chỉ có rất ít bà mẹ nghĩ đến việc ai sẽ đỡ đẻ cho mình và 1 trường hợp không chuẩn bị được gì cho cuộc đẻ. 3.1.5. Chăm sóc sức khoẻ trong và sau sinh : 3.1.5.1. Nơi sinh con của các bà mẹ : 88,5% các bà mẹ sinh con tại trạm y tế xã tuy nhiên vẫn còn 12 trường hợp ( chiếm 11,5% ) đẻ tại nhà. Trong thảo luận nhóm, hầu hết các bà mẹ cho rằng trạm y tế là nơi sinh phù hợp nhất vì đa số khám thai tại đây, gần nhà, chi phí phải chăng, an toàn, chưa thấy trường hợp nào xảy ra tai biến. Bảng 3. 4: Lý do đẻ tại nhà Lý do  Đẻ rơi  Muốn đẻ ở nhà  Khác  Tổng số   Số lượng bà mẹ  8  3  1  12   %  66,6  25,0  8,3  100   Theo bảng 3.5, trong số 12 trường hợp đẻ tại nhà, phần lớn các bà mẹ cho biết là do đẻ rơi, không kịp đến các cơ sở y tế. Lý do muốn đẻ tại nhà chiếm tỷ lệ ít hơn. Một trường hợp lý do khác ở đây là tiết kiệm tiền. 3.1.5.3.Uống vitamin A trong vòng 2 tháng đầu sau đẻ :  Biểu đồ 3. 5 :Tỷ lệ bà mẹ uống vitamin A Biểu đồ 3.5 cho thấy đa số bà mẹ không được uống Vitamin A trong vòng 2 tháng đầu sau đẻ. Khi thảo luận nhóm các bà mẹ cho biết họ hầu như không có thông tin gì về sự cần thiết phải uống vitamin A sau đẻ. 3.1.5.4. Chế độ ăn, nghỉ của phụ nữ sau sinh : Trong các cuộc thảo luận nhóm, hầu hết các bà mẹ cho biết hiện nay sau sinh phụ nữ không còn nhiều tục lệ ăn kiêng khắt khe như xưa. Phần lớn các bà mẹ ăn uống bình thường. Lý do không ăn kiêng của chị em phần lớn là do điều kiện kinh tế eo hẹp. Một bà mẹ phát biểu: “ Nhà nghèo chỉ làm ruộng, không có nghề phụ, không có tiền nên có gì ăn nấy như mọi người trong gia đình thôi. Có gì lạ để ăn đâu mà kiêng.” (ÔL3). Một số bà mẹ thì vẫn ăn kiêng rau cải (sợ đi giải nhiều) hoặc chất tanh (cá mè, cua ốc), thịt trâu (sợ lạnh). Hầu hết chị em kiêng một cách thụ động do các vấn đề tâm lý như: “Ăn thì cũng tốt nhưng nhỡ sau này bị hậu sản thì lại bảo là tại ăn tham.” (HT7), hoặc “Nhiều người kiêng thì mình cũng kiêng để khỏi áy náy nếu có bị làm sao” (PL4) Qua thảo luận nhóm, các bà mẹ cho biết thời gian nghỉ ngơi sau sinh phụ thuộc điều kiện trong gia đình. Thông thường thời gian nghỉ sau sinh của chị em khoảng 1-3 tháng. Cá biệt có trường hợp mới một tháng đã ra làm đồng: “Nhà chỉ có hai vợ chồng với hai ông bà già, đang vào vụ gặt thì cả nhà phải đi làm hết thôi.” ( ÔL 5 . 3.2. KIẾN THỨC CỦA CÁC BÀ MẸ VỀ CÁC DẤU HIỆU NGUY HIỂM CẦN PHẢI ĐI KHÁM :  Biểu đồ 3.6: Nhận biết về các dấu hiệu nguy hiểm cần phải đi khám trong khi có thai Biểu đồ 3.6 cho thấy ba dấu hiệu nguy hiểm mà người phụ nữ kể được nhiều nhất là đau bụng, ra máu âm đạo, sốt cao. Những dấu hiệu khác liên quan đến nhiễm độc thai nghén hầu như bà mẹ không biết đến.  Biểu đồ 3.7: Nhận biết về các dấu hiệu nguy hiểm khi chuyển dạ đẻ. Biểu đồ 3.7 cho thấy ra máu âm đạo nhiều & chuyển dạ trên 12 giờ là hai dấu hiệu nguy hiểm trong chuyển dạ được biết với tỷ lệ cao nhất. Các dấu hiệu sốt cao, ngôi không thuận, tỷ lệ người biết ít hơn, các dấu hiệu còn lại tỷ lệ đối tượng biết rất ít, nhất là những dấu hiệu của nhiễm độc thai nghén.  Biểu đồ 3.8: Nhận biết về các dấu hiệu nguy hiểm sau khi đẻ : Biểu đồ 3.8 cho thấy ba dấu hiệu được nhận biết với tỷ lệ cao là ra máu âm đạo nhiều, đau bụng, sốt cao. Rất ít người biết sản dịch có mùi hôi là nguy hiểm. Vẫn không có bà mẹ nào biết về những dấu hiệu nguy hiểm của nhiễm độc thai nghén. Bảng 3.5 : Số lượng dấu hiệu nguy hiểm được nhận biết :  Số lượng dấu hiệu   Thời điểm xuất hiện  0  1  2  3  4   Trước sinh  43,4  27,3  13,1  11,2  5,0   Khi chuyển dạ  21,3  15,1  28,5  20,9  13,2   Sau sinh  13,8  15,8  39,7  20,8  9,9   Bảng 3.6 cho thấy đối với những dấu hiệu nguy hiểm trong thời kỳ mang thai,rất nhiều bà mẹ không kể được bất cứ một dấu hiệu nguy hiểm nào. Gần một nửa trong số họ chỉ kể được một đến hai dấu hiệu. Số bà mẹ nêu được ba đến bốn dấu hiệu nguy hiểm còn ít hơn nữa. Đa số bà mẹ kể được hai đến ba dấu hiệu nguy hiểm khi chuyển dạ, số bà mẹ nhận biết được một hoặc bốn dấu hiệu là tương đương nhau, chiếm tỷ lệ ít hơn, còn đến hơn 1/5 các bà mẹ không kể được một dấu hiệu nguy hiểm nào trong khi chuyển dạ. Trong các dấu hiệu nguy hiểm sau đẻ, số bà mẹ nhận biết được từ hai đến ba dấu hiệu chiếm tỷ lệ cao nhất, số không nhận biết được dấu hiệu nào hoặc chỉ biết một dấu hiệu chiếm tỷ lệ thấp hơn và số bà mẹ biết được hơn bốn dấu hiệu chiếm tỷ lệ ít nhất. 3.3. MỘT SỐ KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH CỦA BÀ MẸ VỀ DINH DƯỠNG VÀ CHĂM SÓC TRẺ SƠ SINH: 3.3.1. Kiến thức và thực hành cho con bú: Có 87,6% bà mẹ đã cho con bú sữa non còn lại 12,4% bà mẹ vắt sữa non bỏ đi không cho con bú. Trong thảo luận nhóm, các bà mẹ đã kể được những tác dụng của sữa mẹ như hợp với sự tiêu hoá của trẻ, trẻ bú sữa mẹ ít bị tiêu chảy hơn trẻ ăn sữa ngoài, đủ các chất dinh dưỡng. Tuy nhiên hầu hết các bà mẹ không biết những tác dụng đặc biệt của sữa non và coi sữa non cũng như sữa thường. Một bà mẹ đã có hai con cho biết ý kiến: “ Chỉ được biết sữa mẹ là tốt thôi, cứ đẻ ra là cho bú ngay chứ cũng chẳng phân biệt sữa non hay sữa thường.”  Biểu đồ 3.9: Thời gian cho con bú sau đẻ Biểu đồ 3.9 cho thấy đa số bà mẹ cho con bú ngay sau đẻ và số bà mẹ cho con bú sau vài giờ chiếm tỷ lệ ít hơn. Vẫn còn một tỷ lệ nhỏ bà mẹ cho con bú sau đẻ 24 giờ. 3.3.2 Kiến thức về những dấu hiệu bệnh lý ở trẻ sơ sinh:  Biểu đồ 3.10: Nhận biết các dấu hiệu bị ốm ở trẻ khi vừa đẻ ra Biểu đồ 3.10 cho thấy trong 5 triệu chứng được coi là ốm ở trẻ vừa sinh ra, dấu hiệu khó thở được nhắc tới với tỷ lệ cao nhất, các dấu hiệu yếu- không cử động, màu da không bình thường, người lạnh được ít bà mẹ nhận biết hơn. Dấu hiệu thở nhanh trên 60 lần trong 1 phút được nhận biết với tỷ lệ thấp nhất.  Biểu đồ 3.11: Số lượng dấu hiệu bệnh ở trẻ vừa đẻ ra được nhận biết : Biểu đồ 3.11 cho thấy số bà mẹ không biết một dấu hiệu bệnh nào ở trẻ vừa đẻ ra chiếm tỷ lệ cao nhất, đến hơn 1/2 số các bà mẹ. Số bà mẹ nhận biết được một dấu hiệu bệnh chiếm tỷ lệ thấp hơn, khoảng 1/5, còn lại rất ít bà mẹ biết được 2 đến 4 dấu hiệu . Bảng 3.6: Nhận biết các dấu hiệu bệnh ở trẻ trong vòng 7ngày đầu sau sinh Dấu hiệu bệnh  Tỷ lệ bà mẹ nhận biết được ( % )   Khó thở  31,2   Vàng da  4,7   Tím tái  2,8   Sốt  52,3   Không ăn, không bú  48,5   Nôn, bụng chướng  13,3   Hôn mê, lịm  5,7   Khóc, cử động bất thường  43,8   Tiêu chảy  31,4   Táo bón  3,8   Mắt có gỉ  5,7   Viêm rốn  15,2   Bảng 3.7 cho thấy sốt, không ăn, không bú, khóc, cử động bất thường, khó thở, tiêu chảy là những dấu hiệu bệnh ở trẻ trong vòng 7 ngày đầu sau sinh được nhiều bà mẹ biết tới. Những dấu hiệu ít được nhận biết hơn là vàng da, tím tái, mắt có gỉ, viêm rốn, nôn liên tục, bụng chướng, hôn mê, lịm.  Biểu đồ 3.12: Số lượng dấu hiệu bệnh ở trẻ trong vòng 7 ngày đầu sau sinh Biểu đồ 3.12 cho thấy trong những dấu hiệu ốm ở trẻ sơ sinh trên 7 ngày tuổi, đa số các bà mẹ đã nhận biết được từ hai đến bốn dấu hiệu, số bà mẹ không kể được dấu hiệu nào chiếm tỷ lệ ít hơn rất nhiều. 3.3.3. Thực hành chăm sóc trẻ sơ sinh bị ốm : Nghiên cứu này chỉ phỏng vấn những trường hợp trẻ sơ sinh có biểu hiện mắc một số bệnh thường gặp ở trẻ sơ sinh như khó thở, sốt, viêm rốn (cuống rốn đỏ, chảy nước) và đánh giá những cách xử trí mà bà mẹ đã áp dụng trên thực tế. Trong số 105 bà mẹ được hỏi, có - 13 trẻ đã từng bị khó thở trong vòng 1 tháng đầu sau sinh. - 16 trường hợp sốt. - 20trường hợp cuống rốn đỏ, chảy nước. Cách xử trí mà bà mẹ đã áp dụng:  Biểu đồ 3.13: Cách xử trí khi trẻ sơ sinh bị khó thở Khi hỏi 13 bà mẹ có con bị khó thở, biểu đồ 3.13 cho thấy phần lớn trong số họ đã đưa trẻ đi khám ngay, số bà mẹ sử dụng y học cổ truyền chiếm tỷ lệ ít hơn. Những xử trí khác như giữ ấm cho trẻ, giữ trẻ ở tư thế đầu cao, tiếp tục cho trẻ bú được rất ít bà mẹ áp dụng. Trong thảo luận nhóm, các bà mẹ có cho biết một số bài thuốc y học cổ truyền hay được sử dụng như: dùng lá hẹ hấp với sữa cho trẻ uống.  Biểu đồ 3.14: Cách xử trí khi trẻ bị sốt Khi trẻ bị sốt, biểu đồ 3.14 cho thấy số bà mẹ dùng thuốc cổ truyền để điều trị chiếm tỷ lệ cao nhất, số bà mẹ đưa trẻ đi khám ngay chiếm tỷ lệ thấp hơn. Số bà mẹ đã biết cởi bỏ bớt quần áo, đắp khăn ướt và lau mình cho trẻ bằng khăn ấm chỉ chiếm khoảng 1/3. Rất ít bà mẹ mua thuốc tây về tự điều trị. Trong thảo luận nhóm, các bà mẹ đã kể ra nhiều cách hạ sốt bằng y học cổ truyền như cho trẻ uống nước lá rau ngót dã, uống và đắp lá nhọ nồi, diếp cá.  Biểu đồ 3.15: Cách xử trí khi cuống rốn trẻ sơ sinh đỏ và chảy nước Khi hỏi cách xử trí của 20 bà mẹ có con bị viêm rốn với dấu hiệu cuống rốn trẻ đỏ và chảy nước, biểu đồ 3.15 cho thấy phần lớn các bà mẹ mua thuốc về tự điều trị. Số bà mẹ dùng thuốc y học cổ truyền chiếm tỷ lệ thấp hơn. Tiếp đến là cách xử trí tiếp tục cho trẻ bú và đưa trẻ đi khám ngay. Rất ít bà mẹ có cách xử trí ban đầu là giữ rốn khô, thoáng và giữ ấm cho trẻ. Các bà mẹ cho biết, trong thảo luận nhóm, những cách tự điều trị như rắc thuốc clo rô xit, rắc tro cây núc nác, lá chè nhai nhỏ vào rốn hoặc dùng nước chè tươi đặc rửa rốn. Trong các trường hợp trẻ bệnh, nghiên cứu cho thấy các bà mẹ rất ít, thậm chí không liên lạc với y tế thôn bản. 3.4. THĂM DÒ MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ NGUYÊN NHÂN ẢNH HƯỞNG ĐẾN KIẾN THỨC, THỰC HÀNH CSSK CỦA CÁC BÀ MẸ: 3.4.1. Điều kiện kinh tế và trình độ văn hoá của các bà mẹ: Bảng 3.7: Điều kiện kinh tế của các bà mẹ Xếp loại kinh tế  Tần số  Tỷ lệ   Giàu Khá Trung bình Nghèo  1 12 69 23  1,0 11,4 65,7 21,9   Bảng 3.7 cho thấy phần lớn các bà mẹ được phỏng vấn sống trong điều kiện kinh tế trung bình, số hộ nghèo chiếm hàng thứ hai, hơn 1/5 tổng số, số họ có kinh tế khá chiếm tỷ lệ thấp hơn và chỉ có duy nhất một hộ giàu. Bảng 3.8: Trình độ văn hoá của các bà mẹ Văn hoá  Tần số  Tỷ lệ   Mù chữ Biết đọc, viết,cấp 1 Cấp 2 Cấp 3và cao hơn  0 13 80 12  0,0 14,3 76,2 9,5   Qua bảng có thể thấy số bà mẹ có trình độ văn hoá tốt nghiệp cấp hai chiếm tỷ lệ lớn nhất, tiếp đó là các bà mẹ đã tốt nghiệp cấp một hoặc biết đọc biết viết. Số bà mẹ tốt nghiệp cấp ba trở nên chiếm tỷ lệ thấp hơn. Không có trường hợp nào mù chữ. 3.4.2. Phong tục tập quán của địa phương Các bà mẹ cho biết tại địa phương còn phổ biến tục kiêng người ngoài đến thăm bà đẻ trong 1 tháng đầu, vì vậy y tế thôn bản thường không đến thăm khám bà mẹ và trẻ sơ sinh trong thời gian này. Việc kiêng không ăn một số thức ăn của các bà mẹ cũng phụ thuộc vào tập quán của từng dân tộc, niềm tin có từ lâu đời đối với tác dụng, tác hại của những thức ăn đó mặc dù không có phân tích khoa học nào chứng minh. Ngoài ra người dân địa phương còn có thói quen sử dụng những bài thuốc lá để chữa những chứng bệnh thường gặp. Các bà mẹ kể ra rất nhiều bài thuốc. 3.4.3. Đánh giá của các bà mẹ về hoạt động của y tế địa phương: Bảng 3.9: Nguồn thông tin hữu ích nhất giúp các bà mẹ có những hiểu biết về CSSK thai sản và trẻ sơ sinh. Nguồn thông tin  N  %   Từ cán bộ trạm y tế  80  76,2   Từ y tế thôn bản  12  11,4   Từ người thân trong gia đình  3  2,9   Tự tìm hiểu qua các phương tiện thông tin đại chúng  10  9,5   Bảng 3.10 cho thấy phần lớn các bà mẹ đánh giá cán bộ trạm y tế là nơi cung cấp nguồn thông tin hữu ích nhất, y tế thôn bản đóng vai trò ít quan trọng hơn, số bà mẹ tự tìm hiểu qua ngưòi thân hoặc qua các thông tin đại chúng chiếm tỷ lệ thấp nhất.  Biểu đồ 3.16: Tỷ lệ bà mẹ tham dự các buổi nói chuyện, sinh hoạt về CSSK bà mẹ khi mang thai do trạm y tế, y tế thôn bản, hội phụ nữ, cộng tác viên dân số tổ chức Biểu đồ 3.16 cho thấy có hơn một nửa số bà mẹ không tham dự những buổi nói chuyện, sinh hoạt hướng dẫn CSSK khi mang thai. - Tỷ lệ bà mẹ được y tế thôn bản thăm khám sau đẻ: 10,2% - Tỷ lệ bà mẹ được nhân viên y tế hướng dẫn cho trẻ sơ sinh bú sớm và bú sữa non sau đẻ: 82,5% Qua nghiên cứu định tính bằng thảo luận nhóm: - Nhiều bà mẹ cho biết từ khi có sự tuyên truyền vận động thường xuyên của y tế thôn bản, họ cảm thấy tự tin và hăng hái khi đi khám thai, không còn e ngại, nhất là những trường hợp có thai lần đầu. - Đánh giá về thái độ làm việc của nhân viên y tế tại địa phương, các bà mẹ có nhận xét chung là nhân viên y tế làm việc nhiệt tình, lại toàn người cùng làng xã nên dễ tiếp xúc. - Thảo luận nhóm về vai trò của nhân viên trạm y tế và y tế thôn bản đối với việc trang bị kiến thức về những dấu hiệu nguy hiểm liên quan tới thai nghén, sinh đẻ, một số bà mẹ cho biết họ có được dặn dò nếu thấy có dấu hiệu sốt, đau bụng, ra máu âm đạo là phải đến khám ngay. Tuy nhiên phần lớn bà mẹ nói rằng nhân viên y tế chỉ rặn chung chung là nếu thấy gì bất thường thì đi khám ngay. Nhưng họ lại không nói rõ dấu hiệu gì là bất thường. - Về việc cung cấp những thông tin về bệnh tật và cách xử trí ban đầu những bệnh thường gặp ở trẻ sơ sinh cũng tương tự. Các bà mẹ cho biết hầu hết sau đẻ tại trạm y tế xã, trước khi về nhà họ không được dặn dò gì về cách theo dõi sức khoẻ của trẻ sơ sinh. Đối với việc cho con bú, hầu hết các bà mẹ chỉ được nhắc nhở cho con bú sớm sau đẻ mà không được giải thích cặn kẽ những ưu điểm của sữa mẹ, và đặc biệt là những ưu điểm của sữa non . - Đánh giá về chức năng thực hành của các nhân viên y tế thôn bản, nhiều bà mẹ chỉ biết y tế thôn bản là những người đi tuyên truyền vận động đi khám thai, đưa giấy báo tiêm chủng, hướng dẫn KHHGĐ. Chương 4 BÀN LUẬN 4.1. KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH CSSK TRƯỚC, TRONG, SAU SINH CỦA CÁC BÀ MẸ TẠI 3 XÃ HỢP THÀNH, PHỦ LÝ, ÔN LƯƠNG : Thai nghén đối với người phụ nữ là một hiện tượng sinh lý mang nhiều tính chất đặc biệt rất dễ chuyển thành bệnh lý, vì thế người phụ nữ khi mang thai cần được ngành y tế chăm sóc theo dõi sát hơn các đối tượng khác. Một trong những công việc có ý nghĩa nhất của chăm sóc thai sản là đi khám thai trong thời kỳ có thai vì nếu khám thai đầy đủ sẽ giảm được bệnh tật và tử vong cho cả mẹ và con. Theo Chuẩn Quốc gia về các dịch vụ chăm sóc SKSS ban hành năm 2002 của Bộ Y Tế trong quá trình mang thai mỗi thai phụ phải được khám thai ít nhất 3 lần để đánh giá tình trạng của bà mẹ và của thai, lần thứ nhất trong 3 tháng đầu, lần thứ 2 trong 3 tháng giữa, lần 3 trong 3 tháng cuối. - Kết quả điều tra tỷ lệ đi khám thai trong thời kỳ mang thai của các bà mẹ có con dưới 1 tuổi được thể hiện ở biểu đồ 1 là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá thực hành chăm sóc thai sản tại 3 xã. Với tỷ lệ 100% bà mẹ có đi khám thai và 81% khám thai trên 3 lần đã cho thấy hầu hết các đối tượng phụ nữ có thai trên địa bàn đã quan tâm đến việc chăm sóc sức khoẻ khi mang thai và thực hiện khá tốt Chuẩn quốc gia về CSSK sinh sản. Đối với các xã miền núi đa phần người dân là nghèo ( theo số liệu bảng 3.8: 1/5 số bà mẹ sống trong gia đình xềp loại kinh tế nghèo, 67,7% có điều kiện kinh tế trung bình) thì đây là con số hết sức đáng khích lệ vì theo Chiến lược quốc gia về chăm sóc SKSS giai đoạn 2001- 2010 chỉ tiêu cần đạt được là 90% tỷ lệ phụ nữ có thai được khám thai trước khi sinh và 60% số phụ nữ đang mang thai được thăm khám trên 3 lần [2]. Thảo luận nhóm cho thấy nguyên nhân của kết quả trên đây là do hầu hết các chị em đều nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của việc khám thai đối với sức khoẻ của người mẹ và thai nhi. Tuy nhiên, con số 17,1% bà mẹ không khám thai đủ số lần theo quy định vẫn là điểm tồn tại cần tác động trong thời gian tới. Đặc biệt trong các lý do không khám thai đủ số lần, lý do chính là bà mẹ thấy người khoẻ nên không đi khám. Như vậy vẫn còn những bà mẹ chưa nhận thức được ý nghĩa của việc khám thai đầy đủ. Vì vậy việc tuyên truyền cho các bà mẹ cần được đẩy mạnh để mọi phụ nữ có thai đều đi khám thai đầy đủ. Về nơi khám thai, kết quả ở bảng 2 cho thấy hầu hết các bà mẹ chọn khám thai tại các cơ sở y tế nhà nước ( 96,2% ). Điều tra của tác giả Trần Việt Anh về tình hình chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em tại huyện Đông Anh-Hà Nội năm 2000, cũng cho kết quả tương tự: 97,8% thai phụ khám thai tại các cơ sở y tế nhà nước. Điều này cho thấy xu hướng chung tại các vùng nông thôn, phụ nữ khi mang thai thường khám thai tại các cơ sở y tế nhà nước. Nghiên cứu cho thấy tại ba xã miền núi có nhiều dân tộc khác nhau như Phủ Lý, Hợp Thành, Ôn Lương nhưng rõ ràng tỷ lệ thai phụ đi khám thai tại các cơ sở y tế nhà nước không hề thua kém một địa phương ở ngay sát thủ đô Hà Nội. Trong thảo luận nhóm, khi được hỏi về sự lựa chọn nơi khám thai, các bà mẹ cho biết họ rất tin tưởng vào công tác khám chữa bệnh của trạm y tế xã, đã quen với việc đi khám tại trạm y tế mỗi khi bị ốm vì vậy khi có thai cũng khám tại đây. Mỗi tháng ở các trạm có một ngày riêng để khám thai. Theo các bà mẹ thì đi khám thai tại trạm rất dễ dàng, nhân viên y tế cũng là người quen, cùng làng xã nên nhiệt tình. Thêm vào đó, tại ba xã hầu như không có phòng khám tư nào. Ngoài ra chỉ có một trường hợp khám thai tại bệnh viện huyện. Đây là gia đình xếp loại giàu nhất làng nên muốn đi khám thai tại bệnh viện huyện cho tốt. Như vậy trạm y tế xã đã tạo được niềm tin đối với người dân, trong đó có các bà mẹ mang thai. Nghiên cứu cho thấy kiến thức và thực hành của các bà mẹ về việc đi khám thai là một ưu điểm nổi bật của địa phương. Những thành công này cần được phát triển và củng cố bền vững nhưng cũng chỉ ra nhu cầu đầu tư cho các trạm y tế xã cả về nhân lực cũng như trang thiết bị để đảm bảo và nâng cao chất lượng công tác khám thai tại địa phương. - Tiêm phòng uốn ván đảm bảo cho bà mẹ không bị uốn ván sau đẻ và đảm bảo cho con không bị uốn ván sơ sịnh. Vì thế đây là một nội dung quan trọng của công tác chăm sóc thai sản. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bà mẹ được tiêm phòng uốn ván khi mang thai là 94,3% (biểu đồ 3.3), cao hơn so với 91% bà mẹ được tiêm phòng uốn ván theo thống kê toàn quốc năm 2003 [4]. Tuy nhiên số được tiêm đủ hai mũi là chỉ là 82.9% và vẫn còn 4,7% bà mẹ không tiêm phòng uốn ván trong suốt thời kỳ thai nghén. Như vậy việc tiêm phòng uốn ván của các bà mẹ mang thai đã được thực hiện chưa đầy đủ. Việc tiêm phòng uốn ván được thực hiện khi bà mẹ đi khám thai. Những trường hợp không tiêm phòng đủ số lần đều do bà mẹ không đi khám thai không đủ số lần (số liệu về việc khám thai đã cho biết 17,1% bà mẹ không khám thai đủ 3 lần) do đó cần tích cực tuyên truyền giáo dục để người phụ nữ đi khám thai và tiêm phòng uốn ván đầy đủ hơn. - Về việc uống bổ xung viên sắt, tại ba xã có 11/105 bà mẹ không biết, hay vì một lí do nào đó không được uống viên sắt (chiếm 10,5%, biểu đồ 3.4). Những bà mẹ này có nguy cơ rất cao dẫn tới thiếu máu, thiếu sắt trong thời kỳ thai nghén và trẻ sơ sinh của các bà mẹ này cũng có nguy cơ cao thiếu sắt. Sự thiếu hụt yếu tố vi lượng này có thể gây nhiều rối loạn dẫn tới nhiều bệnh lý khác nhau như thiếu máu, giảm khả năng đề kháng, dễ bị nhiễm khuẩn, dễ bị chảy máu sau đẻ, thai suy dinh dưỡng, chậm phát triển. Điều đáng lưu ý hơn nữa là trong số 94 bà mẹ ( chiếm 88% ) có uống viên sắt thì có tới 35 bà mẹ ( chiếm55% ) uống không đầy đủ, uống dưới 90 ngày. Số người này nhớ thì uống không nhớ thì thôi, uống vài ngày cách quãng rồi bỏ. Nếu so sánh với Chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản thì rõ ràng thực hành uống bổ sung viên sắt của các bà mẹ khi có thai chưa đạt [3]. Qua thảo luận nhóm cho thấy các bà mẹ chưa hiểu hết được tầm quan trọng của việc uống bổ xung viên sắt, dẫn tới việc họ không chú ý quan tâm và thực hiện không tốt. Vì vậy việc tuyên truyền nâng cao trách nhiệm cho các bà mẹ và nhắc nhở họ là biện pháp khắc phục tồn tại này. - Vấn đề uống vitamin A sau đẻ của các bà mẹ cũng đáng báo động. Có gần 2/3 số bà mẹ được hỏi là không biết, hay không được uống vitamin A (biểu đồ 3.5). Điều này do nhiều nguyên nhân như do số bà mẹ được thăm khám sau đẻ rất ít, trạm y tế không đủ thuốc hoặc do hiểu biết của các bà mẹ chưa cao. Theo chúng tôi số lượng bà mẹ được uống cả viên sắt và vitamin A còn thấp hơn nữa. Kết quả của chúng tôi cũng tương tự với kết quả của Trần Hùng Minh trong nghiên cứu tại Quảng Xương : 76,3% bà mẹ có sử dụng vitamin A sau khi sinh [13]. Như vậy hướng dẫn bà mẹ uống vitamin A còn là một nội dung chưa được phổ biến nhiều trong các chương trình CSSK bà mẹ- trẻ sơ sinh. - Nghiên cứu định tính qua thảo luận nhóm cho thấy hầu hết các bà mẹ uống viên sắt và vitamin A theo chỉ dẫn của nhân viên y tế ở trạm. Họ biết làm thế thì tốt cho sức khoẻ nhưng không nêu được ý nghĩa của những loại thuốc này. Thực trạng này phản ánh một điều rằng bản thân các bà mẹ chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc uống viên sắt và vitamin A, chưa nhận thấy việc bỏ qua, không uống các chất bổ sung sẽ có thể đưa đến nhiều hậu quả cho thai nhi lúc ra đời cũng như ảnh hưởng tới sự phát triển thể chất của trẻ sau này. Cán bộ y tế ở địa phương cần quan tâm hơn về vấn đề này, tăng cường giáo dục vận động việc uống viên sắt và Vitamin A cho các bà mẹ có thai, kết hợp với hướng dẫn và cung cấp các loại thuốc này bằng những hình thức phù hợp điều kiện sống của các bà mẹ, đảm bảo việc uống viên sắt đầy đủ ở 100% phụ nữ có thai . - Chế độ ăn nghỉ của bà mẹ trong thời gian mang thai và sau sinh là một vấn đề khá rộng. Trong khuôn khổ của nghiên cứu, chúng tôi chỉ xin bàn về hai vấn đề là chế độ làm việc, nghỉ ngơi và chế độ ăn của các bà mẹ. Để có được nhiều thông tin đa dạng về vấn đề này chúng tôi đã sử dụng hình thức thảo luận nhóm tập chung . Đây là một kỹ thuật nghiên cứu định tính phù hợp cho việc tìm hiểu về niềm tin, thái độ, hành vi trong quần thể, lại gần gũi với các hình thức sinh hoạt tại cộng đồng, giúp các bà mẹ thoải mái, tự tin đưa ra ý kiến của mình. Tuy nhiên có phần hạn chế do kỹ thuật này không cho phép đưa ra tần số phân bổ của các niềm tin và các hành vi trong cộng đồng. Thảo luận nhóm đă cho thấy các bà mẹ đã có kiến thức về chế độ ăn uống bồi dưõng khi có thai và sau khi sinh nở nhưng do điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn nên thực tế họ không được hưởng những chế độ ưu tiên mà lẽ ra họ phải được nhận. Những tập tục ăn kiêng ít được áp dụng. Các bà mẹ có kiến thức về việc nghỉ lao động nặng trước và sau khi sinh nhưng do điều kiện gia đình, do đặc thù của lao động nông nghiệp là theo mùa vụ nên thời gian nghỉ của chị em còn ít. Nhưng vẫn còn có quan niệm sai lầm như cho rằng làm càng nhiều thì đẻ càng dễ. Thực trạng trên đây không chỉ phụ thuộc vào sự tác động của hệ thống y tế mà lại phụ thuộc khá nhiều vào điều kiện kinh tế, tuổi tác, số con của bà mẹ và đặc b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC1070.doc