Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Nhật Bản

Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Nhật BảnMỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM ĐỒ GỖ VIỆT NAM 3 1.1. Tổng quan chung về cạnh tranh 3 1.1.1. Khái niệm, phân loại và vai trò của cạnh tranh 3 1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh 3 1.1.1.2. Phân loại cạnh tranh 6 1.1.1.3 Phân loại khả năng cạnh tranh 9 1.2. Các lý thuyết lợi thế cạnh tranh 10 1.3. Các tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh 14 1.3.1. Các tiêu chí thuộc sản phẩm (tính năng, chất lượng, giá cả, sự tiện ích, mẫu mã .) 14 1.3.2. Các tiêu chí trên thị trường (doanh số bán, thị phần, tốc độ tăng thị phần, hệ thống phân phối .) 16 1.3.3. Các tiêu chí liên quan đến quan điểm của khách hàng (sự thoả mãn nhu cầu, sự nhận biết tên sản phẩm, sự trung thành với nhãn hiệu .) 18 1.3.4. Một số tiêu chí khác 18 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh 20 1.4.1. Các nhân tố thuộc ngành 20 1.4.2. Mô hình về lợi thế cạnh tranh ngành ( mô hình 5 nhân tố của M.Porter ) 22 1.4.3. Mô hình phân tích SWOT 25 1.5. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh 1.6. Kinh nghiệm nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm đồ gỗ của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 25 1.6.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc 25 1.6.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 27 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM ĐỒ GỖ VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN 29 2.1. Tổng quan về thị trường Nhật Bản 29 2.1.1. Khái quát về nền kinh tế Nhật Bản 29 2.1.2. Khái quát mối quan hệ thương mại Việt Nam-Nhật Bản 30 2.1.3. Khái quát về thị trường Nhật Bản Error! Bookmark not defined. 2.1.4. Một số điểm cần lưu ý khi thâm nhập vào thị trường Nhật Bản 35 2.1.4.1. Các quy định về pháp luật khi kinh doanh đồ gỗ 35 2.1.4.2. Chính sách thuế quan 38 2.1.4.3. Hệ thống phân phối 38 2.1.4.4. Xu hướng tiêu dùng và các nguyên tắc khi thâm nhập thị trường Nhật Bản Error! Bookmark not defined. 2.2. Tình hình xuất khẩu sản phẩm đồ gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản 39 2.2.1. Tổng quan về tình hình xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam 39 2.2.2. Tình hình xuất khẩu sản phẩm đồ gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản 41 2.2.2. Khả năng cạnh tranh sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam trên thị trường Nhật Bản 45 2.2.2.1 Thực trạng năng lực cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ trên thị trường Nhật Bản 45 2.2.3.Đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản 51 2.2.3.1. Strengths - Thế mạnh của sản phẩm gỗ Việt Nam 51 2.2.3.2. Weaknesses - Điểm yếu của sản phẩm đồ gỗ Việt Nam 53 2.2.3.3. Opportunitis - Cơ hội cho sản phẩm đồ gỗ Việt Nam 55 2.2.3.4. Threats - Nguy cơ đối với các sản phẩm đồ gỗ Việt Nam 56 CHƯƠNG 3: DỰ BÁO, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM ĐỒ GỖ VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN TRONG THỜI GIAN TỚI 57 3.1. Dự báo về khả năng xuất khẩu và sức cạnh tranh của các sản phẩm đồ gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản trong thời gian tới 57 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản 60 3.2.1. Phía nhà nước 60 3.2.1.1. Định hướng văn kiện Đại hội X Đảng Cộng Sản Việt Nam nhằm tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại 60 3.2.1.2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm tạo tính tương thích với những quy định chung 61 3.2.1.3. Tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp hơn nữa về thông tin thị trường và các hoạt động xúc tiến thương mại 62 3.2.1.4. Nhà nước cần có kế hoạch phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ khi Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO 63 3.2.2. Phía các doanh nghiệp 63 3.2.2.1. Cần đặc biệt quan tâm đến việc đăng ký sở hữu công nghiệp tại Nhật cho các sản phẩm đồ gỗ nội thất của mình 63 3.2.2.2. Các doanh nghiệp chế biến gỗ cần có kế hoạch phát triển phù hợp khi Việt Nam đã là thành viên của WTO 64 3.2.2.3. Sử dụng có hiệu quả hệ thống Internet 64 3.2.3. Tăng cường nghiên cứu nhu cầu và thị hiếu của khách hàng 65 3.2.3.1. Nâng cao hiệu quả thu thập thông tin 65 3.2.3.2. Thành lập bộ phận nghiên cứu và phân tích dữ liệu 66 3.2.4. Đa dạng mẫu mã chủng loại, nâng cao chất lượng và hạ giá thành 67 3.2.4.1. Đa dạng hoá mẫu mã chủng loại 67 3.2.5. Nâng cao chất lượng sản phẩm 68 3.2.5.1. Đào tạo nghệ nhân, thợ cả cho các làng nghề 68 3.2.5.2. Đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất 69 3.2.5.3. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với quốc tế 69 3.2.6. Giảm chi phí sản xuất để giảm giá thành sản phẩm - nâng cao khả năng cạnh tranh 72 3.2.6.1. Đảm bảo nguyên liệu, giảm chi phí gia tăng do giá nguyên liệu gỗ có xu hướng tăng 72 3.2.6.2. Tận dụng tối đa các lợi thế 73 3.2.7. Tăng cường quảng cáo, khuếch trương sản phẩm 73 3.2.8. Xâm nhập thị trường Nhật Bản bằng thương hiệu 74 3.2.9. Nâng cao vai trò của hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam 75 3.2.10. Xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp trên thị trường Nhật Bản 77 KẾT LUẬN 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81

doc82 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2545 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rường Nhật Bản a, Nguyên nhân khách quan - Do lĩnh vực kinh doanh đồ gỗ xuất khẩu là một lĩnh vực còn non trẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam, ngành nay mới chỉ thực sự phát triển trong mấy năm trở lại đây cho nên các doanh nghiệp của Việt Nam còn thiếu nhiều kinh nghiệm và thua thiệt về nhiều mặt so với các doanh nghiệp của các nước khác. - Do giá nguyên liệu gỗ tăng cao trong vài năm trở lại đây đã đẩy chi phí sản xuất lên cao, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc định giá sản phẩm. - Do suy thoái nền kinh tế kéo dài thời gian qua ảnh hưởng không tốt tới mức chi tiêu cũng như tâm lý tiêu dùng của người Nhật Bản, nhu cầu các mặt hàng nói chung và sản phẩm đồ gỗ nói riêng bị thu hẹp. Mức độ tiêu thụ những mặt hàng chất lượng cao giá cao hiện nay tại thị trường Nhật Bản đang có xu hướng chững lại do người Nhật Bản đang e ngại mức độ suy thoái kinh tế trong thời gian dài có thể ảnh hưởng tới mức thu nhập của người dân. - Thị trường Nhật Bản là một trong những thị trường cao cấp đòi hỏi tính chuyên nghiệp rất cao về nhiều mặt. Nhật Bản tiếp tục thắt chặt các quy định về tiêu chuẩn chất lượng trong khi các doanh nghiệp của Việt Nam chưa thực sự nhận thức, hiểu biết rõ và kịp chuyển hướng sản xuất để đáp ứng tiêu chuẩn này. b, Nguyên nhân chủ quan - Do nạn phá rừng bừa bãi ở Việt Nam làm giảm nguồn gỗ nguyên liệu tự nhiên. Mặt khác, một số doanh nghiệp Việt Nam chưa thể tạo ra các nguyên liệu gỗ đã qua chế biến nên phải nhập khẩu từ nước ngoài, gây nên tình trạng quá phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu gỗ nhập khẩu. - Trình độ lao động của Việt Nam trong nghành sản xuất đồ gỗ nội thất hiện nay còn rất thấp, chủ yếu là thợ thủ công với học vấn rất thấp và hầu như không được đào tạo nghề một cách bài bản do vậy tay nghề và những hiểu biết thị trường còn hạn chế. Đội ngũ những cán bộ có trình độ hiểu biết thị trường còn ít, hoạt động đào tạo cán bộ cho xuất khẩu còn chưa được quan tâm đúng mức. Đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động sản xuất và xuất khẩu tại doanh nghiệp còn yếu về trình độ, năng lực công tác. - Thiết bị, máy móc sản xuất còn lạc hậu, chưa có các công nghệ xử lý gỗ, cho nên chất lượng gỗ không cao. - Công tác hỗ trợ, xúc tiến thương mại của Việt Nam chưa được tiến hành mạnh mẽ và có hiệu quả. Các hoạt động cung cấp thông tin, trợ giúp các doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm tại thị trường Nhật Bản, các hoạt động tư vấn hỗ trợ các đoàn doanh nghiệp Việt Nam sang khảo sát tại thị trường Nhật Bản và sự đón tiếp của các doanh nghiệp Nhật Bản đến Việt Nam chưa được đáp ứng so với yêu cầu của doanh nghiệp. Các hoạt động quảng bá thương hiệu Việt Nam của Chính Phủ và bản thân các doanh nghiệp vẫn chưa được quan tâm đúng mức, bên cạnh đó vai trò của Hiệp hội gỗ và lâm sản còn quá thụ động, chưa phát huy hết vai trò của mình. - Các doanh nghiệp chưa chú trọng công tác xây dựng thương hiệu cho sản phẩm xuất khẩu. 2.2.3.3. Cơ hội cho sản phẩm đồ gỗ Việt Nam - Opportunities - Thứ nhất, Đây là một ngành xuất khẩu lớn của Việt Nam trên thị trường, vì vậy luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và hỗ trợ bằng những chính sách tạo thuận lợi,Chính phủ ký kết nhiều hiệp định hợp tác tạo mối quan hệ tốt đẹp với các các nước bạn, làm cơ sở cho hoạt động thương mại phát triển. - Thứ hai, Trong những năm vừa qua, thị phần của các sản phẩm đồ gỗ Việt Nam trên thị trường này ngày càng chiếm tỷ lệ cao với tốc độ tăng thị phần ngày càng cao. Đây là một tín hiệu tốt đối với ngành. Đặc biệt các sản phẩm có xuất xứ từ Việt Nam rất được người tiêu dùng Nhật Bản quan tâm bởi kiểu dáng mang phong cách châu âu, độc đáo phù hợp với phong cách truyền thống của người Nhật Bản, đây là một thị trường rộng lớn. Nếu được đầu tư về vốn, công nghê...thì khả năng cạnh tranh của đồ gỗ Việt Nam trên thị trường này là rất lớn. - Thứ ba, Ngày càng có nhiều doanh nghiệp Nhật Bản quan tâm tới đồ gỗ Việt Nam, tiến hành các cuộc khảo sát về thị trường sản xuất đồ gỗ tại Việt Nam và ngày càng có nhiều hợp đồng lớn được ký kết với các doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam. - Thứ tư, Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam ngày càng phát huy đươc vai trò của mình tại thị trường Nhật Bản, quan tâm tới việc phân phối đầu ra cho các sản phẩm đồ gỗ, thông qua việc tiến hành quảng bá các sản phẩm tại cac hội chợ triển lãm tại trong nước cũng như ngoài nươc. Đây được coi là một bước đi vô cùng quan trọng để người tiêu dùng trên thế giới có thể biết tới các sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam. 2.2.3.4. Nguy cơ đối với các sản phẩm đồ gỗ Việt Nam - Threats - Thị trường Nhật Bản là một thị trường lớn, tiềm năng nên sự cạnh tranh ngày càng diễn ra mạnh mẽ hơn của các đối thủ tại thị trường và bên cạnh đó ngày càng xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh mới. Vì vậy những nguy cơ từ thị trường Nhật đối với sản phẩm đồ gỗ nội thất Việt Nam cũng không ít. Theo ông Takashi Nakano, Trung Quốc - đối thủ cạnh tranh nặng ký của Việt Nam, do bị Mỹ đánh thuế chống bán phá giá đồ gỗ nội thất sẽ tràn vào Nhật; thị trường Nhật sẽ xuất hiện thêm các đối thủ cạnh tranh mạnh mới về giá là Campuchia, Myanmar, từ đó dẫn đến việc sản phẩm đồ gỗ nội thất ở Nhật bị rớt giá. Ngoài ra, DN Nhật sản xuất đồ gỗ tại Nhật cũng sẽ tạo nên áp lực cạnh tranh mạnh không kém lên sản phẩm Việt Nam, vì sản phẩm của họ có chất lượng cao, có khách hàng truyền thống, hệ thống dịch vụ đáp ứng tốt yêu cầu giao hàng đối với các cửa hàng bán lẻ khắp trong nước... - Không chỉ cạnh tranh về giá cả hay chất lượng hàng hóa mà các đối thủ trên thị trường còn bắt đầu cạnh tranh về cả các mặt dịch vụ sau bán hàng, đây là một điều mà các doanh nghiệp Việt Nam thường làm rất kém so với các đối thủ khác. Bởi nguồn lực tài chính hạn hẹp, chưa có kinh nghiệm. - Bên cạnh đó yêu cầu về chất lượng cũng như các tiêu chuẩn kỹ thuật ngày càng được áp dụng chặt chẽ đối với các sản phẩm xuất khẩu vào thị trường này. CHƯƠNG 3: DỰ BÁO, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG ĐỒ GỖ VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1. Dự báo về năng lực xuất khẩu và sức cạnh tranh của hàng đồ gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản trong thời gian tới Ngành chế biến xuất khẩu đồ gỗ đang hướng đến mục tiêu đến năm 2010 phải đạt kim ngạch xuất khẩu 5,5 tỷ USD với điều kiện ngành gỗ phải khắc phục nhanh được những nhược điểm như sự tăng trưởng thiếu bền vững, sự thiếu hụt nguồn nguyên liệu và nhân công, tăng thị phần từ 0,78% lên trên 2% trên thị trường thế giới, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam dự báo xuất khẩu đồ gỗ sẽ tiếp tục tăng cao trong những năm tới, do các thị trường tiềm năng như Nhật Bản, Pháp, Đức và Hoa Kỳ đang ưa chuộng các mặt hàng đồ gỗ nội thất của Việt Nam trong khi các doanh nghiệp trong nước đã có xu hướng hợp tác để giữ vững thị trường xuất khẩu . Riêng với thị trường Nhật Bản mỗi năm thị trường này có nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng đồ gỗ này mỗi năm khoảng 8,7 tỷ USD, nhưng mặt hàng Việt Nam mỗi năm trung bình chỉ đáp ứng được gần 100 triệu USD, như vậy thị trường của Việt Nam trên thị trường này là rất nhỏ. Theo Theo Bộ Thương mại, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ sang Nhật có thể tăng gấp đôi, đạt 250-300 triệu USD vào 2010. Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) cũng sẽ tăng từ 70-75 triệu USD năm 2006, lên 170-220 triệu USD vào 2010. Tăng từ 8,1 năm 2006 lên trên khoảng 11,7% năm 2010. Để đạt mục tiêu trên, Bộ Thương mại khuyến cáo các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng cải tiến mẫu mã, chuyên nghiệp hoá khâu thiết kế, đa dạng hoá sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị hiếu và tiêu chuẩn quy định của thị trường Nhật Bản. Nhất là phát triển các loại sản phẩm làm bằng tay, tạo ra nét độc đáo riêng, có giá trị cao. Có thể nói năm 2006 là một năm thành công rực rỡ đối với ngành chế biến gỗ xuất khẩu Việt Nam, thành công đó đã đưa ngành gỗ xuất khẩu được xếp vào danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam. Để chuẩn bị cho sự phát triển cua ngành trong những năm tới, Bộ thương mại, hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam cùng với các doanh nghiệp trong nước cần có sự phối hợp chặt chẽ và thống nhất trong việc định hướng phát triển của ngành một cách rõ ràng. Các doanh nghiệp cần tỏ rõ thiệnn chí của mình trong quá trình hợp tác, sẵn sàng cung cấp cho hiệp hội những thông tin cần thiết để xây dựng kế hoạch trong dài hạn. Trong quá trình xây dựng kế hoạch, bộ cũng cần căn cứ vào những thế mạnh và điểm yếu của các doanh nghiệp trong nước, lấy đó làm cơ sở cho việc ra kế hoạch phù hợp với khả năng của doanh nghiệp. Theo Bộ thương mại, Bộ vừa công bố quyết định số 30/2006/QĐ-BTM về việc phê duyệt chương trình xúc tiến thương mại quốc gia - 2007. Dưới đây là nội dung chi tiết chương trình xúc tiến thương mại quốc gia - 2007 do hiệp hội gỗ và lâm sản chủ trì. Bảng 3.1: Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia năm 2007 STT Chương trình Thời gian triển khai Địa điểm triển khai Phần hỗ trợ của Nhà nước (triệu đồng) Ghi chú 1 Thông tin thương mại chuyên ngành gỗ 8.40 Chỉ hỗ trợ mua tạp chí 2 Nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế cho các doanh nghiệp chế biến gỗ và lâm sản sau khi Việt Nam gia nhập WTO Tháng 4, 7 và 10/2007 Hà Nội, TP HCM và Đà Nẵng hoặc Quy Nhơn 37.80 3 Ứng dụng công nghệ thông tin trong giao dịch thương mại điện tử đối với mặt hàng gỗ và lâm sản Tháng 6-10/2007 20.05 4 Tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại tổng hợp lâm-nông sản Việt Nam và xúc tiến hội nhập kinh tế quốc tế 2007 tại Frankfurt Am main CHLB Đức 10-21/9/2007 Frankfurt am main- Đức 2,206.00 Với DN chỉ hỗ trợ theo chi phí quảng cáo, chi phí phiên dịch vì có 4 cán bộ dẫn đoàn kèm phiên dịch. Đi lại của đoàn khảo sát chỉ hỗ trợ vế từ địa điểm hội chợ đến địa điểm khảo sát, không hỗ trợ đi lại hàng ngày 5 Tham gia hội chợ triển lãm - Hội thảo tại Chicago – Hoa Kỳ 10-25/6/2007 Chicago – Hoa Kỳ 1,005.00 6 Tham gia hội chợ triển lãm-Hội thảo tại Thượng Hải-Trung Quốc 9-20/9/2007 Thượng Hải, Trung Quốc 478.00 Không hỗ trợ: chi phí khảo sát, quảng cáo trên truyền hình, phiên dịch. Tính lại chi phí các khoản  (biển bảng, cataloge, biên soạn dịch, chi phí đi lại của cán bộ) 7 Tham gia hôi chợ triển lãm-Hội thảo tại Tokyo - Nhật Bản 19-30/11/2007 Tokyo - Nhật Bản 902.00 Không hỗ trợ: chi phí khảo sát, quảng cáo trên truyền hình, chi phí phiên dịch. Giảm chi phí bảng biểu, biên soạn và dịch tài liệu, đĩa CD Nguồn: (Vinanet) Đây là những cơ hội cho các doanh nghiệp giới thiệu và quảng bá san phẩm của mình với bận hàng quốc tế và ký kết những hợp đồng quan trọng. Các doanh nghiệp đồ gỗ Việt Nam lên chuẩn bị kế hoạch cho các chương trình mà hiệp hội. Để cho các hoạt động xuc tiến đạt hiệu quả cao. Nhà nước cần có những tác động nhất định nhằm hỗ trợ cho các daonh nghiệp. Nhà nước sẽ hỗ trợ xúc tiến thương mạic ho các doanh nghiệp, duy trì và mở rộng thị trường, tháo gỡ những khó khăn trong xuất khẩu; Có những biện pháp giúp các doanh nghiệp tiết kiệm nguyên liệu, giảm chi phí, đứng ra tổ chức cho các doanh nghiệp tập trung sản xuất các mặt hàng mũi nhọn; Phát huy tối đa khả năng của mọi doanh nghiệp thông qua phong trào thi đua yêu nước toàn ngành động viên mọi nguồn lực và các cơ sở sản xuất cùng tham gia. 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản 3.2.1. Phía nhà nước 3.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO Đó chính là những khác biệt trong các quy định về chính sách thuế, các khoản lệ phí liên quan đến xuất nhập khẩu, cạnh tranh, thương mại nhà nước và các giải pháp để giải quyết tranh chấp… Hơn nữa, thị trường Nhật Bản là thị trường đòi hỏi phải có sự tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về chất lượng hàng hoá, giá cả và thị hiếu khách hàng. Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam cần tập trung hoàn thiện hệ thống luật pháp, và cụ thể đó là : - Tiếp tục rà soát lại hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng của Việt Nam nhằm loại bỏ những văn bản quy phạm pháp luật đã lỗi thời, bất cập. Để làm được điều này đòi hỏi phải có sự đầu tư cả về kinh phí cũng như nguồn nhân lực phức tạp và tốn kém. Bên cạnh đó việc phối hợp chặt chẽ của các ngành là không thể thiếu, bao gồm việc rà soát, đối chiếu, so sánh các cam kết trong hiệp định Việt Mỹ với các văn bản hiện hành sao cho thống nhất và phù hợp. - Tiếp tục hoàn thiện Luật thương mại năm 2005 theo hướng ngày càng mở rộng và hoàn thiện quy chế chính sách quản lý xuất nhập khẩu rõ ràng, phù hợp với định hướng chiến lược phát triển xuất khẩu của Đảng và Nhà Nước đã đề ra cũng như trong các cam kết. - Hoàn thiện Luật cạnh tranh và chống độc quyền nhằm tạo sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam, kể cả khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước hay nước ngoài nhằm tăng cạnh tranh cho các doanh nghiệp nước ta trong việc xuất khẩu. - Ban hành mới và sửa đổi các luật xuất khẩu, phù hợp với lịch trình giảm thuế đối với hàng hoá theo và tiến trình của WTO. 3.2.1.2. Hỗ trợ các doanh nghiệp hơn nữa về thông tin thị trường và các hoạt động xúc tiến thương mại Các doanh nghiệp hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm thông tin về thị trường cũng như thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại. Do vậy Nhà nước cần có sự hỗ trợ các doanh nghiệp trong vấn đề này. Cụ thể, thông qua Thương vụ của Việt Nam tại Nhật, Bộ Thương mại phải thu thập và phổ biến thông tin về thị trường Nhật Bản cho các doanh nghiệp. Đồng thời, với những thông tin về thị trường như nhu cầu, đặc điểm, tính chất của hàng hoá. Bộ cần xây dựng một chiến lược tổng thể về thị trường nhằm giúp các doanh nghiệp định hướng sản xuất, xây dựng chiến lược xuất khẩu cho riêng mình. Một vấn đề cũng hết sức quan trọng là việc thành lập thêm và tăng cường vai trò của các hiệp hội gỗ. Trước hết cần tạo cơ sở pháp lý và những chế tài cần thiết để các hiệp hội có thể hoạt động hợp pháp và có hiệu quả. Hiệp hội sẽ là cơ quan thu thập và phân tích các thông tin liên quan đến hoạt động xuất khẩu đồ gỗ trên thị trường Nhật Bản. Từ đó, hiệp hội sẽ có cơ sở để tư vấn hiệu quả cho các doanh nghiệp khi muốn xuất khẩu sang thị trường này. Thường xuyên cùng các doanh nghiệp đồ gỗ trong nước tiến hành tổ chức những ngày hội trợ ở trong nước, đây sẽ là cơ hội giúp các doanh nghiệp VIệt Nam có thể giới thiệu sản phẩm của mình cho các nhà nhập khẩu nước ngoài. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất khẩu đồ gỗ nội thất cũng cần thường xuyên tham gia các hoạt động xúc tiến của hiệp hội, thường xuyên giữ liên hệ với hiệp hội để có thể tiếp nhận thông tin mới một cách nhanh chóng và có những hướng điều chỉnh phù hợp nhằm tăng cường xuất khẩu đồ gỗ nội thất sang thị trường Nhật, tăng kim ngạch, tăng thị phần là mục tiêu quan trọng của hiệp hội. 3.2.1.3. Cần có kế hoạch phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ khi Việt Nam là thành viên của WTO Nhà nước đã đặt chỉ tiêu cho toàn ngành chế biến gỗ xuất khẩu phải đạt được mục tiêu nâng kim ngạch xuất khẩu lên 4 tỷ USD năm 2010 và lên mức 20 tỷ USD năm 2020. Với những gì mà ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đã làm được trong thời gian qua thì xem ra kế hoạch này hoàn toàn nằm trong khả năng. Vấn đề đặt ra ở đây là Việt Nam cần phải làm gì để phát huy cao nhất các tiềm năng của doanh nghiệp là thành viên của WTO. Nắm bắt được cơ hội và đối đầu với những thách thức mới. Để có được những doanh nghiệp lớn mạnh, Nhà nước cần phải chủ động trong quá trình liên kết các doanh nghiệp trong nước với nhau cũng như huy động những nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ mở rộng quy mô, có khả năng đáp ứng những đơn hàng lớn của các nhà nhập khẩu nước ngoài. 3.2.2. Phía các doanh nghiệp 3.2.2.1. Cần đặc biệt quan tâm đến việc đăng ký sở hữu công nghiệp tại Nhật cho các sản phẩm đồ gỗ nội thất của mình Thị trường Nhật Bản là thị trường chuẩn mực quốc tế về mọi vấn đề trong đó có vấn đề về sở hữu công nghiệp, đăng ký bản quyền cũng như bảo hộ thương hiệu. Việc nhanh chóng đăng ký sở hữu công nghiệp nhằm giúp các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam tránh được những rủi ro về tranh chấp thương hiệu trên thị trường này, từ đó có thể cạnh tranh lành mạnh và có hiệu quả đối với các doanh nghiệp khác cả trong và ngoài nước, bởi nếu hàng nhập khẩu vào thị trường Nhật mà vi phạm bản quyền nhãn hiệu thì ngay lập tức những lô hàng đó sẽ bị giữ lại, gây tổn thất lớn hơn doanh nghiệp. 3.2.2.2. Sử dụng có hiệu quả hệ thống Internet phục vụ cho hoạt động xuất khẩu Thương mại điện tử tuy mới xuất hiện nhưng đang phát triển rất nhanh và có tiềm năng lớn. Thương mại điện tử có nhiều điểm ưu việt hơn và thực sự là một công cụ mới cho chiến lược đẩy mạnh hàng xuất khẩu. Việc áp dụng thương mại điện tử giúp giảm thiểu tối đa các chi phí giao dịch cho các doanh nghiệp từ việc nghiên cứu thị trường, ký kết hợp đồng và thanh toán tiền hàng. Do vậy yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp xuất khẩu là phải chuẩn bị đầy đủ về vốn ngoại ngữ cũng như yếu tố kỹ thuật công nghệ thông tin… sẵn sàng hội nhập vào thị trường thế giới. Hiện nay, hệ thống mạng internet đã trở thành một kênh phấn phối quan trọng và hiệu quả nhất, thông qua mạng Internet, các doanh nghiệp có thể tiếp cận với những công nghệ hiện đại ở nước ngoài, cũng như có thể giới thiệu hàng của mình tới những nhà nhập khẩu nước ngoài. Việc quan trọng là doanh nghiệp cần có những chương trình hỗ trợ cho nhân viên có cơ hội được đào tạo, nâng cao trình độ sử dụng Internet, bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần thiết kế một Webside riêng, webside này sẽ là nơi doanh nghiệp quảng bá sản phẩm tới những nhà nhập khẩu nước ngoài. Thông qua mạng Internet, doanh nghiệp cũng có thể thu thập thông tin về thị trường, thông tin về người tiêu dùng… 3.2.3. Tăng cường nghiên cứu nhu cầu và thị hiếu của khách hàng Kinh doanh trong cơ chế thị trường là kinh doanh theo nhu cầu khách hàng. Bởi vậy, phải thường xuyên nắm bắt nhu cầu thị hiếu thông qua tài liệu báo chí, qua hội trợ triển lãm, qua mạng Internet, thông qua quan sát hành vi mua sắm của khách du lịch tại các thành phố lớn, trong khách sạn hay thông qua mạng lưới đại lý hoặc người quen đang học tập, công tác tại nước ngoài, qua sự giới thiệu của sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ, qua thông tin của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam và các cơ quan xúc tiến khác. 3.2.3.1. Nâng cao hiệu quả thu thập thông tin Thị trường đồ gỗ Nhật là thị trường có xu hướng tiêu dùng đa dạng và nhanh chóng thay đổi theo mốt mới. Vì vậy, việc thành lập trụ sở hay văn phòng ở Nhật là rất cần thiết, đây sẽ là cơ quan tìm kiếm thông tin trực tiếp tại thị trường này, nhanh chóng nắm bắt những nhu cầu sản phẩm mới ở đây, cũng như những phản hồi về sản phẩm của công ty. Thường xuyên truyền đạt những thông tin về thị trường và sản phẩm về công ty ở trong nước để từ đó công ty có những chiến lược mới để chinh phục thị trường. Mặt khác, thông qua trụ sở đặt ở Nhật mà doanh nghiệp cũng dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các nhà nhập khẩu ở đây cũng như có thể nhanh chóng giới thiệu sản phẩm mới của mình và thuận tiện trong việc ký kết các hợp đồng xuất khẩu. Mặt khác, việc thành lập các hiệp hội gỗ ở Việt Nam cũng hết sức cần thiết, đặc biệt cần có hiệp hội của những nhà xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Đây sẽ là tổ chức thu thập thông tin và tư vấn cho các doanh nghiệp khi muốn xuất khẩu sản phẩm đồ gỗ nội thất sang thị trường này. Với một hiệp hội mà thành viên của nó bao gồm toàn những người trong cùng một lĩnh vực thì quá trình cập nhật thông tin của nhau sẽ rất nhiều và có độ chính xác cao. Đây cũng là nơi mà các doanh nghiệp có thể tìm kiếm đối tác để cùng nhau chia sẻ một đơn hàng lớn cũng như tìm kiếm cơ hội hợp tác để có đơn đặt hàng. Các phương tiện truyền thông, ti vi, đài báo, mạnh Internet.... cũng là những kênh mà doanh nghiệp có thể thu thập thông tin. 3.2.3.2. Thành lập bộ phận nghiên cứu và phân tích dữ liệu Thông tin là rất nhiều, việc thu thập thông tin cũng có vẻ đơn giản. Nhưng vấn đề quan trọng ở đây không pẩi chỉ thu thập thông tin rồi bỏ đó hay chỉ dựa vào nhưng thông tin đó là đủ. Điều quan trọng hơn, là các doanh nghiệp phải có một quá trình sàng lọc những thông tin được thu thập, có cách thu thập thông tin hiệu quả, phải có quá trình phân tích thông tin và cuối cùng là cho ra đời những chiến lược dựa trên cơ sở những thông tin đó. Để làm được điều đó, việc cần làm là doanh nghiệp nên xây dựng một bộ phận chuyên ngành. Đây là một bộ phận có trách nhiệm lựa chọn những cách thu thập thông tin hiệu quả phù hợp với doanh nghiệp, sàng lọc các thông tin do các bộ phận bên ngoài thu thập đưa về, và quan trọng hơn cả là phải có khả năng phân tích để biến những thông tin tạp nham đó thành những cơ hội mà doanh nghiệp có thể tận dụng để tạo ra ưu thế cho mình trên thị trường Nhật. Việc tuyển chọn những con người làm việc trong bộ phận này cũng cần đặc biệt chú ý. Họ nhất định phải là những người giỏi chuyên môn sản xuất và có tính sáng tạo, họ phải là những người am hiểu về sản phẩm của công ty, am hiểu về thị trường đồ gỗ Nhật và thị hiếu tiêu dùng của này, có khả năng phân tích những dữ liệu đơn giản thành những con số có lợi cho công ty. 3.2.4. Đa dạng mẫu mã chủng loại, nâng cao chất lượng và hạ giá thành 3.2.4.1. Đa dạng hoá mẫu mã chủng loại Tạo nét đẹp thủ công - những kinh nghiệm thành công Tình trạng phổ biến ở nhiều doanh nghiệp chế biến gỗ hiện nay là làm hàng chủ yếu theo mẫu mã, kiểu dáng của đơn đặt hàng nước ngoài với nguyên liệu gỗ cũng nhập từ nước ngoài. Do đó giá trị gia tăng trên mỗi sản phẩm gỗ xuất khẩu không cao, chỉ đạt 10-15% trên giá trị sản phẩm gỗ xuất khẩu. Cách bứt phá của một số nhà sản xuất đồ gỗ để tăng giá trị xuất khẩu là đưa vào sản phẩm đồ gỗ những nét chạm trổ tỉ mỉ bằng tay. Ông Nguyễn Văn Quý - Giám đốc Công ty Gỗ Hố Nai (tỉnh Đồng Nai) - chọn cách đưa nhiều công đoạn chạm trổ bằng tay tỉ mỉ trên sản phẩm gỗ nội thất để nâng giá trị hàng lên. “Với cách làm này, chúng tôi chuyển từ sử dụng nhân công giá rẻ sang nhân công lành nghề, lại bán được giá cao”, ông Quý nói. Công ty Mạnh Hùng (Quận 1, Tp.HCM) của ông Trần Mạnh Hùng lại chọn những họa tiết ghép bằng gỗ lạng mỏng, tạo nét đặc sắc riêng cho sản phẩm gỗ nội thất. “Họa tiết gỗ làm tỉ mỉ bằng tay chính là ưu thế của dòng sản phẩm gỗ nội thất này và đẩy giá trị xuất khẩu lên rất nhiều”, ông Hùng cho biết. Điều đáng ngại nhất đối với cơ sở của ông Hùng vẫn là cạnh tranh với Trung Quốc về kiểu dáng, giá cả. Hàng Trung Quốc cũng có dạng hàng gỗ gia dụng đưa vào họa tiết ghép bằng gỗ nhưng mẫu không phong phú bằng. Trong khi đó, Công ty Việt Collection (Bình Dương) chọn lối đi riêng bằng cách chỉ làm các loại cửa nhà bằng gỗ. “Làm cửa gỗ là ngành hàng rất chuyên biệt, chưa có nhiều người làm và xuất sang thị trường Mỹ. Chúng tôi hướng tới mặt hàng cửa gỗ cao cấp để tạo hướng đi có lợi nhất vào lúc này”, ông Phạm Hưng Andrew - chủ tịch hội đồng quản trị công ty - thổ lộ. Mặt hàng chuyên biệt Các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đều đầu tư từ A-Z để hoàn thiện nhiều sản phẩm, vì vậy vốn đầu tư rất lớn mà sản phẩm làm ra không nhiều, giá lại cao, không cạnh tranh nổi với “người khổng lồ” Trung Quốc. “Phải làm sao để có được hiệp hội hoặc liên kết để tổ chức mỗi người một công đoạn sản xuất nhằm giảm vốn đầu tư, làm được nhiều sản phẩm, hạ giá thành. Và điều đặc biệt là phải có sản phẩm độc đáo của riêng mình mới có thể có được hợp đồng”. Sau vài năm đưa hàng vào Nhật, ông Trần Mạnh Hùng đúc kết được gu hàng của khách Nhật để đưa ra những mẫu bán được: hàng có màu sắc không lòe loẹt, đồng gam màu, gam màu tối, họa tiết đơn giản. Mặc dù một số nhà sản xuất đồ gỗ Việt Nam đã tìm được những hướng đi riêng vào thị trường Nhật, nhưng vẫn còn có những điểm chưa gặp nhau giữa nhà sản xuất và người mua hàng. Ông August Wingardh - Trưởng đại diện Tập đoàn Ikea (Thụy Điển) tại Việt Nam - cho rằng doanh nghiệp nhỏ và vừa nên hướng đến khả năng cung cấp những mặt hàng chuyên biệt, tạo sự khác biệt so với hàng của công ty khác để tránh cạnh tranh giá, chào được giá tốt. Ông August Wingardh đánh giá đồ gỗ của nhiều doanh nghiệp Việt Nam sản xuất quá giống nhau về nguyên liệu lẫn kiểu dáng dẫn đến chuyện phải cạnh tranh lẫn nhau. 3.2.5. Nâng cao chất lượng sản phẩm 3.2.5.1. Đào tạo nghệ nhân, thợ cả cho các làng nghề Các nghệ nhân được coi là linh hồn của làng nghề, của các đơn vị sản xuất, không có nghệ nhân sẽ không thể có làng nghề phát triển và nổi tiếng. Nghệ nhân và thợ cả là lợi thế và nguồn lực quan trọng nhất của làng nghề vì họ là người có tay nghề cao, điêu luyện, có kỹ xảo riêng, có khả năng sáng tạo, cải tiến công cụ và sử dụng các nguyên liệu mới trong sản xuất. Hiện đội ngũ này ở các làng nghề cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu còn quá ít, nếu không đào tạo sẽ có không cơ hội phát triển. Nâng cao trình độ cán bộ nhân viên về nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu, luật thương mại quốc tế, kỹ năng sử dụng các phương tiện hiện đại để có thể tự tìm kiếm khách hàng, ký kết hợp đồng, nâng cao khả năng thâm nhập thị trường quốc tế. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong xuất khẩu chỉ được nâng cao khi thực hiện đồng bộ các giải pháp trên cùng với sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân. 3.2.5.2. Đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất Một trong những hạn chế của sản phẩm đồ gỗ nội thất xuất khẩu Việt Nam là yếu kém về chất lượng. Nguyên nhân chủ yếu là 2/3 các doanh nghiệp trong ngành này của chúng ta vẫn sử dụng những máy móc cũ kỹ, lạc hậu, năng suất lao động không cao, chất lượng sản phẩm kém. Do đó, để cạnh tranh về chất lượng sản phẩm thì các daonh nghiệp cần thiết phải đổi mới công nghệ, với những máy móc công nghệ hiện đại, các doanh nghiệp có thể sản xuất hàng loạt mà vẫn đảm bảo chất lượng. Để có nguồn vốn đầu tư mới cho máy móc, các doanh nghiệp trong nước cùng sản xuất một lĩnh vực ngành hàng nào đó có thể hợp tác với nhau để tạo ra nguồn vốn lớn, bởi những công nghệ hiện đại hiện nay có giá trị rất cao, nếu chỉ dựa vào nội lực của bản thân doanh nghiệp thì cả nước ta cũng không có mấy doanh nghiêp có khả năng đầu tư. Các doanh nghiệp cũng có thể huy động vốn thông qua các tổ chức tài chính trong nước như: vay ngân hàng, phát hành cổ phiếu trái phiếu, nhưng nếu doanh nghiệp đi theo con đường này thì doanh nghiệp cần phải có kế hoạch, chiến lược đúng đắn. Bởi nếu thất bại thì xem như doanh nghiệp bi xoá sổ. Một trong những cách được sử dụng phổ biến và thường mang lại hiệu quả cao là tiến hành liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp từ Trung Quốc, Đài Loan đang đổ xô vào đầu tư ở Việt Nam để đối phó với cảnh bị Mỹ áp thuế chống bán phá giá. 3.2.5.3. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với cac tiêu chuẩn quốc tế Yếu tố quyết định để người tiêu dùng ở các nước lựa chọn một sản phẩm gỗ chế biến không chỉ là chất lượng hay mẫu mã mà còn là xuất xứ của nguồn nguyên liệu tạo ra sản phẩm đó. Đây là xu hướng của người tiêu dùng thế giới, đối tượng chính của sản phẩm gỗ Việt Nam và cũng là mối quan tâm hàng đầu hiện nay của nhiều doanh nghiệp chế biến gỗ... FSC (Forest Stewardship Council) là tên của Hội đồng quản trị rừng quốc tế và cũng là một loại chứng chỉ rừng do chính Hội đồng này quản lý. FSC là chương trình toàn cầu kiểm định chuỗi hành trình sản phẩm từ khâu nguyên liệu đến thành phẩm. FSC trong ngành chế biến gỗ giống như chứng chỉ ISO, hệ thống quản lý chất lượng quốc tế áp dụng cho các ngành nghề hoặc như HACCP, tiêu chuẩn chất lượng của ngành thuỷ sản, GMP đối với ngành dược, hoặc SA 8000 tiêu chuẩn về sử dụng lao động và trách nhiệm xã hội trong ngành giầy da và dệt may... Các doanh nghiệp Việt Nam cho biết FSC ngày càng trở nên quan trọng đối với sản phẩm gỗ chế biến xuất khẩu, nhất là những sản phẩm gỗ ngoài trời. Đại Thành tham gia xuất khẩu hơn 10 năm nay, phần lớn khách hàng của công ty là châu Âu với kim ngạch hàng năm đạt đến 15 triệu USD, trong đó 6 triệu USD doanh thu do sản phẩm có chứng chỉ FSC tạo ra. Đại Thành có kế hoạch mở rộng thị trường đến những nhà phân phối và chuỗi siêu thị lớn ở châu Âu. Một trong những giải pháp thực hiện chiến lược này của Đại Thành là chứng chỉ FSC với mục tiêu nâng tỷ lệ sử dụng gỗ có chứng chỉ FSC từ 30% hiện nay lên 100%. Sở dĩ các công ty nhập khẩu yêu cầu chứng chỉ vì khách hàng của họ, những người tiêu dùng, chỉ lựa chọn sản phẩm bảo vệ môi trường. Muốn tồn tại và phát triển bền vững, doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn nguyên liệu gỗ rõ ràng, có chứng chỉ. Đó không chỉ tạo lợi thế cạnh tranh cho các công ty xuất khẩu gỗ mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp chế biến gỗ trong tương lai. Điều phối viên của Mạng kinh doanh lâm sản Việt Nam (VFTN), ông Sander Van den Ende cho biết: nhận thức của người tiêu dùng ở các nước ngày càng cao, sản phẩm không phải chỉ có giá rẻ, chất lượng tốt hay mẫu mã đẹp được người tiêu dùng lựa chọn mà còn phải bảo vệ môi trường. Vấn đề tiên quyết là thói quen lựa chọn của người tiêu dùng cấp tiến. Cũng giống như trong ngành dệt may hay hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm làm ra từ lao động trẻ em hay có tính chất bóc lột đều bị người tiêu dùng tẩy chay. Chính chứng chỉ SA 8000 giúp doanh nghiệp chứng minh sản phẩm của họ được sản xuất trong điều kiện tốt và trách nhiệm. Người tiêu dùng nước ngoài ngày càng kỹ tính hơn đối với sản phẩm chế biến gỗ. Họ chỉ sử dụng sản phẩm khi biết chắc rằng nó được tạo ra không phải từ việc phá rừng. Chứng chỉ FSC không chỉ thỏa mãn đòi hỏi của khách hàng mà còn là cơ hội quảng bá sản phẩm của doanh nghiệp ở những thị trường lớn như châu Âu và Hoa Kỳ. Theo Hội đồng quản trị rừng quốc tế, hiện nay đã có trên 3.000 đơn vị, tổ chức có chứng chỉ FSC bao gồm công ty chế biến, chủ rừng, doanh nghiệp thương mại... Trong số này 84 doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam có chứng chỉ FSC trong tổng số hơn 1.200 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Cũng theo hội đồng này, khảo sát trên 250 công ty có chứng chỉ trên thế giới cho thấy nhờ có FSC mà doanh thu của các công ty gia tăng đáng kể và tính chung cả thị trường gỗ thế giới tăng thêm 5 tỷ USD trong năm qua. VFTN là tổ chức thuộc Quỹ bảo vệ động vật hoang dã (WWF). VFTN có mặt ở Việt Nam năm 2005 nhằm khuyến khích các doanh nghiệp trong ngành chế biến gỗ Việt Nam tham gia với mong muốn hình thành môi trường bền vững và qui trình khai thác, sử dụng gỗ có nguồn gốc và có chứng chỉ. Bốn công ty đầu tiên bao gồm ba công ty trong nước và một công ty nước ngoài đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này. Ông Ende của VFTN nói rằng trở thành thành viên của mạng lưới VFTN sẽ mang lại cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thành viên, đồng thời doanh nghiệp còn có cơ hội tìm kiếm nhiều khách hàng trong mạng lưới mang tính toàn cầu này bên cạnh mục tiêu góp phần bảo vệ môi trường sống cho cả thế giới. Trường Thành ở Bình Dương là một trong những công ty thành viên đầu tiên của VFTN. Tổng giám đốc công ty, cho biết mặc dù mới tham gia vào VFTN nhưng từ nhiều năm nay công ty ý thức về nguồn nguyên liệu có chứng chỉ nhiều năm nay. Từ 1995 công ty bắt đầu nhập nguyên liệu gỗ có chứng chỉ FSC từ châu Phi, tuy nhiên tỷ lệ sử dụng còn thấp. Trường Thành cố gắng phấn đấu nâng tỷ lệ nguồn nguyên liệu có chứng chỉ FSC lên 50%-90% vào năm 2014-2015. Hiện tại tập đoàn gỗ kỹ nghệ này đang thực hiện dự án trồng rừng ở Đắc Lắc và dự án này sẽ được công ty hướng đến nguồn nguyên liệu đạt chứng chỉ FSC. Ngành chế biến gỗ của Việt Nam đang tăng trưởng mạnh trong những năm gần đây với kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1,5 tỷ USD năm ngoái và dự kiến sẽ đạt 2 tỷ USD năm nay, tăng trưởng trung bình hàng năm trên 50%. Tuy nhiên, trên 80%-85% nguyên liệu gỗ cho các nhà máy chế biến ở Việt Nam do các công ty nước ngoài cung cấp, do đó có được nguồn cung cấp gỗ ổn định là điều doanh nghiệp trong nước quan tâm hơn cả. Có hay không có chứng chỉ FSC chưa thực sự thu hút sự quan tâm của hầu hết các doanh nghiệp trong ngành chế biến này. 3.2.6. Giảm chi phí sản xuất để giảm giá thành sản phẩm - nâng cao khả năng cạnh tranh 3.2.6.1. Đảm bảo nguyên liệu, giảm chi phí gia tăng do giá nguyên liệu gỗ có xu hướng tăng Trước mắt, các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp chế biến gỗ và các địa phương liên quan, bằng mọi cách mở rộng thị trường, tăng cường khả năng nhập khẩu gỗ, phát triển chế biến mạnh hơn nữa, đi đôi với sử dụng gỗ tiết kiệm; vận động, thuyết phục các cơ quan, đoàn thể, các ngành và địa phương trong cả nước thay đổi tập quán sử dụng gỗ rừng sang sử dụng ván nhân tạo, làm giảm sức ép đối với rừng. Về lâu dài, Nhà nước phải có cơ chế, chính sách đầu tư thỏa đáng, đẩy nhanh tốc độ trồng rừng, nhất là rừng nguyên liệu (còn gọi là rừng sản xuất). Song song với công tác quy hoạch, cần tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao và áp dụng công nghệ mới vào trồng rừng, bảo vệ rừng như: áp dụng kỹ thuật tạo giống cây bằng phương pháp mô, hom. Lựa chọn và đưa vào trồng những cây thích hợp, bảo đảm vừa có cây gỗ nhỏ mọc nhanh, chu kỳ kinh doanh ngắn (6-7 năm), vừa có cây gỗ lớn dài ngày (10-15 năm). Đẩy mạnh hoạt động của hệ thống khuyến lâm, nhất là khuyến lâm cơ sở đối với các xã vùng sâu, vùng xa nhằm chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật về thâm canh tăng năng suất rừng đến các chủ rừng. Làm tốt các biện pháp quản lý bảo vệ rừng. Các bộ, ngành liên quan sớm có chính sách ưu đãi khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong nước, nhất là doanh nghiệp công nghiệp chế biến gỗ và nhà đầu tư nước ngoài tham gia trồng rừng sản xuất, kinh doanh rừng. Trong chính sách cần xác định rõ hỗ trợ của Nhà nước, có thể hỗ trợ sau đầu tư, hỗ trợ giống cây. Tiếp tục thực hiện việc giao đất, giao rừng cho tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân. Rà soát, bổ sung, sửa đổi chính sách về khoán bảo vệ rừng, chính sách hưởng lợi từ rừng bảo đảm các lợi ích, trong đó lợi ích của người lao động là rất quan trọng, để họ yên tâm gắn bó với rừng lâu dài, có thu nhập ổn định, từng bước cải thiện, nâng cao đời sống, không phá rừng, hủy hoại tài nguyên rừng. Các giải pháp định hướng khái quát nêu trên nhằm từng bước giải quyết vấn đề nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến gỗ phát triển bền vững, hiệu quả. 3.2.6.2. Tận dụng tối đa các lợi thế Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ nội thất Việt Nam đang có những thuận lợi rất lớn để có thể giảm giá hàng xuất khẩu, nhưng điều cần thiết là các doanh nghiệp phải biết đó là những lợi thế để vượt qua khó khăn, để cạnh tranh với đối thủ. Không nên quan niệm, dựa vào những lợi thế đó mà ỷ lại. Thêm vào đó, Việt Nam sẽ là thành viên của WTO trong thời gian tới, do đó các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng nhiều ưu đãi hơn nữa. Một lợi thế khác nữa, các doanh nghiệp Việt Nam có nguồn nguyên liệu gỗ tự nhiên dồi dào và đội ngũ lao động đông đảo với giá rẻ, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay nên lợi dụng những ưu thế này để tạo ra khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp cùng loại ở các quốc gia khác. Tuy nhiên, trong tương lai ưu thế về lao động giá rẻ sẽ không con là yếu tố quyết định, mà yếu tố then chốt là trình độ lành nghề của công nhân, những công nhân lành nghề có thể tạo ra những sản phẩm độc đáo, chuyên biệt. Với dòng sản phẩm này, các doanh nghiệp có thể không phải quan tâm tới vấn đề cạnh tranh về giá, bởi những người tiêu dùng thường chấp nhận những sản phẩm này dù với mức giá cao. Đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng và giảm giá thành. Nghe thì có vẻ vô lý, nhưng trên thực tế 3 giải pháp này phải tiến hành đồng thời. Các doanh nghiệp không nên chỉ chú trọng một giải pháp cụ thể nào đó, bởi như thế là thất bại. Cần phải chú trọng cùng một lúc tới cả 3 chỉ tiêu trên, tuỳ theo từng hoàn cảnh cụ thể mà tầm quan trọng của từng chỉ tiêu là khác nhau. 3.2.7. Tăng cường quảng cáo, khuếch trương sản phẩm Tích cực tham gia các buổi hội trợ giới thiệu sản phẩm. Hội trợ là nơi gặp gỡ trực tiếp giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng và các nhà nhập khẩu. Do vậy, các doanh nghiệp cần có một cách nhìn đúng về hoạt động này, thường xuyên tham gia các cuộc hội trợ để giới thiệu sản phẩm tới người tiêu dùng. Ở Nhật, hội chợ diễn ra quanh năm, là nơi các nhà sản xuất và nhập khẩu hoặc đại lý phân phối của các nhà nhập khẩu thường trưng bày, giao dịch, bán buôn sản phẩm cho cho những người bán lẻ. Hội chợ thương mại Nhật là cơ hội rất tốt cho các doanh nghiệp đến tìm kiếm đối tác kinh doanh. Trước khi tham gia hội chợ, doanh nghiệp phải nghiên cứu xác định hội chợ phù hợp với ngành hàng sản xuất của mình và liên hệ với nhà tổ chức làm các thủ tục đăng ký, thuê gian hàng, chuẩn bị chu đáo hàng hóa và tài liệu quảng cáo về sản phẩm, đến trước từ 1- 2 ngày để dàn dựng, trưng bày hàng hóa. Khách hàng đến thăm quan gian hàng có thể là các nhà nhập khẩu, các chủ cửa hàng bán lẻ lớn nhỏ khác nhau nên khả năng đặt hàng của họ cũng rất khác nhau. Tùy từng khách hàng và số lượng hàng khách yêu cầu để đàm phán điều chỉnh giá cả cũng như các điều kiện sao cho phù hợp. Đặc biệt, tại hội chợ tối kỵ việc bán lẻ trao tay trực tiếp hàng hóa cho khách thăm quan. Ở Việt Nam, hội chợ cũng thường xuyên diễn ra và thu hút đông đảo các doanh nghiệp tham gia như tại Hội chợ quốc tế đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ 2005 (Expo 2005) tổ chức tại TP.HCM, có 120 hợp đồng xuất khẩu và bản ghi nhớ đặt hàng đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ trị giá hơn 4,5 triệu USD đã được ký kết. Với việc tổ chức hội chợ trong nước, đây là cơ hội đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội tiếp cận với nhưng nhà nhập khẩu, đây là cơ hội hiếm có để giới thiệu về sản phẩm của mình. Vì vậy, các doanh nghiệp cần có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, chuyên nghiệp để thu hút các nhà nhập khẩu, không nên quan niệm hội chợ chỉ là nơi mang sản phẩm đến là hết, còn đâu mặc kệ khách tham quan. Hội chợ vừa là nơi giới thiệu sản phẩm, vừa cho đối tác thấy phong cách làm việc chuyên nghiệp của mình. 3.2.8. Xâm nhập thị trường Nhật Bản bằng thương hiệu Muốn đưa hàng vào Nhật đạt kết quả, trước tiên doanh nghiệp cần xây dựng thương hiệu cho mình thật vững chắc. Kế tiếp là khâu tìm nhà phân phối nguồn hàng và lựa chọn cách quảng cáo hợp lý. Doanh nghiệp Việt Nam còn yếu ở những khâu này. Muốn thành công trên thị trường Nhật, nhà xuất khẩu cần biết xây dựng thương hiệu, làm thế nào để thương hiệu có thể ăn sâu vào trong tâm trí của người tiêu dùng. So với doanh nghiệp Việt Nam, nhà sản xuất Nhật luôn bỏ ra rất nhiều tiền để xây dựng thương hiệu. Quan niệm của họ là xây dựng thương hiệu trước khi tìm kiếm thị trường, trong khi đó, hầu hết các nhà xuất khẩu Việt Nam hiện chỉ chú trọng đến quảng cáo, bởi vậy khó khăn lớn nhất là hàng Việt Nam vẫn là chưa xây dựng được thương hiệu trong lòng người tiêu dùng ở đây. Khâu tiếp cận yếu kém hoặc khi tiếp cận được thì không biết ở đâu thị trường cần, nên đã đi lạc hướng với thị hiếu của người tiêu dùng. Kinh nghiệm của nước láng giềng Trung Quốc cũng cần cho các doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam chưa có đủ khả năng để xây dựng lên một thương hiệu tầm cỡ quốc tế. Trong khi đó, những thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam thì hầu hết người tiêu dùng Nhật đều không biết tới. Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam có thế đi theo cách mà Trung Quốc đã từng làm là mang nhãn mác không nổi tiếng vào bán với giá rẻ ở các siêu thị bách hoá Mỹ như: Wal-mart; Target; K-mart; Sears...là những siêu thị chuyên bán hàng tiêu dùng cao cấp và nổi tiếng. Điều này gây sự bất ngờ cho người tiêu dùng, mặc dù bán với giá rẻ so với các mặt hàng cùng loại trong siêu thị nhưng các doanh nghiệp vẫn đảm bảo có lãi. 3.2.9. Nâng cao vai trò của hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam Một trong những hạn chế căn bản của các hiệp hội ở Việt Nam là khả năng hoạt động rất hạn chê. Hiệp hội phần lớn là những người già đang đảm đương, không có những người trẻ, có năng lực, cập nhất thời đại đang sung sức nắm giữ. Kinh phí hoạt động của hội chủ yếu dực vào ngân sách của nhà nước, do đó hoạt động của hội còn rất hạn chế. Vì vậy, Chính phủ chỉ nên tạo hành lang pháp lý để hiệp hội hình thành rồi cho các hiệp hội này tự chủ. Chỉ có như thế các hiệp hội mới trở lên năng động cũng như nâng cao vai trò hoạt động của hiệp hội. Vai trò quan trọng của hiệp hội là cung cấp thông tin và tư vấn cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam khi có nhu cầu xuất khẩu hàng hoá ra thị trường các nước khác.Vì vậy, các hiệp hội cần hoạt động có hiệu quả để đảm bảo vai trò của mình. Thị trường gỗ nội thất ở Nhậtrất đa dạng và phong phú. Nhu cầu về mẫu mã, chất lượng và mức giá hợp hợp lý là thay đổi thất thường, các nhà nhập khẩu mặt hàng gỗ nội thất thì rất tinh tường và nhạy bén, cũng rất khó tính. Do đó, hiệp hội gỗ muốn tư vấn có hiệu quả cho các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường này thì cần phải tiến hành hoạt động quảng bá, xúc tiến trên thị trường này. HIện tại, hiệp hội cần thiết phải có trụ sở tại thị trường Nhật trực tiếp trên thị trường này để đảm bảo nguồn thông tin đước cập nhật thường xuyên và chính xác. Trước hết, hiệp hội càn phải tận dụng triệt để các cơ hội để quảng bá những sản phẩm chất lượng, mẫu mã đẹp và giá cả hợp lý của Việt Nam tới các nhà nhập khẩu , rút ngắn khoảng cách giữa các nhà nhập khẩu với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Tạo cở sở cho việc tiến tới các hợp đồng xuất khẩu lớn. Tiếp theo, hiệp hội cũng nên thường xuyên tiếp xúc với thị trường, với các nhà nhập khẩu, với các nhà phân phối, bán lẻ để có những thông tin mới mẻ về thị trường, cũng như cập nhật nhanh chóng những thay đổi bất thường về thị hiếu tiêu dùng. Đây sẽ là nguồn dữ liệu quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam để có thể đưa ra các quyết định kinh doanh hiệu quả nhất. Hiệp hội cũng nên có những chương trình cho nhà nhập khẩu đồ gỗ nộ thất của Nhật giao lưu trực tiếp với các nhà nhập khẩu Việt Nam. Hiệp hội nên thông báo, tư vấn để các doanh nghiệp có thể tham gia các buổi hội chợ quan trong ở nước ngoài. Hiệp hội nên chủ động tổ chức hay đứng ra đăng cai những ngày hội trợ đồ gỗ ngay ở Việt Nam, đây sẽ là điều kiện vô cùng thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với các nhà nhập khẩu và đầu tư nước ngoài. Cùng với những hoạt đông này, Hiệp hội cũng nên có nhưng chương trình tạo điều kiện cho các nhà nhập khẩu và đầu tư Mỹ tham quan các cơ sở kinh doanh của Việt Nam, chỉ có quan sát trực tiếp mới có thể làm thay đổi cách nhìn về hàng Việt Nam, đây cũng là nơi diễn ra kí kết các hợp đồng lớn và dài hạn. Hiệp hội cũng cần phải tư vấn khi nhà nhâp khẩu và đầu tư nước ngoài quan tâm tới thị trường Việt Nam. Một hạn chế của các doanh nghiệp Việt Nam là kém hiểu biết về pháp luật của nước nhập khẩu và những thông lệ quốc tế cũng như những ngoại lệ bất thường ở thị trường nước nhập khẩu và quốc tế. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam thường xuyên gặp khó khăn mỗi khi ký kết những hợp đồng lớn, đặc biệt đã có nhiều lô hàng bị đối tác trả lại. Vì vậy, vấn đề trước mắt là các doanh nghiệp cán có sự tư vấn về kinh nghiệm của các chuyên gia trong ngành cũng như sự am hiểu luật pháp quốc tê của các luật sư. Còn Về lâu dài, Hiệp hội lên có chương trình đào tạo cho các nhà lãnh đạo này. 3.2.10. Xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp trên thị trường Nhật Bản Đa dạng hóa mặt hàng và các hình thức xuất khẩu Theo các chuyên gia, con số 1,6 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu của ngành gỗ chưa phản ánh đúng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nước cũng như nhu cầu thị trường. Bài toán đặt ra hiện nay là ngoài 120 thị trường sẵn có, các doanh nghiệp cần phải khai thác tốt hơn nữa các thị trường như Mỹ, Nhật, Đức…, đồng thời phải mở rộng ra những thị trường tiềm năng như Canada, Nga và các nước Đông Âu. Theo đánh giá của ông Trần Quốc Mạnh, Canada không chỉ có thế mạnh về cung cấp nguyên liệu mà năng lực tiêu thụ đồ gỗ nội thất hàng năm là rất lớn. Nếu các doanh nghiệp biết liên kết để làm ăn (các đối tác từ Canada vừa cung cấp nguyên liệu, vừa là đầu mối phân phối thành phẩm) thì việc sản xuất gỗ trong nước sẽ rất có lợi. Tương tự, Nga cũng là một trong những thị trường có nguồn nguyên liệu khá dồi dào. Các doanh nghiệp cũng cần chú trọng liên kết để có đầu vào ổn định, từ đó xuất khẩu ngược thành phẩm vào thị trường này. Việc mở rộng, đa dạng hóa thị trường còn tránh được nhiều vấn đề bất trắc có thể xảy ra nhưng không làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của ngành. Liên kết chuỗi giữa các doanh nghiệp Liên kết đang trở thành một xu hướng trong lĩnh vực sản xuất đồ gỗ nội thất xuất khẩu. Các doanh nghiệp chỉ có liên kết với nhau mới có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, có nguồn vốn để đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và hạ giá thành hàng xuất khẩu. Mặt khác, quá trình liên kết cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giải quyết được vấn đề nguyên liệu sản xuất. Liên kết cũng là một xu hướng tất yếu của các doanh nghiệp đồ gỗ còn nhỏ bé của Việt Nam trước những đơn hàng lớn của nước ngoài, nhất là các nhà nhập khẩu đồ gỗ lớn từ Nhật. Tức là, mỗi doanh nghiệp sẽ làm một khâu để hoàn chỉnh sản phẩm. Điển hình cho sự liên kết này là cụm công nghiệp gỗ Phú Tài (Bình Định), với 60 doanh nghiệp đang cùng hợp tác để sản xuất và kinh doanh. Kinh nghiệm từ các nước có thế mạnh về xuất khẩu đồ gỗ cho thấy, chỉ khi các doanh nghiệp trong cùng ngành có sự liên kết để sản xuất thì mới tạo nên sức mạnh, tăng khả năng xuất khẩu. Bằng không, doanh nghiệp nào đứng ngoài sẽ bị đào thải. Ông Trần Quốc Mạnh, Phó chủ tịch Hội mỹ nghệ và chế biến gỗ TPHCM (HAWA), cho biết. Mỗi khi nhận một đơn hàng lớn của khách hàng nước ngoài vượt quá năng lực doanh nghiệp thì ngay lập tức doanh nghiệp đó sẽ liên kết với các doanh nghiệp khác để chia xẻ từng công đoạn sản xuất.  Xu hướng liên kết giữa các doanh nghiệp càng được củng cố khi công nghiệp gỗ Việt Nam tập trung hình thành các vùng tam giác Tp.HCM - Đồng Nai - Bình Dương ở phía nam, chiếm ít nhất 60% năng lực chế biến gỗ của cả nước, Bình Định - Gia Lai - Daklak ở miền Trung và Tây Nguyên. Đặc điểm nổi bật của các vùng này là có nghề chế biến gỗ phát triển từ lâu, gắn liền với các cảng biển vận chuyển hàng hóa. Khu công nghiệp Phú Tài ở Bình Định là một điển hình cho việc tập trung các doanh nghiệp chế biến gỗ vì khu công nghiệp này thu hút gần 50 doanh nghiệp chế biến gỗ, thuận lợi cho liên kết trong nhập khẩu gỗ nguyên liệu và xuất khẩu thành phẩm.  Thiếu nguyên liệu, phải nhập khẩu từ nước ngoài trong bối cảnh nhu cầu sử dụng gỗ nguyên liệu tăng nhanh chóng cũng đặt ra nhu cầu liên kết cho các doanh nghiệp. Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Vietfores), các doanh nghiệp chế biến gỗ thành viên của hiệp hội này đang xúc tiến thành lập ba đầu mối nhập khẩu gỗ nguyên liệu có quy mô lớn ở ba miền Bắc, Trung và Nam theo hình thức mỗi đầu mối là một công ty cổ phần với nguồn vốn tối thiểu 10 triệu Đôla Mỹ. “Việc thành lập các đầu mối nhập khẩu gỗ nguyên liệu là để chủ động nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ đang tăng trưởng nóng trong nước, giúp hạ giá gỗ nguyên liệu đầu vào cho các nhà chế biến gỗ xuất khẩu nhờ nhập khẩu tập trung, thay vì nhập khẩu nhỏ lẻ như lâu nay”, ông Nguyễn Tôn Quyền, Phó chủ tịch Vietfores, giải thích.  Theo thỏa thuận, các nhà nhập khẩu gỗ nguyên liệu, nhà chế biến xuất khẩu gỗ thành phẩm từng miền sẽ ngồi lại với nhau để tính toán việc thành lập đầu mối nhập khẩu gỗ, cũng như đóng góp cổ phần của từng doanh nghiệp, dưới sự hỗ trợ của Bộ Thương mại. Trước mắt, Vietfores xúc tiến thành lập đầu mối nhập khẩu gỗ ở phía Bắc, rồi sau đó rút kinh nghiệm thành lập đầu mối nhập khẩu cho miền Trung ở Bình Định và miền Nam ở Tp.HCM. “Mỗi đầu mối phải có nguồn vốn tối thiểu 10 triệu đô la Mỹ thì mới có hy vọng nhập khẩu được số lượng lớn, đủ sức hạ giá thành gỗ nhập khẩu khi về đến Việt Nam”.  Ý tưởng thành lập các đầu mối nhập khẩu gỗ tập trung được Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển đưa ra tại hội nghị xuất khẩu gỗ toàn quốc hồi tháng 3 năm ngoái. Tuy nhiên, Vietfores rất cần Chính phủ hỗ trợ. Đó là hỗ trợ về mặt bằng để xây dựng kho bãi chứa gỗ, nguồn vốn vay ưu đãi trong chương trình tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của Chính phủ.  KẾT LUẬN Các ngành kinh tế của Việt Nam phát triển chủ yếu dựa vào các lợi thế sẵn có, một số ngành đã và đang phát huy được lợi thế của mình và có được một vị thế cao trên thị trường quốc tế. Hiện nay sản phẩm đồ gỗ là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng đối với nền kinh tế của đất nước. Tuy nhiên hiện nay sản phẩm này đang gặp rất nhiều khó khăn trên thị trường quốc tế. Vì vậy yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ việt Nam trong là một trong những yêu cầu cấp thiết đối với ngành đồ gỗ nói chung và đối với các doanh nghiệp may nói riêng. Với xu thế cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường hiện nay đòi hỏi những nước có lợi thế so sánh phải vận dụng nhiều biện pháp, hoạch định các chiến lược phù hợp với lợi thế cạnh tranh trong sản xuất của quốc gia mới giúp nhà sản xuất kinh doanh trụ vững trên thị trường quốc tế nói riêng và thị trường Nhật Bản nói riêng. Đề tài đã nghiên năng lực cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ trên thị trường Nhật Bản để từ đó kiến nghị các chính sách và đề ra giải pháp đối với nhà nước và đối với các doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm Việt. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bạch Thụ Cường (2002) Bàn về cạnh tranh toàn cầu , Nxb, Thông tấn, Hà nội 2. Đinh Văn Ân- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Nxb, Giao thông vận tải 3. Đinh Văn Ân- Hội nhập kinh tế áp lực cạnh tranh trên thị trường và đối sách của một số nước, Nxb, Giao thông vận tải 4. Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 5. PGS.TS. Nguyễn Thị Hường ( 2003 ), Giáo trình kinh doanh quốc tế, Nxb, Lao động - Xã hội. 6. Đinh Văn Thành (2001), Dự báo thị trường thế giới đến năm 2010, Đề tài nhánh số 3 thuộc đề tài cấp Nhà nước “Chính sách và giải pháp phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001-2010, tầm nhìn đến 2020”, Viện nghiên cứu thương mại, Hà nội. 7. Một số tạp chí: - Thời báo kinh tế sài gòn - Kinh tế Việt Nam - Dự báo thị trường... 8. Một số trang Web - Google.com, www.vneconomy.vn, MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11054.DOC