Một số vấn đề quản lý nhà nước đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ

Để có thể triển khai việc xuất khẩu phục vụ cho các nhu cầu lễ hội của các nước trên thế giới như là một trong những mũi nhọn khuyếch trương hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm tới, đề nghị : *Ở nhưng nơi Việt Nam có đại diện thương mại thì giao nhiệm vụ cho họ tìm hiểu khảo sát nhu cầu phục vụ lễ hội tại địa bàn, khi phát hiện nhu cầu và đối tác thì cử ngay nhóm công tác đến tận nơi khảo sát, thiết kế mẫu mã chào bán và ký hợp đồng cho các cơ sở sản xuất trong nước sản xuất và giao hàng. Chi phí cho nhóm công tác trong một vài năm đầu do Nhà nước hỗ trợ 100%. Nếu ký được hợp đồng thì được hưởng thêm. *Ở những nước ta chưa có đại diện thương mại thường trú thì giao cho ban xúc tiến thương mại cùng công ty hội chợ triển lãm của Bộ chủ quản nghiên cứu, có kế hoặch gửi nhóm công tác bao gồm : hoạ sĩ nghệ nhân, cán bộ kinh doanh nghành hàng thủ công mỹ nghệ đến tìm hiểu, khảo sát, thiết kế mẫu mã chào bán theo cơ chế chính sách đã nêu.

doc94 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 836 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số vấn đề quản lý nhà nước đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g mặt hàng mây tre đan phải đa dạng từ cao cấp đến trung bình, thậm chí rẻ tiền. Do vậy không chỉ tạo cơ hội cho các nhà xuất khẩu lớn mà cả các nhà xuất khẩu trung bình và nhỏ. Đó là thuận lợi cho công ty. Nhưng nhu cầu hiện nay không cao và một số nước đã chiếm thị trường này như Malaysia, Indonexia, Đài Loan. Để mở rộng sang thị trường này Công ty sẽ có rất nhiều việc cần phải làm như: áp dụng tích cực các giải pháp để giữ khu vực thị trường truyền thống, đặc biệt là các khách hàng lớn. Nghiên cứu để hình thành các thoả ước chung với khách hàng thường xuyên trên cơ sở bảo đảm sự có lợi cho hai bên. + Đối với thị trường Châu Phi: Tuy hiện nay công ty chỉ có quan hệ với Angeria nhưng công ty có thể tranh thủ vào sự viện trợ và cho vay hàng hoá của các nước phát triển và các nước đang phát triển để đi vào thị trường này. + Ngoài ra công ty cần phải tăng cường hợp tác với đối tác phía Trung Quốc để tăng khả năng cạnh tranh của công ty với các thị trường khác. 1.2 Xác định đúng đắn chính sách sản phẩm Trước hết Công ty phải dựa trên kết quả nghiên cứu thị trường, phân tích vòng đời, giá cả của sản phẩm mây tre, phân tích nhu cầu, sở thích của thị trường về sản phẩm đó và phân tích tình hình cạnh tranh trên thị trường mây tre đan thế giới. Từ đó, công ty đề ra một chính sách sản phẩm đúng đắn. Một chính sách sản phẩm là đúng đắn khi nó giúp công ty mua và xuất khẩu những sản phẩm có chất lượng, số lượng, mức giá được thị trường chấp nhận, có sự tiêu thụ chắc chắn đảm bảo cho công ty có lợi nhuận và mở rộng được thị trường xuất khẩu, nâng cao uy tín sản phẩm của công ty. Để có một chính sách sản phẩm đúng đắn, công ty cần áp dụng một số biện pháp sau: ◊Công ty phải không ngừng thay đổi mẫu mã của mặt hàng mây tre đan sao cho phục vụ được các yêu cầu đa dạng của khách hàng. So với những công ty xuất khẩu mây tre khác, khả năng cải tiến mẫu mã sản phẩm của công ty có phần chậm hơn, đồng thời điều kiện vệ sinh công nghiệp còn yếu kém. Do vậy, những mẫu mã mới phải được nghiên cứu, thiết kế dựa vào kết quả nghiên cứu thị trường, sao cho phù hợp với thị hiếu, sở thích của từng khách hàng ở từng khu vực. Để có thể có được nhiều loại mẫu mã phù hợp với từng sở thích, công ty nên đặc biệt quan tâm đến quyền lợi của việc sáng tác mẫu mã hàng hoá mới. Hàng năm trước mùa đàm phán ký kết hợp đồng, công ty nên phát động các cơ sở sản xuất, chế biến sáng tạo mẫu mã mới và khi cơ sở nào có mẫu được khách hàng lựa chọn, công ty nên có một vài ưu đãi. Ngoài biện pháp này, công ty có thể áp dụng một số biện pháp khác để khuyến khích việc cải tiến mẫu mã. Đó là cơ sở nào có nhiều mẫu mã được khách hàng lựa chọn thì nên tạo điều kiện cho đại diện của cơ sở đó đi tham quan tìm hiểu thị trường nước ngoài cung với đoàn cán bộ đi tìm hiểu thị trường hàng năm để mở mang tầm hiểu biết về thị hiếu của người tiêu dùng, từ đó có vốn để sáng tạo. Không những thế công ty cũng có thể áp dụng biện pháp khác như có thể “ học hỏi ”mẫu mã của các cơ sở xuất khẩu mây tre khác thông qua việc đến liên hệ trực tiếp( nếu có thể )hay ghi nhận các mẫu mã hay của họ tại các hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước và cũng có thể thông qua khách hàng của các đối thủ cạnh tranh để có được các mẫu mã. ◊Tổ chức tuyên truyền tới các cơ sở sản xuất để người lao động nhận thức đầy đủ hơn về sản phẩm mây tre xuất khẩu. Để họ không chỉ sản xuất mặt hàng mây tre đan vì mục đích duy nhất là kinh tế. Sản phẩm mây tre mỹ nghệ là sản phẩm vừa mang giá trị hàng hoá, đồng thời nó cũng mang đậm tính văn hoá dân tộc. Người sản xuất không chỉ làm ra giá trị sử dụng và chuyển giá trị sử dụng đó cho người nước ngoài mà phải chuyển tải cả giá trị văn hoá nữa. Có thể nhận thức được vấn đề này người sản xuất sẽ quan tâm hơn nữa đến chất lượng sản phẩm. ◊Công ty cũng nên đầu tư vào thiết bị máy móc, công nghệ, các chất xử lý khác để nâng cao chất lượng xử lý nguyên liệu dẫn tới nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá xuất khẩu. ◊Mặc dù hàng mây tre mỹ nghệ là hàng khó chuẩn hoá về chất lượng. Song việc mua gom hàng hoá không thể tiến hành ồ ạt mà phải có chọn lựa, phải có những mặt hàng mẫu có tiêu chuẩn tốt là đối tượng để so sánh. Phải kiên quyết loại bỏ những mặt hàng không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, từ đó tăng ý thức trách nhiệm đối với người sản xuất. ◊Công ty cũng nên quan tâm tới tiêu chuẩn ISO( hệ thống tiêu chuẩn quốc tế )trong đó bao gồm những quy định quốc tế đối với chất lượng hàng hoá xuất khẩu và hệ thống đảm bảo chất lượng nhằm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. Vì hiện nay không những công ty mua gom hàng từ các cơ sở làng nghề mà công ty còn có xưởng sản xuất hàng mây tre đan và xí nghiệp liên doanh với Trung Quốc sản xuất chiếu treNếu tiến tới công ty có thể áp dụng thực hiện đạt được chứng nhận tiêu chuẩn ISO thì đó là một lợi thế rất lớn trong cạnh tranh, mở rộng hoạt động và nâng cao hiệu quả kinh doanh xã hội. 1.3 Hoàn thiện chính sách phân phối Chính sách phân phối có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Một chính sách phân phối hợp lý sẽ làm cho quá trình kinh doanh an toàn, tăng cương được khả năng liên kết trong kinh doanh, làm cho quá trình lưu thông nhanh và hiệu quả. Vì vậy, chính sách phân phối hợp lý sẽ giúp công ty chiếm lĩnh và mở rộng thị trường. Hiện tại kênh phân phối của công ty có dạng sau: Các cơ sở CaCcC chế biến UNIMEX Hà Tây Trung gian nước ngoài Người tiêu dùng cuối cùng Hiện nay công ty không có mạng lưới phân phối trực tiếp đến tay người tiêu dùng mà thương bán cho các trung gian nước ngoài. Với kiểu kinh doanh này, chính sách phân phối của công ty có nhược điểm là: + Hoạt động phân phối của công ty phụ thuộc nhiều vào các cơ sở sản xuất, chế biến ngoài công ty. Hiện tại các cơ sở này rất nhỏ bé, chưa có điều kiện tham gia hoạt động xuất khẩu, mặt khác hoạt động của họ còn bị hạn chế do công ty có những biện pháp kết dính các cơ sở này lớn mạnh lên hoặc liên kết với nhau tạo những điều kiện thuận lợi để tự thực hiện xuất khẩu thì công ty sẽ lâm vào tình trạng thiếu hàng để phân phối. Biện pháp cần thiết để đề phòng là trước mắt công ty phải phát huy thế mạnh của mình về vốn và thị trường xuất khẩu. Mặt khác Công ty phải tỏ rõ sự nổi trội của mình về sự hiểu biết thị trường trong các giao dịch, buôn bán với bạn hàng nước ngoài. + Trong xuất khẩu hàng mây tre đan, Công ty hầu hết phải qua trung gian nước ngoài, do đó tính ổn định trong kinh doanh chưa cao, không có điều kiện tốt phát triển thị trường và lợi nhuận cũng chưa tương xứng với giá trị thực của sản phẩm. Với điều kiện hiện nay công ty chưa đủ khả năng lập chi nhánh tại nước ngoài nhưng công ty có thể hợp tác với các Công ty xuất khẩu hàng mây tre đan khác trong nước thành lập chi nhánh bán hàng mây tre đan của Việt Nam. Trong điều kiện sản phẩm mây tre đan chưa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới thì việc liên kết này rất có lợi, tập trung được sức mạnh của nhiều công ty phục vụ cho mục đích hàng đầu là nâng cao vị thế của hàng mây tre đan Việt Nam trên thị trường thế giới, đạt được mục đích này đối với các công ty xuất khẩu trong đều có lợi ích lớn và lâu dài. Khi sản phẩm mây tre đan đã có chỗ đứng thì việc mở rộng thị trường sẽ không quá khó khăn. Tuy nhiên đối với thị trường mới mà công ty chưa len vào được thì trung gian vẫn là biện pháp tốt nhất. Đối với những người môi giới đem lại nhiều khách hàng cho công ty thì công ty cũng cần có chế độ thưởng hoa hồng phù hợp, khuyến khích họ tiếp tục phát huy. Hiện nay công ty nên ưu tiên cho việc thu hút nhiều khách hàng hơn chỉ tìm những nguồn tiêu thụ lớn. Trong cd phân phối, công ty có thể lựa chọn các vị thế khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể để xuất khẩu, bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng mà khồng cần người trung gian( đối với hàng mây tre đan nguyên liệu, hoặc những sản phẩm cao cấp phục vụ cho nhu cầu cá biệt của một số người ), bán hàng qua trung gian là các công ty nước ngoài( khi muốn thâm nhập vào thị trường mới như Mỹ, úc, Phi)thông qua một vài kết hợp của các kênh trên nhằm múc đích vươn tới các thị trường khu vực khác nhau được phân hoá bởi quy mô doanh số. Việc hoàn thiện kênh phân phối được thể hiện như sau: Trung gian nước ngoài Cơ sở sản xuất chế biến  UNIMEX Hà Tây  Chi nhánh, Đại diện thương mại ởnước ngoài  Người tiêu dùng 1.4 Xác lập chính sách giá cả hớp lý Giá cả của sản phẩm không chỉ là phương tiện tính toán mà còn là công cụ bán hàng. Chính vì lý do đó, giá cả là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến lượng xuất khẩu hàng hoá ra các thị trường của công ty. Tuỳ theo sự biến động của các yếu tố mà mức giá luôn luôn được điều chỉnh từng thời điểm. Giá cả hàng mây tre đan xuất khẩu của công ty cũng như cá công ty xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ khác vào loại thấp trên thị trường. Giá sản phẩm cùng tên của Việt Nam chỉ bằng 1/5 đến 1/2 giá bán của các nước khác như Indonexia, Thái Lan, HongkongNguyên nhân cơ bản là do chế độ đãi ngộ, sử dụng các nghệ nhân, hoạ sĩ, người lao động sản xuất chế biến mây tre đan chưa thoả đáng nên mẫu mã ít thay đổi, kém nghệ thuật và mang tính thương mại kiểu hàng chợdẫn đến sản phẩm kém chất lượng, chưa đáp ứng sở thích người tiêu dùng nên giá rẻ. Lý do quan trọng nữa là công ty và các doanh nghiệp khác đều rất yếu về khâu tiếp thị, mặt hàng mây tre đan xuất khẩu của công ty khó tìm được một phạm vị tiêu thụ lớn như các nước cùng xuất khẩu trong khu vực. Một nguyên nhân khác khiến hàng Việt Nam giá rẻ là do cạnh tranh không lành mạnh, làm thiệt hại cho đất nước và cho chính bản thân mỗi doanh nghiệp. Về điều này các doanh nghiệp mây tre Việt Nam nên học tập các doanh nghiệp Nhật“ biết đóng cửa bảo nhau ”cùng vì lợi ích quốc gia và lợi ích lâu dài của chính bản thân mình. Là một đơn vị có mặt hàng mây tre đan xuất khẩu nhưng sản phẩm này không phải chỉ do công ty sản xuất được mà còn thu gom sản phẩm xuất khẩu từ các đơn vị sản xuất, chế biến khác nên trong việc xác lập một chính sách giá cả hợp lý phải hoạch định giá mua và giá xuất khẩu. Cụ thể như sau: `◊Mức giá xuất khẩu cao hơn có thể áp dụng đối với một số thị trường nhất định, khi sản phẩm có vị trí vững chắc trên thị trường. Điều này có thể áp dụng đối với những sản phẩm như bàn ghế song mây, mành tre, mành mây, mành trúccủa công ty tại các thị trường Châu á và Tây Bắc Âu. ◊Mức giá xuất khẩu thấp hơn được áp dụng khi sản phẩm đang ở vào giai đoạn suy thoái, khi công ty có ý định thâm nhập thị trường, theo đuổi mục tiêu doanh số. Công ty có thể áp dụng cách đặt giá này ở thị trường Đông Âu- SNG. ◊Với những sản phẩm thô( hàng thông thường )Công ty nên thường xuyên xây dựng những phương án đối với những nhà cung ứng trên cơ sở tiến hành thương lượng, đàm phán, mặc cả để chọn được một giá thu mua rẻ nhất. ◊Với sản phẩm kỹ thuật( có chất lượng cao )giá cả trên thị trường khá cao. Tuy nhiên, nguồn cung cấp những sản phẩm này trong nước lại khá hạn hẹp và giá thu mua cao. Công ty nên đầu tư cho những cơ sở mà công ty thu mua, mở rộng các cơ sở này để tạo nguồn sản phẩm kỹ thuật cho xuất khẩu. Một điều cần lưu ý là giá xuất khẩu phải tính đến yếu tố cạnh tranh. Đối với những thị trường có mức thu nhập cao như Mỹ, Nhật Bản, Tây Âuthì việc đặt giá thấp hơn đối thủ cạnh tranh chưa hẳn đã thu hút được nhiều khách hàng hơn. Mặt khác, khi giá quá cao so với đối thủ cạnh tranh có thể gây phản ứng nghi ngờ của khách hàng về chất lượng sản phẩm của công ty. Do đó, phải phân tích lựa chọn thật kỹ càng khi đặt giá. 1.5 Tăng cường các biện pháp hỗ trợ và xúc tiến bán hàng Một vấn đề mà các công ty Việt Nam luôn vấp phải khi xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài là sự khác biệt về trình độ tổ chức các hoạt động hỗ trợ và xúc tiến bán hàng giữa ta và các công ty nước ngoài cùng tham gia thị trường đó. Các công ty Việt Nam chưa có sự chú ý đến các hoạt động quảng cáo, chào hàng, giới thiệu sản phẩm, khuyếch trương sản phẩm, kích thích cầuhoặc nếu có thì ở mức độ nhỏ và còn kém hiệu quả. Việc sử dụng các công cụ hỗ trợ, xúc tiến bán hàng của công ty còn mang tính thụ động, bột phát theo phong trào, chưa hình thành nên chương trình với những mục tiêu cụ thể, cách thức chiến lược cụ thể đem lại kết quả như ý muốn. Chính vì vậy, trong thời gian tới công ty nên nghiên cứu, lựa chọn và sử dụng tốt các công cụ chính sách marketing vào hoạt động xuất khẩu để mau chóng thích ứng với những đòi hỏi khắt khe của thị trường. Muốn vậy, công ty phải xác định rõ: Nội dung của từng công cụ, mục đích của việc áp dụng công cụ đó, lựa chọn công cụ phù hợp rồi sau đó sắp xếp thành hệ thống với trình tự áp dụng có tính logic. Về quảng cáo Do đặc điểm hàng mây tre đan của công ty phần lớn là xuất khẩu cho những công ty trung gian nước ngoài chứ không phải đến được tận tay người tiêu dùng, do không phải là sản phẩm gia dụng tối cần thiết nên phương pháp quảng cáo qua tivi, bằng phim quảng cáo, hay radio không thích hợp nắm. Những phương tiện này chỉ có tác dụng đặc biệt đối với người tiêu dùng cuối cùng. Mặt khác, sử dụng các phương tiện này ở nước ngoài rất tốn kém. Công ty không nên sử dụng vừa gây lãng phí, hiệu quả không cao. Vậy tốt nhất là công ty quảng cáo qua bưu điện, tức là gửi những tờ bướm mẫu hàng, gửi catalog của mình cho khách hàng qua bưu điện, phương pháp này giúp công ty tập trung quảng cáo, kết hợp chào hàng cho những công ty trung gian nước ngoài , chi phí lại không lớn lắm. Ngày nay, cùng với sự phát triển của thương mại điện tử đã tạo ra một thuận lợi lớn cho các doanh nghiệp trong việc quảng bá sản phẩm của mình với thế giới một cách nhanh nhất và không đắt lắm. Công ty nên xây dựng cho mình một trang web để giới thiệu công ty và sản phẩm của mình đối với các bạn hàng quốc tế. Phương pháp này vừa mang lại hiệu quả cao mà chi phí bỏ ra không lớn lắm. Ngoài ra, công ty có thể tham gia các hội chợ triển lãm trong nước và quốc tế hàng năm do hiệp hội các nhà xuất khẩu thủ công mỹ nghệ tổ chức. Đây vừa là cơ hội để công ty có thể ký kết các hợp đồng kinh tế, quảng bá cho công ty và sản phẩm của mình vừa có thể học hỏi kinh nghiệm cũng như các mẫu mã sản phẩm mới của các đối thủ cạnh tranh. Đối với sản phẩm là đồ đạc nội thất công ty có thể sử dụng báo chí để quảng cáo, gây tác động trực tiếp đến người tiêu dùng. Công ty nên tiến hành quảng cáo định kỳ và cho nhiều khách hàng. Tăng cường xây dựng các mối quan hệ quần chúng Đây là hoạt động phục vụ cho việc xúc tiến bán hàng nhằm tạo sự gần giũ trong quan hệ giữa công ty với bạn hàng, tạo lòng tin của họ đối với công ty, tranh thủ sự ủng hộ và tạo ra sự ràng buộc giữa họ và công ty. Ngoài khách hàng hoạt động này còn nhằm vào những người có liên quan tới công tác kinh doanh xuất khẩu của công ty như các cán bộ lãnh đạo, các cán bộ trực tiếp kinh doanh Để tăng cường các mối quan hệ quần chúng, công ty có thể áp dụng các biện pháp sau: Với những bạn hàng lớn hoặc những người đi tìm hiểu có ý định mua hàng, công ty sẽ có một món quà là sản phẩm của công ty. Tổ chức hội nghị khách hàng: Công ty nên tổ chức mỗi năm một lần, để thu hút được nhiều khách hàng lứon và bạn hàng đến giao dịch, ký kết hợp đồng và đặt hàng. Hội nghi nên tổ chức dưới một hình thức thân mật như một buổi họp mặt giữa lãnh đạo, cán bộ thị trường của công ty với các đại diện kh. Trong hội nghi nên có nội dung gợi ý khách hàng nói về ưu, nhược điểm của sản phẩm, những vướng mắc trong mua bán, những thiếu sót trong quan hệ giao dịch Tổ chức hội thảo. Hội thảo khác với hội nghị khách hàng, chỉ đề cập tới một hoặc một vài khía cạnh kinh doanh. Hội thảo được tổ chức nghiêm túc hơn và quy mô hơn hội nghị khách hàng. Thành viên tham gia không chỉ có khách hàng và bạn hàng lớn mà còn có chuyên gia, các cán bộ cao cấp. Trong hội thảo, ngoài mục đích thăm dò thái độ của khách hàng còn cần biết tranh thủ ý kiến của các chuyên gia. Do đó chi phí của các hội thảo là không nhỏ đối với khả năng tài chính của công ty nên không nhất thiết phải tổ chức mà tuỳ thời điểm nào thấy cần thiết và trong điều kiện cho phép. Tổ chức các hoạt động yểm trợ bán hàng + Yểm trợ bán hàng là một hoạt động quan trọng của marketing. Hoạt động yểm trợ bán hàng được thông qua sử dụng hoạt động của các hiệp hội kinh doanh, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, hội chợ triển lãmđể lôi kéo khách hàng về cho doanh nghiệp. Trong những năm vừa qua, công ty cũng có tham gia vào một số hội chợ triển lãm ở địa phương, quốc gia để giới thiệu các mặt hàng mà công ty đang xuất khẩu trong đó có hàng thủ công mỹ nghệ mây tre đan. Mặt hàng mây tre đan của công ty được nhiều người tiêu dùng ưa thích và kết quả là công ty đã bán được khá nhiều sản phẩm này và đã ký kết được nhiều hợp đồng mua bán. hội chợ là hình thức yểm trợ không cần tiến hành thường xuyên, lại rất có hiệu quả, nó là dịp cho công ty tăng cường cơ hội giao tiếp và nắm bắt, nhận biết chính xác nhu cầu của thị trường và ưu nhược điểm mặt hàng công ty xuất khẩu. Tham gia hội chợ quốc tế tuy hiệu quả cao nhưng chi phí rất lớn. Công ty nên đề xuất với cấp lãnh đạo tỉnh tạo điều kiện như là cấp kinh phí để cho các sản phẩm của công ty đi triển lãm, hội chợ lớn tổ chức trong nước và có thể tham gia quốc tế kết hợp với những sản phẩm truyền thống khác của địa phương như lụa Vạn Phúc Tất cả các hoạt động trên phải được công ty tổ chức thật chu đáo để đạt được kết quả tốt. Việc hoàn thiện 5 chính sách thị trường, sản phẩm,giá cả, phân phối, giao tiếp và khuyếch trương đòi hỏi công ty phải đầu tư một số vốn rất lớn. 1.6 Chiến lược nhân sự Con người là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế. Tất cả các mục đích của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều phục vụ cho con người và cũng do con người thực hiện. Chính vì vậy mà trong bất kỳ một chiến lược phát triển của bất kỳ một công ty nào cũng không thể thiếu chiến lược về nhân sự. Công ty xuât nhập khẩu Hà Tây có một đội ngũ quản lý đã hầu hết có trình độ về kinh tế và ngoại ngữ. Tuy nhiên thời gian va chạm trên thương trường chưa lâu, đặc biệt là trên trường quốc tế. Tuy đã tích luỹ được khá nhiều kinh nghiệm nhưng để đối phó được với các đối tác nhiều khi còn bị động lúng túng nên bị đối phương lấn áp chèn ép làm giảm hiệu quả của hoạt động kinh doanh, đặc biệt là khi quan hệ làm ăn với các nước sừng sỏ, nhiều kinh nghiệm đã trở thành lão làng trên trường quốc tế. Trong cơ chế thị trường như hiện nay, thành công chỉ đến khi thực sự có đầy đủ khả năng, kinh nghiệm, có trình độ nghiệp vụ và phải thực sự năng động. Cho nên để cải thiện tình hình của công ty thì phải quan tâm không ngừng tới việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và đặc biệt là đội ngũ cán bộ trực tiếp làm nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Muốn vậy công ty phải có kế hoạch đào tạo lại và đào tạo bổ sung cũng như bồi dưỡng lực lượng làm công tác nghiệp vụ này. Công việc đào tạo phải được tiến hành từng bước cho phù hợp với tình hình của công ty, việc này có thể được tiến hành theo các hướng sau: Công ty nên sắp xếp cho cán bộ trẻ mới ra trường xen kẽ bên cạnh các cán bộ có nhiều năm kinh nghiệm , thâm niên công tác lâu năm trong công ty để lớp cán bộ trẻ có điều kiện học hỏi nâng cao vốn hiểu biết thực tế. Khuyến khích các cán bộ theo học các khoá học ngắn hạn hoặc dài hạn về kinh tế và nghiệp vụ kinh doanh ngoại thương đặc biệt là những người chưa qua đại học hoặc đã học các chuyên ngành khác mà không phải là thương mại, tổ chức đào tạo trình độ ngoại ngữ cho mọi cán bộ công nhân viên trong công ty đặc biệt là đội ngũ trực tiếp tiến hành các nghiệp vụ ngoại thương. Tổ chức đào tạo về thị trường và maketing cho các cán bộ chưa có đủ năng lực làm về công tác thị trường và maketing sản phẩm . Trong điều kiện cho phép công ty có thể mời các chuyên gia kinh tế , các chuyên gia về kinh doanh quốc tế để mở các lớp học ngắn hạn hoặc nói chuyện trực tiếp tại công ty về nghiệp vụ ngoại thương, nghệ thuật đàm phán trong kinh doanh thương mại quốc tế, về tình hình và xu hướng biến động của thị trường thế giới Đối với những cán bộ không có năng lực hoặc không thể làm việc trong kinh doanh xuất nhập khẩu công ty cần mạnh dạn chuyển họ sang lĩnh vực khác cho phù hợp với khả năng của họ hoặc sa thải để nâng cao hiệu quả làm việc trong công ty . Bên cạnh đó, công ty phải tạo được sự đoàn kết nhất trí trong cán bộ công nhân viên làm cho họ toàn tâm toàn lực đóng góp cho công việc chung bằng các biện pháp như : có chính sách khuyến khích cán bộ đi học thêm nhưng vẫn được hưởng lương, tạo điều kiện để họ có thể áp dụng ngay những điều đã học vào thực tế, khuyến khích các cán bộ sáng tạo trong lao động. Có chế độ thưởng thích hợp cho những ai có ý kiến đóng góp hiệu quả. Lồng các mục tiêu chung vào mục tiêu cá nhân để nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi cán bộ trong công ty. Tiến hành các hình thức biểu dương khen thưởng trước toàn công ty nhưng hiệu quả hơn vẫn là việc khuyến khích họ bằng hiện vật. Cần có chế độ ưu đãi đối với cán bộ công nhân viên lâu năm cũng như đặc biệt quan tâm tới thế hệ trẻ lực lượng kế nhiệm lãnh đạo và dẫn dắt công ty trong tương lai, cần tạo điều kiện cho toàn thể cán bộ trong công ty có cơ hội hiểu biết và giúp đỡ lẫn nhau. 1.7 Các giải pháp khác Công ty cần kết hợp nhiều loại hình xuất khẩu khác nhau nhằm tạo thêm cho công ty nhiều bạn hàng mới. Việc thực hiện quá cứng nhắc nguyên tắc “ hàng ra tiền vào ”khi bán hàng đã làm giảm một lượng khách chưa có được khả năng thanh toán tức thời. Đa dạng hoá hình thức xuất khẩu sẽ tạo thêm nhiều bạn hàng mới và đặc biệt thích hợp khi công ty có chiến lược mở rộng thị trường. Công ty có thể áp dụng hình thức trao đổi đối lưu, đối với những khách hàng chưa thể thanh toán ngay hoặc bên đối tác muốn nhập khẩu theo điều kiện này thì công ty có thể chấp nhận hàng đổi hàng dựa trên khả năng thực tế của công ty. Hoặc công ty có thể áp dụng hình thức xuất khẩu trả chậm đối với khách hàng quen biết và có tín nhiệm. Mặc dù hình thức xuất khẩu này không thích hợp đối với một công ty có vốn ít nhưng để kinh doanh đạt hiệu quả thì ta vẫn cần phải tận dụng. Công ty cần sử dụng máy tính vào quản lý và truy cập thông tin phục vụ cho kinh doanh. Ngày nay, khi xã hội càng phát triển thì thương mại điện tử trở thành một phương tiện tiện lợi cho hoạt động kinh doanh, các công ty có thể liên hệ làm ăn với nhau qua mạng máy tính để tìm cái mình cần. Không những thế, công ty có thể truy cập thông tin về tình hình giá cả, thị trường cũng như những biến động của nó thông qua máy tính nối mạng Công ty cũng cần tăng cường hơn mối quan hệ của công ty với các cơ quan, tổ chức có chức năng liên quan như Bộ thương mại, phòng thương mại và công nghiệp, các tổng công ty Trung ương để nắm bắt kịp thời các thông tin và được sự chỉ đạo quan tâm của cấp trên. Đa dạng hoá các hình thức thanh toán đồng thời củng cố và hoàn thiện tốt hơn các khâu trong quy trình thanh toán nhằm đảm bảo tính hiệu quả và nhanh chóng. Đối với hàng ứ đọng thì có thể bán giảm giá nhằm thu hồi vốn và giảm bớt các chi phí có liên quan. 2. Các giải pháp từ phía Nhà nước Đối với đất nước ta, việc quản lý kinh tế được thực hiện bằng các chính sách kinh tế vĩ mô. Các biện pháp này có tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp . Bởi vì các công cụ, chính sách vĩ mô này tạo ra một môi trường pháp lý mà mọi hoạt động của các doanh nghiệp đều phải thực hiện phù hợp với môi trường này .Đối với hoạt động kinh doanh quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng nếu như thực sự có một hệ thống các công cụ, chính sách điều tiết nền kinh tế đồng bộ, hoàn thiện hơn và thực sự thông thoáng sẽ là nhân tố thúc đẩy xuất khẩu rất mạnh mẽ . Các biện pháp, chính sách của Nhà nước thương dùng để thúc đẩy hoạt động xuầt khẩu là: thuế quan, tỷ giá hối đoái, các biện pháp phi thuế quan, các chính sách tài chính tín dụng hỗ trợ xuất khẩuDưới đây chúng ta sẽ xem xét một số chính sách thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Nhà nước. 2.1 Các biện pháp tài chính, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu Các biện pháp tài chính tín dụng là một biện pháp có tác dụng rất lớn đối với việc thúc đẩy xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam và đặc biệt là nó rất có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ như công ty XNK Hà Tây. Các hình thức của biện pháp này bao gồm: Cấp tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Vốn bỏ ra cho việc sản xuất và thực hiện các hoạt động xuất khẩu thường là rất lớn. Người xuất khẩu cần có một số vốn trước và sau khi giao hàng để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu. Nhiều khi người xuất khẩu cũng cần có thêm vốn để kéo dài các khoản tín dụng ngắn hạn mà họ dành cho người mua nước ngoài. Đặc biệt, khi bán hàng theo phương thức bán chịu tiền hàng xuất khẩu thì việc cấp tín dụng xuất khẩu trước khi giao hàng là hết sức quan trọng. Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây là một doanh nghiệp có vốn không lớn do vậy sẽ rất khó khăn cho doanh nghiệp nếu doanh nghiệp thực hiện hình thức bán chịu hàng xuất khẩu. Việc cấp tín dụng cho công ty sẽ là là một nguồn động viên, khuyến khích thực sự hữu hiệu giúp công ty mở rộng hoạt động xuất khẩu. Nhà nước cấp tín dụng cho công ty không chỉ đơn thuần là sự trợ giúp để thực hiện xuất khẩu mà còn giúp công ty giảm chi phí về vốn cho hàng xuất khẩu và giảm giá thành hàng xuất khẩu. Trợ cấp tín dụng đem lại hiệu quả cao cho hoạt động xuất khẩu vì công ty có thể thực hiện việc bán chịu mà giá bán chịu bao gồm giá bán trả ngay cộng với các phí tổn đảm bảo lợi tức, trong trường hợp này cần có sự trợ giúp của các ngân hàng trong giai đoạn trước và sau khi giao hàng. Nhà nước trực tiếp cho người nước ngoài vay tiền với lãi xuất ưu đãi để họ sử dụng số tiền đó mua hàng của nước ta. Nước ta hiện nay chưa có điều kiện cho nước ngoài vay để nhập khẩu, tuy nhiên trong các năm tới nếu có điều kiện Chính phủ không nên bỏ qua hình thức này để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ở nước ta. Hình thức này có tác dụng: khi cho vay thường kem theo các điều kiện kinh tế có lợi cho nước cho vay, giúp cho các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu vì sẵn có thị trường, trên khía cạnh nào đó thì hình thức này giải quyết tình trạng dư thừa hàng hoá ở trong nước, giúp tăng cường quan hệ ngoại giao giữa các nước với nhau( chẳng hạn có thể áp dụng với Lào, Campuchia ). Nhà nước đảm bảo tín dụng cho xuất khẩu. Để chiếm lĩnh thị trường, nhiều doanh nghiệp thực hiện bán chịu, trả chậm hoặc với hình thức tín dụng hàng hoá với lãi xuất ưu đãi đối với người mua hàng nước ngoài. Việc bán chịu như vậy thường có rủi ro là chậm thu hồi vốn và có thể mất vốn. Trong trường hợp này để khuyến khích xuất khẩu Nhà nước cần phát huy hiệu quả của các dịchvụ bảo hiểm xuất khẩu, đền bù mất vốn để các công ty xuất khẩu yên tâm xuất khẩu và tránh được rủi ro. Tỷ lệ đền bù có thể là 100% vốn bị mất, bình thường tỷ lệ này là 60-70% khoản tín dụng để các nhà xuất khẩu phải quan tâm tới việc kiểm tra khả năng thanh toán của các nhà nhập khẩu và quan tâm tới việc thu tiền hàng sau kh hết thời hạn tín dụng. 2.2 Nhà nước thực hiện trợ cấp xuất khẩu Trợ cấp xuất khẩu là những ưu đãi tài chính mà Nhà nước dành cho người xuất khẩu khi họ bán được hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Mục dích của trợ cấp xuất khẩu là giúp nhà xuất khẩu tăng thêm thu nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu do đó đẩy mạnh được xuất khẩu. có hai loại trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp trực tiếp và gián tiếp. Trợ cấp trực tiếp: Đó là việc áp dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu miễn hoặc giảm thuế đối với các nhà xuất khẩu khi nhập nguyên vật liệu cho sản xuất sản phẩm xuất khẩu cũng như khi xuất sản phẩm ra nước ngoài cácnhà xuất khẩu được hưởng giá ưu đãi các đầu vào của quá trình sản xuất như điện, nước, thông tin liên lạc Đối với công ty XNK Hà Tây và cụ thể là mặt hàng mây tre đan hiện đang được miễn thuế xuất khẩu. mặc dù vậy hình thức trợ cấp xuất khẩu trực tiếp cần được phát huy hơn nữa đặc biệt là việc hoàn thiện và giảm thuế nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất hàng xuất khẩu mây tre đan. Trợ cấp gián tiếp: Đây là hình thức Nhà nước thông qua việc dùng ngân sách của mình để giới thiệu, triển lãm, quảng cáo tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch xuất khẩu hoặc Nhà nước trợ giúp về kỹ thuật và đào tạo chuyên gia. Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, công ty cần sự giúp đỡ của Nhà nước trong việc nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, giới thiệu, triển lãm và quảng cáo sản phẩm mây tre mỹ nghệ truyền thống. Những vấn đề này bản thân doanh nghiệp gặp khó khăn khi thực hiện và thực hiện với hiệu quả không cao. Đối với việc trợ giúp kỹ thuật và chuyên gia thì cần thiết phải có sự giúp đỡ từ phía Nhà nước, để công ty có thể phát triển cả về kỹ thuật và nghiệp vụ kinh doanh ngoại thương cũng như trong sản xuất và nâng cao tay nghề. Trợ cấp gián tiếp cũng có thể là Nhà nước mở các lớp đào tạo nghiệp vụ ngắn hạn hoặc trung hạn để bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ ngoại thương trong tình trạng khó khăn như hiện nay, đồng thời Nhà nước cũng có thể mở các trung tâm hướng dẫn, đào tạo tay nghề cho thợ thủ công sản xuất hàng mỹ nghệ xuất khẩu. 2.3 Các biện pháp về thể chế và tổ chức Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu và từ đó các doanh nghiệp có thể thâm nhập thị trường nước ngoài. Nhà nước cần phải mở rộng hơn nữa vai trò của mình thúc đẩy xuất khẩu thông qua: + Các quy định của pháp luật Việt Nam đối với hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế( thuế, mặt hàng)sớm thể bằng luật tự do kinh doanh của các doanh nghiệp, đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường. + Tham gia ký kết, công nhận hoặc thừa nhận các công ước quốc tế chung về thương mại và các hiệp định thương mại + Lập các viện nghiên cứu cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời chính xác cho nhà xuất khẩu. + Đào tạo các cán bộ chuyên gia giúp nhà xuất khẩu. 2.4 Hoàn thiện thủ tục xuất nhập khẩu và chính sách thuế Tuy cơ chế mới làm cho thủ tục xuất nhập khẩu đã thuận tiện và đơn giản hơn nhưng thủ tục xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng còn nhiều vướng mắc gây rất nhiều khó khăn cho các công ty xuất nhập khẩu và khách hàng nước ngoài cũng còn e ngại khi quan hệ buôn bán đối với Việt Nam. Đó là vấn đề lớn mà Nhà nước cần sớm khắc phục và chấn chỉnh lại. Về hệ thống thuế, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong đó có mặt hàng mây tre đan, Nhà nước đã miễn giảm thuế xuất khẩu cho mặt hàng này đó là tiến bộ lớn và nó cần phải được duy trì như thế trong dài hạn. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần giảm và tiến tới miễn thuế đối với một số nguyên liệu nhập ngoại để phục vụ cho việc sản xuất hàng mây tre đan truyền thống này. Thúc đẩy và giúp đỡ các doanh nghiệp vươn lên trong môi trường cạnh tranh bình đẳng và trung thực, coi đó là phương thức bảo hộ tích cực nhất đối với sản xuất trong nước. Theo tinh thần đó cần phải xem xét lại chính sách bảo hộ bằng hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Thực hiện chính sách bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện và thời hạn, vừa giúp đỡ vừa tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải đổi mới và vươn lên nâng cao sức cạnh tranh. Từ đó xác định một lộ trình giảm thuế nhập khẩu và bãi bỏ hàng rào phi thuế quan. Lộ trình này phải công bố rõ ràng để từng doanh nghiệp có kế hoạch phấn đấu làm cho sản phẩm do mình sản xuất và xuất khẩu có thể cạnh tranh với hàng nước ngoài. 2.5 Thành lập hiệp hội các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Nhà nước nên thành lập hiệp hội các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói chung, hàng mây tre đan nói riêng, với nhiệm vụ theo dõi sản xuất, phát hiện kịp thời khó khăn, thuận lợi để giúp đỡ các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Tập hợp nguyện vọng đề xuất của người sản xuất, xuất khẩu để Chính phủ điều chỉnh cơ chế, chính sách cho phù hợp. Hiệp hội chủ động cùng các doanh nghiệp nghiên cứu khai thác thị trường hiện có, mở rộng thị trường mới. Giúp các doanh nghiệp thống nhất về giá cả tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp xuất khẩu dẫn đến giảm hiệu quả kinh tế xã hội của đất nước. 2.6 Các vấn đề khác Nhà nước cần quan tâm Trên đây là một số biện pháp chính mà Nhà nước cần phải làm tốt để đẩy mạnh xuất khẩu hàng mây tre đan mỹ nghệ tuy nhiên Nhà nước còn cần phải làm những việc khác như: Đổi mới cơ chế tài chính theo hướng sớm tạo ra thị trường vốn để mở rộng giao lưu các nguồn vốn trên thị trường trong nước cũng như quốc tế để cho các doanh nghiệp dễ dàng huy động các nguồn vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất khẩu. Xây dựng và phát triển mạng lưới ngân hàng trên nhiều lĩnh vực, nhiều địa bàn. Cần có sự phối hợp ăn ý giữa các ngân hàng thương mại và ngân hàng tư thương nhằm tổ chức tốt thị trường tiền tệ, cung ứng kịp thời cho doanh nghiệp mạnh dạn vay vốn để mở rộng hoạt động lưu thông. Tạo điều kiện cho đồng tiền Việt Nam sớm trở thành đồng tiền có thể tự do chuyển đổi, trước mắt là trở thành đông tiền thanh toán chính ở Việt Nam. Tỷ giá hối đoái phải được điều chỉnh từng bước hợp lý có lợi cho xuất khẩu. Tích cực và chủ động tham nhập thị trường thế giới. Xúc tiến khẩn trương việc chuẩn bị điều kiện gia nhập WTO. Đi đôi với việc duy trì và phát triển thị trường đã tạo lập với các nước trong khu vực và cộng đồng Châu Âu, cần mở nhanh thị trường Mỹ. Phát triển thương mại chính ngạch với Trung Quốc, tăng cường buôn bán hợp tác với ấn Độ, tìm thị trường mới ở Trung Cận Đông, Châu Phi và Mỹ La tinh. Chú trọng đa phương hoá quan hệ thương mại, giảm sự tập trung cao vào một đối tác, thu hẹp dựa vào thị trường trung gian. Tạo điều kiện và giúp đỡ các doanh nghiệp, hiệp hội tự lập cơ quan đại diện ở nước ngoài. Tăng cường vai trò của các cơ quan ngoại giao trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, đổi mới và tổ chức hoạt động của cơ quan thương vụ ở nước ngoài. Tổ chức các hiệp hội buôn bán với nước ngoài qua cửa khẩu, bảo đảm sự phối hợp thống nhất trên một cửa khẩu. Hình thành môi trường kinh doanh đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh định hướng xã hội chủ nghĩa. Môi trường kinh doanh đồng bộ bao gồm môi trường kinh tế, chính trị, văn hoá- xã hội, khoa học công nghệ, luật pháp phải hoàn thiện là đòi hỏi bức xúc trong kinh doanh. * Một số kiến nghị đối với Nhà nước và Chính phủ nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và hàng mây tre đan nói riêng: 1. Tăng đầu tư vào sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ Với hệ thống chính sách ưu đãi hiện hành thì trong sản xuất kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các nghành nghề truyền thống được hưởng mức ưu đãi cao hơn các mặt hàng khác. Những mức ưu đãi đó còn quá thấp chưa tạo được động lực cho ngành này phát triển. Vì vậy đề nghị : Hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các ngành nghề truyền thống như quy định thì được hưởng mức ưu đãi cao hơn liền kề, ví dụ: -Dự án sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ thuộc nghành nghề truyền thống, có sử dụng nhiều lao động được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp hai năm và giảm 50% cho 4 năm tiếp theo. -Nếu dự án thực hiện xuất khẩu trên 30% thì được hưởng ưu đãi : miễn 3 năm thuế thu nhập doanh nghiệp và giảm 50% cho các năm tiếp theo. 2. Xây dựng các chính sách ưu đãi về vay vốn và về đất đai cho các cơ sở sản xuất hàng thủ công xuất khẩu Theo nghị định 43/1999NĐ-CP ngày 29/06/1999 của chính phủ về đầu tư tín dụng nhà nước, thì những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn ( trong đó có các dự án sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là các dự án sử dụng nhiều lao động ) mới được vay từ quỹ hỗ trợ phát triển của nhà nước. Vì vậy, đề nghị Chính phủ mở rộng thêm việc cho vay vốn từ quỹ này đối với các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh thuộc các nghành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống đã được quy định, không kể là các dự án đầu tư tại vùng nào, đồng thời các dự án này cũng được hưởng chính sách “hỗ trợ lãi xuất sau đầu tư ” theo quy định tại Nghị định 43 nêu trên. Trong trưởng hợp dự án đầu tư sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu có thể được quỹ hỗ trợ xuất khẩu quốc gia cấp tín dụng xuất khẩu ưu đãi và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. Chính sách khuyến khích ưu đãi hiện có đối với các nghành nghề truyền thống ( theo luật khuyến khích đầu tư trong nước ) là áp dụng cho các dự án đầu tư thành lập mới hoặc mở rộng các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. Thực trạng hiện nay là các đơn vị thực hiện sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ đều thiếu vốn hoặc không đủ sức vay vốn với lãi xuất cao để tổ chức sản xuất kinh doanh ( mua nguyên vật liệu để sản xuất hoặc mua các sản phẩm để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu ). Vì vậy, để khuyến khích khai thác cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có, tăng nguồn hành cho xuất khẩu, đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh có hợp đồng xuất khẩu đạt mức 50.000 USD trở lên, đề nghị chính phủ cho hưởng các mức ưu đãi về vốn kinh doanh. - Được ngân hàng ưu tiên cho vay đủ vốn sản xuất kinh doanh theo hợp đồng đã ký. -Sau khi thực hiện hợp đồng, được quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà nước hoặc quỹ hỗ trợ xuất khẩu hỗ trợ lãi suất theo quy định tại Nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29/06/1999 tức là hỗ trợ 50% lãi suất trên số vốn thực tế đã vay tại ngân hàng. 3. Chính sách đối với nghệ nhân. - Nghệ nhân, thợ cả có vai trò quan trọng đối với nghề và làng thủ công truyền thống. Có thể nói không có nghệ nhân thì không có làng nghề hoặc ít nhất cũng không thể có làng nghề phát triển, làng nghề lừng danh. Nghệ nhân, thợ giỏi có vai trò tích cực trong bảo tồn và phát triển làng nghề cùng như nghành nghề. -Vì vậy, muốn duy trì và phát triển nghành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống nhà nược cần có chính sách đối với nghệ nhân, giúp đỡ hỗ trợ tài chính, khuyến khích phát huy tài năng, phát triển sản xuất phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi để truyền dậy nghề cho con cháu, đào tạo nghề cho lao động sản xuất. - Chính sách đối xử với nghệ nhân được thực hiện tốt là một đảm bảo để duy trì và phát triển đội ngũ thợ lành nghề trong các làng nghề trong các làng nghề thủ công mỹ nghề truyền thốn, góp phần bảo tồn và phát triển một trong những di sản văn hoá qúy của dân tộc. 4. Chính sách đối với làng nghề truyền thống Nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam được duy trì và phát triển chủ yếu ở các làng nghề. Hiện nay, cả nước có đến hàng nghìn làng nghề, có những làng nghề tồn tại và phát triển hàng trăm năm, thâm chí hàng nghìn năm nay ( nghề gốm Bát Tràng có từ 500 năm, nghề tơ lụa Hà Đông có từ 1700 năm). Theo một số tài liệu nghiên cứu thì ở Việt Nam có đến 52 nhóm nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống. Trong quá trình phát triển, nhất là trong những năm gần đây hoạt động theo cơ chế thì trường, các làng nghề đã phân hoá rõ rệt, một số làng nghề phát triển mạnh và có sự lan toả sang các vùng xung quanh ( như nghề gốm, chạm khảm, chế biến gỗ mây tre ), một số làng nghề phát triển cầm chừng không ổn định ( đúc đồng ..), có những làng nghề gặp nhiều khó khăn, ít có cơ hội phát triển ( nghề giấy gió, gò đồng, dệt thổ cẩm Chăm) đồng thời có những làng nghề đang trong quá trình suy vong và có khả năng mất đi ( như nghề giấy sắc, tranh dân gian Đông Hồ, nón quai thao ). Trong quá trình phát triển, những làng nghề có điều kiện và có cơ hội phát triển nhanh đều gặp khó khăn như thiếu vốn hoạt động, cơ sở hạ tầng yếu kém, ô nhiễm môi trường và hiện nay có nơi vấn đề môi trường đặt ra rất gay gắt, bức súc như làng gốm Bát Tràng, làng giấy, làng sắt ở Bắc Ninh Để các nghành nghề thủ công truyền thống, các làng nghề duy trì và phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ làng nghề. Ví dụ như : + Phổ biến, hướng dẫn cho các nhà sản xuất kinh doanh trong làng nghề đăng ký hoạt động theo đúng pháp luâtj, hiểu biết các chính sách và các thủ tục đã quy định để được hưởng các chính sách khuyến khích, ưu đãi hiện có hoặc sẽ được nhà nước ban hành. + Mặt khác, làng nghề với tư cách là một đơn vị hành chính, một đơn vị tổ chức làm ăn có tính phường hội cũng cần được có sự hỗ trợ của nhà nước để xử lý một số vấn đề như : Cơ sở hạ tầng, môi trường.. đối với toàn bộ làng nghề. Từ đó đề nghị Chính phủ cho thực hiện chính sách hỗ trợ tài chính, thực hiện các dự án xây dựng xây dưng cơ sở hạ tầng ( đường giao thông, bến bãi ), dự án xử lý các vấn đề về môi trường tại khu vực làng nghề. Cụ thể là nhà nước đầu tư riêng qua ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để thực hiện các dự án đầu tư cho làng nghề được duyệt hàng năm với mức không thấp hơn 50% tổng số thu vào ngân sách từ làng nghề trong năm trước. 5. Chính sách đào tạo làng nghề thủ công truyền thống -Thợ thủ công trong các làng nghề thủ công truyền thống thường không học nghề trong các trường lớp như các nghành nghề khác mà chủ yếu do các nghệ nhân giỏi truyền dậy nghề theo “ kiểu cha truyền con nối ” các làng nghề, trong đó có những thủ pháp kỹ thuật, bí quyết nhà nghề của các nghệ nhân chỉ truyền cho con cháu từ đời này sang đời khác, không dễ gì lọt ra ngoài, họ giữ gìn các bí quyết đó một cách cẩn trọng. -Trong các lĩnh vực khác thường được nhà nước đầu tư xây dựng các trường dậy nghề, vì vậy Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề thủ công trong các nghành nghề phù hơpj với các đặc điểm nêu trên. Để thực hiện yêu cầu này có thể áp dụng một số biện pháp chính sách sau: +Mở một số trường mỹ thuật thực hành ở một số nơi có yêu cầu hoặc mỏ thêm các khoa mỹ thuật thực hành trong các trường cao đẳng mỹ thuật hiện có để đào tạo các nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm cho các cơ sở sản xuất, mở lớp đào tạo các lao động phổ thông theo phương thức vừa học vừa lao động sản xuất tại các làng nghề, cơ sở sản xuất là những cơ sở có nhiều hàng xuất khẩu. Nhà nước, hỗ trợ một phần chi phí và những cơ sở sản xuất vừa học vừa làm đóng góp một phần. Chi phí nhà nước hỗ trợ chủ yếu sử dụng để trang trải các chi phí về giảng dậy như mời nghệ nhân về giảng dậy, hướng dẫn thực hành( nếu có ). Nếu không mở trường lớp như trên thì Nhà nước phải hỗ trợ một phần chi phí từ quỹ hỗ trợ việc làm để các cơ sở sản xuất nhất là các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu tự tổ chức việc đào tạo nghề, kinh phí hỗ trợ được thực hiện theo dự án đào tạo hoặc theo kết quả đào tạo nghề do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố xét duyệt. 6. Xây dựng chính sách xúc tiến thương mại, mở rộng thì trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Do đặc điểm khó khăn trong sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ, các làng nghề thường có quy mô nhỏ phân tán nên gần như không thực hiện được công tác xúc tiến quảng cáo. Nên đề nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ một phần chi phí xúc tiến thương mại, tiếp thị mở rộng thị trường xuất khẩu. Trong các lĩnh vực xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, đề nghị nhà nước hỗ trợ với các hình thức sau: *Hỗ trợ 50% chi phí thuê gian hàng cho cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ tham gia hội chợ triển lãm nước ngoài. 50% chi phí còn lại được hỗ trợ hết nếu trong quá trình hội chợ triển lãm đơn vị ký được hợp đồng xuất khẩu với giá trị trên 20.000USD. *Việc hỗ trợ này có thể thực hiện trực tiếp đối với các doanh nghiệp từ một trung tâm xúc tiến thương mại hoặc thông qua các công ty quốc doanh được giao nhiệm vụ tổ chức tham gia hội chợ triển lãm quốc tế *Đề nghị cho thành lập một số trung tâm xúc tiến thương mại( chủ yếu là khuyếch trương xuất khẩu )tại một số nơi ở nước ngoài. Các trung tâm này có gian hàng cho các doanh nghiệp trong nước thuê để trưng bầy chào hàng xuất khẩu với giá khuyến khích, riêng hàng thủ công mỹ nghệ thì được miễn phí. *Phục vụ lễ hội của các nước trên thế giới là một hướng quan trọng thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, trên thế giới hàng năm có rất nhiều lễ hội của các dân tộc, nếu biết nắm bắt nhu cầu, thiết kế mẫu mã hàng hoá phù hợp với nhu cầu của từng lễ hội về ăn mặc, trò chơi giải trí, vật lưu niệm thì có thể có nhiều hàng để bán, nhất là hàng thủ công mỹ nghệ. Để có thể triển khai việc xuất khẩu phục vụ cho các nhu cầu lễ hội của các nước trên thế giới như là một trong những mũi nhọn khuyếch trương hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm tới, đề nghị : *Ở nhưng nơi Việt Nam có đại diện thương mại thì giao nhiệm vụ cho họ tìm hiểu khảo sát nhu cầu phục vụ lễ hội tại địa bàn, khi phát hiện nhu cầu và đối tác thì cử ngay nhóm công tác đến tận nơi khảo sát, thiết kế mẫu mã chào bán và ký hợp đồng cho các cơ sở sản xuất trong nước sản xuất và giao hàng. Chi phí cho nhóm công tác trong một vài năm đầu do Nhà nước hỗ trợ 100%. Nếu ký được hợp đồng thì được hưởng thêm. *Ở những nước ta chưa có đại diện thương mại thường trú thì giao cho ban xúc tiến thương mại cùng công ty hội chợ triển lãm của Bộ chủ quản nghiên cứu, có kế hoặch gửi nhóm công tác bao gồm : hoạ sĩ nghệ nhân, cán bộ kinh doanh nghành hàng thủ công mỹ nghệ đến tìm hiểu, khảo sát, thiết kế mẫu mã chào bán theo cơ chế chính sách đã nêu. *Cho phép các tổ chức, các nhân được nhận tiền thù lao hoặc tiền hoa hồng môi giới và cho phép các công ty xuất khẩu được các khoản này theo mức thoả thuận khi ký hợp đồng và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. *Ngoài ra theo viên nghiên cứu thuộc liên minh các hợp tác xã Việt Nam cho biết, hiệp hội hàng thủ công mỹ nghệ quôcs tế thường có mời các nghệ nhân nghành nghề thủ công của các nước tham gia hội thảo, biểu diễn thao tác nghề nghiệp. Hội bảo trợ thủ công ở Mỹ có chương trình hỗ trợ 10.000 làng nghề của thế giới và thường có mời nghệ nhân của các nước sang Mỹ biểu diễn thao tác nghề nghiệp. Tại Achentina vào tháng 4 hàng năm có tổ chức hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ, có trưng bầy gian hàng miễn phí cho các nghệ nhân. Việt Nam nên có chính sách khai thác các hoạt động quốc tế này. 7. Xây dựng vùng nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ khắc phục một số khó khăn hiện nay trong việc tiếp cận nguồn nguyên liệu khai thác ở trong nước, nhất là một số nguyên liệu như gỗ, song, mây đề nghị Nhà nước cho áp dụng một số biện pháp sau: -Đối với gỗ nguyên liệu khai thác từ rừng tự nhiên được các bộ nghành, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giao hạn mức cho các doanh nghiệp, đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh sản phẩm gỗ mỹ nghệ thuộc nghành địa phương quản lý trên cơ sở hạn mức chung do Chính phủ phê duyệt. Đề nghị ưu tiên giao cho các đơn vị có hợp đồng xuất khẩu sản phẩm gỗ mỹ nghệ. Các đơn vị này phải quyết toán việc sử dụng gỗ nguyên liệu cho các hợp đồng đó để được giao hạn mức gỗ nguyên liệu cho năm sau và được nhận gỗ trực tiếp từ các đơn vị khai thác gỗ, tránh việc giao nhận lòng vòng đẩy giá thành lên cao, khó cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm. -Đối với các loại nguyên liệu khác như song mây, tre lá các đơn vị khai thác phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu đề nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ các dự án đầu tư xây dựng vùng trồng nguyên liệu phục vụ cho sản xuất ( giao đất, giảm tiền thuê đất hoặc thuế sử dụng đất). 8. Hỗ trợ tiền cước vận chuyển và giảm các lệ phí khác tại các cảng, cửa khẩu đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ Hàng thủ công mỹ nghệ thường là những mặt hàng cồng kềnh, gias trị không cao( hàng mây tre đan, nhiều loại gốm mỹ nghệ, xuất khẩu 1 container 40feet chỉ được khoảng 7000-8000USD theo giá FOB ), do đó cần có chính sách hỗ trợ ưu đãi, cụ thể như sau : -Hàng thủ công mỹ nghệ vận chuyển từ nơi sản xuất đến cảng, cửa khẩu để giao hàng xuất khẩu, trên tất cả các loại phương tiện vận chuyển đều được giảm 30 đến 50 % cước vận chuyển theo biểu giá cước hiện hành. Chủ phương tiện được phép tăng giá cước các loại hàng hoá khác để bù lại hoặc được nhà nước hỗ trợ thông qua việc công nhận giảm thu trong hạch toán thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp hàng năm. -Giảm 50% ( theo biểu giá hiện hành ) tất cả các chi phí hoặc lệ phí thu tại các cảng, cửa khẩu có liên quan đến việc giao hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu ( hàng lưu kho, bãi gửi hàng, lệ phí xuất khẩu, thủ tục phí) -Giảm 50% ( theo biểu giá hiện hành ) tiền cước phí, bưu phí gửi hàng, mẫu hàng là hàng thủ công mỹ nghệ cho khách nước ngoài hoặc gửi hàng mẫu tham dự các hội nghị triển lãm ở nước ngoài. 9. Thưởng xuất khẩu đối với kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Theo quy định hiện hành, để được thưởng về kim ngạch xuất khẩu đối với hàng thủ công mỹ nghệ, doanh nghiệp phải đạt mức kim ngạch 5 triệu USD/năm trở lên. Còn sau đó, nếu doanh nghiệp duy trì và phát triển tốt để được xét thưởng tiếp thì doanh nghiệp phải có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu đạt mức quy định, mức hiện hành là 20% /năm đối với toàn bộ kim ngạch năm sau so với năm trước. Thực tế tốc độ tăng trưởng này quá cao, hiếm có doanh nghiệp nào đạt được. Vì vậy, đề nghị nhà nược nên có chính sách mới là chỉ cần đạt được tốc độ tăng trưởng là 10% /năm cũng được thưởng xuất khẩu. 10. Một số vấn đề quản lý nhà nước đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. Trước đây còn liên hiệp hợp tác xã thủ công mỹ nghệ Trung ương được nhà nước uỷ quyên thực hiện một số chức năng của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong các nghành nghề truyền thốngkhi tổ chức này bị giải thể, các chức năng trên được chuyển sang cơ quan nhà nước khác nên các nghành nghề này ít được quan taam. Đề nghị Chính phủ chính thức giao nhận chức năng, nhiệm vụ quản lý và chỉ đạo phát triển các nghành nghề này Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn và có thể uỷ quyền liên minh hợp tác xã Việt Nam thực hiện một số chức năng nào đó cho phù hợp. Đề nghị nghiên cứu thành lập một số tổ chức thích hợp cho việc hỗ trợ và quản lý của Nhà nước nhằm phát triển các nghành nghề này theo các chủ trương chính sách Nhà nước, tổ chức đó có thể là “ Trung tâm hỗ trợ phát triển nghành nghề truyền thống ”trực thuộc bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, hoặc một trung tâm hoạt động độc lập theo sự chỉ đạo trực tiếp của Chính Phủ. Để có thể theo dõi sát tình hình thực hiện các chính sách của nhà nước và trên cơ sở đó có những sửa đổi bổ sung cần thiết trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, đề nghị Chính phủ giao Tổng cục hải quan tổ chức lại việc thống kê xuất khẩu tương đối chi tiết các loại hàng hoá thuốc nhóm hàng thủ công mỹ nghệ. Bộ Thương Mại sẽ phối hợp cùng Tổng cục hải quan để hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện quyết định của Chính phủ trong việc khải báo hải quan khi xuất khẩu loại hàng này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8027.doc
Tài liệu liên quan