Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh giun xoăn dạ múi khế ở trâu, bò và thử nghiệm quy trình phòng trị huyện Phú Bình - Tỉnh Thái Nguyên

MỤC LỤC Phần 1: Mở Đầu 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu của đề tài 2 1.3. Mục đích của đề tài 2 1.4. ý nghĩa của đề tài 2 Phần 2: Tổng quan tài liệu 3 2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 3 2.1.1. Giun xoăn dạ múi khế ký sinh ở gia súc nhai lại 3 2.1.2. Bệnh giun xoăn dạ múi khế ở gia súc nhai lại 12 2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 25 2.2.1. Tình hình nghiên cứu bệnh giun xoăn dạ múi khế ở nước ngoài 25 2.2.2. Tình hình nghiên cứu bệnh giun xoăn dạ múi khế trong nước 27 Phần 3: Đối tượng, vật liệu, nội dung và phương pháp nghiên cứu 29 3.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu 29 3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 29 3.1.2. Vật liệu nghiên cứu 29 3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 29 3.2.1. Địa điểm nghiên cứu 29 3.2.2. Thời gian nghiên cứu 29 3.3. Nội dung nghiên cứu 29 3.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh giun xoăn dạ múi khế 29 3.3.2. Nghiên cứu hiệu quả của một số biện pháp phòng trị bệnh giun xoăn dạ múi khế cho trâu, bò 30 3.3.3. Thử nghiệm biện pháp phòng trị trên thực địa và đề xuất quy trình phòng trị 30 3.4. Phương pháp nghiên cứu 30 3.4.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh giun xoăn dạ múi khế 30 3.4.2. Phương pháp nghiên cứu hiệu quả của một số biện pháp phòng trị bệnh giun xoăn dạ múi khế ở trâu, bò 32 3.4.3. Phương pháp thử nghiệm các biện pháp phòng trị trên thực địa 34 3.5. Phương pháp xử lý số liệu 35 3.5.1. Một số công thức tính toán 35 3.5.2. Các tham số thống kê 35 Phần 4: Kết quả và thảo luận 37 4.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh giun xoăn dạ múi khế ở huyện Phú Bình 37 4.1.1. Xác định loài giun xoăn dạ múi khế ký sinh ở trâu, bò tại huyện Phú Bình - tỉnh Thái Nguyên 37 4.1.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun xoăn dạ múi khế ở một số xã thuộc huyện Phú Bình 40 4.1.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun xoăn dạ múi khế theo tuổi trâu, bò 45 4.1.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun xoăn dạ múi khế theo loại gia súc 46 4.2. xác định hiệu quả của một số biện pháp phòng trị bệnh giun xoăn dạ múi khế 47 4.2.1. Hiệu quả của biện pháp ủ nhiệt sinh học phân trâu, bò để diệt trứng và ấu trùng giun xoăn dạ múi khế 47 4.2.2. Hiệu quả diệt trứng và ấu trùng giun xoăn dạ múi khế của thuốc sát trùng 51 4.2.3. Hiệu quả của thuốc tẩy giun xoăn dạ múi khế ở trâu, bò 56 4.3. Thử nghiệm một số biện pháp phòng trị bệnh giun xoăn dạ múi khế cho bò ở huyện Phú Bình 58 4.3.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun xoăn dạ múi khế ở bò trước thử nghiệm 58 4.3.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun xoăn dạ múi khế ở bò sau 2 tháng thử nghiệm 62 4.3.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun xoăn dạ múi khế ở bò sau 4 tháng thử nghiệm 64 4.3.4. Bước đầu đề xuất biện pháp phòng trị bệnh giun xoăn dạ múi khế cho trâu, bò 67 Phần 5: Kết luận và đề nghị 68 5.1. Kết luận 68 5.1.1. Kết luận về đặc điểm dịch tễ bệnh giun xoăn dạ múi khế trâu, bò ở huyện Phú Bình 68 5.1.2. Kết luận về hiệu quả của một số biện pháp phòng trị GXDMK 68 5.2. Đề nghị 68

doc86 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2564 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh giun xoăn dạ múi khế ở trâu, bò và thử nghiệm quy trình phòng trị huyện Phú Bình - Tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1 Mở Đầu 1.1. Đặt vấn đề Trong mấy năm gần đây, chăn nuôi trâu, bò ở nước ta đã và đang phát triển mạnh, đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, giúp khai thác tối ưu các tiềm năng thiên nhiên (đồng cỏ, bãi chăn thả), tiềm năng con người (lao động phụ, dư thừa), các phế phụ phẩm của nông nghiệp và công nghiệp chế biến, đồng thời cung cấp một lượng lớn thực phẩm (thịt, sữa,...) cho nhân dân và phân chuồng cho sản xuất cây trồng. Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách và biện pháp thúc đẩy chăn nuôi trâu, bò phát triển cả về số lượng và chất lượng nhằm nâng cao đời sống cho người chăn nuôi. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn một số khó khăn, hạn chế việc phát triển chăn nuôi trâu, bò, đặc biệt là dịch bệnh. Trong các bệnh ký sinh trùng gây hại cho trâu, bò, bệnh giun xoăn dạ múi khế khá phổ biến và gây nhiều thiệt hại đến sức sản xuất của trâu, bò. Giun xoăn ở dạ múi khế hút máu ký chủ, làm cho ký chủ bị thiếu máu nặng, đồng thời giun làm tổn thương niêm mạc dạ múi khế, gây hội chứng tiêu chảy. Gia súc bị bệnh còi cọc, chậm lớn, giảm sức đề kháng với các bệnh khác và dễ chết nếu mắc bệnh nặng. Phú Bình là một huyện của tỉnh Thái Nguyên có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho chăn nuôi trâu, bò phát triển. Theo điều tra sơ bộ của Chi cục thú y tỉnh Thái Nguyên, trâu, bò ở tỉnh Thái Nguyên nói chung và huyện Phú Bình nói riêng bị nhiễm giun xoăn dạ múi khế với tỷ lệ cao. Ở tỉnh Thái Nguyên nói chung và huyện Phú Bình nói riêng, chưa có công trình nào nghiên cứu về bệnh giun xoăn dạ múi khế, những hiểu biết của người chăn nuôi về bệnh giun xoăn dạ múi khế còn rất hạn chế. Xuất phát từ yêu cầu của thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh giun xoăn dạ múi khế ở trâu, bò và thử nghiệm quy trình phòng trị tại huyện Phú Bình - tỉnh Thái Nguyên". 1.2. Mục tiêu của đề tài - Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh giun xoăn dạ múi khế trâu, bò ở huyện Phú Bình - tỉnh Thái Nguyên. - Xác định khả năng phát triển của trứng và khả năng tồn tại của Êu trùng giun xoăn dạ múi khế có sức gây bệnh ở ngoại cảnh. - Nghiên cứu biện pháp phòng trị bệnh giun xoăn dạ múi khế cho trâu, bò. 1.3. Mục đích của đề tài - Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo và góp phần xây dựng quy trình phòng trị bệnh giun xoăn dạ múi khế cho trâu, bò có hiệu quả cao. 1.4. ý nghĩa của đề tài - Ý nghĩa khoa học: Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về một số đặc điểm dịch tễ của bệnh giun xoăn dạ múi khế ở trâu, bò. Góp phần xây dựng biện pháp phòng trị bệnh do giun xoăn dạ múi khế gây ra ở trâu, bò. - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của đề tài là lời khuyến cáo giúp người chăn nuôi áp dụng được các biện pháp phòng trị bệnh giun xoăn dạ múi khế một cách có hiệu quả, giảm tỷ lệ nhiễm, giảm thiệt hại kinh tế cho người chăn nuôi. Phần 2 Tổng quan tài liệu 2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 2.1.1. Giun xoăn dạ múi khế ký sinh ở gia sóc nhai lại 2.1.1.1. Vị trí của giun xoăn dạ múi khế trong hệ thống phân loại động vật Giun xoăn ký sinh chủ yếu ở dạ múi khế trâu, bò, bê, nghé gồm nhiều giống loài. Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27] cho biết, họ Trichostrongylidae (Leiper, 1912) có 3 họ phụ: họ Trichostrongylinae (Leiper, 1908); họ phụ Haemonchinae (Skrjabin et Schulz, 1952); họ phụ Cooperinae (Skrjabin et Schikhobalova, 1952). Nhiều loài giun của 5 giống trong 3 họ phụ này ký sinh ở dạ múi khế và ruột non loài nhai lại (trâu, bò, dê, cừu, hươu). Trong điều kiện tự nhiên, tất cả các loài động vật nhai lại đều bị cảm nhiễm Trichostrongylidae. Cụ thể theo Skrjabin K.I và cs (1963) [27]; Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [17]; Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2008) [11], giun xoăn dạ múi khế có vị trí trong hệ thống phân loại động vật học nh­ sau: Ngành Nemathelminthes Schneider, 1873 Líp Nematoda Rudolphi, 1808 Phân líp Rhabditia Pearse, 1942 Bé Strongylida Railliet et Henry, 1913 Phân bé Strongylata Railliet et Henry, 1913 Siêu họ Trichostrongyloidea Cram, 1927 Họ Trichostrongylidae Leiper, 1912 Phân họ Trichostrongylinae Leiper, 1905 Giống Trichostrongylus Looss, 1905 Loài T. colubriformis (Giles, 1892) Loài T. axei (Cobbold, 1879) Loài T. probolurus (Railliet, 1896) Giống Ostertagia Ransom, 1907 Loài O. ostertagi (Stiles, 1892) Loài O. circumcincta (Stadelmann, 1894) Giống Marshallagia Orloff, 1933 Loài M. marshalli (Ransom, 1907) Phân họ Haemonchinae Skrjabin et Schulz, 1952 Giống Haemonchus Cobbold, 1898 Loài H. contortus (Rudolphi, 1803) Loài H. similis (Travassos, 1914) Phân họ Cooperinae Skrjabin et Schikhobalova, 1952 Giống Cooperia Ransom, 1907 Loài C. curticei (Giles, 1892) Loài C. punctata (Linstow, 1906) Phân họ Nematodirinae Skrjabin et Orloff, 1934 Giống Nematodirus Ransom, 1907 Loài N. oiratianus (Rajevskaia, 1929) Loài N. skrjabini (Mizkewisch, 1929) Giống Mecistocirrus Railliet et Henry, 1912 Loài M. digitatus (Linstow, 1906) 2.1.1.2. Thành phần loài giun xoăn dạ múi khế ký sinh ở trâu, bò Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [8] cho biết, có 7 giống loài phổ biến gồm trên 100 loài, gia sóc nhai lại nhiễm hỗn hợp các giống này, trong đó có 2 giống gây tác hại lớn là Haemonchus và Mecistocirrus. 7 giống gồm: Tên giống  Ký chủ  Vị trí ký sinh   Haemonchus Mecistocirrus Trichostrongylus Osrtertagia Marshallagia Cooperia Nematodirus  Cừu, dê, trâu, bò Trâu, bò, dê, cừu, lợn Trâu, bò, dê, cừu Trâu, bò, dê, cừu Dê, cừu, bò Dê, cừu, bò Dê, cừu, bò  Dạ múi khế, ruột non Dạ múi khế, dạ dày lợn Dạ múi khế, ruột non Dạ múi khế Dạ múi khế, dạ lá sách Dạ múi khế, ruột non Ruột non   Các loài giun này thường gây bệnh hỗn hợp. Trong đó có 3 loài Haemonchus contortus, Haemonchus similis và Mecistocirrus digitatus gây tác hại lớn cho ký chủ. Theo Trịnh Văn Thịnh và Đỗ Dương Thái (1978) [21], thành phần loài giun xoăn dạ múi khế ở dạ dày trâu, bò Việt Nam nh­ sau: Trichostrongylus axei (Cobbold, 1879) Cooperia laterouniformis (Chen, 1937) Haemonchus contortus (Rudolphi, 1803) Mecistocisrrus digitatus (Linstow, 1906) Dẫn liệu của Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27] cho biết, thành phần loài giun xoăn ký sinh trong dạ dày trâu, bò, dê, cừu và các loài nhai lại hoang dại khác gồm: Trichostrongylus axei (Cobbold, 1879) Trichostrongylus colubriformis (Giles, 1892) Ostertagia ostertagi (Stiles, 1892) Ostertagia circuncincta (Stadelmanm, 1894) Marshalla marshalli (Ransom, 1907) Haemonchuscontortus (Rudolphi, 1803) Cooperia curticei (Giles, 1892) Cooperia punctata (Linstow, 1906) Các nghiên cứu đều thống nhất rằng, các loài giun xoăn dạ múi khế của gia sóc nhai lại rất phong phú, chúng đều thuộc họ Trichostrongylidae Leiper, 1912. Giun tròn hình sợi chỉ to hoặc nhỏ. Miệng ở tận cùng đầu, xoang miệng không có, ở một số giun có bao miệng nhỏ nhưng xoang miệng không thể hiện rõ và có thể có răng ở trên thành hoặc ở dưới đáy xoang. Ở con đực túi sinh dục phát triển tốt, đại đa số thùy bên lớn, thùy lưng thể hiện yếu hoặc không có. Có hai gai giao hợp, có hoặc không có bánh lái. Âm hộ của con cái nằm sau thân. Giun cái đẻ trứng theo phân ra ngoài. 2.1.1.3. Đặc điểm hình thái, kích thước các loài giun xoăn chủ yếu ở dạ múi khế VÒ hình thái chung, giun xoăn dạ múi khế có thân hình sợi chỉ không phân đốt, cơ thể đối xứng hai bên. Bên ngoài được che phủ một lớp Kitin hay còn gọi là lớp biểu bì có các vân, vân ngang hoặc vân chéo (Trịnh Văn Thịnh, Đỗ Dương Thái, 1978) [21]. Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [22] mô tả cấu tạo của giun xoăn dạ múi khế gồm các bộ phận sau: - Hệ tiêu hóa gồm: miệng, môi, túi miệng, thực quản, ruột, hậu môn. - Hệ thần kinh: đơn giản, có vòng dây thần kinh thực quản và các gai cảm giác toàn thân. - Hệ bài tiết: gồm 2 ống bài tiết chạy từ phần sau của cơ thể lên đến phần đầu, rồi xuống và đổ ra lỗ huyệt. - Hệ sinh dục của giun đực và giun cái có cơ quan sinh dục đực hoặc cái. * Các loài thuộc giống Haemonchus. - H. cotortus: Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [17], loài Haemonchus contortus (Rudolphi, 1803) ký sinh ở dạ múi khế và ruột non của bò, trâu, dê trên phạm vi toàn quốc và phổ biến trên toàn cầu. Tác giả đã mô tả hình thái H. contortus (theo Kamenskii, 1929): giun đực dài 18,7 - 22,3 mm, rộng nhất 0,352 - 0,416 mm. Trứng có vỏ mỏng, kích thước 0,080 - 0,085 mm x 0,040 - 0,045 mm. Đặc điểm hình thái cấu tạo của loài Haemonchus contortus mà Nguyễn Thị Lê mô tả ở trên phù hợp với sự mô tả của nhiều tác giả khác (Skrjabin K.I và Petrov A.M, 1963; Trịnh Văn Thịnh, 1978, 1982; Johannes Kaufmann, 1996; Urquharrt, 1996....). H. similis: Thân nhỏ, màu vàng sẫm. Gai cổ rất rõ. Lỗ bài tiết ở phía trước cách đầu 0,231 mm. Túi miệng rất nhỏ, có răng. Quanh miệng có môi bao bọc, phần sau thực quản phình to. Giun đực dài 8,000 - 11,000 mm, rộng 0,232 - 0, 265mm. Giun cái dài 12,500 - 21,000 mm, rộng 0,315 - 0,378 mm. Trứng hình bầu dục, có kích thước 0,073 - 0,079 x 0,031 - 0,042 mm (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999 [8]). Vỏ trứng mỏng, có phôi bào (Trịnh Văn Thịnh và cs, 1982) [22]. * Loài Mecistocirrus digitatus Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [8] đã mô tả: giun màu hồng nhạt, biểu bì có vân. Túi miệng nhỏ, có 1 răng lớn, thực quản dài 1,600 - 1,800 mm, rất nhỏ, phần sau hơi rộng. Giun đực dài 25,000 - 31,000 mm, giun cái dài 35,000 - 39, 000 mm Trứng dài 0,099 - 0,105 mm, rộng 0,046 - 0,049 mm, có hai lớp vỏ mỏng bao bọc. * Các loài thuộc giống Trichostrongylus. Giống Trichostrongylus gồm nhiều loài, trong đó có một số loài quan trọng ký sinh ở dạ múi khế và ruột non của gia sóc nhai lại. - T. axei (Cobbold, 1879): được phát hiện ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, các nhà khoa học đã tìm thấy loài giun này ở các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn... Nhiều tác giả đã mô tả (theo Ransom, 1911): giun đực dài 3,4 - 4,5 mm, rộng nhất 0,05 - 0,07 mm. Giun cái dài 4,6 - 5,5 mm, rộng 0,055 - 0,075 mm. Kích thước trứng 90 - 92 x 35 - 42 (m (Drozdz và Malcrewski, 1967; Phan Thế Việt, 1977; Trịnh Văn Thịnh, 1978 Nguyễn Thị Lê, 1996; Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 2008). - T. colubriformis: Ngoài loài giun T. axei còn có một loài, mà theo Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27], điển hình cho giống Trichostrongylus, đó là loài T. colubriformis. Theo nhiều tác giả thì loài giun này phổ biến ở bò, dê, cừu trên phạm vi toàn cầu. Ở nước ta, phát hiện giun ở dạ múi khế và ruột non bò, dê ở các tỉnh phía Bắc. Giun đực dài 4,0 - 6,0 mm, rộng 0,078 - 0,095 mm. Giun cái dài 5,0 - 6,0 mm; rộng nhất ở vùng lỗ sinh dục (0,080 - 0,100 mm). Trứng có kích thước 73 - 76 x 40 - 43 (m (Nguyễn Thị Lê và cs, 1996) [17]. - T. probolurus: Giun đực dài 4,300 - 6,500 mm. Giun cái dài 4,833 - 6,270 mm, rộng 0,066 - 0,1112 mm. Trứng có kích thước 0,072 - 0,095 x 0,042 - 0,0582 mm. *Các loài thuộc giống Cooperia. - C. laterouniformis: Trịnh Văn Thịnh và cs (1978) [21] cho biết: Loài này thân hình sợi chỉ, biểu bì mỏng có vân ngang, vân dọc dài khắp thân; chóp đầu thường có hình một túi phình; thực quản hơi rộng ở phần trên và phần cuối; vòng thần kinh ở khoảng 2/3 thực quản. Giun đực dài 4,944 mm, rộng 0,071 mm. Giun cái dài 5,700 mm, rộng nhất 0,069 mm; chỗ phình đầu dài 0,023 mm và rộng 0,011 mm; thực quản dài 0,297 mm, rộng nhất 0,069 mm. Trứng có kích thước 0,073 - 0,030 mm. - C. pectinata: Giun đực dài 7,000 mm, rộng 0,130 - 0,160 mm. Giun cái dài 7,500 - 9,000 mm, rộng 0,110 - 0,135 mm (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999) [8]. - C. punctata: Theo Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27], giun cái dài 5,700 - 10,000 mm. Giun đực dài 5,000 - 9,000 mm. Giun cái dài 5,700 - 10,00 mm. * Các loài thuộc giống Nematodirus. Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27] cho biết: - N. oiratianus: Con đực dài 11,000 - 16,500 mm. Con cái dài 14, 500 - 17,6 00 mm. Trứng rất lớn, dài 0,255 - 0,272 mm, rộng 0,119 - 0,153 mm. - Loài N. skrjabin: Con đực dài 15,500 - 17, 250 mm và rộng 0,124 - 0,183 mm. Con cái dài 28,500 - 29,500 mm, rộng 0,450 - 0,650 mm. Trứng lớn, dài 0,229 - 0,265 mm, rộng 0,084 - 0,114 mm. * Phần lớn trứng giun thuộc họ Trichostrongylidae có hình dạng và kích thước gần giống nhau nên nếu chỉ căn cứ vào hình thái trứng thì không thể xác định được loài giun. Theo nhiều tác giả, có thể nuôi trứng Trichostrongylidae nở và phát triÓn thành Êu trùng có sức gây bệnh. Sau đó phân loại theo khoá định loài của Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [17] dựa vào hình thái, kích thước và cấu tạo của ấu trùng có sức gây bệnh.  Hình 2.1. Các dạng Êu trùng cảm nhiễm bộ Strongylida 1. Haemonchus contortus; 2. Cooperia; 3. Trichostrongylus; 4. Ostertagia; 5. Chabertia; 6. Oesophagostomum columbianum; 7. Oesophagostomum venulosum; 8. Bunostomum; 9. Nematodirus Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [17] 2.1.1.4. Chu kỳ sinh học của một số loài giun xoăn chủ yếu ở dạ múi khế - Chu kỳ sinh học (vòng đời) của các loài giun xoăn dạ múi khế tương đối giống nhau. Giun cái đẻ trứng với số lượng lớn trong một ngày. Trứng phát triển ở môi trường bên ngoài thành Êu trùng có sức gây bệnh rồi lại nhiễm vào ký chủ.  Hình 2.2. Vòng đời phát triển của giun xoăn dạ múi khế * Chu kỳ sinh học của Haemonchus sp. Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27] cho biết: giun cái đẻ trứng, trứng được bài xuất cùng phân ra môi trường bên ngoài. Nhiệt độ của môi trường bên ngoài thích hợp cho trứng phát triển tiếp tục là 20 - 300C. Trong phân, vào ngày thứ hai đã thấy có Êu trùng giai đoạn I nở ra khỏi trứng. Những Êu trùng này ăn phân và sống trong phân một thời gian, nhưng không cảm nhiễm được cho súc vật. Ở giai đoạn này, Êu trùng kém bền vững hơn ở các giai đoạn sau: chúng chết khi phơi khô và ở nhiệt độ trên 300C. Sù thay đổi về nóng và lạnh cũng làm cho Êu trùng bị chết. Ở nhiệt độ 15 - 200C, ấu trùng giai đoạn I chỉ sau 1 đêm đã ở giai đoạn tiềm sinh, kéo dài 12 - 15 giê. Trong thời gian này, Êu trùng lột xác, sau đó sống trở lại và chuyển vào giai đoạn II. Ở giai đoạn II, Êu trùng mất đi khả năng ăn uống và cũng không thể ký sinh được. Qua một ngày sau, đôi khi chưa đến 1 ngày, Êu trùng lại trở lại giai đoạn tiềm sinh lần thứ hai. Trong thời gian này, Êu trùng lớn lên, nhưng tầng cutin bao quanh vẫn giữ nguyên và tạo thành nắp. Sau khi hình thành nắp thì Êu trùng chuyển vào giai đoạn III. Lúc này, Êu trùng đã có khả năng cảm nhiễm cho động vật. Từ khi đẻ trứng đến giai đoạn Êu trùng cảm nhiễm cần thời gian không dưới 4 - 5 ngày. Ở giai đoạn III, Êu trùng có sức đề kháng đặc biệt. Chúng chết trong môi trường Èm khi nhiệt độ 500C và trong môi trường khô khi 600C. Những Êu trùng này đặc biệt chịu được sự khô hạn. Khi khô hạn, chúng có thể ở trong trạng thái tiềm sinh trên 1 năm rưỡi. Đối với các chất tiêu độc, Êu trùng cũng rất bền vững: dung dịch creolin 2 - 3%, lizol và các chất khác không giết được Êu trùng. Êu trùng chết trong dung dịch axit cacbonic 5% không tinh khiết. Cũng nh­ ở giai đoạn I và II, Êu trùng cảm nhiễm chết dưới tác động của nước tiểu. Bởi vậy, trong các chuồng nuôi súc vật không thể tìm thấy Êu trùng sống. Phát triển đến giai đoạn cảm nhiễm ở trong phân, sau đó Êu trùng tự rời bỏ phân đi nơi khác. Vào mùa đông, Êu trùng ở trên đồng cỏ thường bị chết. Mùa hè, Êu trùng cũng có thể bị chết dưới tác động của ánh nắng mặt trời và nhiệt độ cao. Khi Êu trùng chui ra khỏi phân, nếu môi trường xung quanh phân Èm thì Êu trùng có khả năng bò lên phía trên theo vật Èm đó. Nếu phân ở trong cỏ thì Êu trùng sẽ chuyển động theo những ngọn cỏ ở xung quanh. Quá trình chuyển động thẳng đứng theo ngọn cỏ xảy ra càng nhanh hơn nữa ở những nơi đồng cỏ thấp, trong các mùa vụ Èm ướt, trong thời gian mưa nhiều, trong sương mù và khi có nhiều sương xuống. Để Êu trùng có thể bò theo ngọn cỏ không cần phải có lượng Èm nhiều, mà chỉ cần một lớp Èm rất Ýt bọc trên cỏ cũng đã đủ cho Êu trùng chuyển động. Khi độ Èm cao, Êu trùng không có khả năng bám vào cỏ, mà rơi xuống cùng với nước và được nước mang đến những nơi thấp hơn. Bởi vậy, tất cả những nơi đồng cỏ thấp, đầm lầy và các vũng đọng nước mưa là những nơi chính làm cho trâu, bò nhiễm Haemonchus. Trong những điều kiện bất lợi (khô hoặc quá ướt) thì Êu trùng cảm nhiễm cuộn tròn lại. Nếu Êu trùng bị khô (kể cả trong thời gian dài) được làm Èm ướt thì chỉ sau 20 - 30 phót, Êu trùng sẽ sống trở lại, duỗi thẳng và tiếp tục di chuyển theo ngọn cỏ. Êu trùng giai đoạn III, mặc dù không ăn uống gì, trong điều kiện môi trường Èm vẫn có khả năng sống tới 3 - 4 tháng. Những Êu trùng cảm nhiễm được súc vật nhai lại nuốt cùng thức ăn và nước uống vào dạ dày. Ở đây, chúng "vứt bỏ" vỏ và chuyển sang giai đoạn IV. Thực hiện xong 1 lần lột xác nữa, Êu trùng có khả năng ký sinh và hút máu ký chủ. Sau 2 - 3 tuần, Haemonchus trở thành thành thục, con cái bắt đầu đẻ trứng. Thời gian sống của Haemonchus trong cơ thể gia sóc nhai lại chưa rõ, nhưng người ta cho rằng, thời gian này không quá 1 năm. Càng về sau, giun càng già và mất đi khả năng tiếp tục ký sinh. Urquhart G. M. (1996) [36], làm rõ thêm vòng đời của Haemonchus contortus: ấu trùng cảm nhiễm vào ống tiêu hoá súc vật nhai lại, thực hiện hai lần lột xác trong ống dẫn tuyến. Chỉ trước khi lột xác lần cuối chúng mới phát triển đến giai đoạn lấy máu ký chủ từ những mao quản ở niêm mạc. Khi trưởng thành, chúng di chuyển tự do trên bề mặt niêm mạc. Thời gian hoàn thành vòng đời ở dê, cừu là 2 - 3 tuần và ở đại gia súc là 4 tuần. * Chu kỳ sinh học của Trichostrongylus sp. Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2008) [11] cho biết: Nhiều tác giả, khi nghiên cứu về chu kỳ sinh học của giun tròn đều thống nhất: các loài thuộc giống Trichostrongylus có vòng đời trực tiếp, không cần ký chủ trung gian (nghĩa là không có sự thay đổi ký chủ) (Direct nematode life cycle). Trứng giun theo phân ra ngoài, gặp điều kiện thích hợp (nhiệt độ và Èm độ), sau 20 - 24 giờ nở ra Êu trùng kỳ I. Êu trùng này hình gậy, thực quản hình ống và có ruột cấu tạo đơn giản, hoạt động mạnh. Chúng dùng các loại vi sinh vật ở xung quanh làm chất dinh dưỡng, sau 10 - 30 giờ lột xác thành Êu trùng kỳ II to hơn Êu trùng kỳ I, cấu tạo tương đối giống nhau. Êu trùng này hoạt động rất mạnh và cũng lấy vi sinh vật xung quanh nuôi sống bản thân. Sau 12 - 60 giờ thành Êu trùng kỳ III có sức gây nhiễm. Trước khi thành Êu trùng kỳ III, Êu trùng kỳ II không lột xác, màng bọc ngoài trở thành màng ngoài của Êu trùng kỳ III. Lúc này Êu trùng kỳ III không thể lấy thức ăn ở bên ngoài mà chỉ sống dựa vào thức ăn do Êu trùng kỳ II tích luỹ lại ở trong ruột. Êu trùng ở bên ngoài đến giai đoạn này là kết thúc, chúng có sức đề kháng mạnh, có thể sống lâu. Tuy nhiên, nếu khô hoặc có ánh nắng Êu trùng dễ chết. Khi gia sóc nhai lại ăn cỏ, uống nước có Êu trùng gây nhiễm, vào đường tiêu hoá, Êu trùng mất màng ngoài, tiếp tục phát triển, lột xác thành Êu trùng kỳ IV, lại tiếp tục phát triển, lột xác thành Êu trùng kỳ V và phát triển thành giun trưởng thành (Skrjabin K.I và Petrov A.M, 1963) [27], Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996) [7]. * Vòng đời của Mecistocirrus digitatus Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (1997) [12] cho biết: Loài này có vòng đời cơ bản giống vòng đời của Haemonchus. Êu trùng gây nhiễm qua thức ăn nước uống vào đường tiêu hóa vật chủ. Sau 3 ngày một số Êu trùng xâm nhập vào tuyến niêm mạc dạ múi khế hoàn thành vòng đời là 59 - 82 ngày. Tuổi thọ của giun 9 - 12 tháng. 2.1.2. Bệnh giun xoăn dạ múi khế ở gia sóc nhai lại 2.1.2.1. Thiệt hại kinh tế do bệnh giun xoăn dạ múi khế gây ra Nguyễn Phước Tương (2002) [24] cho biết: Chăn nuôi trâu, bò ở nước ta đang được chú trọng phát triển. Tuy vậy, số bê, nghé chết cao, chủ yếu là do bệnh truyền nhiễm và bệnh ký sinh trùng. Trong đó có bệnh giun xoăn dạ múi khế. Giun ký sinh trong đường tiêu hóa, hút máu của trâu, bò, gây tổn thương cơ học, tiết độc tố làm cho con vật gầy yếu, mở đường cho vi khuẩn, virút xâm nhập và gây bệnh cho trâu, bò. Việc điều trị chỉ được tiến hành khi gia súc đã mắc bệnh nặng, khả năng cày kéo kém nên gây thiệt hại đáng kể về kinh tế cho người chăn nuôi. Bệnh giun xoăn dạ múi khế gây ra bởi O. ostertagi là bệnh có thể lây sang người. Người mắc bệnh này khi ăn rau sống được bón phân trâu, bò mắc bệnh. Trứng, Êu trùng có sức gây bệnh khi vào ống tiêu hóa của người sẽ phát triển thành Êu trùng kỳ IV, kỳ V, sau đó phát triển thành giun trưởng thành ký sinh tại ruột non. 2.1.2.2. Đặc điểm dịch tễ học của các bệnh giun xoăn dạ múi khế Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2008) [11], bệnh giun xoăn dạ múi khế có liên quan tới điều kiện thời tiết, khí hậu, mùa vụ và tuổi con vật. Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [8] cho biết, bệnh phân bố rất rộng, có ở tất cả các vùng miền núi, trung du và đồng bằng. Tỷ lệ nhiễm ở gia sóc nhai lại từ 30,7 - 100%. Gia sóc nhai lại ở mọi lứa tuổi đều nhiễm giun xoăn, nhưng nói chung gia súc trưởng thành có sức đề kháng mạnh hơn gia sóc non, gia súc gầy sút, gia súc già yếu sức đề kháng giảm. Soulsby E. J. L. (1982) [34] cho rằng: nhìn chung, sự phát triển của các giun xoăn họ Trichostrongylidae ở giai đoạn sống tự do (ngoài ngoại cảnh) phụ thuộc vào điều kiện khí hậu. Ở nước Anh, Êu trùng có thể phát triển đến giai đoạn gây nhiễm trong 2 tuần, nhưng thường thì dài hơn và phụ thuộc vào khí hậu. Súc vật nhai lại nhiễm giun ở tất cả các tháng trong năm, nhưng nhiễm nhiều và nặng hơn ở những tháng mùa hè Êm và Èm. Nguyễn Hữu Vũ và cs (2000) [25] cho rằng, gia súc mắc bệnh nhiều vào vụ Hè và tăng vào vụ Thu. Đường truyền bệnh chủ yếu là do những con mắc bệnh thải trứng theo phân ra đồng cỏ, bãi chăn, khi gia súc uống nước có lẫn Êu trùng dễ nuốt phải Êu trùng có sức gây nhiễm. Bệnh nhiễm ở mọi lứa tuổi nhưng nhiều hơn ở gia sóc non dưới 1 năm tuổi (Skrjabin K.I và Petrov A.M, 1963 [27]). Theo Phan Địch Lân và cs (1989) [14], trứng và Êu trùng có có sức đề kháng mạnh, nhiệt độ thích hợp nhất cho trứng phát triển là 33,30C. Nhưng nếu với nhiệt độ đó mà Èm độ cao (96%) thì trứng không phát triển được. Êu trùng gây nhiễm ở nơi Èm ướt, nhiệt độ 500C mới chết, nơi khô cạn phải 600C mới chết. Êu trùng gây nhiễm sống được ở nơi khô cạn 1 năm. Dung dịch CuSO4 có thể diệt trứng giun trong 8 giờ rưỡi và diệt Êu trùng trong vòng 3 giê, DDT 1% không diệt được trứng. Ở Việt Nam, theo Nguyễn Thế Hùng (1994) [6], Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1998, 2000) tỷ lệ nhiễm giun xoăn dạ múi khế ở dê tăng lên vào vụ Hè - Thu, giảm đi vào vụ Đông - Xuân; tỷ lệ nhiễm cao ở dê dưới 1 năm tuổi. Bệnh phân bố rộng, các cơ sở nuôi dê ở vùng núi, trung du và đồng bằng đều có bệnh, tỷ lệ nhiễm từ 71,79 - 74,63%. Từ những công trình nghiên cứu và nhận xét của nhiều tác giả, có thể thấy một điều rất rõ là: "Sự tồn tại và phát triển của sinh vật (trong đó có các loài giun xoăn) tại một nơi nào đó thường phụ thuộc vào tổ hợp các điều kiện môi trường, trong đó khí hậu là một trong những điều kiện quan trọng ảnh hưởng sâu sắc nhất" (Trần Đức Hạnh và cs, 1997) [4]. 2.1.2.3. Cơ chế sinh bệnh của bệnh giun xoăn dạ múi khế Sau khi xâm nhập vào dạ múi khế và ruột non, giun bám chắc và chọc thủng niêm mạc để hút máu ký chủ, gây viêm, loét niêm mạc và chảy máu mao mạch. Ngoài ra, nhiều giun còn cắm sâu đầu vào các ống dẫn tuyến trong dạ múi khế và gây viêm các ống tuyến đó. Khi hút máu, chúng tiết ra độc tố làm máu không đông, gây hiện tượng ngộ độc cho cơ thể ký chủ. Vì vậy, khi giun không hút máu nữa máu vẫn chảy và theo phân ra ngoài. Quá trình tiến triển nặng hơn nếu ghép cùng với các bệnh do các loài giun khác gây nên. Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [8], gia sóc khi bị nhiễm giun xoăn dạ múi khế sẽ ảnh hưởng tới tình trạng sức khỏe, làm giảm sức sản xuất của con vật. Tác hại của giun xoăn dạ múi khế thể hiện qua 5 tác động sau: - Tác động cơ giới: Êu trùng và giun trưởng thành hút máu ký chủ, miệng bám chặt vào niêm mạc ruột và dạ múi khế tạo thành các nốt loét xuất huyết. - Tác động tiết độc tố: Độc tố do chúng tiết ra làm máu ký chủ không đông, độc tố làm ký chủ trúng độc; gầy còm, thiếu máu, rối loạn tiêu hóa, thủy thũng. Giun xoăn kích thích niêm mạc dạ dày, cản trở tiết men Pepsinnogen, ảnh hưởng đến tiêu hóa chất xơ. - Tác động chiến đoạt chất dinh dưỡng: Giun nuôi dưỡng bản thân bằng máu ký chủ, và tiết độc tố làm máu không đông, gây xuất huyết, con vật bị thiếu máu nghiêm trọng. - Tác động truyền bệnh: Giun bám chặt vào niêm mạc gây tổn thương, phá vỡ vòng tuyến thượng bì, tạo điều kiện cho vi khuẩn từ môi trường xâm nhập gây nên các bệnh ghép với các bệnh ký sinh trùng. 2.1.2.4. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh giun xoăn dạ múi khế *Bệnh do Haemonchus contortus Giun H. contortus gây tác hại lớn cho gia sóc nhai lại. Haemonchosis gây ra rối loạn nặng toàn cơ thể: tổn thương đường tiêu hoá, hệ thần kinh, hệ tuần hoàn và các tuyến nội tiết. Con vật mắc Haemonchosis bị kiệt sức nhanh, thiếu máu nặng, thấy có những biến đổi bệnh lý trong não và tuỷ sống. Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27] đã giải thích nh­ sau: sau khi xâm nhập vào dạ múi khế, H. contortus bám chắc và chọc thủng niêm mạc, gây ra chảy máu mao mạch. Ngoài ra, nhiều giun còn cắm sâu đầu vào các ống dẫn tuyến trong dạ múi khế và gây viêm các ống đó. Haemonchus hút máu ký chủ. Khi ăn máu Haemonchus thải ra độc tố đặc biệt làm ngộ độc cơ thể ký chủ. Khi súc vật nhiễm bệnh nặng, niêm mạc dạ múi khế bị phủ một lớp màng dày lên, có những chỗ chảy máu. Các chất trong dạ múi khế thường loãng và có màu nâu. Ở con vật mắc bệnh thường thấy dạ múi khế viêm cataz mãn tính, vì vậy lượng thức ăn ở đây không được thấm đầy đủ dịch vị. Thức ăn chuyển từ dạ múi khế vào ruột ở dạng bán nhuyễn thể nên mức hấp thu vào máu cũng giảm đi. Độc tố của giun làm cho con vật bệnh kiệt sức, thiếu máu và bị phù. Con vật chết vì suy mòn do thiếu máu. Quá trình tiến triển của Haemonchosis lại càng nặng hơn khi con vật bị bệnh ghép cùng với những Trichostrongylus khác. Điều này hầu như thường xuyên xảy ra, vì theo nguyên nhân bệnh, người ta thường gọi những bệnh đó là Trichostrongylidosis (nghĩa là vật bị Haemonchosis ghép với các bệnh giun xoăn khác. Trâu, bò, dê, cừu bị Haemonchus thì mệt mỏi, chậm chạp, kiệt sức, niêm mạc thiếu máu, có thể bị ỉa chảy xen lẫn táo bón. Súc vật non thường không đứng được phải nằm dệt. Vật dễ chết nếu mắc bệnh nặng. Theo Trịnh Văn Thịnh và Đỗ Dương Thái (1978) [21], bệnh giun xoăn ở dạ dày và ruột dê giống Mông Cổ nhập nội, do các loài Haemonchus contortus, Trichostrongylus và Oesophagostomum. Có trường hợp đã thấy 1200 - 1500 Haemonchus ở dạ múi khế 1 dê (cao nhất có thể đến 4 - 5 nghìn giun). Theo tác giả, khi có đến 600 giun trong cơ thể dê đã thấy các triệu chứng: thiếu máu, gầy sút, rối loạn tiêu hoá, lúc đi tả lúc đi táo, kém ăn, đi tụt lại sau đàn; con đực nhảy kém. Bệnh thấy ở tất cả các lứa tuổi, nhưng nặng nhất ở dê dưới 1 năm tuổi. Bệnh phát mạnh vào mùa Hè - Thu. Những biến đổi bệnh lý và lâm sàng ở súc vật bệnh còn chịu ảnh hưởng của chế độ chăm sóc nuôi dưỡng. Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2008) [11] cho biết, triệu chứng và những biến đổi bệnh lý của Haemonchosis thể hiện ở những gia súc được nuôi dưỡng kém rõ rệt hơn là những con vật được nuôi dưỡng bình thường. Mất máu nên cơ thể bị thiếu máu nghiêm trọng là triệu chứng thấy rất rõ ở gia súc mắc bệnh do Haemonchus. Andrews (1942) đã xác định lượng máu thải theo phân ở hai cừu con nhiễm liều chí tử Êu trùng Haemonchus. Sau khi nhiễm 6 - 10 ngày, phân bắt đầu có máu. Trong 10 ngày tác giả tính được ở một con mất 1,5 lít máu, còn con kia mất 2,4 lít máu trong phân (Dẫn theo Skrjabin, 1963; Trịnh Văn Thịnh và cs, 1982; Phan Địch Lân và cs, 1989; Phạm Văn Khuê và cs, 1996). Về biểu hiện lâm sàng của con vật bị Haemonchosis, Phan Địch Lân, Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2002) [15] cho biết, ngoài các triệu chứng thiếu máu, kém hoạt động, ăn uống giảm sút, kiết lỵ và táo bón xen kẽ, con vật còn bị thuỷ thũng dưới cổ, trước họng và ngực. Biểu hiện rõ rệt nhất là ở những chỉ số máu: giảm hồng cầu, giảm huyết sắc tố, bạch cầu tăng. Khi quá yếu, con vật thường chết. Có thể gặp Haemonchosis ở ba dạng hay là ba giai đoạn. Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27] đã phân biệt ba giai đoạn đó nh­ sau: - Trong giai đoạn đầu, ở dạ múi khế có số lượng Haemonchus không nhiều lắm (một con đến một vài trăm con). Trường hợp này triệu chứng lâm sàng không xuất hiện. - Trong giai đoạn hai, triệu chứng lâm sàng và bệnh tích (biến đổi giải phẫu bệnh lý) cũng chưa thể hiện rõ rệt. Số lượng giun nhiều hơn ở giai đoạn một. Giai đoạn một và hai của Haemonchosis không thể coi là nguyên nhân làm vật chết, nếu như không ghép cùng với các bệnh khác. - Giai đoạn ba là giai đoạn con vật thể hiện triệu chứng điển hình, số lượng giun nhiều hơn hai giai đoạn trên. Nguyễn Thị Kim Lan (2000) [9] đã theo dõi 41 dê bị bệnh giun xoăn dạ múi khế, thấy: 82,93% thiếu máu nặng, 100% gầy xơ xác, 63,41% ỉa lỏng liên miên, 36,59% ỉa chảy xen táo bón từng đợt, 39,02% bị thuỷ thũng ở ngực, bụng và 4 chân. Mổ khám dê chết do giun xoăn dạ múi khế thấy, niêm mạc dạ múi khế phủ màng dầy, có nhiều chỗ chảy máu. Chất chứa trong dạ múi khế thường loãng, màu nâu. Dạ múi khế và ruột non viêm cataz mãn tính, niêm mạc thuỷ thũng, có nhiều mụn loét. Trong chất chứa dạ múi khế và trên niêm mạc có nhiều giun xoăn ký sinh. Theo Phan Địch Lân, Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2002), dê bị bệnh giun xoăn dạ múi khế thường thiếu máu, kém hoạt bát, ăn uống sút kém, ỉa chảy và táo bón xen kẽ. Thuỷ thũng dưới cổ, trước bụng, ngực và 4 chân. Con vật gầy yếu dần, đi lại khó khăn, hay bị bỏ rơi sau đàn. Khi quá gầy yếu và thiếu máu, con vật chết. *Bệnh do các loài giun xoăn khác ở dạ múi khế Một số loài giun thuộc giống Trichostrongylus, Cooperia, Mecistocirrus ký sinh ở dạ múi khế có thể gây bệnh cho gia sóc nhai lại, hoặc hỗn hợp nhiều loài, hoặc riêng lẻ từng loài. Bệnh lý của Trichostrongylosis phụ thuộc vào cường độ cảm nhiễm. Người ta đã biết là gia súc bị chết khi nhiễm tới 60 - 120 nghìn Êu trùng cảm nhiễm Trichostrongylus axei. Những con vật non nhiễm mức độ nặng chậm lớn và kém phát triển. Bệnh chia làm hai thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất - cấp tính, kéo dài gần 6 tuần (ở thời kỳ này một số con non bị cảm nhiễm nặng, ngừng phát triển, sút cân và chết. Mổ khám thấy dạ múi khế bị viêm cấp tính có kèm theo những nốt loét). Thời kỳ thứ hai - mãn tính, triệu chứng giảm dần, con vật lên cân, những nốt loét trong dạ múi khế dần dần lành thành sẹo. Giun Trichostrongylus gây bệnh yếu hơn Haemonchus (Skrjabin K.I và Petrov A.M,1963) [27]. Theo Drozdz và Malczewski (1967) [26], vai trò gây bệnh của các loài giun thuộc giống Trichostrongylus như sau: trong giai đoạn Êu trùng, giun xâm nhập niêm mạc dạ múi khế và tá tràng, gây tác động đầu độc ở cục bộ và toàn thân, biểu thị bằng sự thiếu máu dần, ỉa chảy và suy nhược ở con vật bệnh. Beker và Douglas cho biết, bệnh do Trichostrongylus có triệu chứng thiếu máu là do tuổi thọ của hồng cầu ngắn đi 5 lần và tuỷ xương không còn khả năng tái sinh hồng cầu để bù lại. Nhưng nếu súc vật được nuôi tốt thì không có những tổn thương về máu. Vì lý do này mà một số nhà nghiên cứu cho là, sự thiếu máu trong bệnh do Trichostrongylus ở gia súc nuôi dưỡng kém có thể là do giun chiếm đoạt những nguyên tố vi lượng có trong ruột ký chủ. Khi cảm nhiễm nặng, thấy viêm cấp tính niêm mạc dạ múi khế, trên đó có những tổn thương hình miệng phễu đường kính 0,25 - 20 mm, bờ trắng, lồi. Súc vật ốm giảm uống nước, tăng cân rất Ýt hoặc sút cân. Trong bệnh do Cooperia, người ta thấy quá trình viêm ở ruột non dẫn đến tổn thương niêm mạc, trên niêm mạc hình thành những hạt màu trắng. Tuyến lâm ba bên cạnh bị teo. Tác động toàn thân của giun Cooperia - theo Andrews (1938) - biểu hiện bằng sự trao đổi vật chất tăng nhanh ở súc vật bệnh, kèm theo giảm đồng hoá thức ăn làm cho con vật bị giảm thể trọng. Những gia súc gây nhiễm thí nghiệm dù nuôi tốt hơn những con đối chứng nhưng vẫn tăng trọng Ýt (Drozdz và Malcrewski, 1967; Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996). Theo Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27], khi con vật bị bệnh nặng, Cooperia có thể gây ra viêm niêm mạc ruột. Một số giun Cooperia (Cooperia punctata) có thể xâm nhập vào thành ruột, gây viêm và tạo thành áp xe ruột. Các hạch lâm ba gần đó bị sưng, thoái hoá bã đậu. Êu trùng giun khi cư trú trong niêm mạc ruột tạo thành những hạt ký sinh, kích thước từ 3 - 5 mm. Vật nhiễm Cooperia nặng bị rối loạn chức năng tiêu hoá, ỉa chảy và kiệt sức, có thể chết vì bệnh quá nặng. Mamedov A. K. (1959) thấy rằng, ở trong tuyến hạ vị Cooperia punctata bám chắc sâu vào nhu mô bằng phần trước của chúng, chứng tỏ là có sự cư trú ngẫu nhiên của giun này trong tuyến hạ vị. Mecistocirrus digitatus cũng sống bằng máu ký chủ như nhiều loài giun xoăn khác. Vai trò gây bệnh của nó (theo Ivaszkin, 1949) là: giun lấy dinh dưỡng bằng máu và phá hoại niêm mạc nơi giun sống, gây viêm niêm mạc, do đó gây nên những rối loạn tiêu hoá. Bệnh làm con vật kiệt sức, giảm hiệu suất và thường dẫn đến chết. Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27] cho biết, giun Mecistocirrus digitatus là loài giun ăn máu. Bệnh làm gia sóc non kém phát triển và thường thấy chết vào mùa xuân. Mổ khám thấy hiện tượng viêm cataz dạ múi khế, niêm mạc bị xuất huyết điểm hoặc xuất huyết vùng. Nhiều tác giả khác (Trịnh Văn Thịnh, 1978; Trịnh Văn Thịnh, 1982; Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996; Phạm Sỹ Lăng và cs, 2002) cũng thống nhất với các tác giả trên về bệnh lý và lâm sàng của Mecistocirrosis. 2.1.2.6. Chẩn đoán bệnh giun xoăn dạ múi khế Nghiên cứu về các phương pháp chẩn đoán bệnh do các loài giun thuộc họ Trichostrongylidae gây nên, nhiều tác giả khẳng định: không thể chẩn đoán chính xác bệnh nếu không tiến hành các phương pháp tìm trứng giun trong phân. Theo Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27]; Trịnh Văn Thịnh (1963) [20], kết hợp quan sát triệu chứng trên con vật còn sống với xác định trứng bằng cách soi phân. Triệu chứng có thể thấy là viêm dạ dày ruột mãn tính, ỉa chảy xen táo bón. Soi phân bằng phương pháp phù nổi dễ thấy trứng. Mổ khám con vật chết cũng cần phải làm để tìm giun ở dạ múi khế và tá tràng; thấy được ngay những loài lớn (2 - 3 cm), còn những loài nhỏ (4 - 5 mm) thì phải dùng kính lúp hoặc kính hiển vi (phóng đại 20 - 30 lần). Trịnh Văn Thịnh cho biết: ký sinh trùng thường dễ thấy, vì có hàng trăm, hàng nghìn giun thuộc nhiều loài cùng ở lẫn với nhau. Cũng cần chú ý đến sự lưu hành của bệnh: bệnh rất nặng, thường làm 1/2 số súc vật mắc bệnh chết, 1/2 số còn lại bần huyết đến nỗi giá trị giảm tới 50%, khi mổ thịt thường phải giữ lại vì gầy rạc. Bệnh đáng sợ hơn ở súc vật nuôi đàn (dê, cừu), vì chỉ cần đưa 1 con ốm vào là đủ làm lây bệnh sang cả đàn. Con non dị cảm với bệnh hơn con trưởng thành. Các giống nhập nội vào nước ta dễ mắc bệnh nặng và dễ chết. Đặc điểm dịch tễ học của bệnh là những căn cứ góp phần xác định chính xác hơn. Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [22]; Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [7] cho biết, để chẩn đoán bệnh do Haemonchus và Mecistocirrus không thể chỉ căn cứ vào triệu chứng lâm sàng, vì đối với con vật còn sống, triệu chứng lâm sàng không điển hình. Mặt khác, trứng khó phân biệt với các loài khác nên khó xác định. Theo các tác giả thì có thể xét nghiệm phân theo phương pháp sau: nuôi trứng cho nở thành Êu trùng (lấy phân con vật nghiền nát, trộn lẫn với đất vô trùng, cho vào đĩa lồng, giữ cho độ Èm 60 - 70%, nhiệt độ 25 - 300C, pH: 6,8 - 7,4; nuôi trong 4 - 5 ngày. Sau đó phân lập Êu trùng theo phương pháp Baerman, xem kính hiển vi tìm Êu trùng). Whitlock H. V. (1956) đề nghị kỹ thuật cấy phân dê, cừu nh­ sau: cho xuống đáy 1 lọ nhỏ một lớp bông dầy 1 cm, đổ đầy phân đã nghiền nát vào lọ. Lấy ống hút bơm nước chảy theo bê trong của lọ cho đến khi ướt bông ở đáy. Cho lọ nhỏ này vào 1 cái lọ to và đổ nước vào lọ to cho đến khi mặt nước xâm xấp ngang miệng cái lọ nhỏ thì thôi. Đậy lọ to lại và cho vào tủ Êm 270C trong 8 ngày. Những Êu trùng nở ra sẽ bò lên miệng lọ nhỏ bên trong và tràn vào nước ngoài lọ to. Lấy nước Êy cho vào ống nghiệm, để lắng cặn trong 3 giờ. Gạn nước trên đi, tìm Êu trùng trong cặn. Sau khi lấy được Êu trùng sống và rất di động, phải giết Êu trùng bằng cách thêm vào nước chứa Êu trùng vài giọt dung dịch Iod + Ioduar kali có 2% Iod (Iod 2g + Ioduar kali 4g + Nước 100 ml; bắt đầu hoà tan Ioduar kali trong 20 ml nước, thêm Iod bột và khi Iod đã tan hết thì thêm cho đủ nước); hoặc làm nóng vừa phải để giết Êu trùng. Theo Premvati (1958), nhóng Êu trùng vào một dung dịch (Bleu cresyl + gôm arabic + formol nhẹ) trong 20 - 25 phút, có thể làm cho dễ quan sát những đặc điểm về cấu tạo. Kiểm tra dưới kính hiển vi với độ phóng đại 75 - 100 lần và chú ý những đặc điểm sau để chẩn đoán. - Có hay không có vỏ bọc Êu trùng và số lượng các vỏ bọc Êy. - Chiều dài của Êu trùng (kể cả vỏ). - Chiều dài của đuôi (đo từ hậu môn đến điểm chót của thân thể). - Hình dạng đuôi, vỏ của Êu trùng. - Số lượng và hình thái các tế bào ruột.... Ngoài các phương pháp trên, đối với gia sóc nhai lại còn sống, có thể chẩn đoán bằng phương pháp miễn dịch học. Kháng nguyên chẩn đoán chế từ giun trưởng thành, Êu trùng hoặc dịch trong cơ thể Êu trùng. Có thể pha loãng thành các nồng độ khác nhau từ 1: 5000 đến 1: 10.000. Dùng kháng nguyên tiêm trong da, tiêm dưới da, nhỏ mắt, làm phản ứng lắng cặn, phản ứng kết hợp bổ thể....., nhưng thường dùng phương pháp tiêm trong da (tiêm nội bì). Liều tiêm kháng nguyên thường dùng là 0,1 - 0,5 ml. Sau khi tiêm 3 - 15 phót, theo dõi sự biến đổi ở nơi tiêm. Nếu nơi tiêm sưng to, xung quanh đỏ, đường kính khoảng 2 - 4 cm thì phản ứng dương tính, ngược lại là âm tính. (Trịnh Văn Thịnh và cs, 1982) [22]; (Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996) [7]. Hiện nay, có thể chẩn đoán bệnh giun sán bằng một số phương pháp nh­ phương pháp miễn dịch huỳnh quang, miễn dịch men ELISA.... Tuy nhiên, các phương pháp này còn Ýt được sử dụng trong thó y mà chủ yếu được dùng trong y học (Nguyễn Thị Lê và cs, 1996) [17]. 2.1.2.7. Phòng trị bệnh giun xoăn dạ múi khế *Điều trị bệnh Từ những vấn đề đã trình bày ở trên, chúng ta đã thấy vai trò gây bệnh của những giun tròn thuộc họ Trichostrongylidae là rất nghiêm trọng. Vì vậy, cần có các biện pháp điều trị hiệu quả. Theo Trịnh Văn Thịnh (1963) [20] có thể áp dụng kết hợp 3 biện pháp trong chữa Trichostrongylidosis. Đó là: - Cách ly súc vật ốm và tẩy giun kịp thời bằng các thuốc: CuSO4 (dung dịch 1/100 trong nước mưa), liều 15 - 150 ml/con (tuỳ theo lứa tuổi và trạng thái sức khoẻ con vật); hoặc dùng thuốc Phenothiazin (0,2 g/kgTT trâu, bò; 0,5 g/kgTT dê, cừu) trong 2 ngày. Thuốc có tác động nhiều nhất đến giống Haemonchus. - Tránh không cho nhiễm bệnh trở lại bằng cách không chăn lại vào đồng cỏ đã nhiễm mầm bệnh trong 1 năm. - Bồi dưỡng con vật ốm. Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27] xác định, vấn đề chữa bệnh giun xoăn dạ múi khế gia sóc nhai lại phụ thuộc vào các giai đoạn phát triển của ký sinh vật. Khi thấy bệnh ở giai đoạn ba thì cần tiến hành chữa cho cả đàn, không phụ thuộc vào mùa vụ nào. Khi thấy giai đoạn hai xuất hiện, cần phải chọn những con ốm và những con nghi mắc bệnh ra để chữa, không phụ thuộc vào thời gian nào. Khi thấy bệnh ở giai đoạn một thì tiến hành tẩy giun theo kế hoạch mùa thu và mùa xuân, vào thời gian nuôi nhốt. Để chữa bệnh, dùng Phenothiazin, cho uống dưới dạng viên lớn hoặc nước nhũ tương. Các chất để làm nhũ tương có thể là dung dịch Gelatin 1%, bét bentonit. Drozdz và Malcrewski (1967) [26] cho rằng, Phenothiazin là một trong những thuốc căn bản nhất và thường được sử dụng để chống những bệnh do ký sinh vật ở dạ dày, ruột gia sóc nhai lại. Thuốc này sử dụng dưới hình thức dung dịch không bền vững trong nước, hoặc hình thức viên, nang, bánh.... nhưng thường dùng trộn vào thức ăn, không cần nhịn ăn và dùng thuốc tẩy. Tác giả cho là Phenothiazin tác dụng tốt hơn với giun Haemonchus, Trichostrongylus, nhưng với Cooperia và Ostertagia thì thuốc có tác dụng yếu. Thuốc cũng có tác dụng khác nhau với các giai đoạn phát triển khác nhau của giun. Nói chung, thuốc này tác dụng yếu với giun chưa trưởng thành, điều đó dẫn đến sự cần thiết điều trị nhắc lại. Phenothiazin tương đối Ýt độc, nhưng những loài gia sóc nhai lại khác nhau phản ứng với thuốc khác nhau. Dê nhạy cảm nhất với thuốc, bò Ýt nhạy cảm hơn, còn cừu lại chịu được một liều tới 400g. Thuốc thải trừ theo đường mật, nước tiểu và sữa trong 48 giờ đầu và kéo dài 3 - 5 ngày. Ngoài ra, các thuốc Ronnel, Trolen (liều 100 mg/kgTT) rất hiệu nghiệm với Haemonchus. Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [22]; Phan Địch Lân và cs (1989) [14]; Phạm Văn Khuê và cs (1996) [7], có thể dùng các thuốc sau điều trị bệnh giun xoăn dạ dày và ruột loài nhai lại: - Phenothiazin: hiệu quả tốt, liều 0,2 g/kgTT (bò, trâu), 0,5 - 1 g/kgTT (dê, cừu). Có thể trộn lẫn thuốc với nước cháo đun nóng, nồng độ 2,5 - 3%, cứ 100 ml nước cháo trộn với 10 g thuốc. - Dung dịch sulfat đồng 1% cũng có tác dụng với giun. Liều dùng: Gia súc nhỏ: 15 - 20 ml/con Gia súc trưởng thành: 80 - 150 ml/con Đối với dê, dùng liều thấp hơn (dê lớn không quá 60 ml). Đối với bê, dùng liều 2 - 3 ml/kgTT. Trong thời gian chăn dắt người ta dùng liều thuốc nhỏ: sulfat đồng với muối ăn, theo tỷ lệ 1: 100; sulfat đồng với Phenothiazin và muối, tỷ lệ 1: 5: 100 cho ăn trong cả thời gian chăn dắt, nếu thời tiết nóng thì ngừng độ 2 - 4 tuần. Khi pha sulfat đồng cần chú ý pha với nước cất hoặc nước mưa sạch, không dùng dụng cụ kim loại, pha xong dùng ngay. Cho uống thuốc qua ống cao su một đầu có phễu, không để thuốc lọt vào khí quản. Nếu con vật trúng độc, cho ăn trứng gà hoặc uống 5 - 10 g Magie oxyt (MgO). Jorgen Hansen và Brian Perry (1994) [30] cho biết, những loại thuốc có tác dụng điều trị giun và cả Êu trùng giun trong cơ thể cừu là: Albendazole, Febantel, Fenbendazole, Oxfendazole, Levamisole và Ivermectin. Johannes Kaufmann (1996) [29] còng cho biết, những hoá dược có tác dụng diệt giun xoăn dạ dày - ruột ở trâu, bò và cừu: Albendazole, Febantel, Fenbendazole, Ivermectin, Levamisol, Netobimin, Morantel tartrate, Oxfendazole. Kieran P. J. (1994) [33] nghiên cứu và cho thấy, thuốc Moxidectin với liều chỉ định là 0,2 mg/kgTT có thể tránh được một số chủng giun tròn ở loài nhai lại mà những chủng này đã thể hiện sự kháng lại thuốc Ivermectin. Thuốc Moxidectin tá ra có khả năng phòng chống tốt hơn với cả 3 giống giun phổ biến là Haemonchus, Ostertagia và Trichostrongylus. Tác giả khuyến cáo, trong những chương trình điều trị chiến lược, nên dùng Moxidectin để giảm những rủi ro về sự tăng khả năng kháng lại thuốc của giun. Theo Nguyễn Phước Tương (1994) [23], thuốc có tác dụng điều trị Trichostrongylidosis (tác dụng với cả giun trưởng thành và còn non, đồng thời làm giảm sức sống của trứng giun trước khi bài xuất ra ngoài), gồm: - Albendazole : liều 5 - 10 mg/kgTT. Cho uống dạng nhũ tương dầu. - Asuntol : liều 8 mg/kgTT. Cho uống. - Fenbendazole : liều 5 mg/kgTT. Cho uống - Levamisole : liều 7,5 mg/kgTT. Cho uống. - Mebendasole : liều 15 - 20 mg/kgTT. Cho uống - Mebenvet : liều 150 - 200 mg/kgTT. Cho uống. - Oxfendazole : liều 5 mg/kgTT. Cho uống. - Oxibendazole : liều 10 - 15 mg/kgTT. Cho uống. Phạm Khắc Hiếu và Lê Thị Ngọc Diệp (1997) [5] cho biết: Phenothiazin, Thiabendazole, Tetramisole... là những thuốc có hiệu quả tẩy giun xoăn ký sinh ở dạ dày ruột loài nhai lại rất tốt. Phenothiazin có tác dụng tốt với giun trưởng thành nhưng tác dụng yếu với Êu trùng và giun non. Do đó, sau 4 tuần cần điều trị lại. Dùng liều không quá 20 - 25 gam/lần. Nếu dùng quá liều và kéo dài làm cho con vật bị thiếu máu, bỏ ăn, thiếu sắc tố trên da và dẫn tới viêm hoá sừng (Keratitis). Thiabendazole là thuốc tương đối mới, có tác dụng rất tốt với giun Haemonchus, Ostertagia, Trichostrongylus, Cooperia.... Có thể dùng liều chung là 50 - 100 mg/kgTT. Thuốc Tetramisole có hiệu lực tẩy với cả giun trưởng thành và Êu trùng, cho uống liều 15 mg/kgTT hoặc tiêm dưới da dung dịch 3 - 10%. Dùng thuốc tẩy giun xoăn dạ múi khế cho dê, Nguyễn Thị Kim Lan (2000) [9] đã báo cáo kết quả như sau: Thuốc Niclosamid - tetramisole B (liều 66 mg/kgTT), Oxfendazole (liều 5 mg/kgTT), Levamisole (liều 7 mg/kgTT), Mebenvet (liều 130 mg/kgTT) và Vermitan (liều 35 mg/kgTT) có hiệu lực tẩy sạch giun xoăn dạ múi khế tương ứng là: 97,14%; 100%; 97,5%; 96,77% và 96,67%. *Vấn đề phòng bệnh Theo quan điểm của Skrjabin K.I (1944) muốn diệt trừ bệnh giun sán, phải dự phòng có tính chất chủ động: dùng tất cả các phương pháp cơ giới, vật lý (ánh sáng, độ nóng), hoá học (thuốc), sinh vật học (sinh vật nọ tiêu diệt sinh vật kia) để tiêu diệt giun sán trên cơ thể ký chủ, tiêu diệt giun sán ở ngoại cảnh, tiêu diệt giun sán ở tất cả các giai đoạn phát dục (trứng, Êu trùng, giun sán trưởng thành). Trên cơ sở đó, việc phòng bệnh giun xoăn dạ múi khế phải đạt được các yêu cầu sau: - Điều trị cho con vật ốm khỏi bệnh và đảm bảo cho ngoại cảnh không bị nhiễm mầm bệnh, tránh mầm bệnh nhiễm vào các con vật khác. Sau khi tẩy phải diệt trừ tất cả giun và trứng được thải ra ngoài để ngăn ngừa mầm bệnh phát tán. - Định kỳ dùng thuốc tẩy giun xoăn dạ múi khế, chống tái nhiễm, bội nhiễm. - Tập trung phân để xử lý diệt mầm bệnh. Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [17] đã vận dụng học thuyết Skrjabin.K.I để đưa ra biện pháp phòng chống các bệnh giun sán. Tác giả cho rằng, biện pháp hữu hiệu để phòng chống các bệnh giun sán ở gia súc là biện pháp phòng chống tổng hợp, nghĩa là ở những vùng sinh thái nhất định đồng thời sử dụng nhiều biện pháp có hiệu quả đối với tất cả các giai đoạn phát triển của giun sán ở môi trường cũng như trong cơ thể ký chủ. Nh­ vậy, khâu quan trọng trong biện pháp phòng chống tổng hợp là tẩy giun xoăn dạ múi khế cho gia sóc nhai lại. Có thể tẩy giun còn non và giun trưởng thành. Nhưng thực tế trong điều kiện khí hậu nóng Èm của Việt Nam, mầm bệnh giun xoăn dạ múi khế hầu nh­ tồn tại và phát triển quanh năm. Vì thế, trong cùng một cơ thể động vật, đồng thời tồn tại nhiều cá thể giun ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Tuy vậy, tốt nhất là chọn loại thuốc tẩy được cả giun non, nghĩa là khi chúng chưa đạt đến giai đoạn trưởng thành, để tránh mầm bệnh phát tán ra môi trường ngoài. Nguyễn Thị Lê (1996) [17] khuyến cáo rằng, để tẩy giun đạt hiệu quả cần biết một số yêu cầu sau: chẩn đoán bệnh chính xác; trước tiên phải tẩy cho những con vật bị nhiễm nặng hoặc có biểu hiện lâm sàng; với mục đích phòng bệnh thì nên tẩy cho cả đàn gia súc vì có thể có những gia súc đang mang mầm bệnh nhưng chưa phát hiện được; tốt nhất nên tẩy giun vào mùa xuân (tháng 3 - 4) và mùa thu (tháng 8 - 9); khi tẩy phải nhốt gia sóc trong chuồng 3 - 5 ngày để tập trung phân ủ diệt mầm bệnh; sau 15 - 20 ngày kiểm tra để đánh giá hiệu quả của thuốc. Để phòng chống bệnh giun xoăn dạ múi khế có hiệu quả, đồng thời với việc tẩy giun phải sử dụng các biện pháp sau: - Chuồng nuôi gia súc phải giữ sạch sẽ, khô ráo, vì đây là nơi tiếp xúc thường xuyên với mầm bệnh. - Bãi chăn thả có ý nghĩa lớn trong việc phòng chống bệnh giun sán vì động vật bị nhiễm bệnh giun sán chủ yếu ở bãi chăn. Bãi chăn Èm thấp, có nước là điều kiện thuận lợi đối với sự phát triển của giun sán. Vì vậy nên chăn thả gia súc ở các bãi cỏ khô ráo. Nếu có điều kiện, nên sử dụng luân canh, luân phiên đồng cỏ trong chăn nuôi để giảm bớt các bệnh giun sán. - Xử lý phân gia súc để diệt trứng và Êu trùng giun xoăn dạ múi khế, làm môi trường sạch hơn. Hàng ngày dọn phân và rác ở chuồng nuôi tập trung vào một nơi, vun thành đống (cao và rộng 1,5 - 2m), đắp đất kín dày 20 - 30 cm, để sau 3 - 4 tuần, nhiệt độ đống ủ tăng lên 60 - 700C sẽ làm chết trứng và Êu trùng. Có thể cho thêm tro bếp, vôi và lá xanh vào để tăng thêm nhiệt độ đống ủ. - Đảm bảo nguồn thức ăn đủ về số lượng và chất lượng. Tốt nhất nên dùng các loại cỏ trồng trên cạn, xa nơi chăn thả và chuồng nuôi làm thức ăn cho gia súc. Bổ sung thêm các loại thức ăn giàu vitamin, nguyên tố vi lượng. - Cho gia súc uống nguồn nước sạch. Các tác giả Skrjabin K.I (1963) [27];Trịnh Văn Thịnh (1963) [20]; Soulsby (1982) [34]; Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [22]; Phan Địch Lân và cs (1989) [14]; Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [7]; Urquhart và cs (1996) [36]; Nguyễn Thị Kim Lan (2000) [9] đều thống nhất áp dụng các biện pháp phòng trừ tổng hợp như: - Định kỳ dùng thuốc tẩy giun. - Tập trung phân để ủ diệt trứng và Êu trùng giun. - Không chăn thả súc vật nhai lại ở những bãi chăn Èm thấp. - Không cho súc vật nhai lại uống nước vũng tù có nhiều Êu trùng gây nhiễm. - Thực hiện chăn thả luân phiên đồng cỏ để phòng bệnh. Trong các biện pháp trên, biện pháp tẩy giun trước khi chúng trưởng thành có tác dụng phòng bệnh rất tốt. Phenothiazin - mét trong những thuốc có tác dụng ức chế giun trưởng thành đẻ trứng và tẩy cả giun non - được khuyên là nên dùng để tẩy mang tính chất phòng bệnh cho gia sóc nhai lại. Trong thời gian chăn thả, mỗi ngày cho uống thuốc một lần để phòng bệnh. Có thể dùng thuốc theo tỷ lệ: Phenothiazin 10 phần, bột gạo 20 phần, bột xương 10 phần, muối ăn 60 phần. Ngoài ra, có thể thêm một số nguyên tố vi lượng nh­ đồng, coban, iot... Trộn lẫn những thứ trên, cho thêm một Ýt nước cháo, làm thành viên, phơi khô, cho vào máng ăn, để súc vật tự gặm (chú ý là nếu viên thuốc bị Èm ướt, súc vật ăn quá nhiều có thể bị trúng độc). Ngoài ra, người ta còn tiêm vắcxin chế từ Êu trùng giun xoăn thuộc họ Trichostrongylidae đã được làm giảm độc bằng chiếu tia X để phòng bệnh cũng cho hiệu quả tốt (Jarret, 1959). 2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 2.2.1. Tình hình nghiên cứu bệnh giun xoăn dạ múi khế ở nước ngoài Bệnh giun xoăn dạ múi khế phổ biến khắp các nước trên thế giới, gây tổn hại lớn cho ngành chăn nuôi. Chính vì vậy có rất nhiều nhà nghiên cứu đã nghiên cứu về tác hại của bệnh này, đồng thời đưa ra các biện pháp phòng và trị cho gia sóc nhai lại. Theo Soulsby E.J.L (1982) [34], nhìn chung sự phát triển của các loài giun xoăn họ Trichostrongylidae ở giai đoạn sống tự do (ở ngoài ngoại cảnh) phụ thuộc vào điều kiện khí hậu. Ở nước Anh, Êu trùng có thể phát triển đến giai đoạn gây nhiễm trong 2 tuần, nhưng thường thì dài hơn và phụ thuộc vào khí hậu trong thời gian đồng cỏ ô nhiễm. Trâu, bò nhiễm giun vào tất cả các tháng trong năm, nhưng n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 242.doc
Tài liệu liên quan