Một số tư tưởng kinh tế Việt Nam hiện đại (kỳ 2)

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (1/2011) thực hiện “triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế”. Đại hội XI cũng xác định phương châm công tác đối ngoại là: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Điểm mới trong phương châm đối ngoại của Đại hội XI là “hội nhập quốc tế” và là “thành viên có trách nhiệm”. Như vậy, quá trình thực hiện nền kinh tế mở với đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 1986 đến nay có ý nghĩa rất quan trọng: góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng khoảng kinh tế - xã hội, nền kinh tế Việt Nam có bước phát triển mới; thế và lực của Việt Nam được nâng cao trên thương trường và chính trường quốc tế. Các thành tựu đối ngoại trong gần 30 năm qua đã chứng minh việc thực hiện nền kinh tế mở của Đảng và NN ta trong thời kỳ đổi mới là đúng đắn và sáng tạo, góp phần đưa đất nước vững bước trên con đường đi lên CNXH.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 182 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số tư tưởng kinh tế Việt Nam hiện đại (kỳ 2), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2016 No. 1/2016 45 MỘT SỐ TƯ TƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI (Kỳ 2) ThS. Lê Thị Mến Khoa Lý luận Chính trị, Trường ĐHXD Miền Trung Tóm tắt Sau gần 30 năm đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực và ngày càng khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Thực tiễn đó cho thấy những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đã đi vào cuộc sống và được hiện thực hóa trên con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài viết phân tích về một số tư tưởng kinh tế của Đảng cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước. Từ khóa Việt Nam (VN), Chủ nghĩa xã hội (CNXH), Nhà nước (NN), Kinh tế thị trường (KTTT), Đảng cộng sản, Đại hội Đảng toàn quốc, thành phần kinh tế (TPKT). I. TƯ TƯỞNG VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỞNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM 1. Bối cảnh xuất hiện tư tưởng KTTT định hướng XHCN Từ những năm 1986 trở về trước, VN ủng hộ tư tưởng điều tiết nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Theo tư tưởng này, nền kinh tế phát triển theo một kế hoạch thống nhất từ Trung ương đến địa phương. NN phân bố nguồn lực và sản phẩm làm ra bằng một hệ thống các chỉ tiêu pháp lệnh và chi phối hầu hết các hoạt động của nền kinh tế. Các ngành, các doanh nghiệp hoạt động theo chỉ tiêu, kế hoạch của NN, với kiểu “lỗ NN bù, lãi NN thu”. Giá cả sản phẩm được hình thành theo kế hoạch NN quy định. Kế hoạch là công cụ quan trọng trong quản lý kinh tế nhưng bó hẹp trong phạm vi kinh tế và ngân sách NN, chỉ chú trọng phát triển kinh tế quốc doanh, còn các TPKT khác không được coi trọng và do đó, cũng không bao quát toàn bộ nền kinh tế. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung trên đã có những tác động tích cực đối với nền kinh tế nước ta, đặc biệt trong thời gian chiến tranh. Nó góp phần tập trung nguồn lực cho các mục tiêu ưu tiên của đất nước, đồng thời cũng có tác động tích cực cho việc khôi phục và phát triển kinh tế trong giai đoạn từ chiến tranh chuyển sang hòa bình. Tuy vậy, cơ chế kế hoạch hóa tập trung dần trở nên xơ cứng, không phù hợp với sự phát triển của đất nước trong điều kiện hòa bình, nhất là trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh kinh tế diễn ra trên phạm vi toàn thế giới. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2016 No. 1/2016 46 chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”. Như vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường xuất phát từ nhu cầu của nền kinh tế nước ta, từ vị trí, vai trò, ý nghĩa của cơ chế trị trường và xu hướng phát triển của thời đại. Đó là: Thứ nhất, do những hạn chế của cơ chế hế hoạch hóa tập trung đã làm cho nền kinh tế VN bị xơ cứng, năng suất hiệu quả quá thấp, tăng trưởng kinh tế chậm, sản xuất không đủ đáp ứng yêu cầu, tiêu dùng, không có tích lũy. Trong khi đó, thực hiện phát triển kinh tế ở các nước có nền kinh tế thị trường chỉ rõ những ưu việt của nền kinh tế này là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng, là một nền kinh tế năng động với nhiều sản phẩm, dịch vụ. Thứ hai, xu hướng của các nước trên thế giới là hướng nền kinh tế vào phát triển theo cơ chế thị trường, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, vừa hợp tác vừa cạnh tranh mạnh mẽ. Chính vì vậy, việc chuyển nền kinh tế nước ta sang vận hành theo cơ chế thị trường là sự cần thiết khách quan. 2. Kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội có mâu thuẫn hay không? Cho đến những năm 90 của thế kỷ XX, ở VN nhiều người vẫn còn chưa hiểu rõ KTTT là gì, liệu có thể sử dụng KTTT để phát triển nền kinh tế nước ta theo định hướng XHCN hay không? Thực chất, KTTT chỉ là một công nghệ, một phương pháp, một phương tiện để phát triển kinh tế có hiệu quả nhất mà thôi. Bởi lẽ, kinh tế tự nhiên, kinh tế hàng hóa hay KTTT có nghĩa là nói tới các kiểu tổ chức kinh tế - xã hội khác nhau, các cơ chế điều hành nền kinh tế khác nhau mà con người có thể sử dụng để tiến hành tổ chức nền sản xuất xã hội. Điều đó có nghĩa là chúng ta không thể đồng nhất KTTT với chủ nghĩa tư bản, kinh tế tự nhiên với xã hội cộng sản nguyên thủy, hay kinh tế hàng hóa giản đơn với xã hội chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến. Sở dĩ người ta phạm phải sai lầm khi đồng nhất KTTT với chủ nghĩa tư bản, vì quá trình chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn sang KTTT diễn ra trong thời kỳ quá độ từ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản. Và sự phát triển của nó càng mạnh mẽ hơn dưới thời kỳ chủ nghĩa tư bản. Trong khi đó, mô hình phát triển kinh tế mà các nước XHCN áp dụng vào những năm 20 của thế kỷ XX là nền kinh tế chỉ huy (nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung). Từ đó, người ta thường cho rằng, nền kinh tế chỉ huy là đặc trưng riêng có của XHCN, còn nền KTTT là đặc trưng riêng có của chủ nghĩa tư bản. Tư tưởng này tồn tại trong các bài viết, giáo trình, giáo khoa và thấm nhuần vào tư tưởng của các nhà quản lý và mặc nhiên, người ta coi nó như là chân lý tuyệt đối. Những năm gần đây, sau khi mô hình kinh tế chỉ huy bị đỗ vỡ, phạm vi phát triển của KTTT được mở rộng ra không chỉ trong từng nước, từng khu vực mà còn phát triển trên toàn thế giới đã chứng minh rằng: không một nước nào không áp dụng công nghệ KTTT để phát triển nền kinh tế của nước mình. Điều đó càng chứng tỏ rằng: KTTT không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, phát triển KTTT không phải là phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Vậy, CNXH có thể sử dụng được KTTT để phát triển hay không? KTTT và nền kinh tế định hướng XHCN có thể song hành phát triển được hay không? Thật ra, không có công nghệ nào lại không có mặt tích cực và hạn chế. Mặt tích cực của công nghệ KTTT là nền kinh tế có năng suất lao động cao hơn, phát triển nhanh hơn, phồn thịnh và văn minh hơn. Nhưng mặt tiêu Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2016 No. 1/2016 47 cực của nó là làm cho sự phân hóa, bất bình đẳng có cơ sở để nảy sinh sâu sắc hơn. Nghĩa là, sử dụng công nghệ KTTT, chúng ta đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh và có cơ sở tiến tới một xã hội văn minh; song chúng ta lại vấp phải giới hạn của sự bình đẳng trong xã hội. Giới hạn đó chính là khuyết tật của KTTT. Vậy, chúng ta hoàn toàn có thể và cần phải sử dụng KTTT với tư cách là một công nghệ hiện đại để phát triển nền kinh tế theo định hướng XHCN. Vấn đề còn lại là phải khắc phục những khuyết tật của KTTT. Để làm được điều đó, sự quyết định là phải dựa vào NN. Với đặc điểm là NN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thì NN VN có vai trò quyết định trong việc giải quyết vấn đề bình đẳng trong xã hội. Sự phát triển của nền kinh tế nước ta có đúng hướng hay chệch hướng hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò quản lý, điều tiết của NN. Thông qua việc sử dụng các công cụ chính sách vĩ mô, hệ thống pháp luật thì NN ta hoàn toàn có thể điều hành một nền kinh tế theo định hướng XHCN, phù hợp với những nguyên tắc của KTTT, tạo điều kiện tốt nhất để phát huy những tác dụng tích cực của công nghệ phát triển kinh tế hiện đại này; vừa khắc phục những khuyết tật của nó, đảm bảo sự bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội cho mọi công dân. 3. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Tư tưởng về thể chế KTTT định hướng XHCN được hình thành trong quá trình chuyển sang nền KTTT. Mầm móng của tư tưởng này có từ Đại hội VI (12/1986), nó tiếp tục phát triển qua các kỳ Đại hội lần VII, VIII, dần hoàn thiện ở Đại hội IX, X, XI. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) chủ trương “kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thiết lập hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hoạch toán kinh doanh XHCN”. Cơ chế mới lấy kế hoạch hóa làm trung tâm, sử dụng dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quản lý bằng phương pháp kinh tế là chủ yếu. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991) xác định nền kinh tế của ta là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước”. Đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên CNXH của VN. Đại hội cũng nêu quan điểm về thể chế kinh tế mới được thể hiện rõ ràng hơn “cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN lên cơ chế thị trường, có sự quản lý của NN bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ kinh tế khác”. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4/2001), tư tưởng này được thể hiện thông qua chủ trương tạo lập đồng bộ các loại thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của NN. Theo tinh thần của văn kiện Đại hội IX, bên cạnh đẩy mạnh sự phát triển của thị trường hàng hóa dịch vụ, cần thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng XHCN; đặc biệt quan tâm đến các loại thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của NN để định hướng phát triển kinh tế-xã hội, khai thác hợp lý nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập, kiểm tra, kiểm soát, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại. Lần đầu tiên, văn kiện Đại hội X (4/2006) chính thức thừa nhận thuật ngữ thể chế KTTT. Văn kiện ghi rõ: hoàn thiện Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2016 No. 1/2016 48 thể chế KTTT định hướng XHCN phải chú ý đến 2 nội dung: Một là, nắm vững định hướng XHCN trong nền KTTT ở VN. Theo đó, phải: + Thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng; giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. + Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế NN giữ vai trò chủ đạo, kinh tế NN cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. + Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục,... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. + Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lý điều tiết nền kinh tế của NN pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hai là, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của NN. NN có các chức năng chủ yếu sau: + Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. + Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực xã hội cho phát triển, các chủ thể hoạt động kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, có trật tự, kỷ cương. + Hỗ trợ phát triển, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, hệ thống an sinh xã hội. + Đảm bảo tính bền vững và tích cực của các cân đối vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. + Tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế. + Thực hiện quản lý NN bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. + Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính và tiền tệ, đảm bảo tính ổn định và sự phát triển bền vững của nền tài chính quốc gia. + Phân định rõ chức năng, mối quan hệ giữa Quốc hội, Chính phủ và các bộ ngành, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong quản lý NN về kinh tế - xã hội. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (1/2011), xác định nền KTTT của nước ta là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của NN, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản”. Mục tiêu cơ bản là làm cho thể chế KTTT định hướng XHCN ở nước ta phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của KTTT, thúc đẩy phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng XHCN, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc VN XHCN. Mục tiêu này yêu cầu phải hoàn thành cơ bản vào năm 2020. Đại hội XI nhấn mạnh: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, là một trong ba đột phá chiến lược trong 10 năm tới”. Đại hội XI cũng nêu ra mục tiêu cụ thể những năm tới: + Một là, từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đảm bảo cho nền KTTT định hướng XHCN phát triển thuận lợi; + Hai là, đổi mới cơ bản mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của đơn vị sự nghiệp công. Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2016 No. 1/2016 49 + Ba là, phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước, từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới. + Bốn là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. + Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của NN và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội. II. TƯ TƯỞNG VỀ NỀN KINH TẾ MỞ Ở VIỆT NAM 1. Nền kinh tế đóng và nền kinh tế mở Nền kinh tế đóng (kinh tế khép kín, kinh tế tự cung tự cấp) là kiểu kinh tế của một nước biệt lập với nền kinh tế thế giới, không tính đến những nhân tố bên ngoài, đối lập với xu hướng kinh tế hóa đời sống kinh tế. Kiểu kinh tế này thích hợp với nền kinh tế tự nhiên. Sản xuất của nền kinh tế này chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và thuần túy mang tính tự cấp tự túc với kỹ thuật canh tác lạc hậu, phân công lao động và sản xuất hàng hóa kém phát triển. Nền kinh tế mở là kiểu kinh tế của một nước gắn liền với nền kinh tế thế giới. Trong các nước tổ chức kinh tế theo hướng kinh tế mở hình thành trên một thị trường quốc gia đồng bộ thông suốt và gắn bó với nền kinh tế thế giới. Ở trong nước, các nền kinh tế mở thực hiện chính sách tự do hóa thương mại, tự do hóa kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật NN. Trong quan hệ kinh tế với các nước khác thực hiện giảm thiểu những khó khăn, trở ngại để đẩy mạnh giao lưu thương mại, kinh tế, khoa học, công nghệ; từng bước thực hiện gắn thị trường trong nước với thị trường khu vực và quốc tế, vừa hợp tác vừa cạnh tranh trên thị trường thế giới. Trong thời đại ngày nay, nền kinh tế mở phán ánh xu thế quốc tế hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. 2. Quá trình phát triển tư tưởng nền kinh tế mở ở Việt Nam Quá trình phát triển tư tưởng nền kinh tế mở ở Việt Nam gắn liền với cải cách, đổi mới các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại, thương mại quốc tế ở VN. Sau khi miền Nam được giải phóng, cả nước thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định: không ngừng mở rộng phân công và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật; đẩy mạnh các hoạt động ngoại thương và đòi hỏi khách quan của thời đại. Đặc biệt đối với nước ta, từ sản suất nhỏ tiến thẳng lên sản xuất lớn XHCN, việc tăng cường quan hệ phân công, hợp tác tương trợ về kinh tế đối với các nước XHCN anh em và phát triển các quan hệ với các nước khác có tầm quan trọng rất lớn. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) trên cơ sở nhận thức đặc điểm nổi bật của thế giới là cuộc cách mạng khoa - học kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất, Đảng ta nhận định “xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau,cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta”. Từ đó Đảng chủ trương phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới và đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước ngoài hệ thống XHCN, với các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Triển khai chủ trương của Đảng, 12- 1987, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành. Đây là lần đầu tiên NN ta tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại VN. Tháng 5-1988, Bộ Chính trị ra nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình tình mới, khẳng định mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất của Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2016 No. 1/2016 50 Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hoà bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế. Nghị quyết số 13 của Bộ chính trị đánh dấu sự đổi mới tư duy quan hệ quốc tế và chuyển hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của Đảng ta. Sự chuyển hướng này đã đặt nền móng hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế. Trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, từ năm 1989, Đảng chủ trương xoá bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu. So với chủ trương của Đại hội V (3/1982) là “Nhà nước độc quyền ngoại thương và Trung ương thống nhất quản lý công tác ngoại thương”, thì đây là bước đổi mới đầu tiên trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại của VN. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991) đề ra chủ trương “hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị-xã hôi khác nhau, trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình”, với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Đại hội VII đã đổi mới chính sách đối ngoại với các đối tác, thực hiện đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả trên tinh thần bình đẳng. Các Hội nghị Trung ương (khoá VII) tiếp tục cụ thể hoá quan điểm của Đại hội VII về lĩnh vực đối ngoại. Trong đó, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (tháng 6-1992) nhấn mạnh yêu cầu đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế. Mở rộng cửa để tiếp thu vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tiếp cận thị trường thế giới, trên cơ sở bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ tài nguyên, hạn chế đến mức tối thiểu những mặt tiêu cực phát sinh trong quá trình mở cửa. Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (1/1994) chủ trương triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ đối ngoại, trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo là: giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và CNXH. Đồng thời, phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của VN cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở và “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4/2001), Đảng nhấn mạnh chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Lần đầu tiên, Đảng nêu rõ quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất nước”. Cảm nhận đầy đủ “lực” và “thế” của đất nước sau 15 năm đổi mới. Đại hội IX đã phát triển phương châm của Đại Hội VII là: “Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Chủ trương xây dựng quan hệ đối tác được đề ra ở ĐH IX đánh dấu bước phát triển về chất tiến trình quan hệ quốc tế của VN thời kỳ đổi mới. Tháng 11-2001, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 07 về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2016 No. 1/2016 51 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (4/2006) nêu quan điểm: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Đồng thời đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (1/2011) thực hiện “triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế”. Đại hội XI cũng xác định phương châm công tác đối ngoại là: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Điểm mới trong phương châm đối ngoại của Đại hội XI là “hội nhập quốc tế” và là “thành viên có trách nhiệm”. Như vậy, quá trình thực hiện nền kinh tế mở với đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 1986 đến nay có ý nghĩa rất quan trọng: góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng khoảng kinh tế - xã hội, nền kinh tế Việt Nam có bước phát triển mới; thế và lực của Việt Nam được nâng cao trên thương trường và chính trường quốc tế. Các thành tựu đối ngoại trong gần 30 năm qua đã chứng minh việc thực hiện nền kinh tế mở của Đảng và NN ta trong thời kỳ đổi mới là đúng đắn và sáng tạo, góp phần đưa đất nước vững bước trên con đường đi lên CNXH. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI; VII; VIII; IX; X; XI của Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Nguyễn Viết Thông. Tìm hiểu nội dung các văn kiện Đại hội XI của Đảng. 3. PGS.TS. Đinh Xuân Lý và TS. Phạm Công Nhất, 2008. Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 4. Bộ Thương mại, 2004. Tài liệu bồi dưỡng: Kiến thức cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế. Hà Nội. 5. PGS.TS Nguyễn Văn Trình (chủ biên), 2009. Kinh tế đối ngoại Việt Nam. NXB Đại học Quốc gia TPHCM.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmot_so_tu_tuong_kinh_te_viet_nam_hien_dai_ky_2.pdf
Tài liệu liên quan