Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn sau 20 năm đổi mới

Nền KTTT định hướng XHCN ở VN, lý luận & thực tiễn sau 20 năm đổi mớiMỤC LỤC A. MỞ ĐẦU B. NỘI DUNG 1. Những vấn đề lý luận về kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 1.1 Kinh tế thị trường 1.1.1 khái niệm kinh tế thị trường 1.1.2 Cơ sở hình thành 1.1.3 Đặc trưng 1.2 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chũ nghĩa 1.2.1 Khái niệm ,cơ sở 1.2.2 Bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 1.2.3 Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam 2. Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở việt nam 2.1 Tổng quan những thành tựu về xây dựng văn hoá, xã hội, con người ở Việt Nam trong 20 năm đổi mới 2.2 Những thành tựu về khoa học –xã hội và lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 2.3 Để xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải làm gi? C. KẾT LUẬN

doc24 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1867 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn sau 20 năm đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, được định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước. Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Có ý kiến cho rằng, không thể có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; rằng chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường không thể dung hợp với nhau, nếu đem "ghép" định hướng xã hội chủ nghĩa vào kinh tế thị trường thì chẳng khác nào trộn dầu vào nước, tạo ra một cơ thể "đầu Ngô mình Sở". Theo chúng tôi, ý kiến này không đúng. Không đúng là vì, hoặc ý kiến này muốn trì kéo Việt Nam trong quỹ đạo phát triển của chủ nghĩa tư bản, phủ nhận định hướng xã hội chủ nghĩa, không muốn Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là điều trái với quy luật khách quan, không thể chấp nhận. Hoặc ý kiến này không thoát ra được khỏi tư duy cũ, đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, cho kinh tế thị trường là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, từ đó "dị ứng" với kinh tế thị trường, không thấy hết những yếu tố mới, xu hướng mới của kinh tế thị trường trong điều kiện mới của thời đại, lặp lại sai lầm của một thời trước đây. Cũng có ý kiến nhấn mạnh một chiều những đặc trưng chung, những cái phổ biến của kinh tế thị trường, chưa thấy hết hoặc còn phân vân, nghi ngờ về những đặc điểm riêng, những cái đặc thù của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó chưa tin là kinh tế thị trường có thể phát triển trên cơ sở chế độ công hữu là nền tảng, kinh tế quốc doanh là chủ đạo; rằng trong kinh tế thị trường không thể có kế hoạch, không thể thực hiện được công bằng xã hội, không thể khắc phục được những tiêu cực, mặt trái của cơ chế thị trường, v.v.. Lại có ý kiến băn khoăn cho rằng, việc lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là trở về với chủ nghĩa tư bản, có thêm định ngữ "định hướng xã hội chủ nghĩa" thì cũng chỉ là để cho yên lòng, cho có vẻ "giữ vững lập trường" mà thôi, trước sau gì thì cũng trượt sang con đường tư bản chủ nghĩa. Những băn khoăn này là dễ hiểu, bởi vì đây là những điều còn rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, nếu không xác định rõ nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa và kiên trì vai trò quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường thì những điều đó rất dễ xảy ra. Chúng ta còn phải vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm. Nhưng có điều cần khẳng định là: trong điều kiện mới của thời đại ngày nay, nhất định không thể duy trì mãi mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, không thể đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản. Chính C.Mác đã phê phán sự lầm lẫn giữa kinh tế hàng hóa với kinh tế tư bản chủ nghĩa của phái kinh tế học tầm thường. C.Mác khẳng định rằng : "... sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa là những hiện tượng thuộc về nhiều phương thức sản xuất hết sức khác nhau, tuy rằng quy mô và tầm quan trọng của chúng không giống nhau... Chúng ta hoàn toàn chưa biết một tí gì về những đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất ấy và chúng ta chưa thể nói gì về những phương thức ấy, nếu như chúng ta chỉ biết có những phạm trù trừu tượng của lưu thông hàng hóa, những phạm trù chung cho tất cả các phương thức ấy". Phải chăng việc nhận thức cho đúng và nói cho được những đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất đặc thù ấy là trách nhiệm mà C.Mác giao cho và gửi gắm các thế hệ ngày nay? Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải đơn giản là sự trở về với phương thức chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là phải chuyển sang nền kinh tế hiện đại, văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn phù hợp với các quy luật phát triển và các điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại và của những nước đi sau, cho phép các nước này giảm thiểu được những đau khổ và rút ngắn được con đường đi của mình tới chủ nghĩa xã hội trên cơ sở sử dụng được ưu thế cũng như hạn chế được những khuyết điểm của hai cơ chế: kế hoạch và thị trường. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế đặc biệt, vừa tuân theo những nguyên tắc và quy luật của hệ thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính tính chất, đặc trưng cơ bản này chi phối và quyết định phương tiện, công cụ, động lực của nền kinh tế và con đường đạt tới mục tiêu, là sử dụng kinh tế thị trường, nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát triển khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mở cửa và hội nhập nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn để trong khoảng thời gian không dài có thể khắc phục tình trạng lạc hậu, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. 1.2.3 Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam Khi nước Việt Nam thống nhất (1976), đến trước Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8-1978), thì tư tưởng kinh tế dẫn đạo kinh tế chính trị của Việt Nam là tư tưởng về nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cơ chế kinh tế này đã tạo nên những kết quả nhất định . Tuy nhiên, lúc đó, kinh tế thế giới đã chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa kinh tế đã diễn ra, cơ chế kinh tế này đã bộc lộ những khuyết điểm của nó, kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.             Từ sau Hội nghị Trung ương 6 khóa IV đến trước Đại hội VI, dưới áp lực của tình thế khách quan, nền kinh tế Việt Nam có cải tiến theo hướng thị trường, chủ yếu ở cấp vĩ mô, mang tính cục bộ, như khoán sản phẩm trong nông nghiệp, bù giá vào lương, nghị quyết về giá , lương, tiền… từ những thực tế sống động đó,  Đảng đi tới quyết định thay đổi cơ chế kinh tế tại Đại hội VI (1986). Từ Đại hội VI (1986) đến hết nhiệm kỳ Đại hội VIII (2001) là thời kỳ đổi mới toàn diện, cả cấu trúc và cơ chế vận hành của nền kinh tế với nội dung chính là từ bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước , theo định hướng xã hội chủ nghĩa.             Đại Hội IX của Đảng (2001) đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ cế quản lý sang nhân thức mới, coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.      Kế thừa tư duy của Đại Hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta về mục tiêu, về phương hướng phát triển, về định hướng xã hội và phân phối, về lĩnh vực quản lý. Tư tưởng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng hình thành và phát triển trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi lớn, hầu như tất cả các nước đều có sự điều chỉnh chính sách kinh tế của mình. Những kinh nghiệm cải tổ, chuyển đổi kinh tế thành công và thất bại của các nước trên thế giới trở thành những bài học kinh nghiệm trong quá trình tìm ra tư tưởng kinh tế làm nền tảng cho định hướng phát triển kinh tế Việt Nam.       Như vậy, tư tưởng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hình thành từ quá trình khái quát lý luận và thực tiễn đổi mới. Tư tưởng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là chuyển sang một mô hình kinh tế đã có sẵn từ một nước nào đó, mà là quá trình xóa bỏ các yếu tố của mô hình kinh tế cũ và thay thế bằng những yếu tố mới thích hợp hơn với điều kiện cụ thể của Việt Nam.       Tư tưởng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa cách mạng, bởi vì nó đặt đúng vị trí cái tất yếu kinh tế trong sự phát triển mà lịch sử đã qui định cho Việt Nam. Những  thành tựu nổi bật trong hai mưới năm đổi mới của Việt Nam, nhìn dưới góc độ tư tưởng kinh tế, chính  là kết quả của quyết định hành động theo tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.       Tư tưởng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm rõ hơn quan niệm về khả năng một quốc gia còn nghèo như Việt Nam, có thể xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Tư tưởng này mở ra một khả năng rộng lớn để Việt Nam hội nhập vào thị trường kinh tế thế giới, vào đời sống chính trị quốc tế, vào sự giao lưu, hợp tác văn hóa toàn cầu. Tư tưởng này cho phép xử lý thích đáng những điều kiện thường gọi là thời cơ và thách thức trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, giáo dục, an ninh quốc phòng, văn hóa xã hội… tư duy này yêu cầu chúng ta nhìn thật sự thẳng thắng chúng ta đang ở đâu trong nền kinh tế chính trị toàn cầu, và cần phải làm gì ? Tính minh định của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với tư cách là nền tảng tư tưởng kinh tế, cho phép kinh tế chính trị Việt Nam hội nhập với nền kinh tế chính trị quốc tế hiện đại.             Việc chuyển từ tư tưởng kinh tế kế hoạch tập trung với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư tưởng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã dẫn tới yêu cầu thích ứng trong hàng loạt các nhận thức mới: về tổ chức quản lý của nhà nước,  về các phương thức phân phối lợi ích phù hợp với quan hệ sản xuất mới có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhận thức về con người với tư cách là chủ thể sản xuất – kinh doanh, được đặt vào những cơ hội như nhau để phát triển, nhận thức về cạnh tranh thị trường và những mặt trái của cơ chế thị trường… Vì hình thành trong quá trình đổi mới, tư tưởng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn không ít những vấn đề của thực tiễn công cuộc đổi mới đặt ra mà tư duy lý luận chưa giải quyết một cách sáng tỏ, cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết.             Từ những nhận định trên, có thể nhận thấy hiện nay, và trong tương lai, tư tưởng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sẽ là tư tưởng dẫn đạo cho kinh tế chính trị Việt Nam phát triển trong nghiên cứu lý luận cũng như trong hoạt động kinh tế thực tiễn. Việc cần thiết hiên nay là, giới lý luận phải đáp ứng được yêu cầu làm sáng tỏ tư tưởng này trong thời kỳ lịch sử mới . Phát triển kinh tế thị trường là bước đi tất yếu, là giai đoạn khách quan của quá trình tiến hoá của nhân loại và xã hội hoá sản xuất. Tính tất yếu phải trải qua các giai đoạn phát triển kinh tế thị trường lại càng đặt ra một cách bức bách hơn đối với các quốc gia chậm phát triển, bởi vì đây là con đường duy nhất, là phương cách tốt nhất để thực hiện phát triển rút ngắn và chống nguy cơ tụt hậu đối với phát triển kinh tế – xã hội của nước ta. Phát triển hệ thống kinh tế thị trường một cách đầy đủ, chuẩm mực và hiện đại là giải pháp tốt nhất để đảm bảo những cơ sở khách quan cho định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam.ủa dân tộc, thời Việt Nam hội nhập toàn cầu. 2. Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam. 2.1 Tổng quan những thành tựu về kinh tế ,văn hoá, xã hội, con người ở Việt Nam trong 20 năm đổi mới. Trong những năm qua Việt Nam đã từng bước chủ động tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế và khu vực. Thực tế cho thấy hợp tác kinh tế quốc tế đã đạt được những thành tựu vượt bậc, đã có hơn 70 tỷ USD của hàng ngàn doanh nghiệp từ hơn 77 quốc gia trên thế giới đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Trong năm 2006 vừa qua, môi trường đầu tư của Việt Nam tiếp tục có những chuyển biến tích cực với việc ban hành thực thi có hiệu quả các luật kinh tế quan trọng cùng với việc tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 14, gia nhập WTO đã tạo điều kiện để Việt Nam thu hút đầu tư nước ngoài với mức kỷ lục, vượt ngưỡng 10 tỷ USD, mức cao nhất trong vòng 10 năm qua và gấp đôi mức bình quân của 5 năm trước. Chúng ta cũng đã có quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và nền kinh tế trên thế giới, kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trên 20% trong nhiều năm với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2006 đạt trên 85 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt gần 40 tỷ USD. Nền kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân trong 5 năm 2001-2005 đã đạt 7,5% và năm 2006 đạt 8,2%. Hiện đã có một số dự báo cho rằng Việt Nam có thể đạt mức độ tăng trưởng kinh tế cao hơn ở mức 8-9%, thậm chí ở mức hai con số trong những năm tới. Đánh giá về thành tựu 20 năm qua của Việt Nam, Giáo sư Pietro P. Masina, Trường đại học Naples, Italy, đã ghi nhận những thành quả đầy ấn tượng của Việt Nam là sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và bền vững, Việt Nam đã phát triển trong một khu vực năng động nhất của nền kinh tế thế giới. Ông cũng cho rằng không một quốc gia nào trên thế giới có thể giảm tỷ lệ đói nghèo nhanh như Việt Nam đã đạt được từ đầu những năm 1990 cho đến hiện nay và được coi như là một “câu chuyện thành công” của việc thúc đẩy phát triển trên thế giới. Song song với việc phát triển và tăng trưởng kinh tế, 20 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng; việc xây dựng nền văn hoá mới và giải quyết các vấn đề xã hội, con người luôn luôn được quan tâm. Tăng trưởng kinh tế gắn chặt với phát triển văn hoá, xã hội và con người. Nhiều học giả nước ngoài đã khẳng định rằng: Việt Nam là tấm gương sáng trong việc phát triển kinh tế thị trường kết hợp và giải quyết thành công nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực văn hoá, xã hội và con người. Những thành công lớn có ý nghĩa lịch sử trong giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo. Trước đổi mới, đời sống của mọi tầng lớp dân cư gặp muôn vàn khó khăn. Việc làm khan hiếm, số người không có việc làm ngày càng tăng. Sự phân hóa giàu nghèo diễn ra nhanh chóng. Đói và nghèo diễn ra ở mọi vùng đất nước và thâm nhập ở mọi tầng lớp d ân cư .Lấy phát triển kinh tế làm hàng đầu, kết hợp với sức mạnh tổng hợp trong nước và quốc tế, bằng trí tuệ và tinh thần chủ động, đoàn kết, Đảng đã thật sự lãnh đạo thành công trong việc giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, tạo ra sự chuyển biến, cải thiện rõ rệt đời sống của đại bộ phận nhân dân. Đến năm 2005 chúng ta đã tạo được việc làm cho 7,5 triệu lao động. Công cuộc xoá đói, giảm nghèo được đẩy mạnh và đạt kết quả đầy ấn tượng. Theo tiêu chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói giảm từ 30% năm 1992 xuống 7% năm 2005. Còn theo tiêu chuẩn quốc tế (tính theo chuẩn 1 đôla/ngày/người), thì tỷ lệ nghèo chung đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 28,9% năm 2002; nếu tính theo chuẩn mới (2 đô la/ngày/người) thì hộ nghèo ở Việt Nam năm 2004 là 27,5%. Ngay từ năm 2002, Việt Nam đã được Liên hợp quốc đánh giá là “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”. Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đến giữa năm 2004, 20 tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 88% cuối năm 1980 lên 95% năm 2004. Hầu hết xã, phường đã có trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Các huyện và khu vực đã có trường phổ thông trung học. Các trường đại học được mở thêm nhiều, các trường dạy nghề được khôi phục và ngày càng phát triển. Phong trào khuyến học, khuyến tài được phát động rộng khắp, phong trào xã hội hoá giáo dục ngày càng toả rộng và được toàn dân tích cực hưởng ứng. Nhờ những cố gắng đó mà nguồn nhân lực xã hội được nâng cao về chất lượng. Tính đến giữa năm 2004, 22,5% số người lao động đã được đào tạo, trong đó số đào tạo nghề là 13,3%. Khoa học - công nghệ và tiềm lực khoa học – công nghệ có bước phát triển nhất định. Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ đã được đưa vào áp dụng trong thực tế, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rõ rệt đặc biệt là trong các lĩnh vực nông nghiệp, y tế, bưu chính viễn thông...Kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ được tăng lên. Nước ta đã có quan hệ hợp tác về khoa học và công nghệ với trên 70 nước, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ (bao gồm Khoa học Xã hội, Khoa học Tự nhiên và Khoa học Kỹ thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, góp phần hạ thấp đáng kể tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi, cơ bản thanh toán một số dịch bệnh phổ biến trước đây, khống chế thành công bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS). Tuổi thọ trung bình của người dân tăng từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 71,3 tuổi năm 2005. Chỉ số phát triển con người (HDI) từ mức dưới trung b ình (0,498n ăm1991)lên mức trung bình (0,688 năm 2002). Năm 2004, với chỉ số 0,691, nước ta xếp thứ 112 trên tổng số 177 nước được điều tra. Năm 2005, Việt Nam được lên 4 bậc, xếp thứ 108 trong tổng số 177 nước được điều tra. Điều đáng chú ý là, nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người thì thứ bậc xếp hạng HDI của Việt Nam luôn cao hơn. Chẳng hạn, năm 2002 vượt lên 19 bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ 128 trên tổng số 173 nước được thống kê, còn HDI xếp thứ 109/173. Điều dó chứng tỏ sự phát triển kinh tế của Việt Nam có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội tốt hơn so với một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao hơn nước ta. Sự nghiệp văn hoá có nhiều tiến bộ. Những giá trị và đặc sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em được kế thừa và phát triển, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngoài được mở rộng. Một số nét mới trong chuẩn mực văn hóa của con người Việt Nam từng bước hình thành. Các tài năng văn hóa - nghệ thuật được khuyến khích. Nhiều di sản văn hóa - cả vật thể và phi vật thể - được giữ gìn, tôn tạo. Việc phân phối các sản phẩm văn hoá đã nhanh và đều khắp hơn. Hệ thống các sản phẩm văn hoá góp phần trực tiếp vào sự phát triển, tăng trưởng của ngành du lịch, của nền kinh tế quốc dân. Hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hoá thực sự khởi sắc, góp phần làm cho vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; văn hoá, con người và cuộc sống Việt Nam được bạn bè hiểu biết rõ hơn. Dân trí được nâng lên, cùng với văn hoá phát triển đã góp phần khơi dậy tính chủ động sáng tạo của nhân dân và nâng cao tính đồng thuận xã hội, tạo ra bầu không khí dân chủ, niềm tin của nhân dân được nâng lên không ngừng. Cơ cấu xã hội nước ta có những biến đổi theo hướng tiến bộ. Giai cấp công nhân có những biến đổi cả về số lượng, chất lượng cũng như về cơ cấu. Đến năm 2001, công nhân trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh là 4,53 triệu người. Đầu năm 2004, công nhân trực tiếp làm việc trong các cơ sở sản xuất - kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế là 7,39 triệu người, chiếm 17,49% lao động xã hội. Trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp, nhìn chung, đã được nâng lên, thể hiện rõ nhất là ở một số ngành như bưu chính viễn thông, dầu khí, xây dựng cơ bản, cơ khí đóng tầu… Nông dân là lực lượng đang có sự biến đổi mạnh mẽ. Nông dân thuần nông ngày càng giảm. Đã hình thành những chủ trang trại, những hộ sản xuất cá thể, những xã viên kiểu mới của các hợp tác xã kiểu mới có khả năng thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường, tham gia tích cực vào công cuộc phát triển đất nước theo đường lối đổi mới. Đã hình thành các quan hệ hộ - hợp tác xã, hộ - doanh nghiệp tư nhân, hộ - doanh nghiệp nhà nước, hộ - trang trại. Đội ngũ trí thức nước ta hiện nay có 1,8 triệu người với trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, trong đó có 16 nghìn thạc sĩ, 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học. Đây là một lực lượng có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những thành tựu trên có được là do Đảng ta đã nhận thức đúng mối quan hệ khăng khít giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Trong quá trình phát triển luôn luôn coi con người với tư cách vừa là động lực của phát triển kinh tế xã hội, vừa là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là chủ thể của sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc. Những đóng góp của khoa học xã hội trong tiến trình phát triển của đất nước (ĐCSVN)- Sau 20 năm đổi mới toàn diện đất nước, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, mang ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tiếp tục ổn định và phát triển; tạo lập được những tiền đề cần thiết để bắt đầu từ năm 2001, đất nước chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa; năng lực nội sinh của khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực an ninh, quốc phòng được tăng cường; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Chỉ số phát triển con người (HDI) được liên tục nâng cao và thành tựu phát triển con người của Việt Nam được UNDP đánh giá là tốt nhất khu vực Đông Nam Á. Những thành tựu của 20 năm đổi mới làm tăng thêm thế và lực mới của Việt Nam, tạo điều kiện để đẩy mạnh hơn nữa công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2.2 Những thành tựu về khoa học –xã hội và lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Khoa học xã hội đã góp phần quan trọng, trong việc cung cấp những luận cứ khoa học cho đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước hết là đổi mới tư duy lý luận trên tất cả các lĩnh vực cơ bản của sự phát triển, nhất là đổi mới tư duy kinh tế. Nghiên cứu đó có liên quan trực tiếp tới việc hoạch định đường lối, chiến lược, chính sách phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, văn hoá - con người, môi trường, quốc phòng, an ninh ở mỗi giai đoạn. Những kết quả nghiên cứu của các chương trình, đề tài nghiên cứu đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận, luận giải những vấn đề thực tiễn mới nẩy sinh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VI, VII, VIII và IX. Kết quả nghiên cứu của các chương trình, đề tài được in thành sách, được công bố trên các tạp chí khoa học đã góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân về con đường mà Việt Nam đã lựa chọn, về sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. Có thể nói, chất lượng nghiên cứu khoa học xã hội đã được nâng cao thêm một bước. Những tri thức khoa học hiện đại đã bước đầu được vận dụng vào công tác quản lý kinh tế - xã hội, khắc phục lối tư duy siêu hình, duy ý chí, mở rộng tầm nhìn, góp phần giáo dục lòng yêu nước, đạo đức, lối sống của người Việt Nam. Trong 20 năm qua, khoa học xã hội Việt Nam đã có nhiều đóng góp trong những lĩnh vực chủ yếu sau: 4Đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội: Trong 20 năm qua, khoa học xã hội đã góp phần tạo lập được trên những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm cơ sở khoa học cho đường lối của Đảng góp phần bổ sung và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. Từ thực tiễn của 20 năm đổi mới, khoa học xã hội đã góp phần cung cấp những cơ sở lý luận để hiểu đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội từng bước khắc phục một số quan điểm giản đơn, ấu trĩ như đồng nhất chủ nghĩa xã hội với chế độ phân phối bình quân; muốn có chủ nghĩa xã hội phải nhanh chóng cải tạo quan hệ sản xuất mà không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất; cường điệu vai trò của chế độ công hữu, coi sở hữu tư nhân là đối lập hoàn toàn với bản chất của chủ nghĩa xã hội; và cần phải loại bỏ nhanh chóng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản theo tinh thần phủ định hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, từ đó coi nhẹ những giá trị, những thành tựu đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản; đối lập kinh tế xã hội chủ nghĩa với sản xuất hàng hoá, đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; không thừa nhận tính chất pháp quyền của nhà nước xã hội chủ nghĩa, đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản... Khoa học xã hội đã góp phần khẳng định mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một xã hội do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, bền vững với một hệ thống quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, được phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Về đổi mới và phát triển kinh tế: Một trong những thành tựu quan trọng của khoa học xã hội trong lĩnh vực kinh tế là đã góp phần đáng kể vào công cuộc đổi mới tư duy kinh tế, tạo nên bước chuyển từ tư duy hiện vật sang tư duy hàng hoá, tư duy thị trường; từ tư duy bao cấp, ỷ lại sang tư duy chủ động, sáng tạo; từ tư duy kế hoạch hoá tập trung sang tư duy kinh tế thị trường; từ tư duy kinh tế khép kín sang tư duy mở cửa, chủ động hội nhập quốc tế, từ tư duy đơn sở hữu sang tư duy đa sở hữu, đa thành phần; từ không thừa nhận đến thừa nhận sự đa dạng hoá các hình thức phân phối, kể cả phân phối theo vốn, tài sản; từ tư duy Nhà nước làm tất cả, độc quyền sang tư duy đa dạng hoá các chủ thể làm kinh tế, giảm độc quyền nhà nước, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp, v.v.. Bên cạnh đóng góp vào việc đổi mới tư duy kinh tế, khoa học xã hội đã góp phần khẳng định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, là vấn đề mang tầm chiến lược và có ý nghĩa quyết định để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa có hai chế độ sở hữu cơ bản là công hữu và tư hữu, có nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế đan xen, hỗn hợp. Các thành phần kinh tế phải được đối xử công bằng và bình đẳng. Cùng với công cuộc đổi mới, các nghiên cứu về khoa học xã hội xác định ngày càng rõ hơn vai trò của kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với tư cách là động lực của nền kinh tế. Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá: khoa học xã hội đã đặt cơ sở lý luận cho sự chuyển biến quan điểm từ công nghiệp hoá kiểu cũ sang công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá; từ công nghiệp hoá theo mô hình khép kín hướng nội, thiên về phát triển công nghiệp nặng sang công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong một nền kinh tế mở, gắn công nghiệp hoá, hiện đại hoá với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá được coi là sự nghiệp của toàn dân. Việt Nam có thể và cần phải thực hiện mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn theo hướng hiện đại. Khoa học xã hội cũng đã góp phần đổi mới nhận thức về mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Về văn hoá, xã hội và con người: Khoa học xã hội, đặc biệt là các khoa học nghiên cứu về văn hoá đã góp phần luận chứng cho quan điểm coi văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội, là nguồn lực nội sinh quan trọng của sự phát triển, là nền tảng tinh thần của xã hội; khẳng định văn hoá Việt Nam có sự thống nhất trong da dạng, củng cố sự thống nhất trong đa dạng của văn hoá là cơ sở giữ vững bình đẳng và phát huy tính đa dạng của văn hoá. Trong nghiên cứu về dân tộc, khoa học xã hội đã góp phần làm rõ những biến đổi về thành phần dân tộc ở một số dân tộc và nhóm địa phương trong điều kiện mới, trong đó chỉ ra những nguyên nhân về lịch sử, nhận thức, lợi ích chính trị, kinh tế, quyền sử dụng tài nguyên, chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước, góp phần xác định và làm sáng tỏ những vấn cấp bách về dân tộc trong bối cảnh phức tạp của tình hình dân tộc và tôn giáo ở các vùng Tây Nam Bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc và Đông Bắc nước ta, trong đó nổi cộm và bức xúc nhất là vấn đề đất đai,chuyển cư tự do và truyền đạo trái phép. Về tín ngưỡng và tôn giáo: Khoa học xã hội đã góp phần luận chứng tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và còn tồn tại lâu dài trong xã hội ta; đạo đức tôn giáo có những điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới, làm sáng tỏ về mặt lý luận mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội, hệ thống tôn giáo ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá tôn giáo; làm rõ hai khuynh hướng có thể coi là cơ bản trong đời sống các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay: đồng hành cùng dân tộc và tích cực hiện đại hoá theo hướng trở thành tôn giáo xã hội. Trong nghiên cứu về xã hội, con người, khoa học xã hội đã có những đóng góp quan trọng trong việc nhận thức mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, khẳng định tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển Đặc biệt là khoa học xã hội dã góp phần làm chuyển biến một cách tương đối căn bản nhận thức của toàn xã hội về cách thức giải quyết việc làm, khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói giảm nghèo; coi một bộ phân dân cư giàu trước là tất yếu và cần thiết cho sự phát triển; về xây dựng một cộng đồng xã hội, trong đó, các giai cấp, các tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, có cơ hội phát triển như nhau, đoàn kết chặt chẽ, góp phần xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh; về phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ với tính cách là quốc sách hàng đầu, là động lực để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, v.v.. Bên cạnh đó, khoa học xã hội đã góp phần luận chứng cho quan niệm coi con người là vốn quý nhất và cần phải đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội; phát triển con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới đất nước, Trên cơ sở đó, khoa học xã hội đã nghiên cứu sâu thêm một bước những động lực cơ bản của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, như đại đoàn kết dân tộc, dân chủ, lợi ích, công bằng xã hội, khoa học và công nghệ, v.v.. Về hệ thống chính trị: Sau hai mươi năm đổi mới, khoa học xã hội đã góp phần làm rõ thực chất của công cuộc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ là quy luật của sự hình thành, phát triển và tự hoàn thiện của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Khoa học xã hội đã góp phần làm rõ hơn yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng cầm quyền trong điều kiện mới; nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn vị trí công tác xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, hoà bình xây dựng, mở cửa hội nhập quốc tế và trong tình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Trên lĩnh vực chính trị- tư tưởng, khoa học xã hội đã góp phần khẳng định sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nâng cao trình độ nắm bắt, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ động đấu tranh với những quan điểm sai trái. Trong đổi mới tư duy về hệ thống chính trị, vấn đề đổi mới nhận thức về Nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt. Từ khi đổi mới đến nay, khoa học xã hội đã góp phần luận chứng cho sự cần thiết phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân cũng như nội dung và bản chất của Nhà nước đó. Bước đầu đặt kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa trong mối quan hệ với phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và sự cần thiết phải làm rõ mối quan hệ này. Tuy nhiên, khoa học xã hội chưa thật sự làm rõ cơ chế vận hành của hệ thống chính trị trong nền kinh tế thị trường cũng như cơ chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Nhà nước. Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới và ổn định chính trị chưa được làm sáng tỏ trên cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn: phải chăng đã đến lúc cần đổi mới hệ thống chính trị đúng mức và đồng bộ hơn với đổi mới kinh tế để không làm cản trở đổi mời kinh tế. Không ít vấn đề lý luận về Đảng cầm quyền trong điều kiện kinh tế thị trường, về quan hệ giữa hệ thống Đảng vời hệ thống nhà nước, về dân chủ hoá như làm sao khắc phục được nguy cơ thoái hoá, biến chất của cán bộ và đảng viên; mô hình tổ chức hệ thống chính trị như thế nào cho hợp lý, làm thế nào để chống được quan liêu, tham nhũng, làm thế nào để tăng cường hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước... chưa được khoa học xã hội nghiên cứu một cách thấu đáo và đề xuất những giải pháp thật sự có hiệu quả. Về đối ngoại: Khoa học xã hội đã có những đóng góp cơ bản trong nhận thức về thời đại, về tình hình thế giới và chính sách đối ngoại. khoa học xã hội đã góp phần làm sáng tỏ quan điểm Việt Nam muốn và sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy và tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển; quan điểm đổi mới của Đảng ta về mối quan hệ giữa đối tượng và đối tác, về chính sách đối ngoại độc lập tự chủ đi đôi với đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Khoa học xã hội cũng đã góp phần luận giải cho các phương châm đối ngoại mới của Đảng và Nhà nước như: giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại; nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác, đấu tranh để hợp tác, tránh trực diện đối đầu, tự đẩy mình vào thế cô lập; tăng cường hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước, đặc biệt là với các nước lớn, chủ động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực và toàn cầu. Về an ninh, quốc phòng: Trong những năm đổi mới, khoa học xã hội đã góp phần quan trọng trong việc nhận thức đầy đủ hơn mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới của quốc tế và khu vực; làm rõ nội dung của bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện ngày nay không chỉ là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, mà còn là bảo vệ Đảng, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự - an toàn xã hội và bản sắc văn hoá, giữ vững ổn định cư trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.3 Để xây dựng thành công nền kinh tế thị trưòng định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải làm gi? Đây là một câu hỏi lớn mà muốn trả lời được đầy đủ và chính xác phải qua từng bước thử nghiệm, tổ chức thực hiện trong thực tế rồi đúc rút, bổ sung, hoàn chỉnh dần. Hơn 20 năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng mừng, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi tình trạng khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội ngày càng nhiều, hàng hóa ngày càng phong phú. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Đất nước chẳng những giữ vững được ổn định chính trị trước những chấn động lớn trên thế giới mà còn có bước phát triển đi lên. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7% /năm. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là về sản xuất lương thực, nuôi trồng và khai thác thủy sản. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu phát triển. Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế không ngừng được mở rộng,... Tuy nhiên, cũng có nhiều vấn đề mới đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu và giải quyết. Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, có thể xác định những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau: Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định kiến và kỳ thị đối với bất cứ thành phần kinh tế nào. Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động. Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài. Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội. Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành các loại thị trường. Đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn. Chủ động hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế - xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại. Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách, luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường công tác thông tin kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán, thống kê; ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng xã hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Điều đó chẳng những tạo động lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà còn thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết các quan hệ xã hội. Trong tình hình cụ thể hiện nay ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm mới. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm cho người lao động thất nghiệp. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi, khắc phục tình trạng lương và trợ cấp bất hợp lý; tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh. Tiếp tục thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công với nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đình chính sách - một yêu cầu rất lớn đối với một đất nước phải chịu nhiều hậu quả sau 30 năm chiến tranh. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma tuý, mại dâm, lối sống không lành mạnh, những hành vi trái pháp luật và đạo lý. Kiên quyết đấu tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, kinh doanh không hợp pháp, gian lận thương mại... cùng với những tiêu cực khác do mặt trái của cơ chế thị trường gây ra. Kết quả cụ thể của cuộc đấu tranh này là thước đo bản lĩnh, trình độ và năng lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong những bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới. Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế ở một số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là lập tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá rã sự lãnh đạo của Đảng, cướp chính quyền, đưa đất nước đi con đường khác. Hiện nay, có ý kiến cho rằng, đã chuyển sang kinh tế thị trường - tức là nền kinh tế vận động theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh... thì không cần phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng nhiều khi cản trở, làm "vướng chân" sự vận hành của kinh tế (?). Ý kiến này không đúng và thậm chí rất sai lầm. Bởi vì như trên đã nói, Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng không phải để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà phải có lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, vì một xã hội công bằng và văn minh. Người có khả năng và điều kiện làm được việc đó không thể ai khác ngoài Đảng Cộng sản - là đảng phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, thật sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính trị, tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế chẳng những có tốc độ tăng trưởng và năng suất lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh mà còn đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là hạn chế được bất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Trên cơ sở đường lối, chiến lược đó, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và guồng máy xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện bằng được phương hướng và nhiệm vụ đã đề ra. Đương nhiên, để có đủ trình độ, năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin cậy và ủng hộ. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng, có trí tuệ, có kiến thức, giữ gìn đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh, đấu tranh khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng và các hiện tượng thoái hóa, hư hỏng trong Đảng và trong bộ máy của Nhà nước. Tóm lại, sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi và phát kiến về mặt lý luận của chủ nghĩa xã hội, mà còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mô hình phát triển trong thực tiễn mang tính cách mạng và sáng tạo của Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Riêng về mặt lý luận cũng còn không ít vấn đề phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ. Chẳng hạn như: các vấn đề về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; về lao động và bóc lột; về quản lý doanh nghiệp nhà nước ra sao để nó đóng được vai trò chủ đạo; làm thế nào để thực hiện được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế còn thấp kém; vấn đề bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần; các giải pháp tăng cường sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chống quan liêu, tham nhũng, v.v.. KẾT LUẬN Trong thờI kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hộI, phát triển kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hộI là một lựa chọn đúng đắn của đảng và nhà nước ta .Sau 20năm đổI mớI chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, đưa đất nước thoát khỏI khủng hoảng và dần hộI nhập vào nền kinh tế thế giói . Tuy vậy ,do nền kinh tế thi trường định hướng chủ nghĩa xã hộI là một bược đột phá về cả lý luận và thực tiễn nên trong quá trình xây dựng ,bên cạnh những thành quả to lớn đã đạt được chúng ta cũng đang gặp phảI những khó khăn nhất định . VớI sự lãnh đạo sáng suốt của đảng ,chúng ta tin tưởng sự nghiệp đổI mớI chắc chắn sẽ thành công ,nước ta sẽ sớm hoàn thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hộI . Bài viết chỉ là sự tổng kết một phần nhỏ những thành tựu đã đạt được trên cả hai phương diện :lý luận và thực tiễn sau 20 năm xây dựng và một số quan điểm để tiếp tục hoàn thiện và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hộI chủ nghĩa . Vì trình độ và thờI gian có hạn chắc chắn bài viết không tránh khỏI thiếu sót, mong được thầy cô góp ý kiếnđể bài viết hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! D.danh mục tài liệu tham khảo : 1.Giáo trình kinh tế chính trị,NXB ĐH kinh tế quốc dân 2.Dương Thị Liễu,Tac đọng của điều kiện khách quan và nhân tố chủ qua đốI vớI quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hộI chủ nghĩa ở việt nam ,NXB chính trị quốc gia ,2001 3.Lênin,Bàn qua về thuyết thị trường ,lạI bàn về lý luận và thực tiễn ,NXB Sự thật 4. www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=5&News_ID=10452240 - 39k 5. www.vnep.org.vn/ - 127k - 20 Tháng Năm 2007 6.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Nhan-Thuc/Ve_quan_he_so_huu/ - 93k 7.www.viet-studies.org/hoithao/Cuong_Thiem.pdf 8.www2.gtz.de/vietnam/projects/projects_refpriv_index_vn.htm - 26k 9.www.moi.gov.vn/News/detail.asp?Sub=34&id=25387 - 68k 10.vi.wikipedia.org/wiki/Đổi_mới - 53k 11. www.mpi.gov.vn/strategy.aspx?Lang=4&mabai=47 - 28k 12.ktx.vnuhcm.edu.vn/diendan/showthread.php?p=751 - 71k 13. www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=4&News_ID=9433177 - 45k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50162.DOC
Tài liệu liên quan