Nghiên cứu và vận dụng chính sách kinh tế mới của Lênin vào thực tiễn nước ta

Nghiên cứu và vận dụng chính sách kinh tế mới của Lênin vào thực tiễn nước taGIỚI THIỆU ĐỀ TÀI Trong khi nền kinh tế, chính trị xã hội đất nước không ổn định thì đặt ra yêu cầu nhà nước phảI có chính sách đổi mới cho phù hợp với đIều kiện thực tiễn xã hội. Nước Nga sau khi thoát khỏi chiến tranh tình hình đất nước rất bất ổn. Lê-nin, người lãnh đạo tối cao của nhà nước Xô-Viết đã đề ra chính sách kinh tế mới nhằm giảI quyết tình hình khó khăn của đất nước. Bởi vì kinh tế cộng sản thời chiến không thể duy trì trong cả thời bình. Phương thức phân phối sản phẩm theo chủ nghĩa bình quân không thể tiếp tục duy trì, nó không kích thích được sự phát triển của đất nước. Để giảI quyết những mâu thuân đang phát sinh chính quyền Xô-Viết đã nhanh chóng đổi mới phương thức quản lý kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế –không thể chỉ duy trì kinh tế nhà nước là duy nhất. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước nào cũng phải trải qua những khó khăn do đIều kiện kinh tế xã hội chưa thực sự phát triển, thời kỳ quá độ luôn có những đặc thù riêng của nó buộc người lãnh đạo phảI xem xét, phân tích và đưa ra những chính sách cho phù hợp với điều kiện thực tiễn. NgoàI ra mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế luôn gắn liền với nhau đổi mới kinh tế phảI đI đôI với đổi mới chính trị xã hội. Đòi hỏi Đảng và nhà nước phảI nghiên cứu tình hình để dưa ra những chính sách phù hợp nhất Hệ thống chính trị được xây dựng trên nền tảng kinh tế là cơ sở tồn tại của phát triển xã hội một cách toàn diện. Để có thể ổn định chính trị thì trước hết ta phảI ổn định về kinh tế. Trong điều kiện kinh tế nước Nga đang khó khăn : nông nghiệp kém phát triển, nền đại công nghiệp không phát huy tác dụng như trước, chỉ còn là sản xuất nhỏ do thiếu nguyên liệu, thiếu lương thực. Công nhân thất nghiệp tràn lan Đã nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội, tình hình chính trị bất ổn Để giảI quyết tình hình trên việc chính quyền Xô-Viết dưa ra chính sách kinh tế mới là hoàn toàn đúng dắn. Cũng như nước Nga, Việt Nam sau khi thoát khỏi chiến tranh, “kinh tế thời chiến” – phương thức sản xuất tập trung không còn phù hợp, chế độ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp không thể tiếp tục duy trì. Nhà nước ta đã nhanh chóng đổi cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của xã hội. Sự vân dụng chính sách kinh tế mới vào Việt Nam là một bước đI đúng đắn của Đảng và nhà nước ta trong quá trình đổi mới. Nhanh chóng phát triển kinh tế đưa đất nước tiến lên Chủ Nghĩa X ã Hội. Nhà nước ta song song vơí quá trình đổi mới kinh tế là đổi mới hệ thống chính trị giảm sự cồng kềnh của bộ máy nhà nước, giảm sự chồng chéo trong lãnh đạo quản lý, hệ thống pháp luật cũng thay đổi nhằm kích thích đầu phát triển kinh tế xã hội. Việt Nam hiên nay đang thực hiện quá trình đổi mới chính. Trên cơ sở nghiên cứu chính sách kinh tế mới nhà nước ta đã tìm ra những biện pháp phù hợp với điều kiện thực tiễn xã hội. Chính sách kinh tế mới đã để lại bàI học kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì đổi mới. Tuy ý nghĩa thời sự của chính sách kinh tế mới không còn nhưng bàI học về phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội còn đó. Để hoàn thành Đề án kinh tế chính trị này, em đã được thầy Nguyễn Tiến Long hướng dẫn giúp đỡ em rất nhiều. Em xin trân thành cảm ơn thầy.

doc39 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1631 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu và vận dụng chính sách kinh tế mới của Lênin vào thực tiễn nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc tiến hành đổi mới cơ cấu nền kinh tế, chuyển sang cơ chế thị trường có sự đIũu tiết của nhà nước, tổ chức lại các thành phần kinh tế. Dựa trên việc phân tích của Lê-nin về sự cần thiết phảI phát triển kinh tế hàng hoá và sự tồn tại của sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thời kỳ quá độ, nhà nước ta đã xác định 5 thành phần kinh tế tồn tại độc lập và bình dẳng trong nền kinh tế thị trường. Năm thành phần kinh tế bao gồm : kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể – tiểu chủ, kinh tế tư bản nhà nước, và kinh tế tư bản tư nhân (theo như hiến pháp năm 1992 đã phân loại ). Nhà nước đổi mới tổ chức các hợp tác xã và tạo điều kiện cho thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. năm thành phần kinh tế được tự do hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế khác nhau. Nhưng phải đảm bảo theo đúng pháp luật và được đặt dưới sự quản lý chung của nhà nước. Khu vực kinh tế nhà nước đảm nhận các khâu then chốt và các lĩnh vực trọng yếu, nhất là trong công nghiệp và cơ sở hạ tầng. Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu quả hoạt động. Các hợp tác xã nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã đổi mới về quy mô, tổ chức và phương thức hoạt động để phát triển sản xuất kinh doanh. Kinh tế cá thể- tiểu chủ phát triển rộng rãI trong hầu hết các ngành kinh tế: thương mại, dịch vụ, nông- lâm- ngư nghiệp do đặc tính năng động nhạy bén trước những thay đổi của thị trường. Thành phần kinh tế này hoạt động rất hiệu quả. Kinh tế tư bản tư nhân bước đầu phát triển tập trung vào lĩnh vực thương mạ, dịch vụ, đầu tư vào sản xuất còn ít. Nhà nước ta đang có chủ trương khuyến khích tư bản tư nhân mạnh dạn đầu tư vào sản xuất công nghiệp nông nghiệp áp dụng công nghệ kĩ thuật hiện đại nhưng đồng thời cũng tăng cường hiệu lực quản lý để hạn chế mặt tiêu cực của thành phần kinh tế này. đối với kinh tế tư bản nhà nước, đây là hình thức tốt nhất để thu hút vốn, công nghệ kĩ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Như Lê-nin đã phân tích, đây là hình thức kinh tế trung gian quá độ để đưa nền kinh tế nói riêng và đất nước ta nói chung nên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức được đIũu đó, nhà nước ta đã không coi nhẹ hình thức kinh tế này và cũng không kìm hãm sự phát triển của nó mà chỉ hướng nó đI theo một mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. đổi mới kinh tế tạo ra môI trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp sản xuất. Doanh nghiệp nào sản xuất hàng hoá có chất lượng tốt và giá thành thấp sẽ được người tiêu dùng chấp nhận và sẽ khẳng định được vị chí trên thị trường. Tư đó các nhà sản xuất phảI tự nghiên cứu tìm tòi để tăng chất lượng hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm. Sự cạnh tranh đó sẽ làm cho nền kinh tế phát triển. Mặt khác khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nó giảI phóng cá nhân tham gia kinh tế khỏi sự phụ thuộc vào quan liêu, tạo điều kiện cho họ trở thành chủ thể của hoạt động kinh tế và qua đó tạo tính năng động sáng tạo cho mỗi thành viên. thể chế kinh tế thị trường đã phá bỏ quan hệ đặc quyền đẳng cấp, cung cấp môI trường cạnh tranh bình đẳng. Trước đây, nền kinh tế nườc ta mang nặng tình hiện vật, tự cung tự cấp, kế hạch hoá tập trung tạo nên tâm lý thụ động ỷ lại. Sự xuất hiện của nền kinh tế thị trường đã mang lại sức sống cho nền kinh tế, đưa nó trở về vẻ đẹp vốn có. Tuy nhiên không nên tuyệt đối hoá tác dụng của nền kinh tế thị trường, phải có sự quản lý đIều tiết vĩ mô của nhà nước để đảm bảo nó phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thực hiện phân phối theo nguyên tắc kinh tế thị trường, đẩy mạnh phúc lợi xã hội. Chế độ tem phiếu trước đây được bãi bỏ hoàn toàn. phân phối sản phẩm dựa theo thị trường. Nhà nước thi hành đánh thuế thu nhập nhằm phân phối lại thu nhập, đIều tiết trong táI phân phối để tránh bbất bình đẳng. Việc chuyển sang mô hình kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước đã tạo nên động lực, khơi dậy mọi tiềm năng, đặc biệt là tính năng động sáng tạo của mọi người trong xã hội. Cùng với sự đổi mới thành phần kinh tế, cơ cấu ngành và vùng kinh tế bắt đầu chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu vùng đang hình thành từng bước theo hướng quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của các địa phương, các đô thị, các địa bàn lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm. Các khu chế xuất, khu công nghiệp đang được xây dung. Rõ ràng nếu muốn nâng trình độ kinh tế hàng hoá nên trìng độ kinh tế thị trường hiện đại thì phải có một cơ sở kĩ thuật hiện đại. Nhìn chung nông nghiệp nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất còn yếu kém, công nghệ lạc hậu nên năng xuất lao động không cao. Muốn xây dựng một nền kinh tế hiện đại thì không chỉ có đổi mới cơ chế mà phải đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. để đạt được điều đó, nhà nước ta phải tăng cường cải tiến nâng cấp các cơ sở kĩ thuật hiện có, tranh thủ công nghệ tiên tiến của các nước trên thế giới. Qua các dự án đầu tư nước ngoàI vào Việt Nam, giám đặt nghiêm gặt việc nhập cônh nghệ và thiết bị, tránh biến nước ta thành bãI thảI công nghệ của thế giới. cơ cấu nghành kinh tế cũng đòi hỏi theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ giảm tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế. Tuy nhiên nhà nước vẫn thực hiện phát triển nhiều loại hình kinh tế nông nghiệp có hiệu quả, đó là kinh tế trang trại, đẩy mạnh phát triển kinh tế nông thôn, nông –lâm –ngư nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá gắn liền với chế biến sản phẩm bằng công nghệ tiến bộ. Hiện nay, kinh tế nông thôn còn dựa chủ yếu trên cơ sở nông nghiệp để phát triển nhưng là một sự phát triển tổng hợp, đa ngành nghề với sự biến đổi quan trọng trong phân công lao động xã hội tại nông thôn còn dựa, tạo ra những lực lượng sản xuất mà nông nghiệp truyền thống trước đây trưa tong có. trước đây mô hình hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả do chỉ chú ý đến việc thay đôi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất trong quá trình cảI tạo xã hội chủ nghĩa mà không giảI quyết tốt vấn đề tổ chức quản lý và phân phối. Các hợp tác xã, tổ chức hợp ly sản xuất nông nghiệp chỉ có hình thức không có thực chất của quan hệ sản xuất mới. Để khắc phục tình trạng đó, nhà nước ta xây dựng mô hình hợp tác xã kiểu mới theo nguyên tắc tự nguyện dânchủ bình đẳng, tổ chức và phân phối phong phú đa dạng. Các hợp tác xã chủ yếu chuyển hướng làm dịch vụ cung ứng vật tư, thuỷ lợi, thu mua nông sản, bảo vệ thực vật …. Hoạt động của nông trường quốc doanh cũng được nhà nước hỗ trợ bằng cách cho vay vốn. Thành phần kinh tế cá thể –tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước trong nông nghiệp cũng được nhà nước tạo điều kiện phát triển. Nhà nước chủ trương phát triển nông –lâm –ngư nghiệp, khai thác hết tiềm năng đa dạng của các ngành này. Công nghiệp và nông nghiệp liên kết với nhau chặt chẽ hơn. Trong mối quan hệ với nông nghiệp, công nghiệp không chỉ dừng lại ở lĩnh vực chế biến mà còn có thể phát triển những ngành công nghiệp phục vụ đầu vào của sản xuất nông nghiệp như công nghiệp cơ khí, sửa chữa chế tạo máy móc nông nghiệp, thuỷ lợi … Về công nghiệp nói riêng, trình độ công nghệ kỹ thuật vẫn còn lạc hậu. Nhà nước ta khi bước vào thời kỳ đổi mới phảI tiếp nhận thưc trạng của cơ cấu kinh tế mang nặng đặc trưng của một nước nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp kém phát triển. Hiện nay, chủ trương của nhà nước là tăng cường đổi mới thiết bị và công nghệ thông qua chuyển giao công nghệ với các nước tiên tiến trên thế giới nhằm rút ngắn quá trình nghiên cứu và phát triển. NgoàI việc nhập khẩu hợp lý những công nghệ tiên tiến từ nước ngoàI vào để thay thế công nghệ lạc hậu, nước ta cũng đã đồng thời nghiên cứu cảI tiến một số thiết bị, dây chuyền công nghệ đang hoạt động trong nền kinh tế, trong bước trang bị lại để nâng dần trình độ công nghệ. Kinh tế nhà nước đang trong quá trình đổi mới, tổ chức sắp xếp lại cho phù hợp với điều kiện sản xuất và thích nghi với việc quản lý theo kinh tế thị trường, tuy nhiên nền sản xuất mặc dù đan xen những yếu tố hiện đại, song kinh tế tự nhiên tự cấp, tự túc còn chiếm tỷ lệ lớn. Trong chính sách NEP của Lê nin, điều đầu tiên ông nhắc tới trong nội dung đó chính là sự cải tạo nền nông nghiệp. Muốn đưa nền nông nghiệp từ trạng thái năng suất thấp, hiệu quả thấp, sử dung lao động thủ công là chính, sang một hệ thống có năng suất cao, hiệu quả dựa trên những phương pháp công nghệ tiên tiến của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành có hàm lựơng khoa học công nghệ cao, giá trị gia tăng nhanh. Muốn đạt mục tiêu này phải phát triển công nghiệp, nhưng quan trọng hơn là đổi mới công nghệ trong toàn bộ nền kinh tế, phải sử dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học công nghệ của thế giới. Là một nước đi sau về phát triển kinh tế, Việt Nam nhất thiết phải tận dụng quá trình chuyển giao công nghệ, tiếp thu, làm chủ được các loại hình công nghệ hiện đại để nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế thông qua một quá trình đổi mới công nghệ rộng khắp từ sản xuất kinh doanh đến dịch vụ, quản lý. Nền kinh tế VN hiện nay cũng như nhiều nước đang phát triển khác, được đặc trưng bằng sự chiếm ưu thế của sản phẩm nông nghiệp và lao động nông thôn, dù công nghiệp hoá đã bắt đầu. Muốn phát triển phải cấu trúc lại toàn bộ nền kinh tế, tạo sự dịch chuyển nền kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, nền kinh tế từ nặng về nông nghiệp sẽ chuyển dần về phía công nghiệp và dịch vụ, trong đó quan trọng là công nghiệp chế biến và các dịch vụ xã hội, dịch vụ kinh tế, dịch vụ trí tuệ. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành theo hướng trên sẽ vấp phải một trở lực hết sức lớn nếu không thu hút được số lao động dư dôi ra trong nông nghiệp. Khắc phục trở ngại này đòi hỏi phải đầu tư để tạo thêm chỗ làm việc trong nền kinh tế ở khu vực đô thị và nhất là ở nông thôn. Vì vậy phát triển công nghiệp nông thôn, tăng đầu tư vào nông thôn sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chỉ có công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới đưa được nước ta thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu Các-Mác cho rằng, những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với nhửng tư liệu lao động nào. Nền kinh tế nước ta hiện nay về cơ bản vẫn là sản xuất nhỏ, trình độ lao động còn thấp kém lạc hậu, lao động thủ công là chính, năng suất thấp. Lao động nông nghiệp nước ta vẫn chiếm khoảng 70%tổng số lao động, địa bàn nông thôn chiếm gần 80%dân số cả nước và là nơi tập chung đại bộ phận người nghèo trong xã hội. Số liệu điều tra gần đây cho thấy có tới 29, 5%tổng số hộ dân có mức thu nhập dưới 20Kg gạo 1người/1tháng;5, 6%hộ thu nhập chỉ đạt dưới 8Kg gạo 1người/1tháng ;khoảng 20%hộ thiếu và đói. Như chúng ta đã biết. Vào năm 1950, khu vực Đông nam á còn rất lạc hậu. Trên 50%lao động ở Nhật bản thuộc khu vực nông nghiệp, năng suất công nghiệp của Nhật bản chỉ bằng 15% năng suất công nghiệp của Mỹ, Hàn quốc, còn nghèo hơn cả Xuđăng( châu phi). Ngày nay Nhật bản đã trở thành một siêu cường kinh tế thế giới, là thành viên của nhóm 7nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới ( Mỹ, Nhật Bản, Đức, Pháp, Canada, Anh, Italia ) và có giá trị GDP đầu người cao nhất thế giới. Bốn l nước công nghiệp mới : Hàn quốc, Đài loan, Singapo, Hồng kông đã tạo nên những nền công nghiệp tăng trưởng nhanh chóng chưa từng thấy. Qúa trình công nghiệp hoá ở những lãnh thổ và quốc gia này chỉ cần khoảng 30 năm. Các nước này đã từng xuất phát từ xã hội truyền thống, với nền nông nghiệp chiếm tới 75%lao động và trên 30%GDP, sau đó họ đã đào tạo tiền đề công nghiệp hoá dựa trên những đột phá công nghệ trong công nghiệp, trong xây dựng kết cấu hạ tầng và sản xuất các sản phẩm chế tạo hướng về xuất khẩu, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư. . . . Giai đoạn công nghiệp hoá được tăng tốc thông qua những yếu tố nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế(giảm mạnh tỷ lệ nông nghiệp trong GDP), về khả năng duy trì mức tăng trưởng kinh tế ở mức cao, về một chính sách thuận lợi cho phát triển các công nghệ hiện đại, về một nền giáo dục-đào tạo vững vàng, tạo năng lực nội sinh của quốc gia, bảo đảm cho giai đoạn trưởng thành, gắn liền công nghiệp hoá với hiện đại hoá, phấn đấu trở thành một quốc gia phát triển. Vì vây nước ta phảI thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá phấn đến năm 2020 nước ta cơ bản là một nước công nghiệp như mục tiêu đại hội IX đề ra. Tóm lại, đổi mới cơ cấu kinh tế là một cơ chế nhằm phát triển toàn diện các ngành kinh tế, khai thác tối đa khả năng sẵn có của tong ng ành. đổi mới kinh tế với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với quy luật kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội c. Đổi mới quan hệ đối ngoại : Nhà nước ban hành cácđạo luật mới, đặc biệt là các đạo luật kinh tế thực hiện mở cửa nền kinh tế. nếu như trước đây chỉ quan hệ kinh tế với hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thì nay đã chuyển sang đa phương hoá trong chính sách đối ngoại theo quan đIúm “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đông thế giới, phấn đấu hoà bình, độc lập và phát triển ”. Mặt khác mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là xu thế phát triển tất yếu khách quan của mọi quốc gia trong thời đại ngày nay. Nhà nước ta xác định : trong mọi hoạt động kinh tế đối ngoại phảI xử lý tốt mối quan hệ kinh tế và chính trị, đưa hoạt động kinh tế đối ngoại phục vụ đắc lực mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy ý chí tự lực tự cường thông qua mở cửa, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại ; lợi dụng có hiệu quả những lợi thế trong phân công lao động quốc tế, đầu tư quốc tế và quốc tế hoá đời sống. Nhà nước xây dựng chính sách ngoại thương xuất nhập khẩu với mục tiêu nâng cao tốc độ và kim ngạch xuất khẩu. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là nông lâm thuỷ sản, hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc và một số loại khoáng sản, hàng công nghiệp mà ta có lợi thế. Để đạt dược mục tiêu trên, nhà nước ta đã thực hiên thống nhất quản lý ngoại thương nhưng không độc quyền ngoại thương; ta chủ trương nâng cao trình độ chế biến hạ giá thành để thu hút khách hàng ngoại quốc; tăng hiệu xuất ngoại tệ, tiếp cận thị trường thế giới, xây dựng đồng bộ chương trình và công nghệ xuất khẩu. Đảng và nhà nước cũng chủ trương tính lại tỷ giá hối đoáI sát với sức mua của đồng tiền Việt Nam, tạo điều kiện cho kinh tế đối ngoại, tăng thu ngoại tệ vào ngân hàng. Đổi mới chính sách kinh tế đối ngoại cũng dựa trên sự cân đối xuất nhập khẩu, tránh nhập khẩu tràn lan. Nếu hàng hoá nào trong nước có thể sản xuất được thì hạn chế nhập khẩu. ngoài ra, chính phủ còn hướng các chính sách đối ngoại vào việc mở rộng đa dạng hoá các họat động kinh tế đối ngoai, đặc biệt là đối sách về thị trường, tìm kiếm đối tác tàI trợ và bạn hàng, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đầu tư quốc tế là tất yếu khách quan không thể thiếu được trong thời đại hội nhập kinh tế ngày nay. Nó làm tăng nguồn vốn tăng công nghệ mowis nâng cao trình độ quản lý, tạo thêm công ăn việc làm, đào tạo tay nghề, khai thác tài nguyên, tiếp cận kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới. Hiện nay, đầu tư nước ngoàI vào Việt Nam gồm cả hai hình thức: Đầu tư trực tiếp, và đầu tư gián tiếp. Thông qua hợp tác quốc tế, cac doanh nghiệp trong nư ớc sẽ có điều kiện học hỏi phương pháp quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật của thế giới. Nhà nước ban hành luật đầu tư nước ngoà tạo môI trường thuận lợi và bình đẳng cho đầu tư, bảo vệ lợi ích của đất nước. Luật này quy định rõ lĩnh vực đầu tư, quyền hạn và nghĩa vụ của các nhà đầu tư nước ngoàI. Tóm lại, hoạt động kinh tế đối ngoại có hỉệu quả sẽ góp phần khắc phục nhanh chóng nguy cơ tụt hậu về kinh tế ngay càng xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới, đảm bảo nền kinh tế đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Để mở rộng quan hệ với nhiều nước chúng ta mở cửa cho phép đầu tư nứoc ngoàI vào Việt Nam. Tham gia tích cực các hoạt động cùng có lợi trong các hiệp hội các nước Đông Nam A (ASEA N), diễn đàn hợp tác các nước châu á-TháI Bình Dương (APEC), kí hiệp định thương mại Việt –Mỹ, nước ta có quan hệ với hơn 140 nước, quan hệ đầu tư với hơn 70 nước. Với nội thương, nhà nước thực hiện kiểm soát, dán tem các mặt hàng tiêu dùng để chống hàng giả. Các mặt hàng nước ngoàI cạnh tranh cùng hàng nội địa trên thị trường. Sự cạnh tranh đó sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải năng động. Hơn nữa, tìm cách thay đổi mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm để thu hút khách hàng. Tuy nhiên nhà nước ta đang tìm cách giảI quyết tình trạng hàng nhập lậu vào Việt Nam gây thất thoát hàng tỉ đồng cảu nhà nước. Hàng nước ngoàI tràn lan trên thị trường Việt Nam cũng là một mối đe doạ với các nhà doanh nghiệp trong nước. Nó thúc đẩy các doanh nghiệp phảI kinh doanh có hiệu quả hơn nữa để có sức mạnh thị trường. Trong thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hội, thương nghiệp đóng vai trò rất quan trọng. Nó góp phần xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp từng bước xây dựng cơ chế thị trường theo sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhờ đổi mới theo quan niệm cung –cầu. Thương nghiệp còn có thúc đẩy phân công lao động, xã hội phát triển, phân bố tàI nguyên thiên nhiên, khai thác hợp lý để so sánh giữa các vùng trong nước. Nội thương nói riêng và thương nghiệp nói chung là cầu nố giữa nông nghiệp và công nghiệp, giúp cho hai nghành đó trao đổi sản phẩm cho nhau, gắn kết hai nghành này chặt chẽ hơn và từ đó góp phần củng cố khối liên minh công – nông. Cũng như các ngành kinh tế khác, trong thương nghiệp, nhà nước ta luôn tạo đIều kiện cho hình thức thương nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo đồng thơì tổ chức lại thương nghiệp nhà nước để có thể chiễm lĩnh thị trường (cả trong lĩnh vực bán buôn bán lẻ). NgoàI ra hà nước cũng tạo đIều kiện cho các hình thức thương nghiệp khác hoạt động có hiệu quả hơn. Đặc biệt, các hợp tác xã thương nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đạI hoá nông nghiệp và nông thôn cũng như trong các chính sách với các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Phát triển các hình thức lưu thông cùng với việc xây dựng cơ cấu công –nông nghiệp hợp lý sẽ tạo cơ sở vững chắc cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. d)Đổi mới hệ thống tàI chính- tín dụng: Trong giai đoạn trước thời kỳ đổi mới, hệ thống ngân hàng nhà nước hoạt động không có hiệu quả. Thị trường tàI chình, tiền tệ không ổn định. Lạm pháp nghiêm trọng, giá cả tăng nhanh. Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới hệ thông tàI chính – tín dụng nhằm khắc phục tình trạng trên. Nhà nước đã thay thế việc bao cấp cho vay của ngân hàng nhà nước bằng các hoạt động của các tổ chức tín dụng trung gian. Ngân hàng nhà nước có nhiệm vụ chủ uyế là ổn định tiền tệ, đề xuất chính sách tiền tệ và hệ thống tiền tệ của đát nước, hỗ trợ sự phát triển kinh tế quốc dân. Các tổ chức này làm trung gian thu hút và cung ứng vốn, và đương nhiên trong nền kinh tế thị trường thì các tổ chức này phảI cạnh tranh với nhau. Cơ chế tín dụng đã có những bước chuyển khá quan trọng. Hoạt động tín dụng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, đổi mới về cả phạm vi, tính chất và nội dung. Nhiều quan hệ tín dụng khác nhau với nhiều nguồn lợi tức khác nhau phản ánh nền kinh tế nhiều thành phần. Các quan hệ tín dụng này vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau trong nền kinh tế thị trường theo sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan hệ tín dụng nhà nước phảI lớn mạnh để đảm nhiệm vai trò chủ đạo trong quan hệ tín dụng xã hội. Nhà nước đã áp dụng cơ chế cho vay vốn đầu tư để phát triển sản xuất ;khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, tự vay, tự trả, tự chiệu trách nhiệm về vốn đầu tư;chính phủ cho vay đối với các dự án thuộc đối tượng dự án cần được tập trung, khuyến khích. Nhiều đòn bẩy tín dụng như lãI xuất, thế chấp, bảo lãnh đã được áp dụng. Nền tàI chính đơn nhất được thay thế bằng nền tàI chính nhiều thành phần. Nhà nước ta đã phát hành tín phiếu kho bạc nhà nước ngắn hạn (dưới một năm)và tín phiếu dàI hạn để huy động vốn nhàn dỗi trong dân vào nhu cầu đầu tư. NgoàI ra nhà nước đang từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật tàI chính;xây dựng hệ thống thông tin, phân tích kiểm soát kiểm tra tàI chính;kiện toàn bộ máy tàI chính. Quan hệ tiền tệ và lưu thông tiền tệ từ chỗ khép kín chuyển sang hoạt động theo cơ chế mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới. Nhà nước đã kiềm chế được lạm pháp bằng cách khuyến khích tiết kiệm trong dân, giảm khối lượng tiền giấy trong lưu thông, không dùng tiền phát hành để cho vay, cân đối tiền – hàng, giảm chi ngân sách. . Lạm pháp từng bước được đẩy lùi. Toàn bộ nền tàI chính – tín dụng đều thống nhất dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hôị chủ nghĩa. 2. Đổi mới hệ thống chính trị: Song songvới việc đổi mới kinh tế, Đảng ta từng bước đổi mới hệ thống chính trị cho những bước đI của đổi mới kinh tế. Hệ thống chính trị nước ta trong các mạng dân tộc-dân chủ đã lấy mục tiêu phục vụ klháng chiến làm trọng và phát huy vai trò trong 30năm kháng chiến. Đến giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa cần phảI được đổi mới để đáp ứng nhu cầu xây dựng đất nước trong hoà bình. Đảng ta đã xác định:việc thực hiện đổi mới thành công hay thất bạI là có quyết định đúng hay không mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đổi mới chính trị phảI có nội dung và bước đI thích hợp. Mối giai cấp, tầng lớp khác nhau, nếu không thoả đáng sẽ gây nên mâu thuấn và sự bất ổn định chính trị. Ôn định chính trị là cơ sở cho sự ổn định xã hội nói chung và là nhân tố không thể thiếu của sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta. Đầu những năm 90, trong hoàn cảnh thé giới phức tạp do sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, việc giữ chế độ chính trị ở nước ta là rất khó khăn do sự chống đối của các thế lực thù địch trong và ngoàI nước. Tuy nhiên, Đảng ta khẳng vẫn định: “Giữ mvững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dung và bảo vệ Tổ Quốc, kiên trì chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đảng ta tiến hành đổi mới mối quan hệ giữa các tổ chức cấu thành hệ thống chính trị, phát huy quyền lực chính trị của nhân dân, mở rộng dân chủ, xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra chỉ thị số 30-CT/Tw: “ về xây dung và thực hiên quy chế dân chủ ở cơ sở”, (18-2 1998) phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong cơ chế tổng thể của hệ thống chính trị “ Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, thực hiện tốt chế độ dân chủ ở cơ sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng, thiết thực gắn liền với lợi ích của mình. Một trong những vấn đề quan trọng nhất của đổi mới chính trị là kiện toàn bộ máy của hệ thống chính trị, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và bản chất cách mạng của nước ta, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. đảng ta đã ban hành nghị quyết trung ương 6 với nội dung chủ yếu là chấn chỉnh lại đội ngũ cán bộ, Đảng viên về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống; kiên quyết xây dung chế độ phê bình, tự phê bình, củng cố tổ chức cơ sở, tổ chức chính trị gọn nhẹ, có hiệu quả; cảI tiến việc ra nghị quyết và thực hiện nghị quyết, không để cho một số người lợi dụng kẽ hở để tha hoá. đảng ta kiên quyết làm trong sạch tổ chức để tăng thêm lòng tin của nhân dân đối với hệ thống chính trị. Bên cạnh đó, nhà nước ta đã tích cực giảm tối thiểu sự cồng kềnh của bộ máy hành chính, nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả hoạt động để lãnh đạo tốt công cuộc xây dung CNXH. đổi mới chính trị là một trong những nhiêm vụ khó khăn cho Đảng và nhà nước. đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có được thực hiên thành công hay không sẽ quyết định đến kết quả bước đầu thực hiện mục tiêu xây dung chủ nghĩa xã hội ở nước ta. III. những thành quả của công cuộc đổi mới, những tồn tại và phương hướng giả quyêt: 1. Nhân xét về vấn đề vận dụng chính sách kinh tế mới của Lênin vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam: Thời kỳ Liên Xô thực hiện chính sách kinh tế mới đã qua lâu rồi nhưng những vấn đề được đề cập trong chính sách đó lại rất gần với những vấn đề mà chúng ta đang phảI giả quyết trong công cuộc đổi mới hiện nay. Chúng ta đều they rằng bối cảnh đất nước khi tiến hành đổi mới rất khác so với bối cảnh Liên Xô thời đó. nhà nước ta không vận dụng chính sách này một cách máy móc mà đã dựa trên cơ sở đánh gia tình hình thực tiễn của đất nước để vận dụng một cách sáng tạo tinh thần của chính sách đó. nước Nga khi tiến hành áp dungj chính sách kinh tế mới dã qua giai đoạn phát triển TBCN với nền đại công nghiệp tồn tại bên cạnh nền nông nghiệp sản xuất nhỏ hàng hoá. đIúm xuất phat của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga có đIúm khác so với nước ta là có sự quyện giữa TB độc quyền hiện tại với những tàn tích phong kiến. Nước ta khi quá độ lên cnxh đã bỏ qua giai đoạnh phát triển TBCN vì lúc đó nó đã trở nên lạc hâu do tính phản động, hiếu chiến và không còn đại diện cho xu thế của thời đại nữa. nước ta chưa có nền đại công nghiệp, còn nông nghiệp thì mới ở trình độ thấp, sản xuất tự cung tự cấp. Như vậy đIúm xuất phat về kinh tế xã hội chính trị và giai cập của nước ta khi bắt đầu công cuộc đổi mới là khác rất nhiều so với nước Nga. ĐIểm khác biệt thứ hai mà chúng ta dễ dàng nhận they là về bối cảnh quốc tế. Nước nga bây giờ là tiên phong trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, phảI đối mặt với lực lượng các nước TBCN hùng hậu và nguy cơ chiến tranh xâm lược. Thế nhưng ngày nay, chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong xu thế hoà bình, yhợp tác giữa các nước trên thế giới. Thời đIúm nước ta bắt đầu tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa là thời đIúm chủ nghĩa xã hội đã thành hệ thống trên thế giớ mà đưngs đầu là Liên Xô. khối các nước xã hội chủ nghĩa đang bước vào giai đoạn phát triển, đang củng cố về cơ sở kinh tế, chính trị và xã hội, tích cực tham gia và thúc đẩy quá trình phân công lao động quốc tế, củng cố khả năng bảo vệ hoà bình thế giới. đồng thời, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuất thời đại đã và đang diễn ra mạnh mẽ thúc đẩy quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất, thay đổi lực lượng sản xuất cả về lượng và chất, nâng cao cơ sở vật chất của quá trình sản xuất. Nước ta có đIúm thuân lợi là nước ta đI sau trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như tiến hành cách mạng khoa học kỹ thuật do đó ta có thể học hỏi kinh nghiêm của những nước đI trước. Hợp tác đầu tư quốc tế là con đường nhanh nhất để có thể đuổi kịp trình độ khoa học kỹ thuật của thế giới và trình độ quản lý của các nước phát triển. Từ đó, chúng ta có thể xây dung cơ sở vật chất kỹ thuật bước đầu của chủ nghĩa xã hội với sự lãnh đao quản lý của đảng và nhà nước. Qua tình hình thực tế Việt Nam sau một thời gian thực hiện chính sách đổi mới, chúng ta they rằng nền kinh tế đã phát triển lên một bước, đời sống nhân dân đã được nâng cao hơn trước. Tình trạng trì trệ của nền kinh tế không còn nữa mà thay vào đó là sự sôI nổi của cơ chế thị trường. Trước đây chúng ta không chấp nhận nề kinh tế thị trường, coi nó là phạm trù riêng của chủ nghĩa tư bản. nhà nước đã phat hiện ra sai lầm đó và kịp thời khắc phục bằng cách đề ra chính sách đổi mới. Nhầ nước ta đã dựa trên cơ sở nghiên cứu chính sách kinh tế mới để vận dụng vào thực tiễn Việt Nam. chính sách kinh tế mới đã đưa ra mô hình nền kinh tế hợp với quy luật kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Như Lênin đã phân tích rất rõ trong chính sách này, sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá và các thành phần kinh tế khác ngoàI kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể trong thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, cần phảI they được đIều đó. nhà nước ta đã nhận they những sai lầm của mình trong việc vội vàng áp đặt quan hệ kinh tế tiến bộ vào một nền kinh tế mà trình ddộ của lực lượng sản xuất chưa cho phép. Nhà nước cũng they được những hạn chế của hình thức quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, kế hoạch hoá từ khâu sản xuất đến lưu thông phân phối và đã chuyển sang vận dung phương pháp hạch toán kinh doanh theo đường lối của chính sách kinh tế mới. Vận dụng quan hệ hàng – tiền trong nền kinh tế không phảI là đI ngược với mục tiêu xa hội chủ nghĩa mà chính nó sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường ở nước ta chính là sự vận dung chính sách kinh tế mới. Chính sách này cũng đã chỉ ra con đường củng cố khối liên minh công- nông vững chắc với điểm xuất phát là giả quyết mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp. Nước ta cũng đang vận dụng chiến lược liên minh công- công về mặt kinh tế này để giữ vững nền tảng của đất nước. 2. Những thành tựu của công cuộc đổi mới: a. Lĩnh vực kinh tế: Nền kinh tế nước ta trong những năm đổi mới đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, khắc phục được tình trạng trì trệ suy thoát. nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, liên tục và ổn định: 8. 2% năm 1992; 9. 5% năm 1995; 8. 8% năm 1997 và gần 5. 83% năm 1998. quá trình công nghiệp hoá cũng diễn ra tương đối nhanh. Tỉ trọng công nghiệp và xây dung trong GDP tăng từ 22. 7% năm 1990 lên 30. 3% năm 1995 và 31. 7% năm 1997. cơ cấu nền kinh tế cũng chuyển đối theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng nganh công nghiệp và dịch vụ. Dịch vụ từ 38. 6% lên 42. 5%; nông nghiệp từ 38. 7% còn 25. 7%. tuy giảm tỷ trọng trong GDP nhưng sản lượng lương thực tăng liên tục từ 21. 5 triệu tấn năm 1990 lên 30. 6 triệu tấn năm 1997; 31. 3 triệu tấn năm 1998 và 33. 5 triệu tấn năm 1999. nhà nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới với 4. 5 triệu tấn năm 1999 tăng hơn so với năm 1998 (chỉ đạt 4 triêu tấn). Lĩnh vực tàI chính – tiền tệ đạt tiến đọ đáng kêt, ngăn chặn được nạn lạm phát cao và tong bước đẩy lùi lạm phát. chỉ tính riêng năm năm 1991 đến 1995, chỉ số giá hàng tiêu dùng và dịch vụ giảm tử 67. 4% năm 1991 xuống còn 17. 5% năm 1992; 5, 2% năm 1993; 14. 4% năm 1994 và 12. 7% năm 1995. khối lượng tín dụng tăng nhanh liên tục qua các năm. các công ty dần dần được cổ phần hóa. Thành công lớn của qua trình đổi mới trong lĩnh lĩnh vực đổi mới tại thành phố Hồ Chí Minh vạo ngày 21 thang 8 năm 2000. cùng với sự nghiệp đổi mới nhà nước ta thực hiện xoa đói giảm nghèo chủ yếu ở nông thôn và các vùng dân tộc thiểu số. Chính phủ hỗ trợ cho các đồng bào dân tộc thiểu số: năm 1994 hỗ trợ cho 28 dân tộc ở 31 tỉnh 30 tỷ đồng, năm 1995 hỗ trợ cho 34 dân tộc ở 38 tỉnh 30 tỷ đồng. Hơn 2. 2 triệu lượt hộ trong tổng số 3 triệu hộ nghèo được vay hơn 1060 tỷ đồng. Trên pham vi cả nước, tỷ lệ hộn nghèo đói trong tổng số giảm từ 28. 8% năm 1992 xuống còn 19% năm 1997. chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo được thực hiện lồng ghép với các chương trình phát triển kinh tế xã hội khác. Về kinh tế đối ngoại, nước đã gia nhập tổ chức thương mại tự do khu vực (AFTA), ngày 28-7-1995 gia nhập ASEAN để mở rộmg quan hệ kinh tế với các nước láng giềng. nhà nước ta chấp nhận giao lưu kinh tế với tất cả các nước tư bản chủ nghĩa, ký hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ. NgoàI ra, Việt Nam còn ra nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Thái Bình Dương(APEC)để hội nhập với quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới. Nước ta đang cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tàI chính tiền tệ như quỹ tiền tệ (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châub á (ADB). Tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoàI vào Việt Nam cũng đang tăng lên. xu thế hoà bình hợp tác đã và đang mở ra cho nước ta những cơ hội phát triển kinh tế, tong bước xấy dung cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Lĩnh vực chính trị: Qua 15 năm đổi mới, hệ thống chính trị nước ta đã tiến thêm một bước trong đó tổ chức và phương thức hoạt động. Các tổ chức chính trị- xã hội phát triển đa dạng hơn. tính chủ động của các tổ chức được tăng lên. quá trình dân chủ hoá trong đảng và ngoàI xã hội được mở ra. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế chính trị, văn hoá tư tưởng được phát huy. Vai trò của Quốc hội và các tổ chức quần chúng tăng lên rõ rệt. Hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước đã được nâng cao hơn trước. Thông qua cảI tiến nội dung và đổi mới hình thức của phương tiện thông tin đại chúng qua việc cảI tiến của hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các đoàn thể cũng như các cuộc tiệp xúc giữa đại biểu nhân dân với cử chi nhân dân đã có dịp bày tỏ tâm tư nguyện vọng của mình thẳng thắn phê bình góp ý kiến xây dung Đảng và Nhà nước. Việc thực hiên dân chủ ở cơ sở đã tạo đIều kiện để các tầng lớp nhân dân tham gia ngày càng đông đảo vào các hoạt động chính trị của đât nước, thúc đẩy không khí sinh hoạt dân chủ trong xã hội có lợi cho việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. hệ thống pháp luật được xem xét lại đã giảm được sự chồng chéo trong các quy định của văn bản pháp luật. Hiệu lực của các văn bản pháp luật cũng được nâng cao. Khối liên minh công nông trí thức ngày càng phát triển. Những thành tựu này sẽ không có được nếu không có những thành tựu của đổi mới kinh tế. Nhờ có đổi mới kinh tế giữ vững được sự ổn định chính trị và đổi mới hệ thống chính trị theo yêu cầu phat triển kinh tế 1. Những han chế trong quá trình đổi mới. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành công cuộc đổi kinh tế, đổi mới chính trị. Nhưng có thể they rằng những hoạt động nhằm đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế của Đảng, nhà nước và các đoàn thể quần chúng còn chưa mấy hiêu quả. a. Trong lĩnh vực kinh tế: Nhà nước ta đã tiến hành xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường với sự quản lý đIều tiết của nhà nước theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực của nền kinh tế thị trường thì lại nảy sinh những tác động xấu. Khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường nước ta vẫn phảI gánh chịu những tàn dư của nền kinh tế quan liêu bao cấp. Ưu đIúm của kinh tế thị trường chưa phat huy thì hàng loạt những nhược đIúm đã xuất hiên gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng. Tỷ lệ thất nghiệp tăng, số lao động dư thừa quá nhiều gây ra gánh nặng cho nền kinh tế. Bảo trợ và phúc lợi xã hội quá tảI không thể giả quyết được hết các vấn đề tồn tại; các dịch vụ lao động các trung tâm giới tâm giới thiệu việc làm không thể giảI quyết hết các vấn đè việc làm cho người lao động. Từ đó nảy sinh các tệ nạn xã hội như: trộm cắp, cướp giật, lừa đảo, mại dâm, … cơ chế thị trường thêm nhập vào nước ta gây ra các tệ nan như vây và trở thành gánh nặng cho nhà nước. Mặt xấu của cơ chế thị trường bộc lộ ngày càng rõ. Một hạn chế nữa của cơ chế thị trường là tác động tiêu cực tới đời sống tinh thần, đạo đức làm nảy sinh các tệ nạn xã hội. đặc đIúm nổi bâtj của cơ chế thị trường là đặt lợi nhuận trên hết. Một khi con người đã bị đồng tiền lam cho mờ mắt thì các giá trị đạo đức không còn giá trị. Có những người sẵn sàng bán rẻ lương tâm để đổi lấy lợi nhuận. Hiện tượng tham ô buôn lậu, …gia tăng kể từ khi cơ chế thi trường thâm nhập vào nước ta. Và cũng từ khi nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường thì chủ nghĩa cá nhân phát triển gây mâu thuẫn giữa lợi ích riêng với lợi ích chung của xã hội, những lợi ích chung của xã hội bị xâm phạm. những người đI thưo chủ nghĩa cá nhân luôn đặt lợi ích của mình lên trên hết không quan tâm đến lợi ích của ngưới khác. vì thế mà có những vụ tham ô, tham nhũng với số tiền và tàI sản lên đến hàng nghìn tỷ đồng Việt Nam. đIều đặc biệt quan trọng là họ luôn xa rời với lý tưởng xã hội chủ nghĩa ủng hộ chủ nghĩa tư bản, ảnh hưởng nghiêm trọng tới cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay. Chỉ trong mấy năm gần đây nhà nước ta đã phảI xét xử liên tiếp các vụ án cỡ lớn: vụ buôn lậu ma tuý Vũ Xuân Trường, Vụ án Minh Phụng- EPCO, vụ án Tân Trường Sanh, … Nhiều người khi làm việc chỉ quan tâm đến lợi ích của mình mà không quan tâm đén lợi ích xã hội nhiều lúc đã để lại hậu quả nghiêm trọng tiêu biểu là vụ cháy rừng U Minh Thượng, … Chúng ta có thể they rõ rằng một số giá trị đạo đức đã bị suy thoáI, trà đạp một cách trắng trợn. Một số người chạy theo cơ chế thị trường sing báI đồng tiền coi đồng tiền quý hơn cả giá trị đạo đức, nhân cách. Họ tôn thờ đồng tiền thế lực đồng tiền làm cho con người quay lưng lại với những phẩm chất đạo đức mà lẽ ra con người phải có. Một số giá trị cao đẹp về quan hệ xã hội truyền thống Việt Nam về con người Việt Nam XHCN bị sói mòn và xem nhẹ. Việc chạy theo lợi ích vật chất một cách quá đáng đã đẩy con người tới chỗ pham tội. tình trạng buôn bán và tàng trữ ma tuý là một ví dụ đIún hình nhất. đó là hậu quả nghiêm trọng nhất do cơ chế thị trường đem lại. ngoàI ra, sự phân hoá giầu nghèo gia tăng nhanh gây nên nhiều cách biệt và bất bình đăng trong mối quan hệ xã hội. khoảng cách giầu nghèo gia tăng với biên độ ngày càng lớn đặc biệt là giữa thành thị và nông thôn giữa miền xuôI và miền ngược. Mặt khác, do trình độ quản lý không cao, các thủ tục pháp lý rườm rà cộng với những vấn đề nêu trên mà đối với nhà đầu tư nước ngoàI môI trường đầu tư không tốt. vì vậy, các nhà đầu tư nước ngoàI không muốn đầu tu vào Việt Nam hoạc vẫn còn rụt rè, e ngại và chỉ giám đầu tư với số vốn không nhiều. tỉ lệ đầu tư vào Việt Nam không cao. bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng đang trong tình trạng khó khăn do tỉ lệ nợ quá hạn và tỉ lệ nợ không thể thu hồi quá cao. Tất cả những hạn chế nêu trên nhìn trung đều do sự quản lý yếu kém của cán bộ trong cơ quan nhà nước. Quản lý kèm sẽ sảy ra nhiều những vấn đề phức tạp khó giảI quyết, tuy nhiên nguyên nhân trực tiếp vẫn là do tác động của các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường mà nhà nước vẫn không thể kiểm soát hết được. mặt khác, nền kinh tế nhà nước ta còn nhiều bất hợp lý như dựa quáquá nhiều vào đầu tư nước ngoàI, sử dụng vốn kém hiệu quả, cơ cấu vốn đầu tư kém hợp lý. các cư sở sản xuất trong nước sử dụng phần nhiều máy móc đã lạc hậu, nên sản phẩm sản xuất ra không tốt bằng hàng ngoại, năng xuất không cao, giá thành sản phẩm cao. Nên không đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Những hạn chế nêu trênlà những cản trở đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta, đây là thử thách đối với cơ chế quản lý cuẩ nước ta. GiảI quyết được thử thách đó thì sự nghiệp đổi mới của nước ta mới có thể thành công hơn được b. Trong lĩnh vực chính trị : Đi đôI với nền kinh tế, đảng và nhà nước ta tong bước đổi mới hệ thống chính trị. Tuy nhiên, sự đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của đảng và nhà nước còn chưa mấy hiệu quả. Bộ máy hành chính tuy đã có cảI cách nhưng vẫn còn kồng kềnh. hệ thống pháp luật còn chồng chéo, còn nhiều kẽ hở để cho những kẻ thoáI hoá biến chất lợi dụng chức quỳên tham ô, tham nhũng, móc ngoặc. hiệu lực pháp luật còn thấp, việc thi hành pháp luật chưa nghiêm minh. Đảng và nhà nước đã cố gắng khắc phục nhưng vẫn chưa giảI quyết tình hình một cách hoàn chỉnh được. Tình trạng còn nhiều tiêu cực làm ảnh hưởng đến kỉ cương trật tự xã hội. Vai trò lãnh đạo của các cấp các ngành còn nhiều bất cập, còn nhiều cán bộ lợi dụng chức quyền chin ép nhân dân. Có không ít cán bộ trong hàng ngũ đảng nhưng lại thoáI hoá biến chất. Một số khác chưa hiểu rõ về các chính sách của Đảng, trình độ lý luận chính trị chưa vững vàng và họ không mấy tin vào đượng lối đúng đắn của đảng. Trong khi đó bộ máy lãnh đạo còn công kềnh, đôI khi chồng chéo trong quản lý, trình độ quản lý hạn chế chức năng quyền hạn của các cơ quan nhà nước chưa thật rõ ràng. Muốn giảI quyết xong một việc nào đó người dân phảI gửi đơn đến rất nhiều cơ quan mà có khi vẫn chưa giảI quyết rứt khoát được. Nước ta cũng đã thực hiện việc học tập và đào tạo trong lĩnh vực quản lý cho đội đội ngũ cán bộ nhưng xem ra không mấy hiệu quả, Quản lý lỏng lẻo nên nạn quan liêu ngày càng tăng, thêm vào đó là việc thực thi phấp luật từ trung ương đến cơ sở chưa được đảm bảo nên vẫn còn tồn tại hiện tượng cố ý vi phạm pháp luật. Cần phảI nói thêm rằng các cấp lãnh đạo chưa đI sâu tìm hiểu đời sống nhân dân nên chỉ họ chỉ nhìn được cáI bề ngoàI của dời sống xã hội, họ lầm tưởng những việc họ làm luôn đem lại kết quả tốt với nhân dân. Nói chung lại, một số các nhà lãnh đạo chỉ dứng ở vị trí cao nhìn xuống mà không thực sự tìm hiểu xâu có cách giảI quyết tốt phù hợp với nguyện vọng của người dân. Có thể là một số việc làm của họ đem lại hiệu quả tốt thực sự nhưng vẫn không thể tránh khỏi những tác động tiêu cực mà chưa chắc họ đã thể nhận they được. Vì tất cả những hạn chế trên của bộ máy lãnh đạo mà lòng tin của quần đối với Đảng và nhà nước đã giảm đI. Mặt khác, tư tưởng bao che, lé tránh và giấu diếm khuyết đIểm đã lấn át sự tư giác trong phê bình và tự phê bình nội bộ. Trên thực tế có những người và tập thể tự phê bình tốt lại bị kỷ luật, còn những người bao che khuyết đIúm lại có lợi còn những người tìm cách chạy tội mua chuộc cấp trên để giẩm nhẹ tội. Trên đây là hạn chế trong công cuộc đổi mới kinh tế và chính trị của đất nước ta. Chúng ta biết rằng những cuộc cảI cách không thể tiến hành hoàn hảo ngay mà không có sai sót. Tuy nhiên, việc nhận thức được những sai sót ấy và giảI quyết nó như thế nào mới là đIều quan trọng. ĐIều đó đòi hỏi Đảng và nhà nước phảI nâng cao hơn nữa năng lực quản lý và đIều hành để tiếp tục đưa đất nước vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa. 3. Phương hướng giải quyết. Việc giảI quyết những vấn đề còn tồn tại trong sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta không phảI là dễ dàng. Tuy nhiên chúng ta có thể áp dụng một số bịên pháp sau: a. Về kinh tế : Muốn sản xuất kinh doanh có hiệu quả sản phẩm trong nước có thể chiếm lĩnh được thị trường thì trước hết cán bộ kinh tế phảI nâng cao trình độ quản lý bằng cách học hỏi bạn bè và các đối tác nước ngoàI. Bên cạnh đó, cán bộ kinh tế phảI tự tìm hiểu nghiên cứu tình hình kinh tế trong và ngoàI nước để tự nâng cao trình độ cho mình. Các doanh nghiệp phảI tích cực nghiên cứu thị trường, tăng cường khả năng sáng tạo để đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng, chiếm lĩnh thị trường trong nước và tong bước thu hút sự chú ý của khách hàng ngoại quốc, từ đó mới có thể tối đa hoá lợi nhuận. Tăng cường học hỏi nước ngoàI về công nghệ, kỹ thuật thông qua chuyển giao công nghệ cũng là một biện pháp tốt để phát triển sản xuất trong nước. Nhà nước phảI giẩm bớt các thủ tục hành chính rắc rối, kết hợp với ban lãnh đạo địa phương tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực thi pháp luật ở tong địa phương để tạo môI trường trong sạch thu hút vốn đầu tư nước ngoàI. Nhà nước cũng cần phảI nghiên cứu sử cơ chế dụng vốn đầu tư cho hợp lý. đối với đầu tư trong nước, cần phảI tập trung ưu tiên đầu tư vào các vùng trọng đIúm đẻ đạt mục đích tăng trưởng nhanh. nhà nước liên tục khuyến khích người dân xây dựng kinh tế mới, thực hiện xoá đói giẩm nghèo ở các vùng nông thôn vùng xâu vùng xa bằng các chính sách hỗ trợ kinh tế. Hiện tại ở Việt Nam, hố ngăn cách giàu nghèo cùng với sự chênh lệch về điều kiện sống giữa thành thị và nông thôn giữa miền xuôI và miền núi ngày càng lớn. Nhà nước phảI có chính sách ưu đãI chính sách phân phối lại thu nhập hợp lý hơn nữa để rút ngắn khoảng cách giữa các khu vực này. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải được tiến hành theo mô hình nền kinh tế mở cả trong nước và ngoài nước. Phát huy hơn nữa quyền tự chủ, tính năng động sáng tạo, tăng cường liên doanh liên kết hợp tác cùng có lợi giữa các ngành, các dịa phương và cơ sở để phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Khuyến khích các hình thức đa dạng và các giải pháp cụ thể, thi đua đuổi kịp và vượt các đơn vị, địa phương khác nhưng phải chống cục bộ, bản vị vô tổ chức, vi phạm kỷ luật kỷ cương xã hội, phương hại đến lợi ích chung. Nhà nước cũng như doanh nghiệp phải tìm cách thích ứng và khai thác tốt những thuận lợi và xu thế quốc tế hoá sản xuất và đời sống hiểu rõ đối tác có sách lược và chiến lược khôn ngoan để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh kinh tế ngày càng gay gắt. Trong bối cảnh khu vực và quốc tế ngày nay, sự hạn chế về quỹ đất và phần lớn các loại tài nguyên, sự dồi dào về nguồn nhân lực, lợi thế về giá nhân công rẻ, vị trí địa lý thuận lợi, đòi hỏi và cho phép chúng ta lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là chính để phát triển nhanh, đồng thời thay thế nhập khẩu những hành hoá dịch vụ trong nước tự cung ứng có hiệu quả hơn. Hướng về xuất khẩu là cách thức tận dụng những lợi thế so sánh, tranh thủ sức mua lớn trên thị trường thế giới để tích tụ vốn nhằm nhanh chóng mở rộng quy mô và nâng cao trình độ sản xuất trong nước, tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập, tăng khả năng nhập vật tư, thiết bị để tạo ra những hàng hoá, dịch vụ có giá trị gia tăng lớn, chất lượng cao, có sức cạnh tranh mạnh cả trên thị trường nội địa và trên thị trường thế giới, đáp ứng nhu cầu sản xuát của nhân dân. Để thực hiện thành công chiến lược hướng về xuất khẩu, phải tạo được sự tin cậy trong quan hệ quốc tế trong ba mặt :thanh toán bằng ngoại tệ, tromg việc thực hiện các hợp đồng buôn bán, trong việc đảm bảo phẩm chất của hàng hoá. Đặc biệt chú trọng không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Hướng về xuất khẩu phải đi đôi với khuyến khích phát triển mạnh và bảo hộ đúng mức sản xuất nội địa, không để hàng ngoại nhập lậu tràn lan, bóp chết hàng nội, khiến sản xuất trong nước bị giảm sút, hoặc đình đốn, người lao động mất hết công ăn việc làm và thu nhập Đối với những nước nghèo như nứơc ta, việc mở cửa để thu hút nguồn lực về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ nước ngoài lại càng có ý nghĩa quan trọng. Những nguồn lực huy động từ bên ngoài sẽ góp phần tạo ra lực lượng sản xuất mới, năng suất lao động cao hơn đảm bảo cho sự phát triển thắng lợi của đất nước. Về mặt quan hệ sản xuất, điều đó có nghĩa là rút ngắn sự phát triển có tính chất tuần tự theo tiến trình lịch sử. Đẩy nhanh quá trình xây dựng nền kinh tế theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. b. Về chính trị : Để khắc phục tình trạng trình độ nhận thức tư tưởng chính trị của các cán bộ công chức chưa tốt, nhà nước có thể nâng cao trình độ lý luận, lập trường tư tưởng bằng cách mở các lớp đào tạo trong nước. Hiện nay, đIúm yếu kém nhất của cán bộ lãnh đạo chính là trình độ quản lý. Vì vậy cần phảI nâng cao trình độ quản lý của họ bằng cách vừa dào tạo theo trình độ trong nước, vừa học tập trình độ quản lý của nước ngoàI. Vấn đề tuân theo pháp luật cần phảI được thực hiện một cách tự nguyện trên cơ sở nắm vững quy định của pháp luật. Nhà nước phảI phối hợp với lãnh đạo địa phương tăng cường giáo dục pháp luật cho nhân dân quần chúng am hiểu pháp luật để họ sống và làm việc theo pháp luật - đó là một xã hội văn minh mà chúng ta cần tiến tới. NgoàI ra chúng ta phảI xem lại hệ thống văn bản pháp luật sửa dổi cho phù hợp hơn không cho những kẻ cơ hội lợi dụng để tham ô móc ngoặc. xử nghiêm khắc với những kẻ tham ô, tham nhũng, hối lộ, cố ý làm tráI pháp luật, buôn bán ma tuý, hàng quốc cấm, buôn lậu…. . kết luận Nghiên cứu chính sách kinh tế mới giúp cho ta rút ra bàI học kinh nghiệm về bàI học xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới. Chính sách kinh tế mới đã giúp cho Nga thoát khỏi tình trạng kinh tế bất ổn định, tình hình xã hội, chính trị được cảI thiện và đI dần đến ổn định. Chính sách kinh tế mới đã đem lại lương thực cho nhân dân, đem lại nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, tạo điều kiện cho công nhân có công ăn việc làm. Chính sách kinh tế mới của Lê-nin là một bước đI đúng đắn giảI quyết được tình hình khó khăn của đất nước cả về kinh tế chính trị xã hội. Chính sách đó giảI quyết đươc nguyên liệu cho công nghiệp –lương thực cho công nhân, nó đã đem lại cuộc sống đầy đủ hơn cho nông dân. chính sách kinh tế mới đã kích thích được mọi thành phần kinh tế tích cực sản xuất. Kinh tế nước Nga không còn là kinh tế nhà nước là duy nhất mà tồn tại song song với nó là các thành phần kinh tế khác như kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản …. Chính sách kinh tế mới đã khuyến khích được mọi người dân tích cực đầu tư sản xuất phát triển kinh tế nhờ đó mà kinh tế nước Nga dần ổn định và đI vào phát triển. Song song với quá trình đổi mới về kinh tế là đổi mới về hệ thông chính trị xã hội. phương thức quản phù hợp hơn, các chính sách đối nội đối ngoại phù hợp với điều kiện thực tiễn đất nước. Nhờ vậy mà kinh tế, chính trị, xã hội nước Nga thoát ra khỏi tình trạng khó khăn và dần phát triển. ở Việt Nam, những năm đầu của thập kỉ 80, nhà nước ta còn duy trì nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. tình hình kinh tế ngèo nàn lạc hậu –lương thực tập trung, phân phối theo chủ nghĩa bình quân không phù hợp điều kiện đất nước trong thời bình. Để khắc phục tình trạng trên Đảng và nhà nước đã kịp thời đổi mới vận dụng chính sách kinh tế mới vào Việt Nam. Nhờ đó mà kinh tế đất nước ổn định và phát triển. Song song với đổi mới về kinh tế là đổi mới về hệ thống chính trị, đường lối, chính sách, phương thức quản lý bớt đI sự chồng chéo, giẩm sự cồng kềnh trong bộ máy quản lý. Hệ thông pháp luật chặt chẽ hơn giảm tình trạng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để làm ăn phi pháp. Thực hiện dân chủ hoá xã hội, thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Việc vân dụng chính sách kinh tế của Lê-nin trong thời kỳ đổi mới ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn. Sự đổi mới phương thức quản lý kinh tế, duy trì sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần đã giúp cho Việt Nam tong bước thoát khỏi những khó khăn, từng bước phát triển kinh tế, xã hội và ổn định chính trị. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã giúp cho kinh tế phát triển thêm một bước. Đồng thời chính trị xã hội cũng ổn định, từng bước đẩy lùi tệ nan xã hội. Đưa đất nước phát triển lên chủ nghĩa xã hội TàI liệu tham khảo 1. Giáo trình lịch sử kinh tế quốc dân và kinh tế chính trị (NXB ĐH KTQD) 2. Văn kiện đại hội Đảng V, VI, VII, VIII, XI; 3. Tạp chí kinh tế và phát triển số 53 tháng 11/2001. 4. Tạp chí kinh tế và phát triển số 54 tháng 12/2001. 5. Bàn về thuế lương thực (V. I. Lênin) NXB tiến bộ Maxtcơva. 6. Lê-nin toàn tập (tập 36và 44) V. I. Lê-nin : 7. Kinh tế xã hội Việt Nam qua các con số thống kê( Thời báo kinh tế. Việt Nam tháng 1/2002) 8. Nhận định về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (Vũ Văn Hân) 9. Một số vấn đề đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay (Trần Nguyên Ký). 10. Một số tài liệu khác liên quan.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50317.DOC
Tài liệu liên quan