Những thay đổi trong cơ cấu hang hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO

MỤC LỤC I. Lời mở đầu 1 II.Về cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO 1 1. Xuất khẩu 1 1.1 Giai đoạn trước khi Việt Nam gia nhập WTO 1 1.2 Giai đoạn sau khi Việt Nam gia nhập WTO 7 2. Nhập khẩu 9 2.1 Giai đoạn trước khi Việt Nam gia nhập WTO 9 2.2 Giai đoạn sau khi Việt Nam gia nhập WTO 16 3. Một số hạn chế 16 III. Tác động của hội nhập WTO đến một số ngành có lợi thế so sánh của Việt Nam 18 1. Dệt may: 18 2. Giày dép: 19 3. Hải sản: 20 4. Cà phê: 21 5. Cao su: 21 6. Các sản phẩm sành sứ: 22 IV. Kết luận 22

doc36 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1959 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những thay đổi trong cơ cấu hang hoá xuất nhập khẩu Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2001; 40,4% năm 2004 và 39,0% năm 2006. Tỷ trọng nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản cũng dao động trong khoảng từ 21,6 % năm 2001 đến 24,7% năm 2005 và 23,4% năm 2006 (xem bảng 2). Bảng 2: Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001 - 2006 (%) 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Nông, Lâm, Thuỷ sản 24,3 23,9 22,1 20,5 21,1 20,5 Nhiên liệu,khoáng sản 21,6 20,5 19,9 22,7 24,7 23,4 CN và TCMN 33,9 40,0 40,5 40,4 38,4 39,0 Hàng hoá khác 20,2 15,6 17,5 16,4 15,6 17,1 Nguồn: Báo cáo tổng kết của Bộ Thương mại 2005, 2006 Để thấy rõ hơn sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, có thể quan sát cơ cấu của hàng xuất khẩu chế biến. Theo cách phân tích này hàng xuất khẩu chế biến được chia thành 3 nhóm chính: (i) Ngành chế biến dựa vào nguồn tài nguyên; (ii) Ngành chế tạo công nghệ thấp sử dụng nhiều lao động và sản xuất các cấu kiện, công nghệ trung bình; (iii) Các ngành công nghệ cao, sử dụng nhiều vốn (xem bảng 3). Bảng 3: Sự thay đổi cơ cấu xuất khẩu sản phẩm chế biến thời kỳ 1985 - 2004 Hàm lượng xuất khẩu Tỷ trọng (%) Tốc độ tăng trưởng (%) 1985 2000 2005 1985 - 1990 1990 - 1995 1995 - 2000 2000-2005 1. Ngành chế biến dựa vào nguồn tài nguyên 74 17,6 17,8 21 23 5 4,8 2. Ngành chế tạo công nghệ thấp sử dụng nhiều lao động và sản xuất các cấu kiện, công nghệ trung bình 21,7 77 76,0 34,3 102 20 18 3. Công nghệ cao, sử dụng nhiều vốn 3,9 5,4 6,2 40 62,2 2,4 3,7 Nguồn: Ngân hàng Thế giới, năm 2005 Trong điều kiện lợi thế về các yếu tố tự nhiên và lao động rẻ đang ngày càng giảm dần và mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt, thì sự chậm thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng nâng dần tỷ trọng hàng công nghệ cao sử dụng nhiều vốn là một hạn chế lớn đối với tăng trưởng xuất khẩu của nước ta. Trong dài hạn, sự chậm trễ này sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, giảm sức cạnh tranh và cải thiện cán cân thanh toán. Nếu phân tích cơ cấu xuất khẩu của nước ta có tính đến cả mức độ giá trị tăng thêm, có thể thấy, tỷ trọng các mặt hàng tinh chế có giá trị gia tăng rất thấp, chỉ chiếm gần 30% (năm 2006). Nhìn chung, cơ cấu xuất khẩu mặc dù đã có sự chuyển biến song tốc độ còn chậm. Tỷ trọng hàng xuất khẩu chế biến (công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp) còn quá khiêm tốn, trong khi hàng sơ chế và khoáng sản vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn. Sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu, nhìn chung, chưa thật bền vững, còn chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Cơ cấu xuất khẩu là một trong những hạn chế lớn nhất của nền kinh tế. Nếu không tăng nhanh tỷ trọng các mặt hàng chế biến, xét về dài hạn, tăng trưởng xuất khẩu sẽ khó có thể tiếp tục đà tăng cao như hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia, Việt Nam đang ở điểm xuất phát của Ma-lai-xia, In-đô-nê-xi-a và Thái Lan trong thời kỳ cuối thập kỷ 70 thế kỷ XX. Nói cách khác, đằng sau những con số thể hiện sự tăng trưởng trung bình khá ấn tượng của xuất khẩu trong thời kỳ 1991-2004, có thể nhận thấy rằng, xuất khẩu của Việt Nam trong hơn một thập kỷ vừa qua vẫn chưa có những sự thay đổi về chất. Xuất khẩu mới chỉ dừng ở chỗ khai thác lợi thế so sánh sẵn có về tài nguyên và lao động rẻ, chưa khai thác lợi thế về công nghệ và vốn của quá trình tự do hoá thương mại thế giới. Điều này sẽ ảnh hưởng đến quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế và chứa đựng nhiều rủi ro khác như ổn định kinh tế vĩ mô, vì cán cân thương mại trong dài hạn sẽ khó được cải thiện. Về cơ cấu xuất khẩu phân theo thành phần kinh tế Có thể thấy một điểm tích cực là trước đây, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI thường cao gấp 1,5 - 2 lần khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước, song năm 2006, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của hai khu vực này (20,5 và 23,2%). Đây là kết quả của quá trình đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ của khu vực doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, nếu không có những bước đột phá cải cách rộng lớn và quyết liệt (nhất là đối với doanh nghiệp nhà nước) thì tăng trưởng xuất khẩu của ta sẽ rất khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh các nước trong khu vực đang tích cực đẩy nhanh quá trình cải cách để thu hút vốn nước ngoài (xem bảng 4). Bảng 4: Cơ cấu xuất khẩu phân theo thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng kim ngạch (tr. USD) 14.455 15.027 16.706 20.176 26.503 32.442 39.605 Tốc độ tăng trưởng (%) 25,3 4,0 11,2 20,8 31,5 22,4 22,1 DN 100% vốn trong nước 7.646 8.228 8.834 10.015 12.017 13.889 16.740 - Tỷ trọng 52,9 54,8 52,9 49,6 45,0 43,0 42,0 - Tăng trưởng (%) 11,5 7,6 7,4 13,4 20,3 15,6 20,5 DN có vốn ĐTNN 6.809 6.799 7.872 10.161 14.486 18.553 22.865 - Tỷ trọng 47,1 45.2 47,1 50,4 55,0 57,0 58,0 - Tăng trưởng (%) 45,4 -0,2 15,8 29,1 42,6 28,1 23,2 Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê và Bộ Thương mại Về cơ cấu thị trường xuất khẩu Đến năm 2006, thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã được mở rộng đến 220 nước và vùng lãnh thổ. Từ chỗ chúng ta phải lệ thuộc hoàn toàn vào khu vực thị trường Đông Âu và Liên xô (cũ), từ năm 1991 đến nay, thị trường ngày càng được mở rộng từ ASEAN đến châu Á, châu Âu và châu Mỹ, châu Phi. Nếu như từ năm 2000 trở về trước thị trường xuất khẩu thị trường chủ yếu của nước ta chủ yếu ở khu vực châu Á, thì từ 2001 đến nay, thị trường đã được đa dạng hoá. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường châu Mỹ tăng đều trong 3 năm qua (từ 21,3% năm 2004 lên 23,2% năm 2006). Thị trường Hoa Kỳ vẫn là đối tác chính của Việt Nam về xuất khẩu với kim ngạch 8 tỉ USD, chiếm tỷ trọng 86,8%, các nước khác chỉ chiếm 13,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá sang thị trường châu Mỹ. Trong khi đó, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn đối với xuất khẩu giày dép nhưng thị trường châu Âu vẫn duy trì được tỷ trọng 19-20% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước từ năm 2004 đến nay. Các nước EU chiếm tỷ trọng 89,2% kim ngạch xuất khẩu hàng hoá sang thị trường châu Âu (6,81 tỉ USD), tăng 23,5% so với cùng kỳ năm 2005. Riêng châu Á, kim ngạch xuất khẩu chiếm tỷ trọng rất lớn so với các châu lục khác, bởi đây là thị trường lớn nhất từ trước tới nay. Ngoài ra, việc số liệu thống kê về xuất khẩu vào châu Đại Dương được tính gộp vào châu Á (kể từ năm nay) đã làm tăng thêm tỷ trọng của khu vực này (châu Đại Dương chiếm tỷ trọng 8,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước). Trong đó, khu vực Đông Bắc Á chiếm tỷ trọng 51,8%, đạt kim ngạch 10,79 tỉ USD; khu vực Đông Nam Á chiếm tỷ trọng 31,5%, đạt kim ngạch 6,56 tỉ USD; châu Đại Dương chiếm tỷ trọng 15,87%, đạt kim ngạch 3,3 tỉ USD... trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá sang thị trường châu Á (xem bảng 5). Bảng 5: Cơ cấu thị trường xuất khẩu (%) Khu vực thị trường 2000 2002 2003 2004 2005 2006 Châu Á 60,5 52,0 49,0 54,8 58,5 52,6 Châu Âu 23,0 23,0 22,0 20,4 18,1 19,3 Châu Mỹ 6,7 16,0 20,2 21,3 21,3 23,2 Châu Phi, Tây Nam Á 1,0 1,0 0,8 1,6 2,1 4,8 Châu Đại Dương 8,8 8,0 8,0 6,7 - - Tổng 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Nguồn: Tổng cục Thống kê và Bộ Thương mại Tóm lại, có thể nói mặc dù cơ cấu xuất khẩu đã có sự thay đổi theo hướng tích cực, nhưng tốc độ chuyển dịch theo hướng đáp ứng yêu cầu biến đổi của thị trường và xu thế thế giới diễn ra còn chậm, tỷ trọng hàng thô, sơ chế vẫn còn cao. Tỷ trọng nhóm hàng chế biến công nghệ cao còn quá nhỏ bé. Những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn đều là những mặt hàng hoặc là hạn chế về các yếu tố cơ cấu như năng suất, diện tích, khả năng khai thác (nhóm nông, thuỷ sản và khoáng sản) hoặc là phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ và nguyên liệu nhập từ bên ngoài, do đó giá trị gia tăng thấp (giày da và dệt may). Những biểu hiện nêu trên chứng tỏ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu xuất khẩu nói riêng còn chưa vững chắc. Vấn đề cơ cấu kinh tế sẽ còn chứa đựng nhiều nguy cơ làm chậm quá trình tăng trưởng. Trong những năm trên, quá trình chuyển dịch cơ cấu thị trường ở nước ta diễn ra tương đối tốt. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này chưa được định hướng trên một tầm nhìn dài hạn (chủ yếu mới chỉ là sự thích ứng với thay đổi của tình hình) nên đã bộc lộ những điểm yếu. Việc tập trung quá lớn vào một số thị trường đã làm suy giảm khả năng thực hiện mục tiêu mở rộng thị trường mới, dẫn tới nguy cơ tự chúng ta đánh mất thị trường, khó có thể phát triển bền vững và duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn. Với tỷ trọng nhóm hàng xuất khẩu chế biến hạn chế và chậm thay đổi như hiện nay, việc tăng trưởng xuất khẩu để cải thiện cán cân thương mại trong ngắn hạn là rất hạn chế. Bởi vì không thể tăng trưởng dựa vào các mặt hàng hạn chế về năng suất, khả năng khai thác, đánh bắt và phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nước ngoài. Với giá trị gia tăng thấp như hiện nay, nếu không cải thiện năng lực cạnh tranh, chủ động nguồn nguyên liệu, trình độ công nghệ (còn thấp, lạc hậu với khu vực 1-2 thế hệ; với các nước tiên tiến 2-3 thế hệ), chất lượng lao động, giảm chi phí trung gian thì rất khó có thể tạo ra được những đột phá nâng cao chất lượng xuất khẩu và cải thiện cán cân thương mại. 1.2 Giai đoạn sau khi Việt Nam gia nhập WTO Xu hướng chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu Theo đánh giá của Vụ xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại, trong giai đoạn 2006-2010, cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam sẽ có những điểm thay đổi tập trung ở 3 xu hướng chuyển dịch và tăng trưởng của các nhóm hàng xuất khẩu. Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng nguyên, nhiên liệu sẽ giảm dần do tác động của sự sụt giảm khối lượng xuất khẩu dầu thô và than đá kéo theo kế hoạch đã được đề ra trong những năm tiếp theo, đặc biệt là kể từ năm 2009, khi Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất bắt đầu đi vào hoạt động và sẽ tăng sử dụng nguồn nguyên liệu dầu thô trong nước.   Thứ hai, tốc độ tăng trưởng của nhóm hàng nông, lâm, thủy sản dự báo sẽ tăng dần nhưng với biên độ thấp do gặp phải nhiều hạn chế về khả năng mở rộng quy mô nuôi, trồng và chủ yếu phải dựa vào việc gia tăng hàm lượng chế biến để nâng cao giá trị xuất khẩu.   Thứ ba, xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ sẽ có khả năng tăng mạnh do có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất. Đặc biệt, xu hướng này càng mang tính khả thi có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ bắt đầu đi vào hoạt động trong giai đoạn này. Vì vậy ngay từ đầu năm 2007, cần tập trung đầu tư vào các nhóm hàng công nghiệp để mở rộng sản xuất, khai thác thêm những mặt hàng mới, thị trường mới và đổi mới công nghệ chế biến, nâng cao giá trị gia tăng của nhóm hàng nông sản. Nhóm hàng xuất khẩu mới cũng cần được chú trọng, bao gồm các sản phẩm công nghiệp đóng tàu, thép và các sản phẩm từ gang thép, máy biến thế và động cơ điện, giấy bìa và các sản phẩm từ giấy bìa, túi xách,ô dù,  hóa chất, hóa mỹ phẩm hàng được đánh giá là rất có tiềm năng phát triển trong tương lai. Tình hình thay đổi trong cơ cấu hàng xuất khẩu Năm 2007, có 10 mặt hàng xuất khẩu đạt từ 1 tỉ USD trở lên và đã có sự phân hoá rõ rệt: 4 mặt hàng bứt phá mạnh hơn đạt trên 3 tỉ USD, 2 mặt hàng đạt trên 2 tỉ USD. Việc bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu dệt may vào Hoa Kỳ đầu năm 2007 và các biện pháp điều hành chủ động của nước ta phù hợp với bối cảnh bị Hoa Kỳ áp đặt Chương trình giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam, đã làm cho các doanh nghiệp trong nước yên tâm đầu tư, mở rộng sản xuất, doanh nghiệp nước ngoài tin tưởng ký hợp đồng, nhờ vậy xuất khẩu dệt may vẫn tăng đều, trong đó riêng vào thị trường Hoa Kỳ tăng 27%. Đây là năm thứ hai liên tiếp, hàng dệt may đứng thứ nhì sau dầu thô, thậm chí đã có lúc “bỏ qua” dầu thô, đứng đầu các mặt hàng xuất khẩu. Cũng nhờ giải quyết được những khó khăn về nguyên liệu, xuất khẩu sản phẩm gỗ vào các thị trường chính như Hoa Kỳ, EU, Nhật đều tăng từ 12 đến 28% so với cùng kỳ năm 2006, đứng thứ 5 trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Đồ gỗ đã có mặt tại các thị trường của 120 nền kinh tế, vượt Thái Lan và In-đô-nê-xia để cùng với Ma-lai-xia đứng đầu về xuất khẩu mặt hàng này ở Đông Nam Á. Xuất khẩu than đá vào các thị trường chính tăng 22%, nổi bật là Trung Quốc (chiếm 80% lượng than xuất khẩu), đây là mặt hàng đầu tiên về đích kế hoạch năm ngay từ 6 tháng đầu năm. Do mất cân đối gay gắt cung - cầu về gạo trên thị trường thế giới, trong khi chất lượng gạo của ta được cải thiện nhờ tiến bộ trong gieo trồng, bảo quản và xay sát, nên chỉ 11 tháng đầu năm đã đạt mục tiêu xuất khẩu năm. Lần đầu tiên gạo xuất khẩu của Việt Nam vươn lên ngang giá với gạo Thái Lan, thậm chí có chủng loại còn trúng thầu với giá cao hơn. Gạo Việt Nam đã xuất khẩu sang hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, kể cả EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản - là những thị trường có yêu cầu khắt khe. Cà phê xuất khẩu cũng gặp thuận lợi về thị trường, giá tăng từ 800 đến 1000 USD/tấn, nên đây là năm đầu tiên kim ngạch cà phê vượt gạo. Dù ảnh hưởng của bão lụt khiến đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản bị thiệt hại, song trên toàn cục, bức tranh xuất khẩu thuỷ sản vẫn sáng sủa, vì đã tạo được chỗ đứng trên thị trường của EU, Mỹ, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông... , có giá cao và năng lực chế biến tăng. Xuất khẩu hạt điều tiếp tục khẳng định ngôi vị cao nhất, có mặt trên 40 thị trường, trong đó lượng cung vào Hoa Kỳ, Trung Quốc, EU, Nhật Bản và Trung Đông đều tăng, riêng thị trường Hoa Kỳ tăng tới 33%, giá cũng tăng hơn khoảng 190 USD/tấn. Từ chỗ chúng ta chỉ chế biến từ hạt điều thô thu gom nội địa, nay phải nhập khẩu thêm hạt điều thô để chế xuất cho đủ công suất các dây chuyền chế biến và còn xuất khẩu cả công nghệ chế biến hạt điều, nên càng làm cho hình ảnh mặt hàng này thêm ấn tượng. Thêm nữa, 100 nghìn tấn hạt tiêu xuất khẩu (chiếm hơn 50% thị phần toàn cầu) đã duy trì vị trí số 1 của Việt Nam về xuất khẩu mặt hàng này. Năm 2007 là năm đầu tiên khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước có mức tăng trưởng hiếm thấy, tăng 23,1%, vì trước đây, mức tăng trưởng của khối này thường thấp hơn mức tăng trưởng chung và khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tuy vậy các doanh nghiệp có vốn FDI vẫn chiếm tỷ trọng 58,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhóm các địa phương là các trung tâm kinh tế lớn vẫn tiếp tục dẫn đầu. Bình Dương vượt qua 5 tỉ USD, tăng 27,5% so với năm 2006. Hà Nội vượt 4 tỉ USD. Hải Phòng trong 11 tháng đã đạt 1 tỉ USD. Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục giữ vị trí hàng đầu, với tổng kim ngạch (không kể dầu thô) trên 6 tỉ USD. Cũng có địa phương chưa đạt mục tiêu, song do kim ngạch nhỏ nên không làm ảnh hưởng đến mức tăng trưởng cao của cả nước. Chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có trị giá lớn, công nghệ cao đang được triển khai với tín hiệu tốt. Lần đầu tiên chúng ta xuất khẩuđược thiết bị lò hơi cho Tập đoàn TKZ của Nga để bạn lắp ráp Nhà máy Điện tại Ấn Độ. Công ty dịch vụ cơ khí hàng hải cũng hạ thủy tại cảng Vũng Tầu dàn khoan khai thác dầu khí xuất khẩu sang Ma-lai-xia... Nhiều hoạt động xúc tiến thương mại được tổ chức: Hàng trăm hội trợ triển lãm với quy mô khác nhau đã diễn ra ở trong và ngoài nước, trong đó có các hội chợ có tiếng về đồ gỗ ở Hoa Kỳ, thủy sản ở châu Âu và hội chợ Trung Quốc - SEAN (CAEXPO) lần thứ 4 tại Nam Ninh, Trung Quốc; nhiều lượt đoàn cán bộ đi khảo sát các thị trường trọng điểm, tiềm năng, thị trường xa, láng giềng, tiếp tục khôi phục thị trường truyền thống Nga, Đông Âu; nhiều doanh nghiệp tháp tùng các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong những chuyến thăm nước ngoài hoặc tham gia hoạt động trong những “Ngày Việt Nam ở nước ngoài” tổ chức tại Pháp, Hàn Quốc, Ấn Độ…đã ký kết được nhiều hợp đồng, bản ghi nhớ trị giá hàng tỉ USD. Các hoạt động đó góp phần quảng bá tiềm năng kinh tế - thương mại Việt Nam; gương mặt mới về xuất khẩu của Việt Nam, nhất là thương hiệu quốc gia; giúp cho doanh nghiệp nâng cao năng lực tiếp cận thị trường, nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, trên cơ sở đó tổ chức sản xuất, kinh doanh; giúp các nhà quản lý học tập kinh nghiệm, mở rộng tầm nhìn. Nhập khẩu 2.1 Giai đoạn trước khi Việt Nam gia nhập WTO Về kim ngạch và quy mô nhập khẩu Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu bình quân giai đoạn 1991 - 2000 là 17,5%, giai đoạn 2001 - 2006 là 19%. Nếu năm 1995 kim ngạch là 8,155 tỉ USD, năm 2000 và 2004 con số đó tương ứng là 15,637 và 31,969 tỉ USD, thì năm 2005 và 2006 đã đạt tới con số 36,978 và 44,410 tỉ USD. Nhìn chung tăng trưởng nhập khẩu của nước ta không ổn định qua các thời kỳ. Bởi vì nó còn phụ thuộc vào tình hình kinh tế thế giới và khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài của nước ta. Giai đoạn 1993 - 1996 tốc độ tăng trưởng nhập khẩu đạt con số kỷ lục, có năm đạt tới 54,4% (năm 1993), sau đó giảm sút do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, phục hồi ở mức cao năm 2000 (33,2%), từ năm 2001 đến nay tương đổi ổn định ở mức trên 20%. Nhập siêu của nước ta gia tăng khá nhanh, năm 2000 là 1.153,8 triệu USD, năm 2003 là 5.106,5 triệu USD và năm 2004 là 5.483,8 triệu USD. Hai năm 2005 và 2006, con số đó tương ứng là 4.536,1 và 4.805,0 triệu USD. So với năm 2005, nhập khẩu năm 2006 tăng ở tất cả các thị trường. Mặc dù giá trị nhập siêu có tăng nhẹ so với dự báo từ đầu năm, nhưng tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu chỉ là 12,1%, thấp hơn so với 15,6% của năm 2005. Giai đoạn 2001-2006, nước ta đẩy mạnh hội nhập và công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong ngắn hạn xuất khẩu chưa thể tăng kịp so với nhập khẩu. Tuy nhiên, một điều đáng lưu ý là trong quý I năm 2007, tốc độ tăng của nhập khẩu cao gần gấp đôi tốc độ tăng của xuất khẩu (33,6% so với 17,9%) và nhập siêu mới chỉ trong một quý đó lên đến 1.315 triệu USD. Về cơ cấu mặt hàng nhập khẩu Xét theo cơ cấu nhóm hàng, cơ cấu nhập khẩu có sự biến động giữa hai nhóm hàng tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng. Nhập khẩu hàng tiêu dùng có xu hướng giảm nhanh. Trước năm 1995, tỷ trọng nhóm hàng nhập khẩu tiêu dùng dao động trong khoảng 13% - 15%. Từ năm 1996 đến nay, tỷ lệ này đã giảm xuống đáng kể và ổn định ở mức 7% - 8%. Xét trong cả giai đoạn từ 2000-2006, hàng tiêu dùng nhập khẩu chiếm tỷ trọng bình quân 7% - 11%. Điều này đã thể hiện đúng định hướng nhập khẩu của nước ta là: giảm tỷ trọng hàng nhập khẩu phục vụ tiêu dùng, tăng tỷ trọng hàng nhập khẩu là máy móc thiết bị, nguyên vật liệu cho sản xuất, đồng thời cũng phản ánh xu hướng: nhập khẩu đã góp phần phát triển sản xuất trong nước theo hướng thay thế nhập khẩu hàng tiêu dùng. Tỷ trọng nhóm hàng nhập khẩu là tư liệu sản xuất từ năm 1996 đến nay tương đối ổn định, dao động từ 91 - 93%. Trong nhóm hàng tư liệu sản xuất, nhóm máy móc thiết bị, động cơ, phụ tùng và nguyên, nhiên vật liệu chiếm tỷ trọng tương đối ổn định, ít có thay đổi lớn. Tuy vậy, nguyên, nhiên vật liệu trong giai đoạn 2000 - 2006 vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng giá trị nhập khẩu (63,2% - 76,5%) Bảng 1: Nhập khẩu phân theo nhóm hàng (%) Năm Nhóm hàng 1990 1995 2000 2003 2004 2005 2006 A. Tư liệu sản xuất 85,1 84,8 93,8 93,6 93,1 89,6 91,3 Máy móc và thiết bị 27,3 25,7 30,6 32,4 30,4 14,3 14,8 Nguyên, nhiên, vật liệu 57,8 59,1 63,2 61,2 62,7 75,3 76,5 B. Vật phẩm tiêu dùng 14,9 15,2 6,2 6,4 6,9 10,4 8,7 Thực phẩm 2,5 3,5 1,9 2,3 2,4 - - Hàng y tế 1,5 0,9 2,2 1,6 1,9 1,4 1,2 Hàng tiêu dùng khác 10,9 10,8 2,1 2,5 2,6 8,9 7,5 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Nguồn: Tổng cục Thống kê Trị giá nhập khẩu tăng và xu hướng tăng tỷ trọng tư liệu sản xuất là kết quả tất yếu của tăng cường xuất khẩu. Tuy nhiên, tốc độ tăng cao của nhóm nguyên nhiên vật liệu cũng cho thấy sự phụ thuộc của hàng xuất khẩu vào nguyên liệu nhập khẩu còn khá lớn. Chẳng hạn, nguyên liệu nhập khẩu trong ngành may mặc chiếm đến 70%, da giày: 80%, ngành gỗ 50%, ngành nhựa: 85%, ngành điện tử: 90%. Điều đó nói lên tính chất gia công còn cao, giá trị gia tăng trong tổng kim ngạch xuất khẩu còn thấp. Tỷ trọng nhập khẩu các mặt hàng chủ yếu cũng có những thay đổi. Nếu so sánh số liệu 10 mặt hàng chủ yếu nhập khẩu bình quân giai đoạn 2001-2006 với giai đoạn 1996-2000 có thể thấy mức tiêu thụ các mặt hàng nguyên nhiên vật liệu tăng khá. Xăng dầu, nguyên phụ liệu may mặc, da giầy, phân bón và sắt thép vẫn là những mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn nhất. Bên cạnh đó, nhập khẩu các mặt hàng phân bón, xe máy có xu hướng chững lại, trong khi đó nhu cầu nhập khẩu ô tô những năm gần đây tăng khá nhanh. So với các nước đang phát triển trong khu vực tỷ lệ nhập khẩu máy móc - thiết bị của họ thường chiếm 30% - 40% tổng kim ngạch nhập khẩu thì tỷ trọng nhập khẩu máy móc ở Việt Nam như vừa qua vẫn còn thấp. Điều này cho thấy việc Diễn đàn Kinh tế thế giới xếp nước ta vào hàng rất thấp về đổi mới công nghệ và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế là điều dễ hiểu. Nguyên, nhiên, vật liệu nhập khẩu chiếm tỷ trọng cao, đồng thời tỷ trọng nhập khẩu máy móc thiết bị khá nhỏ bé và hầu như không được cải thiện trong khoảng thời gian dài (1996-2006) cho thấy xuất khẩu nước ta quá phụ thuộc vào nguyên liệu nước ngoài và công nghệ chậm được thay đổi và mở rộng. Điều này cho thấy sự phát triển yếu kém của ngành công nghiệp phụ trợ cũng như sản xuất thay thế nhập khẩu, sự yếu kém về khả năng cạnh tranh của nền kinh tế xét theo năng suất nhân tố tổng hợp (TFP)(1). Do đó nếu không đổi mới công nghệ, việc nhập khẩu các sản phẩm trung gian sẽ không cải thiện được giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu. Điều này sẽ hạn chế việc cải thiện cán cân thương mại trong dài hạn. Bảng 2: Nhập khẩu bình quân năm của 10 mặt hàng chủ yếu giai đoạn 1996 - 2000 và 2001- 2006 Thứ tự Mặt hàng Bình quân năm (triệu USD) Tỷ lệ so sánh (%) 1996 - 2000 2001 - 2006 1 Xăng dầu 1.234 4.831 391,6 2 Nguyên phụ liệu may, da giày 1.042 1.971 189,2 3 Sắt thép 586 4962 846,8 4 Vải may mặc 410 - - 5 Ô tô 190 882 464,1 6 Chất dẻo 357 1081 302,8 7 Phân bón 491 3541 721,2 8 Xe máy 425 406 95,6 9 Tân dược 285 423 148,4 10 Tơ, xơ, sợi dệt 188 373 198,7 Về cơ cấu thị trường nhập khẩu Đến hết năm 2006, thị trường nhập khẩu của Việt Nam đã được mở rộng tới 170 nước và vùng lãnh thổ. Châu Á là thị trường có kim ngạch nhập khẩu cao nhất, đạt trên 35,84 tỉ USD, tăng 42,6% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 80,7% kim ngạch nhập khẩu của các thị trường. Trong đó, khu vực Đông - Nam Á đạt kim ngạch 10,85 tỉ USD, tăng 39,7% so với cùng kỳ năm 2005. Châu Âu là thị trường có kim ngạch nhập khẩu đứng thứ hai với gần 5,44 tỉ USD, tăng 26,4% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 12,2% kim ngạch nhập khẩu của các thị trường. Trong đó, các nước EU ( gồm 25 nước thành viên) đạt kim ngạch 3,72 tỉ USD so với cùng kỳ năm trước. Châu Mỹ là thị trường có kim ngạch nhập khẩu đứng thứ 3, đạt gần 1,9 tỉ USD, tăng 20,6% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 4,2% kim ngạch nhập khẩu của các thị trường. Châu Đại Dương đạt kim ngạch 778 triệu USD, tăng 31,9% so với cùng kỳ năm trước, chỉ chiếm 1,8% kim ngạch nhập khẩu của các thị trường. Châu Phi - Tây Nam Á là thị trường có kim ngạch nhập khẩu thấp nhất trong các thị trường nhập khẩu của Việt Nam chỉ mới đạt 322 triệu USD, chiếm 0,7% kim ngạch nhập khẩu của các thị trường, nhưng lại là thị trường có tốc độ tăng trưởng cao nhất, tăng 77,7% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, khu vực châu Á (chủ yếu là ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Công, Đài Loan) là thị trường nhập khẩu lớn nhất của nước ta trong thời gian qua do có những lợi thế về vị trí địa lý, giá cả. Đồng thời, đây cũng là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ cao. Khu vực này cung cấp chủ yếu nguyên liệu, phụ liệu, máy móc phụ tùng và hàng tiêu dùng. Quy mô và tốc độ tăng của từng khu vực thị trường có thể thấy qua bảng sau: Bảng 3: Tỷ trọng một số thị trường nhập khẩu chủ yếu, giai đoạn 1996 - 2006 (%) Năm Thị trường 1996 - 2000 2001 2004 2005 2006 Châu Á 74,2 79,7 74,2 80,7 80,7 Châu Âu 17,2 13,5 16,4 12,3 12,3 Châu Phi 0,5 0,2 0,85 0,7 0,7 Châu Mỹ 4,3 4,1 6,9 4,3 4,3 Châu Đại Dương 3,8 2,5 1,65 1,8 1,8 Nguồn: Tổng cục Thống kê và Bộ Thương mại Bảng 4: Cân đối xuất nhập khẩu của Việt Nam Đơn vị: triệu USD Năm Thị trường 2005 2006 Kim ngạch nhập khẩu Kim ngạch xuất khẩu Chênh lệch xuất khẩu,nhập khẩu Kim ngạch nhập khẩu Kim ngạch xuất khẩu Chênh lệch xuất khẩu,nhập khẩu Châu Á 29.844 18.857 -10.987 35.843 20.840 -15.003 Châu Âu 4.528 5.834 1.306 5.438 7.650 2.212 Châu Phi 268 886 618 322 1.915 1.593 Châu Mỹ 1.569 6.866 5.297 1.885 9.200 7.315 Nguồn: Bộ Thương mại Như vậy, cơ cấu thị trường nhập khẩu bắt đầu có sự chuyển đổi: ngoài các thị trường truyền thống vẫn còn thấp cả về quy mô và tốc độ, nhưng đã bắt đầu có sự gia tăng nhập khẩu máy móc, thiết bị, phụ tùng từ những thị trường có trình độ công nghệ cao như EU, Mỹ, Nhật Bản, Ca-na-đa… Có thể thấy rằng, cơ cấu thị trường nhập khẩu của nước ta từ năm 1996 đến nay không có thay đổi lớn và dự báo sẽ ít có sự thay đổi trong những năm tới. Vì vậy, để hạn chế nhập siêu cần có những biện pháp tích cực, trước hết là đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường này đồng thời phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ để hạn chế nhập khẩu nguyên liệu đầu vào. Nhập khẩu theo thành phần kinh tế Nhập khẩu đã có sự thay đổi đáng kể theo thành phần kinh tế từ năm 1995 đến nay. Trước năm 1995, nhập khẩu chủ yếu phục vụ cho các ngành kinh tế trong nuớc. Kể từ năm 1995, nhập khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh với tốc độ bình quân 34,7%/năm và đến nay đạt khoảng 35%. Một điều đáng lưu ý là khu vực FDI, nhập khẩu chỉ bằng 50% khu vực vốn đầu tư trong nước nhưng chiếm tới 55% giá trị xuất khẩu. Và từ năm 1995 đến nay khu vực này toàn xuất siêu với mức độ ngày càng tăng. Năm 2006 xuất siêu tới 5,55 tỉ USD, trong khi đó khu vực trong nước nhập siêu tới 10,3 tỉ USD. Điều này cho thấy, chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu đã phát huy hiệu quả, đồng thời thể hiện khả năng cạnh tranh xuất khẩu của nó hơn hẳn so với khu vực trong nước do có lợi thế về công nghệ, định hướng mặt hàng và thị trường. Bảng 5: Cơ cấu nhập khẩu phân theo thành phần kinh tế, 1995-2006 Năm 1995 2000 2003 2004 2005 2006 Tổng kim ngạch (tr. USD) 8.155 15.636 25.226 31.969 36.978 44.410 Tốc độ tăng trưởng (%) 34,4 33,2 27,8 26,7 15,7 20,1 DN 100% vốn trong nước (tr. USD) 6.687 11.284 16.412 20.554 23.400 28.050 - Tỷ trọng 80,2 72,2 65,1 65,2 63 63,2 - Tăng trưởng (%) 27,9 34,9 25,8 25,2 13,8 19,9 Cân đối XNK (tr. USD) -2.711 -3.612 -6.397 -8.812 -9.511 -11.310 DN có vốn ĐTNN (tr. USD) 1.468 4.352 8.815 10.962 13.600 16.360 - Tỷ trọng 18,0 27,8 34,9 34,8 37 36,8 - Tăng trưởng (%) 144,3 28,7 31,5 24,4 24,1 20,3 Cân đối XNK (tr. USD) 5,0 1.813 1.346 3.299 4.953 6.505 Nguồn: Tổng cục Thống kê Tuy kim ngạch xuất khẩu gia tăng nhưng hàng hóa thuộc loại hình gia công còn lớn, hàm lượng nguyên liệu phải nhập khẩu cao. Vì vậy, kiềm chế và hạ thấp tỷ lệ nhập siêu tuy là những mục tiêu phấn đấu, nhưng trong những năm trước mắt là chưa phù hợp . Từ phân tích thực trạng và cơ cấu xuất khẩu trong thời gian qua có thể rút ra một số kết luận sau đây: - Tỷ trọng nguyên, nhiên vật liệu trong các mặt hàng nhập khẩu còn cao, máy móc thiết bị còn thấp như hiện nay cho thấy mức độ đổi mới công nghệ nước ta rất chậm. Xét về dài hạn, yếu kém về công nghệ sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá thay thế nhập khẩu. Do đó, trong tương lai sẽ khó có thể tạo ra được những bước đột phá để cải thiện cán cân thương mại. - Tính gia công của sản xuất, tính đại lý của thương mại ở nước ta còn rất lớn. Tỷ trọng nguyên liệu nhập siêu cao cho thấy ngành công nghiệp phụ trợ nước ta đang còn kém phát triển, công nghiệp chế biến tăng trưởng chậm, các ngành sản xuất phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu đầu vào nhập khẩu. Điều này cũng sẽ cản trở việc cải thiện cán cân thương mại vì không thể giảm nhập khẩu nguyên liệu. - Tỷ trọng nguyên liệu, phụ liệu nhập khẩu phục vụ cho xuất khẩu cao thể hiện giá trị gia tăng thấp của nhiều mặt hàng xuất khẩu như dệt may, da giày, đồ gỗ, điện tử. Nhập khẩu chưa kích thích xuất khẩu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao giá trị gia tăng. Hạn chế này cũng sẽ gây khó khăn cho việc cải thiện cán cân thương mại. - Với tỷ trọng nhập khẩu cao từ các thị trường châu Á (nhập siêu chủ yếu với các thị trường này), những nước có trình độ công nghệ trung bình và xuất siêu đối với các thị trường có công nghệ nguồn, cho thấy Việt Nam đang đi theo lý thuyết “đàn sếu bay” một cách tuần tự, nhưng tốc độ lại chậm hơn nhiều so với các nước công nghiệp mới (NICs). Điều này sẽ gây khó khăn cho việc phát triển theo kiểu rút ngắn, đi tắt đón đầu, xác định vị thế quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu. Trong bối cảnh đó, nguy cơ tụt hậu sẽ rất lớn, vì nguồn tài nguyên đang có xu hướng cạn kiệt. Nếu phát triển xuất khẩu theo hướng sử dụng ngày càng nhiều tài nguyên như hiện nay thì việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng hơn nữa là điều khó khăn, lợi thế trong hội nhập sẽ giảm đáng kể. - Muốn hạn chế nhập siêu, lành mạnh hoá cán cân thương mại đang trong tình trạng thâm hụt, về nguyên tắc có thể hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên, trong bối cảnh nước ta lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp, đang đẩy mạnh hội nhập, nới lỏng rào cản để thực hiện tự do hoá thương mại thì nhập khẩu thiết bị máy móc, nguyên, nhiên, vật liệu có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó, mục tiêu hạn chế nhập khẩu để giảm mức độ nhập siêu ngay trong ngắn hạn là khó đạt được. Nhìn chung, những vấn đề nêu trên là kết quả tất yếu đối với các nước mới công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế. Tuy nhiên, nếu phân tích tính chất tăng trưởng xuất khẩu và nhập khẩu trong những năm gần đây, sẽ thấy tình trạng thâm hụt cán cân thương mại chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro, ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Những biểu hiện đó là: Hiệu quả sử dụng vốn thấp, đầu tư vào những ngành cần nhiều vốn và mức sinh lời thấp, thay thế nhập khẩu, sử dụng ít lao động và kích thích tiêu dùng trong nước hơn là xuất khẩu. Khả năng của những ngành xuất khẩu có giá trị gia tăng cao còn hạn chế, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu sang công nghiệp chế biến và kỹ thuật cao thể hiện xu thế của công nghiệp hóa và hội nhập sâu chưa thật rõ nét. Sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp và chậm được cải thiện. Quá trình xây dựng các thể chế của kinh tế thị trường diễn ra chậm. Kiểm soát và hạn chế nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng để cải thiện cán cân thương mại. Tuy nhiên, nếu thực thi một cách quyết liệt sẽ tác động rất lớn đến quá trình đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Việc hoàn thiện và đổi mới chính sách nhập khẩu để khuyến khích nhập khẩu cạnh tranh nhằm đổi mới công nghệ, phát triển công nghiệp phụ trợ, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu và hàng sản xuất thay thế nhập khẩu có thể xem là hướng đi hợp quy luật trong bối cảnh hiện nay. 2.2 Giai đoạn sau khi Việt Nam gia nhập WTO Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 9/2008 ước tính đạt 5,8 tỷ USD, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm trước và giảm 7,6% so với tháng 8/2008. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng giảm so với tháng trước là: Xăng dầu, sắt thép, sữa, chất dẻo, máy móc thiết bị, ô tô; trong đó xăng dầu giảm 308 triệu USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng giảm 96 triệu USD.   Tính chung kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 9 tháng ước tính đạt 64,4 tỷ USD, tăng 48,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 43 tỷ USD, tăng 53,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 21,4 tỷ USD, tăng 39,5%. Trong tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu 9 tháng, tư liệu sản xuất chiếm 90,7%; hàng tiêu dùng chiếm 5,7%.   Kim ngạch nhập khẩu 9 tháng tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước do lượng và giá nhập khẩu đều tăng cao. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của 5 mặt hàng (xăng dầu, sắt thép, phân bón, chất dẻo và giấy) thì tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu 9 tháng năm 2008 ước tính đạt 58 tỷ USD, tăng 33,7% so với cùng kỳ năm trước.     Hàng hoá nhập khẩu từ các nước ASEAN vẫn chiếm tỷ trọng lớn và tăng với tốc độ cao, ước tính 9 tháng đạt 15,7 tỷ USD, chiếm 24,4% tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu, tăng 70% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là Trung Quốc 12 tỷ USD, chiếm 18,6% và tăng 44,6%; EU 4,1 tỷ USD, chiếm 6,4% và tăng 13,8%. Một số thị trường khác tuy thị phần không lớn nhưng cũng có tốc độ tăng cao như Mỹ tăng 80%; Nhật Bản tăng 51%; Hàn Quốc tăng 50%; Đài Loan tăng 45%.     Nhập siêu những tháng gần đây đã giảm nhanh (Từ mức nhập siêu 3,2 tỷ USD tháng 4 đã giảm xuống còn 1,9 tỷ USD tháng 5; 728 triệu USD tháng 6; 753 triệu USD tháng 7; 258 triệu USD tháng 8 và 500 triệu USD tháng 9). Nhập siêu hàng hóa 9 tháng là 15,8 tỷ USD, tăng 86% so với cùng kỳ năm trước và bằng 32,6% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu. Một số hạn chế Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong xuất khẩu vẫn còn bộc lộ một số tồn tại: Hàng da giày, do còn nhiều bất cập từ tổ chức sản xuất đến phương thức xuất khẩu, nhất là khi bị áp mức thuế 10% trong vụ kiện Chống bán phá giá giầy mũ da vào thị trường EU; nhiều doanh nghiệp chưa thực sự linh hoạt trong việc chuyển dịch cơ cấu sản phẩm và thị trường, nên mặt hàng này đạt mục tiêu khá chật vật. Vẫn còn một tỷ lệ khá lớn các mặt hàng xuất khẩu dưới dạng thô, qua trung gian, tỷ lệ gia công cao, đơn hàng trị giá thấp, khiến phần lớn giá trị gia tăng đều rơi vào tay công ty nước ngoài. Hàng thủ công mỹ nghệ sau chuỗi tăng trưởng cao, đến năm nay tình trạng thiếu gay gắt về nguyên liệu đã bắt đầu bộc lộ, từ chỗ 90% dùng nguyên liệu trong nước, nay tỷ lệ nhập khẩu tới 60%. Mẫu mã tự sáng tác còn nghèo nàn, nên phải dùng gần 90% số mẫu do nước ngoài đặt hàng, vì thế chưa tạo được nét bản sắc của Việt Nam trong mỗi sản phẩm. Xe đạp và phụ tùng xe đạp là mặt hàng duy nhất có kim ngạch xuất khẩu bị tụt dốc- Giá và nhu cầu một số nguyên, vật liệu nhập khẩu “nóng lên”: giá thép thành phẩm tăng thêm 93 USD/tấn; phôi thép tăng 105 USD/tấn; phân bón tăng 21 USD/tấn; chất dẻo tăng 144 USD/tấn; sợi tăng 151 USD/tấn, kim loại thường khác tăng 469 USD /tấn, kết hợp với nhu cầu xăng dầu, thép thành phẩm, phân bón, sợi các loại đều tăng mạnh đã đẩy trị giá nhập khẩu tăng thêm khoảng trên 7 tỉ USD. Trong khi đó, chúng ta không có mặt hàng nào tận dụng cơ hội này xuất khẩu đối ứng để “hạ nhiệt” nhập khẩu và nhập siêu. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thấp hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu. Nhập siêu là hiệu số của kim ngạch nhập khẩu trừ (-) kim ngạch xuất khẩu và tỷ lệ nhập siêu là thương số của trị giá nhập siêu với kim ngạch xuất khẩu. Mấy năm trước đây, xuất khẩu thường tăng nhanh hơn nhập khẩu, nhưng năm 2007 chẳng những không cùng tăng ở thế đồng hành, mà lại đổi ngôi kết cục trên là không thể tránh khỏi. Vấn đề điều hành nhập nguyên liệu phế thải còn nhiều bất cập. Ví dụ như vụ nhập lô hàng 6.685 tấn thép phế thải trị giá khoảng 2,5 triệu USD do các Công ty cổ phần Kim khí (Thành phố Hồ Chí Minh); Công ty TNHH Thương mại Anh Trang, Công ty Cổ phần thép Đình Vũ (Hải Phòng); Công ty TNHH Techmart, Tập đoàn Hoà Phát (Hà Nội) nhập về cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn đều bị các cơ quan chức năng không cho thông quan vì cho rằng vi phạm Luật Môi trường, trong khi đó một số cơ quan chức năng khác lại chứng thực là được phép. Rõ ràng ở đây có vấn đề trong sự vận dụng các văn bản pháp quy về việc nhập khẩu loại hàng này. Thủ tục hành chính trong vận hành xuất khẩu và xuất khẩu tuy đã được cải tiến nhiều, nhưng đâu đó vẫn còn phiền hà, phải "làm luật" mỗi khi vận tải trên đường, ở bến bãi và qua cửa khẩu. Dưới sức ép của toàn cầu hoá kinh tế, cạnh tranh ngày càng gay gắt, ngày càng xuất hiện nhiều hình thức rào cản thương mại mới, tinh vi như áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm hay các biện pháp chống bán phá giá, do đó, một mặt, chúng ta phải nâng cao năng lực của nền kinh tế, của từng doanh nghiệp, đồng thời cần nâng cao khả năng nhận biết sớm các rào cản đó để kịp thời ứng phó nhằm đạt được sự công bằng trong quan hệ thương mại quốc tế. Theo xu thế chung, thể chế kinh tế nói chung và ngoại thương nói riêng sẽ tiếp tục được minh bạch trong môi trường chính trị - xã hội ổn định. Tuy vậy, không nên chỉ dừng ở việc hoàn thiện trên văn bản, mà phải chỉ đạo sát sao cùng với điều hành nhất quán của các bộ, ngành, với sự tham gia của các hiệp hội ngành hàng; trong đó khuyến khích khả năng sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp. Cải cách hành chính cần được tiếp tục đẩy mạnh để giúp các doanh nghiệp giảm phí, thời gian, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, khả năng cạnh tranh, tạo ra nhiều tích luỹ ban đầu, chuẩn bị cho những bước tiến mới. Tác động của hội nhập WTO đến một số ngành có lợi thế so sánh của Việt Nam Gia nhập WTO chúng ta có thị trường xuất khẩu rộng lớn bao gồm 150 thành viên với mức cam kết về thuế nhập khẩu đã và sẽ được cắt giảm cùng các biện pháp phi quan thuế cũng sẽ được loại bỏ theo nghị định thư gia nhập của các thành viên này mà không bị phân biệt đối xử. Điều đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu. Với tư cách là thành viên của WTO, hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu của Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn hơn chủ yếu là do những hỗ trợ trực tiếp có tính trợ cấp của Chính phủ sẽ phải hạn chế sử dụng. Vì vậy, cơ cấu hàng xuất và dịch vụ xuất khẩu của Việt Nam phải chuyển dịch trên định hướng của Chính phủ, lợi thế so sánh, nhu cầu của thị trường thế giới và xu hướng dịch chuyển sản xuất giữa các khu vực trên thế giới. Sau đây đi sâu vào phân tích một số ngành được đánh giá là có lợi thế so sánh của Việt Nam: 1. Dệt may: Như đã được nhiều chuyên gia dự đoán, theo số liệu của Hải quan Hoa Kỳ, mười tháng đầu năm 2002 tổng xuất hàng dệt may sang Hoa Kỳ (bao gồm cả hai nhóm 61 và 62) đạt 598,4 triệu USD so với mức 39,8 triệu USD so với cùng kỳ năm 2001, thể hiện tác động tích cực của việc giảm thuế do Hiệp định Thương mại đem lại. Năm nay xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ ước đạt xấp xỉ 900 triệu USD cho các doanh nghiệp tận dụng tối đa xuất hàng FOB, giảm dần tỷ trọng gia công thuần tuý cho đối tác. Những con số trên cho thấy tiềm năng xuất khẩu to lớn của ngành công nghiệp dệt may. Lợi thế giá nhân công rẻ, lực lượng lao động dồi dào và ham học hỏi là khá rõ ràng. Tuy nhiên cần nhận thức được việc xuất khẩu dệt may cũng có giới hạn. Giá trị gia tăng sản xuất tại Việt Nam chưa cao cùng với hạn chế về số lượng mà Hoa Kỳ sẽ áp dụng trên cơ sở Hiệp định dệt may đang đặt ra bài toán quy mô đầu tư và chiến lược xuất khẩu cho các công ty may mặc Việt Nam. Xét về cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may, hàng dệt kim và dệt thoi là nhóm hàng chủ đạo chiếm 95,5%. Một số nhóm hàng mới xuất hiện như túi vải các loại hiện bắt đầu xuất vào Hoa Kỳ với tốc độ tăng cao mặc dù giá trị kim ngạch còn thấp. Hướng mới trong chiến lược kinh doanh hàng dệt may là tận dụng tối đa sức tăng trưởng hiện tại với các loại hàng đã xuất được nhưng bắt đầu chuyển dần một phần đầu tư sang sản xuất hàng may mặc có tên tuổi. Ngoài việc bắt tay với các nhà xuất nhập khẩu thuần tuý, các doanh nghiệp Việt Nam nên tìm hiểu cơ hội hợp tác kinh doanh trực tiếp với các hãng may mặc có tên tuổi, các tập đoàn phân phối với chuỗi siêu thị rộng lớn (hiện nay một số doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu thực hiện các hợp đồng kiểu như vậy nhưng hầu hết qua một nước thứ ba). Chuyển sang một số đơn hàng số lượng ít hơn nhưng đòi hỏi cao hơn về kỹ thuật và phần giá trị gia tăng cũng cao hơn cho thấy một hướng đi đúng đắn. Để thực hiện điều này, ngoài di chuyển về vốn, di chuyển về nhân lực bao gồm đào tạo và chuyển đổi một bộ phận tay nghề cao trong lao động dệt may sẽ trở thành một nhu cầu vô cùng cấp thiết. Thành công đáng ghi nhận của ngành dệt may trong thời gian này là đã nâng kim ngạch xuất khẩu năm 2007 lên trên 7,8 tỷ USD, gấp 2,2 lần so với năm 2004 và chiếm tới 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Kết quả này đã đưa Việt Nam vươn lên vị trí thứ 9 trong các nước xuất khẩu hàng dệt may trên thế giới. Đà tăng trưởng này tiếp tục được duy trì trong 10 tháng đầu năm 2008 với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 7,64 tỷ USD, tăng 20,3% so với cùng kỳ năm trước. Hiện Hoa Kỳ đang là thị trường xuất khẩu của Việt Nam, chiếm tới 57% thị phần xuất khẩu, vượt xa so với thị trường tiềm năng khác là EU chiếm 18%, Nhật Bản 9%. Bên cạnh việc mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước, ngành dệt may Việt Nam còn góp phần vào giải quyết việc làm cho người lao động. Hiện cả nước có khoảng 2.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt may với trên 2 triệu lao động. Theo bà Đinh Thị Ty, đại diện Hiệp hội Dệt may Việt Nam: để đạt được mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 12 tỷ USD vào năm 2010, các doanh nghiệp cần xác định chiến lược kinh doanh phù hợp để hạn chế tác động bất lợi và khai thác triệt để những lợi thế cạnh tranh. Hiệp hội sẽ phối hợp với cơ quan chức năng xây dựng chiến lược phát triển ngành, tăng cường hợp tác quốc tế và hoạt động xúc tiến thương mại để xây dựng và quảng bá rộng rãi hơn những sản phẩm mang nhãn hiệu “made in Việt Nam” trên thị trường quốc tế 2. Giày dép: 10 tháng đầu năm 2008 tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giày dép chỉ ở mức 59% thấp hơn nhiều so với mong đợi bởi xuất phát điểm xuất khẩu giày dép từ Việt Nam khá thấp. Với giá trị xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt dưới 180 triệu USD, tình hình xuất khẩu giày dép sang thị trường Hoa Kỳ không nằm ngoài tình hình ảm đạm chung của ngành giày dép Việt Nam. Chi phí cao, mẫu mã không thích hợp là những điểm yếu cố hữu của ngành công nghiệp truyền thống này. Tuy nhiên ngay cả với thị trường Hoa Kỳ, một thị trường có thể coi là mới sau khi Hiệp định có hiệu lực, tăng trưởng xuất khẩu từ các công ty và nhà máy Việt Nam không cao như mong đợi. Cho dù một số công ty giày dép nổi tiếng của Hoa Kỳ như Nike đã có mặt từ rất lâu nhưng xuất khẩu của các công ty giày Việt Nam vẫn không biến đổi đáng kể. Một số lý do sau đây giải thích cho hiện tượng trên: Dòng vốn đầu tư đổ dồn vào Trung Quốc nói chung và ngành giày dép Trung Quốc nói riêng tạo môi trường không thuận lợi cho mở rộng đầu tư ngành giày dép Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài tỏ ra ít mặn mà với sản xuất giày dép tại Việt Nam với nhận xét giá nhân công cao hơn Trung Quốc và một số điều kiện cơ sở hạ tầng đi kèm và hỗ trợ cho ngành này không mạnh như Trung Quốc. Ngoài lý do khách quan nêu trên, một lý do mang tính đặc thù của giày dép đó là thị trường giày dép Hoa Kỳ đòi hỏi cao hơn thị trường may mặc. Cũng như các nước phát triển khác, người tiêu dùng giày dép đặc biệt có ấn tượng và thành kiến tích cực với các thương hiệu nổi tiếng như Nike Ađidas (giày thể thao), Timberland, Hawkin (giày casual) v.v... Do vậy các nhà sản xuất giày Việt Nam hầu như không thể đặt chân vào thị trường với sản phẩm tuy rẻ mà không tên tuổi của mình. Hàng chục nghìn đôi giày tăng thêm trong xuất khẩu giày dép sang Hoa Kỳ trong năm qua chủ yếu là từ Nike và một số hãng nổi tiếng khác của Hoa Kỳ. Trong số các nhà máy may trong hệ thống chân rết của Nike tại Việt nam không hề có bóng dáng một công ty thuần tuý Việt Nam (tất cả đều là 100% vốn đầu tư của Hàn Quốc và Đài Loan). Lý do cơ bản các doanh nghiệp Việt Nam thất bại trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn của Nike là vốn đầu tư không đủ. Trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không một doanh nghiệp nội địa nào có mức vốn đầu tư cho sản xuất và đào tạo công nhân vượt quá 30 triệu USD. Đây là một thực tiễn đáng buồn của ngành giày dép trong nước. Ngành giày dép vốn có thế mạnh tương đối so với may mặc về giá trị gia tăng nay chỉ còn thuần tuý giải quyết vấn đề lao động. Ngay cả hiệu ứng giải quyết công ăn việc làm này cũng đang bị đe doạ bởi làn sóng rút đầu tư chuyển sang Trung Quốc. Điểm sáng duy nhất của ngành là đánh giá tích cực của một số đối tác nước ngoài về khả năng nâng cao tay nghề của các công nhân Việt Nam thực hiện được những kiểu giày có đọ khó cao (ví dụ hiện đã có khả năng làm giày bóng rổ basketball shoes). Vấn đề tồn tại chính là sắp xếp và điều chỉnh đầu tư ngành giày dép trong nước để đạt được quy mô yêu cầu về vốn. 3. Hải sản: Tiếp tục là một trong những nhóm hàng chủ lực trong xuất khẩu của Việt Nam, 10 tháng đàu năm 2008 giá trị xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường Hoa Kỳ đạt 484,4 triệu USD tụt xuống vị trí thứ hai sau hàng may mặc do tốc độ tăng trưởng có dấu hiệu chững lại và suy giảm (đạt 24%). Xu hướng này có nguyên nhân cơ bản từ giới hạn khả năng sản xuất của Việt Nam. Thứ nhất, diện tích nuôi trồng và khả năng đánh bắt cũng như các nguồn nhân lực là có hạn. Thứ hai, mức chênh lệch thuế MFN-non MFN mặt hàng thuỷ sản không quá cao nên mặt hàng này đã xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ trước khi Hiệp định thương mại song phương có hiệu lực và đạt được kim ngạch nhất định. Thứ ba, những hàng rào bảo hộ kỹ thuật gần đây do chính quyền Hoa Kỳ đặt ra như yêu cầu về tên gọi, vụ kiện chống phá giá v.v... đã gây tác động tiêu cực lên việc tiêu thụ một số nhóm hàng thuỷ sản. Những vụ kiện mới đây liên quan đến hàng thuỷ sản Việt Nam từ một khía cạnh khác cho thấy hàng thuỷ sản của ta đã khẳng định được vị thế của mình trên thị trường Hoa Kỳ. Trước sự công nhận tự nhiên của người tiêu dùng Hoa Kỳ về chát lượng và sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam, những nhà sản xuất thuỷ sản Hoa Kỳ không còn cách nào khác đã phải vận động kêu gọi bảo hộ với cách tiến hành phi lý nhất kiện chống phá giá. Thực tiễn này cảnh báo các nhà sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản phải thận trọng trong chiến lược thị trường và đầu tư lâu dài. Duy trì giống và nghiên cứu nuôi trồng các mặt hàng thuỷ sản được ưa thích trên thị trường Hoa Kỳ, tiếp tục đảm bảo chất lượng và thời gian giao hàng trong khi tìm hiểu và mở rộng thêm thị trường mới. Trong hoàn cảnh phức tạp hiện tại, các doanh nghiệp cần tính toán chặt chẽ lượng xuất khẩu hướng tới mục đích ổn định và lâu dài. 4. Cà phê: Một xu hướng không mấy tích cực trong năm nay là sự tụt giảm liên tiếp của mặt hàng cà phê trong xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Tốc độ tăng trưởng giảm tới 33% làm 10 tháng đầu năm nay trị giá xuất khẩu cà phê chỉ đạt hơn một nửa tổng trị giá năm ngoái trên 40 triệu USD. Nguyên nhân chủ yếu là các nhân tố nội sinh của ngành do giá cà phê thế giới tăng cao và mới phục hồi. Điều kiện thiên nhiên không thuận lợi bên cạnh chiến lược sản xuất và dự trữ hàng hoá không phù hợp dẫn tới xuất khẩu cà phê vừa thiếu hụt về lượng vừa tính sai về thời điểm giao hàng khi giá chưa cao. Nguyên nhân thứ hai là sai lầm thuộc về chiến lược trồng cà phê lâu dài do cà phê robusta chiếm chủ đạo trong sản xuất của ta lại không được ưa chuộng trên thị trường Hoa Kỳ nói riêng và thế giới nói chung. Sự thay đổi về phương hướng sản xuất trong ngành là cần thiết, tăng sản lượng và tỷ lệ Arabica, củng cố vai trò định hướng và dự báo của hiệp hội và đẩy mạnh công tác xúc tiến là những việc cần làm ngay. Tất cả các mục tiêu trên chỉ thực hiện được khi các công ty thu hút được nhân lực và có đầu tư xác đáng cho phần mềm trong sản xuất và hoạch định chiến lược. 5. Cao su: Cao su là một mặt hàng có tiềm năng lớn, 11 tháng năm 2002 kim ngạch xuất khẩu đạt 13,2 triệu USD tăng 326% so với mức 3,1 triệu USD cùng kỳ năm ngoái. Điều đặc biệt là kim ngạch cao su tăng mạnh không xuất phát từ hiệu ứng giảm thuế. Trong nhóm hàng cao su, cao su phẩm chất kỹ thuật đặc biệt (TSNR) mức thuế MFN và non-MFN đều bằng không. Nhóm hàng này tăng 1,8 triệu USD lên 8,5 triệu USD, một mức tăng trưởng rất đáng khích lệ. Trong khi đó những mặt hàng khác trong nhóm mặc dù được giảm thuế từ 25% xuống 3,7% như nhóm săm cao su (HTS4013) lại biến mất khỏi thị trường xuất khẩu từ trên ba triệu USD xuống 0. Nhóm dây cao su (HTS4008) thuế giảm từ 25% xuống 0, kim ngạch giảm từ 3,5 triệu USD xuống xấp xỉ 0,5 triệu USD. Những diễn biến phức tạp trong các ngành hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ cho thấy các doanh nghiệp cần cân nhắc kỹ các khía cạnh thị trường và chất lượng. Việc sụt giảm kim ngạch xuất khẩu các phân nhóm nêu trên cho thấy các đơn hàng thử trong năm 2001 đã không đảm bảo được các yếu tố lâu dài như cạnh tranh về giá, lượng và thời hạn giao hàng. Thị trường Hoa Kỳ là một trong những thị trường nhập khẩu hàng cao su khổng lồ trên thế giới với trên 4,4 tỉ USD năm 2002 so với 3,8 tỷ USD tiếp tục là một mảnh đất hứa hẹn cho các nhà xuất khẩu Việt Nam. 6. Các sản phẩm sành sứ: Kim ngạch xuất khẩu 11 tháng đầu năm tăng mạnh 60% từ 6,6 triệu USD lên 10,4 triệu USD. Hiệp định có hiệu lực giúp tăng sức cạnh tranh đáng kể do mức giảm thuế đáng kể từ 13% - 45% xuống 0%. Các sản phẩm sành sứ hiện đang có nhiều thế mạnh khi các sản phẩm của Việt Nam bắt đầu được biết đến và công nhận trên thị trường Hoa Kỳ. IV. Kết luận Nếu xét riêng năng lực cạnh tranh từng sản phẩm cụ thể theo công thức (Xuất - Nhập) / (Xuất + Nhập) thì trừ một số sản phẩm nông nghiệp (gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu) năng lực cạnh tranh phần lớn sản phẩm của ta là thấp. Ngay cả mặt hàng dệt may, mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 2 sau dầu thô thì cũng phải nhập tới 70 -80% nguyên, phụ liệu. Các mặt hàng giày dép, sản phẩm nhựa, dây điện và cáp điện đều trong tình trạng tương tự. Đây là một trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhập siêu lớn trong năm 2007 và năm 2008. Trước khi gia nhập WTO, tỷ lệ nhập siêu của nước ta luôn ở mức dưới 20% kim ngạch xuát khẩu khẩu, Riêng các năm 2005, 2006 còn xuống dưới 15% nhưng các năm 2007, 2008 nhập siêu đã lên đến 30%. Điều này bắt nguồn từ cơ cấu sản xuất dịch chuyển chậm, công nghiệp phụ trợ kém phát triển, làm cho nền kinh tế nước ta phụ thuộc quá nhiều vào thị trường thế giới, nhất là trong điều kiện toàn cầu hoá, sự biến động từ thị trường bên ngoài tác động rất nhanh, rất mạnh đến thị trường trong nước, điều cũng đã được nêu rõ trong NQ 08. Công nghiệp phụ trợ phát triển chậm, làm gia tăng sự phụ thuộc vào thị trường thế giới, đẩy chi phí trung gian lên cao, nhất là khi giá nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới tăng mạnh. Vì vậy, chính phủ và Nhà nước cần có các biện pháp kích cầu làm giảm tỷ lệ nhập siêu trong những năm tới, ổn định cán cân thanh toán và tình hình kinh tế vĩ mô trong nước ./. Hà nội, ngày 21 tháng 3 năm 2009 MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 162.doc