Ngoại lệ trong sao chép tác phẩm theo pháp luật Việt Nam

Tuyên bố số 410/2004 về bảo vệ Quyền tác giả và Quyền liên quan của Ethiopia năm 2004 Mục 9 Phần 2 Quy định về việc sao chép cho mục đích cá nhân. Theo đó cho phép một người được quyền sao chép một bản tác phẩm đã được công bố chỉ nhằm phục vụ cho những mục đích cá nhân của người đó trừ trường hợp sao chép một tác phẩm kiến trúc dưới dạng tòa nhà hay hình thức xây dựng khác; sao chép tác phẩm âm nhạc dưới dạng ký hiệu; sao chép chương trình máy tính trừ một số trường hợp sao chép nhằm mục đích lưu trữ để sử dụng sau này Ngoại lệ sao chép này phải không mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm hoặc không làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của tác giả hoặc người nắm quyền. Qua đó có thể thấy rằng, việc quy định về ngoại lệ trong việc sao chép tác phẩm theo quy định của pháp luật Việt Nam còn nhiều bất cập, chưa đảm bảo được sự cân bằng trong việc đảm bảo quyền của tác giả với lợi ích công cộng và xã hội nói chung. Chính điều đó đã dẫn đến các cách hiểu cũng như phương thức xử lý khác nhau đối với hành vi photocopy giáo trình của sinh viên nêu trên. Như vậy, so với pháp luật nhiều nước, quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về vấn đề sao chép tác phẩm có phần hạn chế. Việc tham gia Hiệp Định TRIPs cũng như gia nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và cũng nhiều thách thức, đặc biệt là trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Để thực hiện các cam kết trong Hiệp định TPP, pháp luật Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, bao gồm sở hữu trí tuệ, sẽ phải có sự điều chỉnh, bổ sung để thực thi các cam kết. Hy vọng rằng, cùng với sự điều chỉnh và bổ sung pháp luật ấy, vấn đề về ngoại lệ trong bảo hộ quyền tác giả nói chung và ngoại lệ trong sao chép tác phẩm nói riêng sẽ được điều chỉnh, thay đổi theo hướng mở rộng các trường hợp được phép sao chép cho mục đích cá nhân và phục vụ học tập như quy định của đa số các quốc gia khác trên nguyên tắc đảm bảo được sự cân bằng quyền lợi như đã đề cập ở trên.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 91 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ngoại lệ trong sao chép tác phẩm theo pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
36 HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP NGOẠI LỆ TRONG SAO CHÉP TÁC PHẨM THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Bùi Thị Hằng Nga1 Lê Thị Diễm2 Tóm tắt: Ngoại lệ trong bảo hộ quyền tác giả nói chung và sao chép tác phẩm nói riêng là một công cụ quan trọng nhằm đảm bảo nguyên tắc cân bằng giữa lợi ích của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm và lợi ích của xã hội, cộng đồng, vốn rất cần thiết đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Chính vì vậy mà vấn đề về ngoại lệ là một nội dung trung tâm trong các tranh luận liên quan đến quyền tác giả và là một trong những quy định quan trọng trong các Điều ước quốc tế và hệ thống pháp luật các nước về sở hữu trí tuệ. Trong phạm vi bài viết này, bằng phương pháp phân tích và so sánh với quy định pháp luật của một số quốc gia về ngoại lệ trong sao chép tác phẩm, tác giả sẽ làm rõ một vài hạn chế, bất cập của các quy định về ngoại lệ trong sao chép tác phẩm theo pháp luật Việt Nam. Đồng thời, thông qua bài viết, tác giả muốn gợi mở những điều chỉnh, bổ sung quy định về sở hữu trí tuệ của pháp luật Việt Nam theo hướng mở rộng các trường hợp ngoại lệ trong sao chép tác phẩm. Từ khóa: Sao chép tác phẩm, Sở hữu trí tuệ, Ngoại lệ, Quyền tác giả, Nguyên tắc cân bằng lợi ích Nhận bài: 06/3/2017; Hoàn thành biên tập: 10/5/2017; Duyệt đăng: 23/5/2017 Abstract: The exception to copyrights protection in general and to reproduction of works in particular is the important tool to achieve the balance between the rights of creators, copyright owners and the interests of society, community, which is particularly essential to developing countries like Vietnam. Therefore, such exception is not only the vital part of discussions relating to copyrights but also one of the important regulations in International Conventions and legal system on intellectual property of many countries. To the extent of this paper, by analyzing and comparing with relevant provisions in the relevant laws of various countries, the author shall clarify certain limitation/unsoundness of Vietnam regulations regarding exception to reproduction of works. Besides, through this paper, the author also would like to suggest adjustments and supplementations to these regulations in expanding exception to reproduction of works. Key words: Reproduction of works, Intellectual Property, Exception, Copyrights, Rule of reason Date of receipt: 06/3/2017; Date of revision: 10/5/2017; Date of approval: 23/5/2017 1. Đặt vấn đề Thời gian vừa qua, vụ việc sinh viên N.T.N.A của Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh đưa bản sao của 8 cuốn giáo trình khác nhau mang vào trường và trường đã áp dụng hình thức kỷ luật đình chỉ học một năm với sinh viên này khi phát hiện ra vụ việc. Tuy nhiên, dưới sức ép của dư luận, cuối cùng nhà trường đã giảm mức kỷ luật xuống còn cảnh cáo3. Sự việc này đã tạo ra những tranh luận trái chiều liên quan đến hành vi của sinh viên N.T.N.A, quyết định của trường Đại học Luật TP.HCM cũng như việc áp dụng, thực thi các quy định của pháp luật hiện hành đối với hành vi nói trên. Trong phạm vi bài viết này, tác giả muốn trả lời cho câu hỏi: Có hay không việc vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam trong trường hợp của sinh viên nói trên? 1 NCS, Khoa Luật kinh kế trường Đại học kinh tế - Luật Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh 2 Công ty Trách nhiệm hữu hạn Cargill Việt Nam 3 Thông tin được công bố tại link trinh-photo-vao-truong/1265275.html truy cập ngày 17/3/2017 Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 37 Quy định về ngoại lệ trong bảo hộ quyền tác giả là một trong những vấn đề trung tâm của những tranh luận liên quan đến quyền tác giả, là một trong những quy định quan trọng trong các Điều ước quốc tế và pháp luật các nước về sở hữu trí tuệ. Quy định này không phải là sản phẩm chủ quan của các nhà làm luật mà dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn nhất định như sau: Thứ nhất, xuất phát từ lợi ích của xã hội, cộng đồng. Nhà văn Victor Hugo – người sáng lập nên Hiệp hội văn học quốc tế (Association littéraire internationale), tiền thân của Hiệp hội văn học và nghệ thuật quốc tế ngày nay (Association littéraire et artistique internationale), mầm mống cho sự ra đời của Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật (Công ước Berne)4 cho rằng mối bận tâm duy nhất trong việc bảo hộ quyền tác giả đó là lợi ích công cộng vì bản chất của việc bảo hộ quyền tác giả sẽ không nằm ngoài mục tiêu thúc đẩy sự phát triển của khoa học và nghệ thuật. Vì vậy, khi có mâu thuẫn phát sinh giữa quyền của tác giả và những điều thuộc về “tinh thần con người” thì những điều thuộc về “tinh thần con người” sẽ được ưu tiên hơn5. Ông Potter Stewart - Thẩm phán tòa án tối cao Hoa Kỳ cũng đã từng phát biểu vào năm 1975 rằng: “Hệ quả đầu tiên của luật bản quyền là đảm bảo sự bù đắp hợp lý đối với công sức lao động sáng tạo của một tác giả. Nhưng mục đích cuối cùng của nó phải là khuyến khích sự sáng tạo phục vụ lợi ích của công chúng”6. Mục tiêu đảm bảo lợi ích của xã hội cộng đồng cũng đã được cụ thể hóa bằng các quy định trong các Điều ước quốc tế. Chẳng hạn, Điều 7 của Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs) quy định rằng “Việc bảo hộ và thực thi các quyền sở hữu trí tuệ phải góp phần thúc đẩy việc cải tiến, chuyển giao và phổ biến công nghệ, góp phần đem lại lợi ích chung cho người tạo ra và người sử dụng kiến thức công nghệ, đem lại lợi ích xã hội và lợi ích kinh tế, tạo sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ” hoặc Điều 18.2 Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định TPP) thể hiện rằng:“Mục tiêu việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ cần đóng góp vào việc thúc đẩy đổi mới công nghệ, vào việc chuyển giao và phổ biến công nghệ, vào lợi ích chung giữa nhà sản xuất và người sử dụng tri thức công nghệ theo cách thức có lợi cho phúc lợi kinh tế và xã hội, và cho sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ”. Thứ hai, xuất phát từ sự tôn trọng các quyền tự do cơ bản của con người. Một trong những quyền tự do cơ bản đó là quyền được tiếp cận thông tin. Con người tiếp cận thông tin qua nhiều nguồn khác nhau như báo chí, truyền hình, chương trình phát thanh Nếu quy định độc quyền tuyệt đối đối với các tác phẩm cho các tác giả, chủ sở hữu tác phẩm thì bất kỳ bài phê bình nào, bất kỳ bản tin nào, bất kỳ bài báo nàomuốn được phát hành phải được sự cho phép trước của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm. Hậu quả của việc này chính là nguồn thông tin mà con người có thể tiếp cận sẽ rất hạn chế, bao gồm cả những thông tin có tính chất quan trọng, cần thiết đối với đời sống hằng ngày của mỗi người. Thứ ba, xuất phát từ mục đích thúc đẩy các lợi ích công trong tiếp cận thông tin. Nhiều luật bản quyền của các quốc gia đều có những điều khoản về ngoại lệ cho phép việc dùng lại các tác phẩm có bản quyền khi báo cáo tin tức hoặc thông qua các phương tiện khác nhằm cung cấp thông tin cho công chúng về các vấn đề chính trị hoặc sự kiện kinh tế. Một số ngoại lệ 4 Daniel J. Gervais (2008), “Making Copyright Whole: A Principled Aprroach to Copyright Exceptions and Limitations”, University of Ottawa Law & Technology Journal, (05),tr.4. 5 Daniel J. Gervais (2008), “Making Copyright Whole: A Principled Aprroach to Copyright Exceptions and Limitations”, University of Ottawa Law & Technology Journal, (05), tr.5. 6 Peter K.Yu (2007), Intellectual Property and Information Wealth: Issues and Practices in the Digital Age, Volume I: Copyright and Related Rights, p. 139. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 38 cho phép việc truyền đạt thông tin trong các bài diễn văn về chính trị. Công ước Berne cũng đã cho phép điều này7. Những quy định này đã cung cấp những quyền rộng rãi hơn cho những người truyền đạt những thông tin liên quan đến những vấn đề mà cộng đồng quan tâm. Mục đích này đã được khẳng định trong phán quyết của Tòa án trong vụ tranh chấp Time, Inc v Berneard Geis Associates. Time là chủ sở hữu quyền tác giả của bộ phim Zapruder về cuộc diễu binh ở Dallas trong khoảng thời gian Tổng thống Kennedy bị bắn. Zapruder là tài liệu duy nhất về vụ ám sát này. Đây là bằng chứng quan trọng trong báo cáo Ủy ban Warren về cái chết của Tổng thống Kennedy và các cuộc tranh luận khi vấn đề được đặt ra là có hay không Lee Harvey Oswald là sát thủ duy nhất. Geis xuất bản một cuốn sách nhằm mục đích chứng minh rằng Oswald không phải là tay súng duy nhất. Tác giả của cuốn sách phụ thuộc nhiều vào một số khung hình từ phim Zapruder làm bằng chứng để hỗ trợ cho tuyên bố của mình. Sau khi Time từ chối cấp giấy phép sử dụng các khung hình trong cuốn sách, Geis vẫn chuẩn bị phác thảo các khung hình cho cuốn sách của mình. Time đã kiện Geis vì điều này. Tuy nhiên, Tòa án đã phán quyết rằng việc Geis sử dụng một số khung hình từ phim Zapruder thuộc sở hữu của Time để làm các phác thảo trong cuốn sách là sử dụng hợp lý vì điều này xuất phát từ lợi ích công cộng trong việc cần thiết phải được tiếp cận thông tin về vụ ám sát8. Thứ tư, thực hiện mục tiêu chính sách xã hội và văn hóa. Hầu như tất cả các luật bản quyền của các quốc gia đều quy định các ngoại lệ trong bảo hộ quyền tác giả nhằm thực hiện một số mục tiêu chính sách xã hội và văn hóa. Phổ biến nhất là những quy định cho phép người sử dụng tài liệu có bản quyền trong quá trình giảng dạy, trong các cơ sở giáo dục phi lợi nhuận hoặc những quy định cho phép các thư viện và cơ sở lưu trữ tài liệu sao chép các tác phẩm để bảo tồn chúng và cho phép tạo ra các các định dạng đặc biệt để người khuyết tật có thể dễ dàng tiếp cận nhiều hơn với các tác phẩm, tạo điều kiện cho họ tham gia nhiều hơn vào đời sống văn hóa xã hội. Như vậy, quy định về ngoại lệ trong bảo hộ quyền tác giả đóng một vai trò quan trọng góp phần tạo ra sự cân bằng quyền lợi giữa lợi ích của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm và lợi ích của cộng đồng. Quy định này càng có ý nghĩa nhiều hơn đối với những quốc gia đang phát triển, mức sống của người dân không cao như Việt Nam. Trong các trường hợp ngoại lệ về bảo hộ quyền tác giả, ngoại lệ trong sao chép tác phẩm được quan tâm nhiều hơn, bởi lẽ quyền sao chép tác phẩm đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với tác giả, chủ sở hữu tác phẩm cũng như công chúng. Quyền sao chép tác phẩm là quyền tài sản mà được khai thác và đem lại nhiều lợi ích kinh tế nhất cho chủ sở hữu quyền. Đồng thời, công chúng tiếp cận và sử dụng các tác phẩm thông qua nhiều cách thức nhưng có lẽ sao chép là cách thức được sử dụng nhiều nhất và đem lại nhiều lợi ích nhất cho người sử dụng. 2. Ngoại lệ trong sao chép tác phẩm theo quy định của pháp luật Việt Nam Theo quy định của pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ, ngoại lệ trong sao chép tác phẩm được quy định cụ thể rằng người sử dụng được sao chép tác phẩm mà không phải xin phép và không phải trả tiền thù lao trong trường hợp (i) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân; và (ii) 7 Điều 10bis (1) Công ước Berne (1971) quy định “Luật pháp Quốc gia thành viên Liên hiệp có thẩm quyền cho phép in lại trên báo chí, phát lại trên đài truyền thanh hay phương tiện thông tin đại chúng những bài báo có tính chất thời sự về kinh tế, chính trị hay tôn giáo đã đăng tải trên báo chí hoặc tập san, hoặc các tác phẩm truyền thanh có tính chất tương tự, với điều kiện những tác phẩm đó không phải là những tác phẩm mà tác giả đích danh giữ bản quyền” 8 Pamela Samuelson, Justifications for Copyright Limitation & Exceptions, University of California, Berkeley - School of Law, tr. 13, đã trích dẫn từ case Emerson v. Davies, 8F. Cas.615, 619 (1845). https://www.law.berkeley.edu/files/Justications_for_Copyright_Limitations_and_Exceptions__Pamuela_ Samuelson.pdf Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 39 Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu. Tuy nhiên, hai trường hợp sao chép tác phẩm này không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính và tổ chức. Đồng thời, cá nhân sao chép tác phẩm trong hai trường hợp này không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm9. Với quy định về ngoại lệ trong sao chép tác phẩm của pháp luật Việt Nam như trên dẫn đến một vài hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng như sau: Thứ nhất, sao chép nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân chỉ được xem hợp pháp khi cá nhân đó tự thực hiện sao chép. Điều này có nghĩa là ngoại lệ trong sao chép tác phẩm được xem là sao chép hợp pháp theo quy định tại điều luật này khi người sao chép tác phẩm phải tự thực hiện việc sao chép mà không có sự hỗ trợ, can thiệp của bởi bất kỳ đối tượng nào khác. Chẳng hạn, giảng viên hay một nhà nghiên cứu muốn sao chép một tác phẩm ra một bản khác nhằm phục vụ hoạt động giảng dạy hay nghiên cứu của mình, họ phải tự thực hiện việc sao chép thông qua các thiết bị dùng cho việc sao chép như máy photocopy chứ không được nhờ các cơ sở kinh doanh dịch vụ photocopy làm thay mình việc đó. Theo tác giả, việc quy định “tự sao chép” nói trên không có ý nghĩa về pháp lý cũng như thực tiễn. Bởi vì, rất khó kiểm soát việc một người khi sao chép một tác phẩm là tự thực hiện hay nhờ người khác. Đồng thời, việc tự sao chép hay nhờ một người khác sao chép hộ không làm thay đổi vấn đề, bản chất vẫn là sao chép tác phẩm và nếu đáp ứng được những yêu cầu về mục đích phục vụ cũng như không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường của tác phẩm gốc thì dù có nhờ người khác sao chép hộ theo tác giả vẫn phải được chấp nhận và được xem là hợp pháp. Theo tìm hiểu của tác giả, quy định về ngoại lệ trong bảo hộ quyền tác giả trong trường hợp sao chép của đa số pháp luật của các quốc gia khác thì đều chỉ sử dụng từ “sao chép” chứ không phải “tự sao chép” như pháp luật Việt Nam. Thứ hai, mục đích sao chép là để phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân hoặc để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu. Theo khoản 4 Điều 2 Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 thì nghiên cứu khoa học là “hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy, sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn. Nghiên cứu khoa học bao gồm nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng”. Như vậy, với quy định pháp luật hiện hành về mục đích sao chép là để phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân, những trường hợp sao chép mặc dù phục vụ cho nhu cầu cá nhân, bao gồm cả việc phục vụ cho việc học tập không được xem là các trường hợp ngoại lệ trong sao chép tác phẩm, theo đó vẫn phải xin phép và trả tiền thù lao cho tác giả, chủ sở hữu tác phẩm. Trong khi đó, pháp luật trước đây của Việt Nam về sở hữu trí tuệ cho phép sao chép tác phẩm để phục vụ cho mục đích cá nhân. Cụ thể, Điều 12 Nghị định số 76/CP ngày 29 tháng 11 năm 1996 của Chính Phủ hướng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự năm 1995 cho phép sao lại tác phẩm để sử dụng riêng với điều kiện là sao ra không quá một bản. Mục đích riêng ở đây có thể được hiểu là mục đích sử dụng của cá nhân. Tuy nhiên đến Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi bổ sung năm 2009 thì trường hợp sao chép phục vụ cho nhu cầu cá nhân không còn được xem là trường hợp không phải xin phép và không trả tiền nhuận bút, thù lao. Như vậy, về phương diện pháp luật, với quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về sở hữu trí tuệ, việc sinh viên N.T.N.A của Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh mang bản sao của 8 cuốn giáo trình khác nhau như đề cập ở trên là vi phạm pháp luật sở hữu trí tuệ hiện 9 Điều 25 Luật sở hữu trí tuệ 2005, được sửa đổi bổ sung 2009. 40 HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP hành của Việt Nam. Quy định hiện hành này thật sự chưa phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội hiện nay của Việt Nam. Điều này đã làm hạn chế khả năng được tiếp cận tri thức, tiếp cận những tác phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân, giải trí, học tập của người dân Việt Nam nói chung, học sinh, sinh viên nói riêng. Quy định này vô hình chung đã đẩy hàng triệu học sinh, sinh viên Việt Nam vào tình trạng vi phạm luật vì đã photocopy, sao chép tài liệu nhằm mục đích phục vụ cho việc học tập. Với quy định này thì khả năng được tiếp cận tri thức, tiếp cận những tác phẩm phục vụ cho nhu cầu cá nhân, đặc biệt là học tập sẽ ngày càng hạn chế hơn khi mà vấn đề về bảo hộ bản quyền được trong Hiệp định TPP được siết chặt hơn chẳng hạn quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả trong Hiệp định TPP là suốt cuộc đời tác giả cộng thêm 70 năm tiếp theo kể từ khi tác giả chết trong khi theo pháp luật Việt Nam chỉ là 50 năm cũng như những quy định về hình sự hóa những vi phạm về bản quyền. 3. Ngoại lệ trong sao chép tác phẩm của một số quốc gia Theo tác giả, quy định về ngoại lệ trong sao chép tác phẩm của một số quốc gia, bao gồm cả những quốc gia mà điều kiện kinh tế và mức sống của người dân cao hơn Việt Nam rất nhiều, vẫn cho phép sao chép tác phẩm phục vụ mục đích cá nhân, học tập. Ví dụ như tóm tắt quy định một số nước như dưới đây: Luật Quyền tác giả Hoa Kỳ năm 1976 Điều 107: “Quy định về sử dụng hợp lý”: cho phép sử dụng một tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả bao gồm các hình thức sử dụng thông qua hình thức sao chép dưới dạng bản sao hoặc bản ghi hoặc bởi bất kỳ một phương thức nào được quy định trong Điều này cho mục đích bình luận, phê bình, đưa tin hoặc giảng dạy (bao hàm cả việc sử dụng nhiều bản sao cho lớp học), nghiên cứu, học tập là không vi phạm quyền tác giả. Để xác định xem liệu việc sử dụng tác phẩm trong các trường hợp cụ thể có phải là sử dụng được phép hay không thông qua việc xem xét các nhân tố sau: - Mục đích và đặc điểm của việc sử dụng, bao gồm việc sử dụng đó có tính chất thương mại không hay là chỉ nhằm mục đích giáo dục phi lợi nhuận; - Bản chất của tác phẩm được bảo hộ; - Số lượng và thực chất của phần được sử dụng trong tác phẩm được bảo hộ như là một tổng thể; - Vấn đề ảnh hưởng của việc sử dụng đó đối với tiềm năng thị trường hoặc đối với giá trị của tác phẩm được bảo hộ. Luật Quyền tác giả Nhật Bản sửa đổi bổ sung năm 2013 Điều 35: Tại trường học, cơ quan giáo dục (ngoại trừ được thành lập vì mục đích lợi nhuận), người phụ trách giảng dạy cũng như người được giảng dạy với mục đích sử dụng trong quá trình giảng dạy có thể được sao chép tác phẩm đã công bố theo mức độ cần thiết được công nhận. Tuy nhiên, không áp dụng khoản này đối với trường hợp gây phương hại vô lý đến lợi ích của chủ sở hữu quyền tác giả khi đối chiếu với loại hình, mục đích khai thác tác phẩm cũng như số lượng và cách thức sao chép. Luật Quyền tác giả, tác phẩm văn học và nghệ thuật Thụy Điển sửa đổi bổ sung năm 2011 Điều 12: Bất kỳ người nào cũng có thể được làm một hoặc một vài bản sao tác phẩm đã công bố, nhằm mục đích sử dụng cá nhân trừ trường hợp sao chép tác phẩm kiến trúc, làm bản sao chương trình máy tính, làm bản sao dưới dạng kỹ thuật số của các sưu tập dữ liệu dưới dạng kỹ thuật số. Luật Quyền tác giả và Quyền liên quan Thụy Sĩ năm 1992 Điều 19: Tác phẩm đã được xuất bản có thể được sử dụng để sử dụng cá nhân. Sử dụng cá nhân được hiểu là: - bất kỳ sử dụng cá nhân của tác phẩm hoặc sử dụng trong phạm vi của những người có liên hệ chặt chẽ với nhau, chẳng hạn như người thân hoặc bạn bè; - sử dụng bất kỳ một tác phẩm của một giáo viên và lớp học của mình cho các mục đích giáo dục; - việc sao chép tác phẩm trong các doanh nghiệp, cơ quan hành chính, các tổ chức, hội Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 41 đồng/ủy ban và các cơ quan tương tự với mục đích thông tin nội bộ hoặc cung cấp tài liệu. Luật Quyền tác giả và Quyền liên quan Campuchia năm 2003 Điều 24: Cho phép cá nhân có thể sao chép một bản sao những tác phẩm đã được xuất bản phục vụ cho mục đích cá nhân mà không phải xin phép tác giả hoặc chủ sở hữu quyền trừ trường hợp sao chép một tác phẩm kiến trúc dưới dạng tòa nhà hay hình thức xây dựng khác; sao chụp toàn bộ hoặc một phần đáng kể của một cuốn sách, và của một tác phẩm âm nhạc dưới dạng ký hiệu âm nhạc; sao chép toàn bộ hoặc một phần quan trọng của một cơ sở dữ liệu dưới dạng số; sao chép chương trình máy tính, trừ trường hợp làm một bản sao để lưu trữ. Ngoại lệ sao chép này phải không mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm hoặc không làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của tác giả hoặc người nắm quyền. Luật Quyền tác giả Venezuela năm 1993 Điều 44 Chương 2: Cho phép sao chép nhằm các mục đích sau: (i) Học tập (ii) Phục vụ thủ tục của Tòa án hoặc các thủ tục hành chính. (iii) Sao chép một bản sao chương trình máy tính nhằm mục đích lưu trữ hoặc an ninh. (iv) Sao chép nhằm mục đích phục vụ nhu cầu sử dụng cá nhân của người sử dụng miễn người này thực hiện việc sao chép bằng chính những phương tiện, công cụ của mình. Tuyên bố số 410/2004 về bảo vệ Quyền tác giả và Quyền liên quan của Ethiopia năm 2004 Mục 9 Phần 2 Quy định về việc sao chép cho mục đích cá nhân. Theo đó cho phép một người được quyền sao chép một bản tác phẩm đã được công bố chỉ nhằm phục vụ cho những mục đích cá nhân của người đó trừ trường hợp sao chép một tác phẩm kiến trúc dưới dạng tòa nhà hay hình thức xây dựng khác; sao chép tác phẩm âm nhạc dưới dạng ký hiệu; sao chép chương trình máy tính trừ một số trường hợp sao chép nhằm mục đích lưu trữ để sử dụng sau này Ngoại lệ sao chép này phải không mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm hoặc không làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của tác giả hoặc người nắm quyền. Qua đó có thể thấy rằng, việc quy định về ngoại lệ trong việc sao chép tác phẩm theo quy định của pháp luật Việt Nam còn nhiều bất cập, chưa đảm bảo được sự cân bằng trong việc đảm bảo quyền của tác giả với lợi ích công cộng và xã hội nói chung. Chính điều đó đã dẫn đến các cách hiểu cũng như phương thức xử lý khác nhau đối với hành vi photocopy giáo trình của sinh viên nêu trên. Như vậy, so với pháp luật nhiều nước, quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về vấn đề sao chép tác phẩm có phần hạn chế. Việc tham gia Hiệp Định TRIPs cũng như gia nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và cũng nhiều thách thức, đặc biệt là trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Để thực hiện các cam kết trong Hiệp định TPP, pháp luật Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, bao gồm sở hữu trí tuệ, sẽ phải có sự điều chỉnh, bổ sung để thực thi các cam kết. Hy vọng rằng, cùng với sự điều chỉnh và bổ sung pháp luật ấy, vấn đề về ngoại lệ trong bảo hộ quyền tác giả nói chung và ngoại lệ trong sao chép tác phẩm nói riêng sẽ được điều chỉnh, thay đổi theo hướng mở rộng các trường hợp được phép sao chép cho mục đích cá nhân và phục vụ học tập như quy định của đa số các quốc gia khác trên nguyên tắc đảm bảo được sự cân bằng quyền lợi như đã đề cập ở trên./. Tài liệu tham khảo 1. Daniel J. Gervais (2008), “Making Copyright Whole: A Principled Aprroach to Copyright Exceptions and Limitations”, University of Ottawa Law & Technology Journal. 2. Peter K.Yu (2007), Intellectual Property and Information Wealth: Issues and Practices in the Digital Age, Volume I: Copyright and Related Rights, p. 139. 3. Công ước Berne (1971) 4. Luật sở hữu trí tuệ 2005, được sửa đổi bổ sung 2009. 5. Nguyễn Bình, Nguyễn Thị Chính, Nguyễn Huy Ngát, Nguyễn Bích Ngọc (2005), Bình luận về quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfngoai_le_trong_sao_chep_tac_pham_theo_phap_luat_viet_nam.pdf
Tài liệu liên quan