Nghiên cứu kết quả công tác đảm bảo an toàn truyền máu tại bệnh viện đa khoa huyện Phú Quốc 5 năm 2007- 2011

Bàn luận về tình hình sử dụng máu lâm sàng Tại các cơ sở y tế có cấp cứu (nội, ngoại, sản) đều có nhu cầu truyền máu và thực tế tại Phú Quốc, 100% máu được sử dụng cho 3 chuyên khoa này. Nhờ vào việc chủ động được nguồn máu tại chỗ, đặc biệt là lực lượng hiến máu tình nguyện và hiến máu dự bị những năm gần đây, không có trường hợp nào chỉ định mà không có máu để truyền. Tuy nhiên, bước đầu hồi cứu hồ sơ, chúng tôi ghi nhận có những trường hợp được truyền máu nhưng cho ra viện hoặc chuyển đi mà bệnh nhân còn trong tình trạng thiếu máu. Bệnh nhân Huỳnh Ngọc Đ. 79 tuổi, vào viện 24/8/2010, chẩn đoán: Thiếu máu chưa rõ nguyên nhân, vào viện Hb 50 g/l đã được truyền 2 đơn vị máu toàn phần trong 3 ngày điều trị, bệnh nhân xin về với xét nghiệm Hb là 66 g/l. Bên cạnh đó, do nhận thức của thầy thuốc còn hạn chế nên việc sử dụng máu hoàn toàn là truyền máu cùng nhóm. 6 tháng đầu năm, 51,6% lượng máu sử dụng là nhóm O. Với các cơ sở truyền máu xa đất liền, việc dự trữ và sử dụng chủ yếu là Khối hồng cầu nhóm O đã được khuyến cáo(5,7) nhưng chưa áp dụng triệt để, vấn đề này sẽ tiếp tục được cải thiện qua việc đào tạo, tập huấn trong thời gian tới. Việc sử dụng chế phẩm máu như huyết tương và tiểu cầu đã được cân nhắc, một số trường hợp do không có chế phẩm để dùng nên bệnh nhân ra viện mà chưa phục hồi được các chỉ số sinh lý hoặc chuyển viện trong tình trạng còn nguy cơ xuất huyết. Bệnh nhân Nguyễn Hoàng Gia H., 10 tuổi, chẩn đoán: Sốt xuất huyết độ II, khi vào viện, có biểu hiện chảy máu chân răng, nghiệm phát dây thắt (+), số lượng Tiểu cầu liên tục giảm trong 3 ngày nằm viện, cụ thể 04/08- 66G/l, 05/08- 21G/l, ngày 07/08 tiểu cầu còn 7G/l. Tuy nhiên, do không có tiểu cầu để truyền nên đã chuyển Thành phố Hồ Chí Minh ngày 07/08/2010 khi tiểu cầu đang rất thấp và có biểu hiện xuất huyết.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 23 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu kết quả công tác đảm bảo an toàn truyền máu tại bệnh viện đa khoa huyện Phú Quốc 5 năm 2007- 2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 397 NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ CÔNG TÁC ĐẢM BẢO AN TOÀN TRUYỀN MÁU TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA HUYỆN PHÚ QUỐC 5 NĂM 2007- 2011 Nguyễn Đức Phát*, Nguyễn Văn Dũng*, Nguyễn Thị Loan*, Ngô Mạnh Quân**, Nguyễn Anh Trí** TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá kết quả công tác đảm bảo an toàn truyền máu trong 5 năm 2007-2011 tại Bệnh viện đa khoa Phú Quốc. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu hồ sơ dựa trên dữ liệu về số đơn vị máu tiếp nhận được, số đơn vị máu sử dụng cho người bệnh và tất cả bệnh nhân được truyền máu. Kết quả: Trong 5 năm, Bệnh viện tiếp nhận được 1.037 đơn vị máu và chế phẩm, trong đó 962 đơn vị được sử dụng cho 379 bệnh nhân, tất cả bệnh nhân có chỉ định đều được truyền máu, trung bình mỗi bệnh nhân nhận 2,54 đơn vị máu, 51,6% số đơn vị máu sử dụng là nhóm O. Từ 7/2010, sau khi thành lập được ngân hàng máu, toàn bộ máu tiếp nhận được từ người hiến máu tại Đảo được chuyển về Bệnh viện đa khoa Tỉnh để sàng lọc và sản xuất chế phẩm, chúng tôi nhận chế phẩm máu (Khối hồng cầu) từ bệnh viện đa khoa Tỉnh, đồng thời tiến hành xây dựng lực lượng hiến máu dự bị, sẵn sàng cho trường hợp cần máu với số lượng lớn. Kết luận: Trong năm năm qua, công tác đảm bảo an toàn truyền máu ở Phú Quốc đã được cải thiện đáng kể; đặc biệt là từ 7/2010, sau khi thành lập được ngân hàng máu, toàn bộ máu sử dụng được nhận từ Bệnh viện đa khoa Tỉnh, máu sử dụng chủ yếu là chế phẩm máu (86,2%). Việc sử dụng chế phẩm huyết tương và tiểu cầu đã được cân nhắc tuy nhiên điều kiện trang thiết bị chưa cho phép để dự trữ các chế phẩm này. Từ khóa: Hiến máu, sử dụng máu, truyền máu lâm sàng, hiến máu dự bị, truyền máu từng phần. ABSTRACT STUDY THE RESULT OF BLOOD SAFETY ASSURANCE IN PHU QUOC HOSPITAL IN 5 YEARS 2007 – 2011 Nguyen Duc Phat, Nguyen Van Dung, Nguyen Thi Loan, Ngo Manh Quan, Nguyen Anh Tri * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 397 - 401 Aim: To assess the situation of blood collection and usage in Phu Quoc Island from 2007 to 2011. Method: This retrospective research based on data in blood collection, using of blood and receivers during 5 years in Phu quoc Island. Results: 1.037 units of blood were collected from paid, voluntary and family donors in 5 years. 962 units were used for 379 receivers, with average of 2.54 units per patient; among that, half of unites were O group. From July 2010, the Blood bank were established, blood collected was sent to Kien Giang Hospital and we received, once a month on average, in return Red Blood Cell for storage. Conclusion: some improvement has been achieved in blood safety in Phu Quoc island during 5 years. From July 2010, blood used has been sent from Kien Giang hospital, the walking donor panel has been established in the island for emergency transfusion. Platelet and plasma was still not used due to limitation of equipment in the Island. Key word: blood donation, blood use, Walking donor panel, blood safety. * Bệnh Viện Đa Khoa Phú Quốc, ** Viện Huyết học – Truyền máu TW. Tác giả liên lạc: BS.CKII. Nguyễn Đức Phát, ĐT: 0903.695.212, Email: drphatpq@gmail.com. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 398 ĐẶT VẤN ĐỀ Chăm sóc sức khỏe cho nhân dân vùng biển đảo và duyên hải đang là vấn đề được Chính phủ, ngành y tế quan tâm(6). Huyện đảo Phú Quốc với quy mô 2 thị trấn, 8 xã, dân số 103.000 người, lượng khách du lịch từ 400.0000 – 600.000 lượt người/năm, Bệnh viện đa khoa Phú Quốc có 140 giường bệnh với đủ các chuyên khoa, luôn có nhu cầu về máu trong điều trị và cấp cứu bệnh nhân. Trước tháng 7 năm 2010, hầu hết lượng máu cho điều trị được tiếp nhận tại chỗ từ người cho máu lấy tiền, thân nhân cho máu và một số từ người hiến máu tự nguyện, sử dụng sàng lọc nhanh trước hiến máu, máu sử dụng chủ yếu là máu toàn phần. Nhằm cải thiện và đảm bảo an toàn truyền máu cho người bệnh, từ 7/2010, Bệnh viện đã đầu tư nâng cấp Khoa xét nghiệm thành cơ sở trữ máu, đủ khả năng tiếp nhận máu, lưu trữ máu an toàn cho điều trị. Máu được tiếp nhận từ hai nguồn: (1) nguồn tại chỗ - lấy từ người nhà, người hiến máu dự bị và người hiến máu tình nguyện, sau đó gửi vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh để làm xét nghiệm sàng lọc và sản xuất chế phẩm máu và (2) nhận chế phẩm máu (chủ yếu là khối hồng cầu) về lưu trữ tại bệnh viện và luôn sẵn sàng cho cấp cứu, điều trị, đồng thời xây dựng lực lượng hiến máu dự bị tại chỗ. Nhờ đó, từ 7/2010, chất lượng truyền máu được cải thiện rõ rệt, không còn tình trạng bệnh nhân chờ máu và máu luôn đảm bảo chất lượng tốt. Chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu kết quả công tác đảm bảo an toàn truyền máu tại bệnh viện đa khoa Phú Quốc 5 năm 2007-2011” nhằm mục tiêu: Khảo sát thực trạng công tác đảm bảo an toàn truyền máu tại Bệnh viện đa khoa Phú Quốc trong 5 năm 2007-2011. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng đảm bảo an toàn truyền máu. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng - Người hiến máu tại Bệnh viện đa khoa Phú Quốc. - Bệnh nhân được nhận máu tại Bệnh viện đa khoa Phú Quốc. Phương pháp nghiên cứu Hồi cứu hồ sơ tài liệu. Chỉ số và nội dung nghiên cứu - Nguồn cung cấp máu: bao gồm máu tiếp nhận từ người hiến máu tại chỗ và máu – chế phẩm nhận từ bệnh viện đa khoa Kiên Giang. - Tình hình sàng lọc, bảo quản và phát máu. - Tình hình sử dụng máu lâm sàng. Thời gian nghiên cứu: Từ 01/1/2007 – 30/6/2011. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Tình hình đảm bảo nguồn cung cấp máu cho bệnh viện Bảng 1: Kết quả tiếp nhận máu từ các đối tượng hiến máu 2007-2011 Năm Đối tượng 2007 2008 2009 2010 2011 (6 tháng) Tổng n 74 99 67 92 195 527 HM tình nguyện % 37,0 44,8 34,0 41,1 100,0 50,8 n 0 26 31 18 0 75 Người nhà hiến máu % 0,0 11,8 15,7 8,0 0,0 7,2 n 126 96 99 114 0 435 Cho máu lấy tiền % 63,0 43,4 50,3 50,9 0,0 41,9 Tổng n 200 221 197 224 195 1,037 Trong 5 năm, tổng số đơn vị máu tiếp nhận được tại Phú Quốc là 1.037 đơn vị máu, trong đó, 50,8% là từ người hiến máu tình nguyện. Riêng năm 2010 và 2011, toàn bộ máu tình nguyện thu được, được chuyển về Bệnh viện đa khoa Kiên Giang để sàng lọc và sản xuất chế phẩm máu. Bảng 2: Kết quả tiếp nhận máu và chế phẩm từ BV đa khoa Kiên Giang Năm Loạichế phẩm 2007 2008 2009 2010 2011 (6 tháng) Máu toàn phần 0 0 0 0 0 Khối hồng cầu 0 0 0 110 130 Chế phẩm khác 0 0 0 0 0 Tổng 0 0 0 110 130 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 399 Kể từ 7/2010, hầu hết lượng máu sử dụng được tiếp nhận từ BV đa khoa Kiên Giang, cơ sở có đủ điều kiện sàng lọc và sản xuất các chế phẩm máu và cung cấp cho các bệnh viện khác theo mô hình cung cấp máu tập trung(9). Trong 12 tháng đã tiếp nhận 240 đơn vị Khối hồng cầu. Trung bình chúng tôi tiếp nhận chế phẩm máu từ BV đa khoa Kiên Giang 1 lần/tháng, khối hồng cầu bảo quản trong 4 tuần, không sử dụng hết sẽ đổi lại cho BV Kiên Giang. Thường nhận máu mới và đổi lại máu cũ (nhận lần trước) sau 1 ngày để đảm bảo luôn luôn có máu dự trữ trong kho để sẵn sàng cho cấp cứu và điều trị. Tình hình sử dụng máu lâm sàng Bảng 3: Kết quả chỉ định truyền máu Năm Chỉđịnh truyền máu 2007 2008 2009 2010 2011 (6 tháng) Tổng Số ca có chỉ định truyền máu 75 81 85 87 51 379 Số đơn vị máu phát 200 221 197 214 130 962 Số bệnh nhân được truyền máu 75 81 85 87 51 379 Số đơn vị máu trung bình/bệnh nhân truyền máu 2,66 2,73 2,31 2,47 2,55 2,54 Trong 5 năm, có 379 bệnh nhân được chỉ định sử dụng máu, 100% số bệnh nhân có chỉ định là được nhận máu, trung bình mỗi bệnh nhân nhận 2,54 đơn vị máu. Tổng số đơn vị máu thu được (1.037 đơn vị) cao hơn số được sử dụng do được chuyển vào Bệnh viện đa khoa Kiên Giang, chúng tôi nhận lại số đơn vị máu dự thực, số không sử dụng hết và tới hạn đã được chuyển trả lại. Biểu đồ 1: Tỷ lệ bệnh nhân sử dụng số đơn vị máu khác nhau 2009 - 2011 Trong 3 năm 2009 - 2011, trong tổng số bệnh nhân sử dụng máu, 26,4% bệnh nhân nhận 1 đơn vị máu, 36,6% bệnh nhân nhận 2 đơn vị, 7,4% nhận 3 đơn vị máu và có 18,9% bệnh nhân nhận trên 3 đơn vị máu. Trong đó, có những bệnh nhân được nhận nhiều máu như bệnh nhân Nguyễn Thị Đ.- 27 tuổi – Băng huyết sau sinh, nhận 8 đơn vị máu (tháng 3/2010), bệnh nhân Trương Duy T. – 42 tuổi – Chảy máu dạ dày, truyền 13 đơn vị (tháng 6/1010). Biểu đồ 2: Tỷ lệ sử dụng máu của các chuyên khoa Có 3 chuyên khoa sử dụng máu: Ngoại, Sản và Cấp cứu. Kết quả 5 năm cho thấy, 67,8% lượng máu sử dụng cho cấp cứu, 20,3% sử dụng cho khoa Ngoại và 11,9% sử dụng cho các bệnh nhân cấp cứu Sản. Bảng 4: Tỷ lệ nhóm máu sử dụng qua từng năm Năm Nhóm máu 2007 2008 2009 2010 2011 (6 tháng) Tổng n 129 112 93 93 69 496 O % 64,5 50,7 47,2 43,5 53,1 51,6 n 31 48 26 35 24 164 A % 15,5 21,7 13,2 16,4 18,5 17,0 n 38 52 64 65 35 254 B % 19,0 23,5 32,5 30,4 26,9 26,4 n 2 9 14 21 2 48 AB % 1,0 4,1 7,1 9,8 1,5 5,0 Tổng n 200 221 197 214 130 962 Việc sử dụng máu ở Phú Quốc hiện nay phổ biến là truyền máu cùng nhóm. Trong tổng số 962 đơn vị máu đã sử dụng trong 5 năm, 51,6% là nhóm O, 26,4% nhóm B, 17% là nhóm A, nhóm AB chiếm 5%. Trước tháng 6/2010, 100% lượng máu sử dụng là truyền máu toàn phần, từ nguồn máu tiếp nhận trực tiếp tại Phú Quốc. Kể từ 7/2010, Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 400 toàn bộ lượng máu sử dụng được nhận từ Bệnh viện đa khoa Kiên Giang (240 đơn vị), 112/130 (86,2%) số đơn vị máu sử dụng là Khối hồng cầu. Bảng 5: Tỷ lệ các chế phẩm được sử dụng Năm Nhóm máu 2007 2008 2009 2010 2011 (6 tháng) Máu toàn phần 200 221 197 114 18 Khối hồng cầu 0 0 0 110 112 Chế phẩm khác 0 0 0 0 0 Tổng 200 221 197 224 130 BÀN LUẬN Về nguồn máu sử dụng tại Phú Quốc: Được đảm bảo bởi nguồn chính Người hiến máu với đủ các đối tượng: người cho máu lấy tiền, người hiến máu tình nguyện và thân nhân hiến máu. Đến 2010, khi đã xây dựng được ngân hàng máu, 100% lượng máu thu được là từ người hiến máu tình nguyện, không còn phải huy động người nhà bệnh nhân hiến máu và đã chấm dứt tình trạng người bán máu lấy tiền. Bên cạnh nguồn người hiến máu tình nguyện, Bệnh viện Phú Quốc đã xây dựng được lực lượng hiến máu dự bị, là nguồn dự trữ máu sống cho những trường hợp tai nạn, thảm họa cần truyền máu với số lượng lớn và trong trường hợp thời tiết khắc nghiệt không huy động được máu từ Bệnh viện đa khoa Kiên Giang. Được sự hỗ trợ của Viện Huyết học – Truyền máu TW, Bệnh viện Phú Quốc sẽ triển khai việc tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về hiến máu dự bị(8) và tiến hành xét nghiệm trước cho người hiến máu(3) để tuyển chọn và xây dựng lực lượng hiến máu dự bị thực chất và hiệu quả, bao gồm những người nhóm máu O, có xét nghiệm sàng lọc âm tính với HIV, HBV và HCV, lực lượng này được khám và xét nghiệm lại 1 lần/năm, khi huy động máu, chỉ cần làm xét nghiệm nhanh, nâng cao chất lượng đảm bảo an toàn truyền máu(1,4). Trong đó hướng tới việc vận động người nước ngoài thường trú tại Phú Quốc có nhóm máu Rh(-) để sẵn sàng trong trường hợp cần máu cho bệnh nhân người nước ngoài có nhóm Rh(-) . Chế phẩm máu nhận từ Bệnh viện đa khoa Kiên Giang: đây là phương pháp được tiến hành thường xuyên, trung bình nhận và đổi máu trong vòng 4 tuần. Từ 7/2010, toàn bộ lượng máu sử dụng là Khối hồng cầu đã qua sàng lọc, đảm bảo chất lượng giống như máu đang sử dụng tại Bệnh viện Kiên Giang. Tuy nhiên, điểm hạn chế là chỉ sử dụng máu cùng nhóm. Vì máu sử dụng chủ yếu trong cấp cứu nên tiến tới, sẽ chủ yếu dự trữ và truyền Khối hồng cầu nhóm O cho điều trị, như thế sẽ hạn chế rủi ro truyền nhầm nhóm máu và thuận lợi cho công tác tiếp nhận, dự trữ và đổi máu thường xuyên(5,7). Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng máu cho sử dụng và có thể kéo dài thời hạn bảo quản, theo khuyến cáo từ các tài liệu, tiến tới sẽ sử dụng khối hồng cầu có dung dịch bảo quản để có thể duy trì thời gian bảo quản tới 42 ngày. Bàn luận về tình hình sàng lọc, bảo quản và phát máu tại Khoa xét nghiệm Trước 7/2010, toàn bộ lượng máu sử dụng được tiếp nhận và sàng lọc tại Bệnh viện. Tuy nhiên, do số lượng tiếp nhận máu ít, không thường xuyên nên chủ yếu là sử dụng phương pháp xét nghiệm nhanh, điều này ít nhiều ảnh hưởng tới an toàn truyền máu và không đúng với các quy định của Quy chế truyền máu(2). Kể từ 7/2010, sau khi hoàn thiện cơ sở trữ máu và tiến hành tiếp nhận máu, chuyển máu chưa sàng lọc về Bệnh viện đa khoa Kiên Giang, chúng tôi đã nhận lại 240 đơn vị máu đã được sàng lọc theo đúng quy định, góp phần quan trọng cải thiện chất lượng máu cho điều trị tại Phú Quốc. Bàn luận về tình hình sử dụng máu lâm sàng Tại các cơ sở y tế có cấp cứu (nội, ngoại, sản) đều có nhu cầu truyền máu và thực tế tại Phú Quốc, 100% máu được sử dụng cho 3 chuyên khoa này. Nhờ vào việc chủ động được nguồn máu tại chỗ, đặc biệt là lực lượng hiến máu tình nguyện và hiến máu dự bị những năm gần đây, không có trường hợp Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 401 nào chỉ định mà không có máu để truyền. Tuy nhiên, bước đầu hồi cứu hồ sơ, chúng tôi ghi nhận có những trường hợp được truyền máu nhưng cho ra viện hoặc chuyển đi mà bệnh nhân còn trong tình trạng thiếu máu. Bệnh nhân Huỳnh Ngọc Đ. 79 tuổi, vào viện 24/8/2010, chẩn đoán: Thiếu máu chưa rõ nguyên nhân, vào viện Hb 50 g/l đã được truyền 2 đơn vị máu toàn phần trong 3 ngày điều trị, bệnh nhân xin về với xét nghiệm Hb là 66 g/l. Bên cạnh đó, do nhận thức của thầy thuốc còn hạn chế nên việc sử dụng máu hoàn toàn là truyền máu cùng nhóm. 6 tháng đầu năm, 51,6% lượng máu sử dụng là nhóm O. Với các cơ sở truyền máu xa đất liền, việc dự trữ và sử dụng chủ yếu là Khối hồng cầu nhóm O đã được khuyến cáo(5,7) nhưng chưa áp dụng triệt để, vấn đề này sẽ tiếp tục được cải thiện qua việc đào tạo, tập huấn trong thời gian tới. Việc sử dụng chế phẩm máu như huyết tương và tiểu cầu đã được cân nhắc, một số trường hợp do không có chế phẩm để dùng nên bệnh nhân ra viện mà chưa phục hồi được các chỉ số sinh lý hoặc chuyển viện trong tình trạng còn nguy cơ xuất huyết. Bệnh nhân Nguyễn Hoàng Gia H., 10 tuổi, chẩn đoán: Sốt xuất huyết độ II, khi vào viện, có biểu hiện chảy máu chân răng, nghiệm phát dây thắt (+), số lượng Tiểu cầu liên tục giảm trong 3 ngày nằm viện, cụ thể 04/08- 66G/l, 05/08- 21G/l, ngày 07/08 tiểu cầu còn 7G/l. Tuy nhiên, do không có tiểu cầu để truyền nên đã chuyển Thành phố Hồ Chí Minh ngày 07/08/2010 khi tiểu cầu đang rất thấp và có biểu hiện xuất huyết. Một số giải pháp để nâng cao chất lượng truyền máu tại Phú Quốc Nhằm nâng cao chất lượng truyền máu tại Huyện đảo Phú Quốc, cũng như tại các đảo khác có điều kiện tương tự, chúng tôi đề xuất một số giải pháp thiết yếu đó là: xây dựng ngân hàng máu hoàn chỉnh, chủ yếu là làm tốt công tác lưu trữ, phát máu an toàn và hoàn thiện quy trình nhận- bảo quản và đổi máu với trung tâm truyền máu gần nhất (chủ yếu là Khối hồng cầu nhóm O); tiến tới tự sàng lọc và sản xuất các chế phẩm máu. Bên cạnh đó, xây dựng lực lượng hiến máu dự bị tại chỗ thực chất và hiệu quả để sẵn sàng huy động trong trường hợp khẩn cấp. Đồng thời sẽ tổ chức tập huấn về sử dụng máu và chế phẩm máu cho các bác sỹ để nâng cao chất lượng truyền máu lâm sàng(1,4,5,7). KẾT LUẬN Trong 5 năm 2007-2011, Phú Quốc tiếp nhận được 1.037 đơn vị máu và chế phẩm, trong đó 962 đơn vị được sử dụng cho 379 bệnh nhân, trung bình mỗi bệnh nhân nhận 2,54 đơn vị máu, 50% số đơn vị máu sử dụng là nhóm O. Từ 7/2010, sau khi thành lập được ngân hàng máu, toàn bộ máu sử dụng được nhận từ Bệnh viện đa khoa Tỉnh, máu sử dụng chủ yếu là chế phẩm máu (86,2%). Việc sử dụng chế phẩm huyết tương và tiểu cần đã được cân nhắc tuy nhiên điều kiện trang thiết bị chưa cho phép để dự trữ các chế phẩm này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Australia Blood Service (2007). Draft Principles For The Provision Of Blood To Rural And Remote Communities Via Emergency Donor Panels. 2. Bộ y tế (2008). Quy chế truyền máu – 2007, NXB Y học. 3. Bùi Thị Mai An, Nguyễn Anh Trí (2009). Khảo sát nhóm máu hệ ABO, Rh (D) và tình hình nhiễm virus viêm gan B của người dân tại đảo Bình Ba, Khánh Hòa để xây dựng lực lượng hiến máu dự bị, Tạp chí Nghiên cứu Y học, số 4, tập 63: 82-85. 4. Malsby R 3rd, et al (2005). Walking donor transfusion in a far forward environment, South Med J. 2005 Aug; 98(8):809-810. 5. McMurdo P (2006). Blood Bank and Emergency transfusion, Raytheon Polar Services Company. 6. Minh Thu (2010). Việt Nam cần có mô hình riêng cho y tế biển, đảo, TTXVN/Vietnam, Nam-can-co-mo-hinh-rieng-cho-y-te-bien- dao/20105/46848.vnplus. 7. New York State Council on Human Blood and Transfusion Services (2008). Guideline for Remote Blood Storage, First Ed. 8. Ngô Mạnh Quân và cs. (2010). Nhận thức, thái độ và hành vi về hiến máu tình nguyện ở người đăng ký hiến máu dự bị tại một số vùng đảo, Y học Việt Nam, tháng 9, số 2: 422-427. 9. Nguyễn Anh Trí (2006). Mô hình cung cấp máu tập trung từ ngân hàng máu khu vực đến các bệnh viện, Một số chuyên đề Huyết học – TM, tập II, NXB Y học. 10. Nguyễn Anh Trí và cs. (2010). Khảo sát nhóm máu hệ ABO, Rh(D) của người dân tại một số huyện đảo để xây dựng lực lượng hiến máu dự bị, Y học Việt Nam, tháng 9, số 2: 400-404. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 402

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_ket_qua_cong_tac_dam_bao_an_toan_truyen_mau_tai_b.pdf
Tài liệu liên quan