Niên luận Thái độ học tập của sinh viên

Mục lục I. Phần mở đầu. 1.Lý do chọn đề tài. 2. Đối tượng nghiên cứu. II. Tổng quan các nghiên cứu về thái độ học tập của sinh viên. 1.Nghiên cứu thái độ học tập ở nước ngoài. 2.Nghiên cứu thái độ học tập ở Việt Nam. III.Các khái niệm cơ bản 1.Hoạt động học tập của sinh viên 1.1.Đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên. 1.2. Định nghĩa hoạt động học tập : 1.5.Đặc điểm của hoạt động học tập của sinh viên. 2.Thái độ học tập của sinh viên . 2.1.Thái độ 2.2.Thái độ học tập: 2.3.Thái độ học tập của sinh viên: IV. Kết luận và kiến nghị. 1. Kết luận: 2. Kiến nghị: Danh mục tài liệu tham khảo

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1843 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Niên luận Thái độ học tập của sinh viên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học quốc gia Hà Nội Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Khoa tâm lý học --------------- Niên Luận Thái độ học tập của sinh viên Hà Nội, 01-2008 Lời cảm ơn. Để hoàn thành niên luận này em xin bày tỏ long biết ơn tới giáo viên đã hết sức nhiệt tình hướng dẫn em cũng như tạo điều kiện tốt nhất để em có đủ cơ sở dữ liệu hoàn thành đó là TS.Trương Khánh Hà. Bên cạnh đó, em cũng xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến toàn thể khoa Tâm Lý học cùng các thầy cô và toàn thể các bạn sinh viên đã giúp đỡ em trong việc hoàn thành đề tài. Xin chân thành cảm ơn. Quỳnh Anh I. Phần mở đầu. 1.Lý do chọn đề tài. Trong thời kì hội nhập –thời kì mà cả nhân loại đang hướng tới nói chung và thời kì công nghiệp hóa –hiện đại hóa ở Việt Nam nói riêng thì việc nâng cao chất lượng giáo dục -đào tạo nhằm phát huy nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự phát triển kinh tế- xã hội đang là một yêu cầu khách quan và bức thiết ở nước ta hiện nay. Đại hội lần thứ VI (1986)của Đảng đã xác định :Cái thiếu lớn nhất của đất nước ta khi chuyển sang thời kì đổi mới là sự thiếu thốn về tri thức kinh tế thị trường, đội ngũ các nhà khoa học, các nhà quản lý, chuyên gia công nghệ và công nhân lành nghề từ đó Đảng đã đưa ra quyết định đúng đắn:”Gíao dục là quốc sách hàng đầu”.Với mục đích đó, công tác giáo dục hiện nay bên cạnh việc trang bị cho thế hệ trẻ những tri thức khoa học tự nhiên,khoa học kĩ thuật tiên tiến...còn cần trang bị cho họ những tri thức về chính con người. Học tập là một quá trình nhận thức đặc biệt trong đó sinh viên đóng vai trò chủ thể của hoạt động này.Thái độ học tập có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên.Sinh viên chỉ có thể hiểu sâu sắc tài liệu học tập và biến nó thành giá trị riêng nếu họ kiên trì và nỗ lực hoạt động trí tuệ để tự khám phá, phát hiện ra tri thức. Từ những lý do trên, chúng tôi đã quyết định chọn nghiên cứu”Thái độ học tập của sinh viên”làm đề tài cho niên luận của mình. 2. Đối tượng nghiên cứu. Thái độ học tập của sinh viên. 3. Mục đích nghiên cứu. Đề tài nhằm xác định thực trạng thái độ học tập của sinh viên và nguyên nhân của thực trạng đó, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp và khuyến nghị góp phần nâng cao chất lượng học tập của sinh viên. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu. Nghiên cứu các tài liệu, văn bản có liên quan đến đề tài nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài, định hướng cho việc nghiên cứu thực tiễn. 5. Phương pháp nghiên cứu. Chúng tôi chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu và phân tích những tài liệu lý luận có liên quan đến vấn đề thái độ. Trên cơ sở đó, xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài, cụ thể là làm rõ nội hàm khái niệm thái độ, cấu trúc,đặc điểm cũng như mối quan hệ giữa khái niệm thái độ với các hiện tượng tâm lý, xây dựng khái niệm thái độ học tập của sinh viên và xác định tiêu chí để đánh giá thái độ học tập của sinh viên. II. Tổng quan các nghiên cứu về thái độ học tập của sinh viên. 1.Nghiên cứu thái độ học tập ở nước ngoài. Trong tâm lý học dạy học ở Liên Xô cũ, thái độ học tập không được nghiên cứu riêng rẽ mà lồng vào trong nghiên cứu động cơ, hứng thú học tập.Các tác giả tiêu biểu đã có công trình nghiên cứu về động cơ học tập của học sinh-sinh viên như: I.L.Bogiovic(1951),A.K.Marcova (1983), Machikhina, A.I.Kovaliov(1987). Theo tác giả G.Witzlack,về cơ bản thái độ học tập và thái độ làm việc thống nhất với nhau. Ông cũng phân tích thái độ học tập trong các hình thức học tập khác nhau như thái độ học tập trên lớp, thái độ tự học...Trong các hình thức học tập ấy tác giả lại đưa ra những “điểm tựa”cho sự đánh giá thái độ học tập như:sự nỗ lực nhận thức, sự sẵn sàng thực hiện những nhiệm vụ học tập, tự đặt ra những yêu cầu cao về thành tích học tập của bản thân, sự phản ứng với những thể nghiệm thành công hay thất bại trong học tập, tinh thần vận dụng kiến thức. N.P.Lêvitốp cho rằng thái độ học tập tích cực của người học thể hiện ở chỗ:người học chú ý, hứng thú va sẵn sàng gắng sức vượt khó khăn .Tác giả đã phân tích tỉ mỉ những mặt biểu hiện này trên hành vi học tập của sinh viên trong giờ học trên lớp cũng như tự học.Những nghiên cứu này rất có ý nghĩa đối với những nghiên cứu về thái độ học tập của sinh viên. Tác giả S.Frans đã đưa ra tiêu chuẩn đánh giá về thái độ học tập và đã được thừa nhận có thể sử dụng rộng rãi.Theo tác giả này, những nội dung chung nhất về thái độ học tập tích cực đồng thời cũng bao quát được tương đối đầy đủ mọi mặt thể hiện của thái độ học tập bao gồm 10 mặt biểu hiện như sau: +Trên lớp chú ý nghe giảng. +Học bài và làm bài đầy đủ. +Cố gắng vươn lên trong học tập. +Không vội vàng phản ứng nếu có chỗ nào chưa hiểu hoặc không nhất trí với bài giảng. +Đảm bảo kỉ luật học tập để học tốt. +Cố gắng đạt thành tích học tập tốt và nâng cao thành tích học tập của mình một cách trung thực. +Thích độc lập tự thực hiện nhiệm vụ. +Hăng hái nhiệt tình trong giờ chữa bài tập và gời thảo luận. +Hoàn thành nhiệm vụ học tập một cách nghiêm túc. +Giữ gìn tài liệu một cách cẩn thận. Nhìn chung,các nghiên cứu về thái độ học tập của các tác giả nước ngoài đã đạt được những thành quả nhất định và đã được công nhận rộng rãi, là cơ sở cho các tác giả Việt Nam tham khảo khi nghiên cứu về lĩnh vực này. 2.Nghiên cứu thái độ học tập ở Việt Nam. Khi nghiên cứu thành tựu của tâm lý học thế giới và thực tiễn tâm lý học nước nhà, các nhà tâm lý học Việt Nam đã quan tâm tìm hiểu về thái độ học tập của người học nhằm đạt dược mục tiêu của công tác giáo dục. Để đánh giá thực trạng thái độ học tập của học sinh, GS.Hoàng Đức Nhuận va PGS. Lê Đức Phúc đã nêu ra những chỉ số như:chú ý, hăng hái tham gia vào mọi hình thức của hoạt động học tập, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, học thêm và làm các bài tập, vận dụng hoặc chuyển tải những gì đã học vào thực tế,hình thành và phát triển các quan hệ thầy-trò, quan hệ tình bạn nhằm giúp bản thân học tập tốt hơn, nâng cao chất lượng và kết quả học tập. Theo tác giả Đào Lan Hương:” Thái độ học tập là một bộ phận cấu thành đồng thời là một thuộc tính cơ bản toàn vẹn của ý thức học tập của chủ thể, là yếu tố quy định tính tự giác, tích cực học tập và thể hiện bằng những cảm xúc, hành động tương ứng”.(Tự đánh giá thái độ học tập môn Toán của sinh viên, Tạp chí nghiên cứu giáo dục,số 3-1998). Thái độ học tập còn được coi là một trong những biểu hiện của động cơ học tập(Phạm Minh Hạc, giáo trình dùng cho các trường ĐHSP, tập 1, NXB Giáo dục Hà Nội,1988, trang73) Theo tác giả Dương Như Xuyên, thái độ học tập là một trong những cơ sở tâm lý quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cá nhân của sinh viên ĐHSP(Dương Như Xuyên,một vài cơ sở tâm lý của việc đào tạo tay nghề sư phạm trong qui trình đào tạo mới,kỉ yếu hội thảo khoa học nhân dịp kỉ niệm 30 năm thành lập khoa tâm lý _Giaos dục ĐHSPHN). Có thể kể đến một số tài liệu liên quan tới thái độ học tập như sau: “Quan hệ giữa tự đánh giá của học sinh với thái độ học tập và động cơ học tập ‘’(Lê Ngọc Lan, kỉ yếu hội thảo Tâm lý học toàm quốc lần thứ năm, Hà Nội, 1982). “Thái độ học tập của sinh viên Đại học An Ninh Nhân Dân ‘’của Nguyễn Đức Hưởng (luận văn Thạc sĩ Tâm lý học) “Thái độ học tập của sinh viên trường ĐHSPKT Hưng Yên ”của Lê Ngọc Phương(luận văn của thạc sĩ Tâm lý học)... Nhìn chung, những đề tài về thái độ học tập thì có số lượng khá lớn.Nhưng với những đề tài về thái độ học tập nêu trên đã đạt được những kết quả nhất định trong việc chỉ ra thực trạng thái độ học tập nói chung và thái độ học tập đối với một số môn học của một số nhóm khách thể . III.Các khái niệm cơ bản 1.Hoạt động học tập của sinh viên 1.1.Đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên. Tuổi sinh viên là lứa tuổi có sự chín muồi về thể chất và đang trong giai đoạn chuẩn bị để trong tương lai trở thành chuyên gia trong một lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể .Sinh viên là một công dân thực thụ của đất nước với đầy đủ quyền hạn và nghĩa vụ trước pháp luật.ở lứa tuổi này thì những đặc điểm phát triển thể chất, môi trường và vai trò xã hội cụ thể mà trong đó họ sống và hoạt động sẽ chi phối đặc điểm sinh lý của thanh niên sinh viên .Sinh viên là con người thuộc một lứa tuổi nhất định và là một nhân cách nên có thể xác định về 3 phương diện:sinh lý, tâm lý va xã hội .Về mặt sinh học thì đây là giai đoạn hoàn tất sự thay đổi da thịt của những thiếu niên còn có vẻ nam tính thành những thiếu niên nam, nữ riêng biệt do sự tăng hormon nam trong cơ thể nam nên tới mức nhiều gấp 10-15 lần và ngược lại,hormon nữ trong cơ thể nữ cũng có số lượng nhiều để áp đảo tác dụng của một phần hormon nam còn xót lại trong cơ thể nữ.Trọng lượng não ở tuổi này đạt ở trọng lượng tối đa (khoảng 1400gr)và chứa khoảng 14-16 tỉ nơron .ở lứa tuổi thanh niên sinh viên còn có nhiều yếu tố bẩm sinh di truyền đã được biến đổi dưới ảnh hưởng của điều kiện sống và giáo dục .Đây là một nhóm xã hội dặc biệt đang chuẩn bị trực tiếp cho việc tham gia vào cuộc sống tinh thần của xã hội .Những đặc điểm phát triển tâm sinh lí của họ rất phong phú, đa dạng và không đồng đều.Những đặc điểm tâm sinh lí của sinh viên bao gồm: Sự thích nghi của sinh viên với cuộc sống và hoạt động mới . Sự thích nghi ấy tập trung chủ yếu ở :nội dung học tập mang tính chuyên nghành;phương pháp học tập mới mang tính nghiên cứu khoa học;môi trường sinh học mở rộng phạm vi quốc gia thậm chí quốc tế ;nội dung và cách thức giao tiếp với thầy cô-bạn bè và các tổ chức xã hội phong phú,đa dạng... Với mỗi sinh viên khác nhau thì sự thích ứng cũng khác nhau tùy thuộc vào tâm lý cá nhân và môi trường sống cụ thể qui định.Nhiều công trình nghiên cứu cũng cho thấy :Nhìn chung sau một thời gian học tập ở trường đại học cao đẳng,đa số sinh viên thích ứng khá nhanh chóng với môi trường xã hội mới trên cơ sở tình bạn của những người trẻ tuổi . Khó khăn mà sinh viên phải gặp là sự thích nghi được với nội dung, phương pháp học tập mới có tính chất nghiên cứu khoa học và học nghề đối với những chuyên gia tương lai. Có thể nói, sự thích nghi có ảnh hưởng trực tiếp trong học tập của sinh viên. Sự phát triển về nhận thức, trí tuệ của sinh viên . Hoạt động nhận thức của sinh viên chủ yếu là đi sâu, tìm hiểu môn học,những chuyên ngành khoa học cụ thể một cách chuyên sâu để nắm được đối tượng,nhiệm vụ,phương pháp, qui luật của các khoa học đó,với mục đích trở thành những chuyên gia về các lĩnh vực nhất định .Hoạt động nhận thức của họ một mặt phải kế thừa những thành tựu đã có,mặt khác phải tiếp cận những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến hiện đại mang tinh thời sự .Có thể nêu ra các đặc điểm sau đây trong hoạt động nhận thức của sinh viên: +) Sinh viên học tập nhằm lĩnh hội tri thức khoa học, kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp và phẩm chát nhân cách của người chuyên gia tương lai. +) Hoạt động học tập của sinh viên diễn ra một cách có kế hoạch,mục đích, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp, đào tạo phù hợp nhằm phát huy năng lực sở trường cử sinh viên . +) Phương tiện hoạt động thực tiễn của sinh viên được mở rộng và phong phú với các thư viện, tài liệu từ phòng đọc, phòng thực nghiệm ... +) Phương pháp học tập mới được coi à nhiệm vụ rất quan trọng mà sinh viên phải tìm ra .Bởi có phương pháp học tập phù hợp thì mới đạt dược kết quả học tập tốt. Sự phát triển động cơ học tập của sinh viên. Động cơ học tập là nội dung tâm lý của hoạt động học tập.Động cơ học tập bị chi phối bởi những yếu tố tâm lý(hứng thú, tâm thế, niềm tin...),hay những yếu tố nằm ngoài bản thân chủ thể(yêu cầu của gia đình xã hội)hay do chính hoạt động và những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của hoạt động mang lại(nội dung, phương pháp dạy học...) Với sinh viên, việc học tập của họ bị chi phối bởi nhiều động cơ như động cơ liên quan đến sự tự khẳng định, tự ý thức về năng lực, phẩm chất của người thanh niên trưởng thành,những động cơ có tính xã hội...Lĩnh vực động cơ của sinh viên cũng chịu sự chi phối của các cán bộ giảng dạy trong việc tổ chúc hoạt động dạy học. Việc phát triển những động cơ tích cực của hoạt động học tập ở sinh viên phụ thuộc vào một số điều kiện sư phạm nhất định. Đời sống xúc cảm-tình cảm của sinh viên. Theo B.G.Ananhev va một số nhà tâm lý học khác, tuổi sinh viên là thời kì phát triển tích cực nhất của những loại tình cảm cao cấp như tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức,tình cảm thẩm mỹ.Trong đời sống sinh viên những tình cảm này được biểu hiện rất phong phú. +)Tình cảm trí tuệ:ngoài học tập ở giảng đường, ở thư viện thì sinh viên không ngừng nâng cao và tìm hiểu kiến thức bằng nhiều cách:học thêm ở khoa khác, trường khác, học trên các phương tiện thông tin đại chúng...Nhờ đó mà lượng tri thức của sinh viên được tích lũy ngày càng nhiều. +)Tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ:Khi yêu thích cái gì thì họ có thể lý giải, phân tích một cách có cơ sở. Vì thế mà cách cảm, cách nghĩ có phong cách kiến trúc, hội họa ...của sinh viên mang những nét đặc trưng riêng +)Tình bạn cùng giới, khác giới:phát triển theo chiều sâu và chiếm vị trí quan trọng trong đời sống sinh viên.Nhờ có tình bạn mà tâm hồn cũng như nhân cách của sinh viên phong phú hơn rất nhiều. +)Tình yêu nam nữ: là tình cảm đặc biệt và cao cấp của con người, nó chín vào độ tuổi mà sinh viên trải qua.Nói chung, tình yêu thời sinh viên rất đẹp, lãng mạn và đầy thi vị.Song trong lĩnh vực này, sinh viên cũng gặp phải những mâu thuẫn nội tại. Vì thế, nhiều sinh viên đã chọn con đường tập trung học tập, học nghề trong thời gian học Đại học, Cao đẳng. Cách này đã đem lại cho họ kết quả học tập cao cũng như sự vững vàng và chín chắn hơn trong cuộc sống. Sự phát triển một số nhân cách của sinh viên . +) Đặc điểm về tự đánh giá, tự ý thức, tự giáo dục ở sinh viên. Tự đánh giá là một trong những phẩm chất quan trọng,một trình độ phát triển cao của nhân cách.Tự đánh giá có ý nghĩa định hướng,điều chỉnh hoạt động, hành vi của chủ thể nhằm đạt được mục đích, lý tưởng sống một cách tự giác.Nó giúp con người không chỉ biets người mà còn “biết mình”.ở thời kì sinh viên,tự đánh giá phát triển mạnh với những biểu hiện phong phú và sâu sắc.Tự đánh giá tuổi sinh viên là một hoạt động nhận thức, trong đó đối tượng nhận thức chính là bản thân chủ thể, là quá trình chủ thể thu nhập, xử lý thông tin về chính mình, chỉ ra được mức độ nhân cách tồn tại ở bản thân, từ đó có thái độ hành vi, hoạt động phù hợp nhằm tự điều chỉnh, tự giáo dục để hoàn thiên và phát triển........ Đặc điểm tự đánh giá ở sinh viên mang tính chất toàn diện và sâu sắc.Biểu hiện của nó là sinh viên không chỉ đánh giá hình ảnh bản thân mình có tính chất bên ngoài, hình thức mà còn đi sâu vào các phẩm chất, các giá trị của nhân cách.Tự đánh giá của sinh viên vừa có ý nghĩa tự ý thức vừa có ý nghĩa tự giáo dục. Tự ý thức là một trình độ phát triển cao của ý thức, nó giúp sinh viên có hiểu biết về thái độ, hành vi, cử chỉ của mình để chủ động hướng hoạt động của mình đi theo những yêu cầu đòi hỏi của tập thể, của cộng đồng xã hội.Những nghiên cứu của V.X.Merlin và E.I.Ilin đã cho thấy sinh viên rất quan tâm đến mức độ đánh giá tốc độ phản ứng của mình trong học tập, trong giao tiếp – phản ứng đung svaf nhanh các đòi hỏi của hoàn cảnh bên ngoài là một năng lực của nhân cách và rất có ý nghĩa đối với hoạt động của sinh viên.Tóm lại, những phẩm chất nhân cách: tự đánh giá, lòng tự trọng, tự tin, sự tự ý thức đều phát triển mạnh mẽ ở tuổi sin viên. +) Sự phát triển về định hướng giá trị ở thanh niên sinh viên. Định hướng giá trị là những giá trị được chủ thể nhận thức, ý thức và đánh giá cao, có ý nghĩa định hướng điều chỉnh thái độ, hành vi, lối sống của chủ thể nhằm vươn tới nhũng giá trị đó.Định hướng giá trị có nhiều tầng bậc, phạm vi khác nhau .Định hướng giá trị có tính bền vững tương đối.Định hướng giá trị phát triển mạnh vào cuối tuổi thiếu niên đầu tuổi thanh niên khi họ phải đúng trước việc chọn nghề, chọn các chuyên nghành khác nhau trong việc thi vào các trường ĐH- CĐ.Trong thời kì mở cửa của nền kinh tế thị trường, những định hướng giá trị của thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng cũng đã có những thay đổi, những sự phân hóa nhất định.Định hướng giá trị của sinh viên liên quan mật thiết đến xu hướng nhân cách và kế hoạch đường đời của họ.Với sinh viên, những ước mơ, hoài bão, những lí tưởng của tuổi thanh xuân dần dần được hiện thực, được điều chỉnh trong quá trình học tập ở trường đại học.Sinh viên không chỉ đặt ra kế hoạch đường đời của mình mà còn tìm cách để thực thi kế hoạch đó.Họ không ngần ngại tìm việc làm thêm để thỏa mãn những yêu cầu học tập ngày càng cao và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hành n ghề sau này. 1.2. Định nghĩa hoạt động học tập : - Để tìm kiếm và nắm vững các tri thức kĩ năng, kĩ xảo mới có rất nhiều con dường và cách hoc.Nhưng khi noi sđến hoạt động học tập đúng với nghĩa tâm lí học chỉ nảy sinh và được hình thành ở trẻ em từ sáu tuổi nhờ có phương pháp của nhà trường .Hoạt động này tạo ra sự biến đổi ngay chính chủ thể của hoạt động là học sinh hay sinh viên Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động học tập: - L.B.Enconhin nêu lên việc lĩnh hội tri thức là nội dung cơ bản của hoạt động học tập và được xác định bởi cấu trúc và mức độ phát triển của hoạt động học tập. - I.B.Intenxon xác định học tập là loại hoạt động đặc biệt của con người có mục đích nắm vững những tri thức, kĩ năng kĩ xảo và các hình thức nhất định của hành vi.Nó bao gồm cả ý nghĩa nhận thức và thực tiễn. - A.N.Leonchiev, P.Ia.Ganperin và N.P.Taludina xem quá trình học tập xuất phát từ mục đích trực tiếp và từ nhiệm vụ giảng dạy được biểu hiện ở hình thức tâm lí bên ngoài và bên trong của hoạt động đó. - N.V.Cudomina coi học tập là loại hoạt động nhận thức cơ bản của sinh viên được thực hiện dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy.Trong quá trình đó, việc nắm vững nội dung cơ bản các thông tin mà thiếu nó thì không thể tiến hành được hoạt động nghề nghiệp tương lai. Qua các định nghĩa trên chúng tôi nhận thấy giữa các tác giả có sự chưa thống nhất về định nghĩa hoạt động học tập vì vậy chúng tôi xin đưa ra quan điểm, cách hiểu của mình về hoạt động học tập.Hoạt động học tập được định nghĩa như sau: “ Hoạt động học tập là loại hoạt động đặc biệt của con người với mục đích đã được đề ra từ đầu là nhằm tiếp thu tri thức khoa học, kĩ năng, kĩ xảo và thái độ tương ứng.Nhờ có hoạt động học tập mà tâm lí nhân cách của người học ngày càng phát triển. Bản chất của hoạt động học tập. Đối tượng của hoạt động học tập là những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và thái độ tương ứng của nó. Cái đích mà hoạt động học hướng tới là chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và thái độ thông qua sự tái tạo của cá nhân.Việc tái tạo này sẽ không thể thực hiện nếu người học chỉ là khách thể bị động của những tác động sư phạm, nếu tri thức chỉ được tiếp n hận một cách thụ động.Muốn học có kết quả, người học phải tích cực tiến hành các hoạt động học tập bằng chính ý thức tự giác và năng lực trí tuệ của bản thân mình. .Mục đích của hoạt động học là hướng vào làm thay đổi chính bản thân người học ( trong khi các hoạt động khác hướng vào làm thay đổi khách thể ) .Chủ thể hoạt động học là người học ( nhân vật chính của hoạt động học) sẽ chiếm lĩnh tri thức mà loài người đã tích lũy - đối tượng của hoạt động học.Nhờ có sự chiếm lĩnh này mà tâm lí chủ thể mới có thể được thay đổi và phát triển.Người học giác ngộ mục đích này càng sâu sắc thì sức mạnh vật chất và tinh thần của họ càng được huy động trong quá trình học tập, do đó tâm lí ngày càng phát triển. Hoạt động học tập là hoạt động được điều khiển một cách có ý thức nhằm tiếp thu tri thức, kĩ năng kĩ xảo.Sự tiếp thu tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong hoạt động học mang tính tự giác cao.Đối tượng tiếp thu đã trở thành mục đích của hoạt động học.Những tri thức cũng được chọn lọc tinh tế và tổ chức thành hệ thống. Hoạt động học không chỉ nhằm tiếp thu tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mà còn hướng vào việc tiếp thu tri thức của chính bản thân hoạt động, nói cách khác là tiếp thu cả phương pháp giành lấy tri thức ( phương pháp học ). Công cụ, phương tiện của hoạt động học tập. Công cụ, phương tiện chính là những tri thức mà người học đã được học và đã nắm vững. Công cụ, phương tiện là trình độ phát triể trí tuệ của người học từ trước đến nay. Công cụ, phương tiện là toàn bộ nhân cách, phẩm chất tốt đẹp của người học. 1.5.Đặc điểm của hoạt động học tập của sinh viên. Sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người .Họ là lớp người giàu nghị lực, giàu mơ ước và hoài bão.Họ luôn cố gắng phấn đấu để trở thành những chuyên gia, những tri thức hữu dụng cho bản thân, gia đình, đất nước.Về cơ bản, hoạt động học tập của sinh viên mang bản chất của họat động học tập nói chung.Có thể định nghĩa hoạt động học tập của sinh viên “Hoạt động học tập của sinh viên là một loại hoạt động được tổ chức một cách có ý thức nhằm tiếp thu những tri thức khoa học chuyên sâu chuẩn bị cho họ trong tương lai trở thành những chuyên gia phát triển toàn diện và có trình độ nghiệp vụ cao trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định.” Hoạt động học tập của sinh viên có những đặc điểm chung sau đây: Mục đích của hoạt động học tập của sinh viên là tiếp thu các tri thức khoa học chuyên sâu trong một lĩnh vực nhất định, hình thành những kĩ năng kĩ xảo nghề nghiệp và thái độ tương ứng, phát triển những phẩm chất nhân cách người chuyên gia về một lĩnh vực trong tương lai.Để đạt được mục đích đó, sinh viên phải tiếp thu được một khối lượng kiến thức vừa rộng vừa chuyên sâu, bao gồm cả những kiến thức cơ bản, cơ sở và những kiến thức chuyên nghành.Vì vậy, hoạt động học tập của sinh viên là hoạt động thường xuyên diễn ra với nhịp độ cao. Hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập trí tuệ cao .Khác hẳn với nhà trường phổ thông, việc học tập ở bậc đại học đòi hỏi người sinh viên phải là người chủ động trong việc tổ chức, định hướng, cụ thể hóa quá trình học tập của mình.Người sinh viên phải giải quyết nhiệm vụ học tập do giảng viên và do chính bản thân đề ra.Trong quá trình học tập ở bậc đại học, sinh viên phải lập kế hoạch học tập, tự kiểm tra và đánh giá việc thực hiện kế hoạch đã đề ra.Ngoài ra, để đạt được mục đích học tập của mình sinh viên phải hình thành cho mình cách học mang tính khoa học và đem lại hiệu quả cao.Hoạt động học tập ở bậc đại học còn đòi hỏi sinh viên tích cực trao đổi với giảng viên, với bạn bè về các vấn đề học tập, độc lập nghiên cứu tài liệu, có óc phê phán, có chính kiến riêng..... Hoạt động học tập của sinh viên còn gắn bó chặt chẽ với hoạt động nghiên cứu khoa học.Hoạt động nghiên cứu khoa học giúp sinh viên làm quen với tác phong làm việc của người nghiên cứu, phát triển tối ưu tư duy sáng tạo và các đặc điểm nhân cách. Phương tiện của hoạt động học tập của sinh viên đòi hỏi phải có một hệ thống thư viện, tài liệu,phòng thực nghiệm...phong phú và hiện đại. 2.Thái độ học tập của sinh viên . 2.1.Thái độ 2.1.1.Định nghĩa thái độ: Thái độ là một khái niệm tương đối phức tạp.Hiện nay đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về thái độ. Trước hết chúng tôi nêu qua một số định nghĩa trong các từ điển: Theo cuốn Đại từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, thái độ được hiểu như sau: + Tổng thể nói chung những biểu hiện ra bên ngoài ( bằng nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động ) của ý nghĩ, tình cảm đối với ai hay đối với sự việc nào đó. + Cách nghĩ, cách nhìn hoặc cách hành động theo một hướng nào đó trước một vấn đề, một tình hình. Tuy nhiên, đây chưa phải là cách định nghĩa của khoa học tâm lí.Vì vậy, định nghĩa thái độ theo hướng này chưa nhấn mạnh được thái độ là cái tâm lí bên trong của mỗi người. Từ điển tâm lí học của Nguyễn Khắc Viện : “ Trước một đối tượng nhất định, nhiều người thường có phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đố như đã có sẵn trong cơ cấu tâm lí tạo ra định hướng cho việc ứng phó.Từ thái độ sẵn có, tri giác về đối tượng cũng như bị tri phối, về vận động thì thái độ gắn liền với tư thế.”Theo chúng tôi, cách định nghĩa này vẫn chỉ tập trung nhấn mạnh thái độ là những phản ứng bên ngoài của con người. Trong từ điển các thuật ngữ tâm lí và phân tâm học xuất bản tại NewYork năm 1966 : “ Thái độ là một trạng thái ổn định bền vững, do tiếp thu được từ bên ngoài, hướng vào sự ứng xử một cách nhất quán đối với một nhóm đối tượng nhất định, không phải chúng ra sao mà chúng được nhận thức ra sao.Một thái độ được nhận biết ở sự nhất quán của những phản ứng đối với một nhóm đối tượng .Trạng thái sẵn sàng cao có ảnh hưởng trực tiếp lên cảm xúc và hành động có liên quan đến đối tượng”.Theo chúng tôi, đây là một định nghĩa khá đầy đủ về thái độ . Trên thực tế, lần đầu tiên định nghĩa thái độ được đưa vào là năm 1918 bởi hai nhà tâm lí học người Mỹ W.I.Thomas và F.Znaniecki, hai ông cho rằng : “ Thái độ là trạng thái tinh thần ( state of mind ) của cá nhân đối với một giá trị .” Định nghĩa này chú trọng đến yếu tố chủ quan của cá nhân đối với một giá trị này hay một giá trị khác làm cho cá nhân có hành động này hay hành động khác mà được xã hội chấp nhận. Sau thời gian đó bắt đầu hàng loạt các nghiên cứu về thái độ xã hội được tiến hành.Trên những bình diện khác nhau về mặt lí luận và thực tiễn của các mối quan hệ xã hội, các tác giả đưa ra các quan niệm khác nhau về thái độ với những hạt nhân hợp lý cơ bản riêng. Năm 1935,nhà tâm lý học người Mỹ là G.Allport đã định nghĩa: “Thái độ là trạng thái sẵn sàng về mặt tinh thần và thần kinh được tổ chức thông qua kinh nghiệm, có khả năng điều chỉnh hoặc ảnh hưởng năng động đối với phản ứng của cá nhân hướng đến các khách thể và tình huống mà nó quan hệ.” Sau này Newcome cũng cho rằng thái độ của cá nhân đối với một đối tượng nào đó là “ thiên hướng hành động, nhận thức, tư duy, cảm nhận của anh ta với khách thể liên quan.” Gần đây, J.W.Kalat đưa ra định nghĩa : “ Thái độ là sự thích ứng hay không thích ứng một sự vật hoặc một người nào đó của cá nhân, có ảnh hưởng tới hành vi của anh ta khi ứng xử với sự vật hoặc con người đó.” Trên đây là những định nghĩa về thái độ theo tâm lí học phương Tây,còn theo tâm lí học Macxít ( đại diện là V.N.Miaxisev) thì cho rằng : “ Thái độ là khía cạnh chủ quan bên trong, có tính chọn lọc của các mối liên hệ đa dạng ở con người với các khía cạnh khác nhau của hiện thực.Hệ thống này diễn ra trong toàn bộ lịch sử phát triển của con người,biểu thị kinh nghiệm cá nhân và qui định nội hàm hành động cũng như các trải nghiệm của họ .”Khái niệm’’ thái độ”là khía cạnh tiềm năng của các quá trình tâm lý,liên quan đến tính tích cực chủ quan, có chọn lọc của nhân cách. Qua cách định nghĩa trên,chúng tôi nhận thấy, giữa các tác giả chưa có sự thống nhất về định nghĩa thái độ.Định nghĩa thái độ của mỗi tác giả đưa ra đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Từ việc tìm hiểu, xem xét, phân tích các quan điểm về thái độ nêu trên, thái độ có thể được định nghĩa như sau:Thái độ là một thuộc tính của nhân cách, tạo ra tâm lý sẵn sàng phản ứng lại các tác động khách quan;sẵn sàng hoạt động của chủ thể với đối tượng theo một hướng nào đó, được biểu hiện ra bên ngoài thông qua nhận thức, xúc cảm-tình cảm và hành vi của chủ thể đối với đối tượng trong những tình huống, điều kiện nhất định. 2.1.2.Đặc điểm của thái độ. Năm 1935,G.W.Allport đã đưa ra 5 đặc điểm chung của thái độ dựa trên sự tổng kết 17 định nghĩa khác nhau: +Thái độ la trạng thái nhất định của tinh thần và hệ thần kinh. +Thái độ thể hiện sự sẵn sàng phản ứng. +Thái độ là trạng thái có tổ chức. +Thái độ dựa trên kinh nghiệm tiếp thu trước đó. +Thái độ có ảnh hưởng, tác đông và điều chỉnh hành vi. Theo định nghĩa chung về thái độ, thái độ có những đặc điểm sau: +Thái độ bao giờ cũng hướng tới một đối tượng nào đó.Chính đối tượng này tạo thành nội dung của thái độ. +Thái độ là một thuộc tính cốt lõi của nhân cách, vì vậy có thể nói rằng thái độ có tính ổn định tương đối. +Thái độ qui định sự sẵn sàng hành động của chủ thể với đối tượng theo một hướng nhất định .Khi con người có thái độ nào đó đối với đối tượng, họ sẽ chủ động, sẵn sàng hành động với đối tượng một cahcs nhan chóng theo một hướng thống nhất. + Thái độ khi đã được hình thành có tác dụng điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người. + Ba mặt biểu hiện của thái độ : nhận thức, xúc cảm – tình cảm và hành vi có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.Sự thống nhất giữa ba mặt này quy định mức độ phát triển cao hay thấp của thái độ. 2.1.3.Cấu trúc của thái độ Mặc dù có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về thái độ, nhưng khi bàn đến cấu trúc của thái độ thì hầu hết các nhà tâm lí học lại đều nhất trí với nhau ở cấu trúc ba thành phần của thái độ do M.Smith đưa ra năm 1942 là :nhận thức ; xúc cảm – tình cảm ; hành vi. Nhận thức : Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lí con người ( nhận thức, tình cảm và hoạt động ).Quá trình nhận thức về đối tượng là quá trình cá nhân tìm tòi, khám phá những thuộc tính bề ngoài và cả những thuộc tính bản chất của đối tượng. Trong cấu trúc của thái độ, nhận thức là sự hiểu biết của cá nhân về đối tượng của thái độ ( cho dù hiểu biết đó đúng hay sai ) .Khi một sự vật, hiện tượng tác động đến cá nhân, để có thái độ nhất định đối với sự vật hiện tượng thì trước hết cá nhân phải có hiểu biết về sự vật hiện tương đó.Chính vì vậy, nhận thức là “ điều kiện cần”, là cơ sở cho việc hình thành thía độ. Xúc cảm – tình cảm : Xúc cảm – tình cảm là sự rung cảm của chủ thể đối với những sự vật, hiện tượng có liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu và động cơ của họ .Trong cấu trúc thía độ, tình cảm thể hiện ở các cảm xúc của cá nhân đối với đối tượng của thái độ.Tình cảm là thành phần vô cùng quan trọng trong cấu trúc thái độ.Với tình cảm tích cực có thể kích thích chủ thể hành động tích cực, từ đó hình thành nên thái độ tích cực và ngược lại tình cảm tiêu cực có thể kìm hãm tính tích cực hoạt động của chủ thể. Hành vi : Hành vi là hành động mà chủ thể ứng xử với đối tượng .Thái độ và hành vi luôn có sự quy định lẫn nhau, hành vi là một thành phần cấu thành nên thái độ, thái độ muốn biểu hiện ra bên ngoài phải thông qua hành vi .Vì vậy, hành vi là hình thức biểu hiện cụ thể nhất của thái độ. Ba thành phần trên trong cấu trúc thái độ quan hệ chặt chẽ với nhau, sự thống nhất giữa chúng tạo nên một thái độ xác định của chủ thể.Đứng trước một sự vật hiện tượng, để có thái độ với sự vật hiện tượng đó con người phải tuân theo quy luật sau: Trước hết, phải nhận thức ( hiểu biết ) về đối tượng nhằm tìm tòi, khám phá bản chất của đối tượng .Nhận thức là cơ sở định hướng làm xuất hiện những xúc cảm – tình cảm đối với đối tượng ( yêu – ghét, thích – không thích ..........) .Cuối cùng, với nhận thức và tình cảm nhất định với đối tượng, cá nhân sẽ có những hành vi cụ thể với đối tượng đó.Cấu trúc ba thành phần thái độ chính là cơ sở cho việc xây dựng các thang đo thái độ.Có thể mô hình hóa cấu trúc của thái độ theo sơ đồ sau đây: Sơ đồ số 1 : Cấu trúc thái đô: Nhận thức Xúc cảm – tình cảm Hành vi 2.1.4.Chức năng của thái độ: Các nhà tâm lí học nghiên cứu về thái độ đã chỉ ra rằng, sở dĩ con người có khả năng ứng xử trong các tình huống tâm lí khác nhau theo một cách thức nhất định phần lớn là nhờ khuôn mẫu các thái độ xã hội đã được hình thành ở mỗi người.Điều này đóng vai trò tổ chức rất lớn trong đời sống tâm lí của chúng ta.Tổng kết ý kiến của các nhà nghiên cứu, thái độ có một số chức năng sau : Chức năng thích nghi : Thái độ hướng con người tới các đối tượng có thể giúp họ đạt được mục đích đề ra .Nếu cá nhân có thái độ được mọi người chấp nhận, ủng hộ thì cá nhân đó dễ dàng đạt được mục đích của mình hơn, dễ được thưởng và tránh bị phạt hơn. Chức năng kiến thức :Thái độ giúp chúng ta hiểu được thế giới chúng ta đang sống và tạo ra những gì đang xảy ra xung quanh.Thái độ làm rõ và giải thích cho chúng ta về ý nghĩa các sự kiện.Nhờ có các khuôn mẫu thái độ xã hội có sẵn, cá nhân chỉ việc thực hiện dập khuôn theo một cách hết sức đơn giản, đồng thời tiết kiệm được thời gian, sức lực. Chức năng biểu hiện giá trị : Thông qua sự đánh giá một cách có chọn lọc về đối tượng, qua biểu lộ xúc cảm, hành động cũng như sẵn sàng hành động, cá nhân thể hiện giá trị nhân cách của mình. Chức năng tự bảo vệ: Trong những tình huống xung đột ( giữa các suy nghĩ, niềm tin, có khi là giữa thái độ và hành vi ........ ) chúng ta thường tìm cách tự bào chữa, tìm lí do giải thích thậm chí tìm một người nào đó chịu trách nhiệm thay mình hoặc hợp thức hóa hành vi của mình.Quá trình này dẫn đến sự thay đổi thái độ tương ứng. Chức năng điều chỉnh hành vi :Đây là chức năng quan trọng được các nhà nghiên cứu quan tâm hơn cả nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của thái độ tới hành vi cá nhân như thế nào. 2.1.5.Cơ chế hình thành thái độ: Hai nhà tâm lí học người Đức : N.Hipso và M.Forvec đã đưa ra bốn cơ chế hình thành thái độ: Cơ chế bắt chước, cơ chế đồng nhất hóa, cơ chế giảng dạy và cơ chế chỉ dẫn . Cơ chế bắt chước :Thái độ có thể hình thành bằng con được tự phát trong đó con người học cách phương thức hành vi mà không cần sử dụng những kĩ thuật giáo dục theo một phương hướng nào đó. Cơ chế đồng nhất hóa : Đó chính là sự bắt chước một cách tự phát, có ý thức.Đồng nhất hóa là quá trình chủ thể thống nhất bản thân mình với các cá nhân khác của nhóm này hay nhóm khác dựa trên mối liên hệ cảm xúc và qua đó chuyển những chuẩn mực, những giá trị vào thế giớ nội tâm của mình.Đồng nhất hóa là sự nhìn nhận, hình dung của chủ thể về người khác như sự kéo dài của chính bản thân mình,gán cho người đó những đặc tính, tình cảm, mong muốn của mình; tự đặt mình vào người khác, chuyển dịch bản thân mình vào phạm vi không gian và hoàn cảnh của người khác dẫn đến việc đồng nhất hóa ý nghĩa cá nhân của người đó. Cơ chế giảng dạy : Là một hình thức hình thành thái độ trong đó cá nhân được người khác tác động đến một cách chủ động, có mục đích bằng cách trực tiếp thông báo, truyền thụ những vấn đề cần thiết .Giảng dạy là một cách đặc biệt cả truyền đạt thông tin. Cơ chế chỉ dẫn :Đây là hình thức hình thành thái độ đòi hỏi chủ thể phải tiến hành hành động một cách tích cực theo sự hướng dẫn nào đó. Quá trình hình thành thái độ trong thực tế không hẳn được tách biệt theo từng cơ chế riêng biệt mà có sự hòa trộn, đan xen giữa các cơ chế với nhau.Tùy vào từng hoàn cảnh, điều kiện cụ thể mà cơ chế này hay cơ chế khác chiếm vị trí chủ đạo trong việc hình thành thái độ. 2.2.Thái độ học tập: Để theo kịp với trào lưu tiến bộ của xã hội loài người thì mục tiêu của quá trình dạy học ngày nay không chỉ dừng lại ở việc cung cấp cho người học những tri thức, kĩ năng kĩ xảo mà còn có nhiệm vụ hình thành ở người học thái độ học tập phù hợp, thái độ ứng xử hài hòa có văn hóa với xã hội và đối với bản thân. Đã có rất rất nhiều quan điểm khác nhau về thái độ học tập .Theo tác giả A.A.Xmirmov đã căn cứ vào đối tượng của thái độ mà phân chia chúng thành các nhóm sau : Thái độ đối với xã hội, tập thể và mọi người; thái độ lao động ( làm việc )và thái độ đối với bản thân.Theo cách phân loại này, thái độ học tập thuộc loại thái độ làm việc hay thái độ lao động – ở đây là lao động học tập, một hoạt động chủ yếu của học sinh, sinh viên .G.Witzlack cũng khẳng định về cơ bản thái độ học tập và thái độ làm việc thống nhất với nhau. Tác giả N.P.Levitop cho rằng : thái độ học tập tích cực của học sinh, sinh viên biểu hiện ở chỗ học sinh, sinh viên chú ý, hứng thú và sẵn sàng gắng sức vượt khó khăn.Tác giả đã phân tích tỉ mỉ những mặt biểu hiện này trên hành vi học tập của sinh viên trong giờ học trên lớp cũng như tự học. G.Witzlack đã phân tích thai sđộ học tập trong các hình thức học tập khác nhau ( thái độ học tập trên lớp, thái độ tự học trong giờ tự học ........ ).Trong các hình thức học tập ấy, tác giả đưa ra những “ điểm tựa” cho sự đánh giá thái độ học tập như : sự nỗ lực nhận thức, sự sẵn sàng hết mình thực hiện những nhiệm vụ học tập, đặt ra những yêu cầu cao về thành tích học tập của bản thân, phản ứng với những thể nghiệm thành công hay thất bại trong học tập, có tinh thần vận dụng kiến thức .Tác giả cũng đưa ra quan niệm riêng, hợp lí về các nét biểu hiện cụ thể của từng điểm nói trên. Đây là những nội dung chung nhất của thái độ học tập tích cực, bao quát được tương đối đầy đủ mọi mặt biểu hiện của thái độ học tập.Trên cơ sở những nội dung cơ bản này, tùy từng cấp học, môn học, hoàn cảnh cụ thể của hoạt động học tập có thể vạch ra những nét biểu hiện cụ thể, tích cực cho từng nội dung tiêu chuẩn đánh giá thái độ học tập sao cho phù hợp. Giáo sư – viện sĩ Phạm Minh Hạc cũng đã khẳng định : “ Ngày nay, lí luận giáo dục xếp giáo dục lên hàng đầu rồi mới đến tri thức, kĩ năng, kĩ xảo .”. Qua phân tích các quan niệm về thái độ học tập được nêu ở trên nhất là các mặt biểu hiện của nó trong thực tế học tập chúng tôi thấy rằng : Thứ nhất, về cơ bản có một mức độ tương đồng cao giữa các ý kiến xác định những mặt biểu hiện chủ yếu của thái độ học tập.Thứ hai, những biểu hiện này tồn tại trong những hành vi học tập cơ bản của các hình thức học tập trên lớp, tự học cũng như tham gia ngoại khóa........ Thứ ba, các mặt biểu hiện của thái độ học tập không tồn tại độc lập với nhau mà đan xen, thâm nhập vào nhau tạo thành một bức chân dung tương đối hoàn chỉnh về thái độ học tập với tư cách một thuộc tính nhan cách của người học. Tóm lại, từ những phân tích trên, theo chúng tôi : thía độ học tập là một thành tố, một thuộc tính trọn vẹn của ý thức học tập là yếu tố bên trong quy định xu hướng tự giác, tích cực học tập (hoặc ngược lại) ở người học; được biểu hiện ra bên ngoài thông qua nhận thức, xúc cảm – tình cảm và hành vi học tập của người học. 2.3.Thái độ học tập của sinh viên: Sinh viên là một tầng lớp xã hội, một tổ chức xã hội quan trọng đối với mọi thể chể chính trị quan trọng đối với mọi thể chế chính trị.Sinh viên là nhóm người có vị trí chuyển tiếp, chuẩn bị cho một đội ngũ tri thức có trình độ và nghề nghiệp tương đối cao trong xã hội.Họ sẽ là nguồn dự trữ chủ yếu cho đội ngũ những chuyên gia theo các nghề nghiệp khác nhau trong cấu trúc của tầng lớp tri thức xã hội .Do đang ngồi trên ghế nhà trường chưa hoàn toàn là một người tự lập về mọi mặt nên họ cần được trang bị một hệ thống thái độ: thái độ với xã hội, tập thể, mọi người; thái độ với công việc ; thái độ với môi trường sống và thái độ với chính bản thân.Trong những thái độ trên thì thái độ nào cũng có tầm quan trọng riêng của nó tuy nhiên đối với sinh viên thì thái độ làm việc (thái độ học tập ) được coi là thái độ quan trọng nhất. S.Franz khi nghiên cứu về thái độ học tập và thái độ tập thể của sinh viên đã đưa ra một tiêu chuẩn đánh giá cho hai loại thái độ này ( những tiêu chuẩn này đã được kiểm tra và thừa nhận là có thể sử dụng rộng rãi ). Gần đây, khi bàn về việc đánh giá thực trạng thái độ học tập của học sinh sinh viên, GS Hoàng Đức Nhuận và PGS Lê Đức Phúc cũng đã nêu ra những chỉ số chú ý, hăng hái tham gia vào mọi hình thức của hoạt động học tập, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, học thêm và làm các bài tập khác, vận dụng hay chuyển tải những gì đã học vào thực tế, hình thành và phát triển các quan hệ thầy – trò, quan hệ tình bạn nhằm giúp bản thân học tập tốt hơn, chất lượng sản phẩm, kết quả học tập. Từ những quan niệm trên chúng tôi cho rằng : thái độ học tập của sinh viên là yếu tố tạo ra tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của sinh viên, là trạng thía tâm lí chủ quan, sẵn sàng học tập và vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các tình huống nảy sinh trong xã hội, thái độ học tập của sinh viên được biểu hiện thông qua nhận thức, xúc cảm – tình cảm và hành vi học tập của sinh viên. Học tập được coi là một quá trình nhận thức đặc biệt trong đó sinh viên đóng vai trò chủ thể của hoạt động này.Thái độ học tập có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên.Sinh viên chỉ có thể hiểu sâu sắc tài liệu học tập và biến nó thành giá trị riêng nếu họ kiên trì và nỗ lực họạt động trí tuệ để tự “ khám phá”, phát hiện ra tri thức.Hoạt động học tập của sinh viên đòi hỏi tính năng động và tính độc lập ở mức độ cao vì thế thái độ có ý thức của sinh viên đối với học tập là rất quan trọng và cần được phát triển nhan chóng.Thái độ học tập của sinh viên đối với các môn học trở nên có lựa chọn.ở sinh viên đã hình thành những hững thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp.Khi đã bước chân vào giảng đường ĐH-CĐ chính là lúc mà sinh viên đã xác định cho mình một hứng thú ổn định với một lĩnh vực tri thức nhất định. Hứng thú nhận thức của sinh viên mang tính rộng rãi, sâu và bền vững. Thái độ học tập của sinh viên được thúc đẩy bởi nhiều động cơ có cấu trúc khác nhau nhất là đông cơ thực tiễn (ý nghĩa thực tiễn của môn học đối với cá nhân va khả năng tiếp thu môn học ở sinh viên), động cơ nhận thức sau đó là ý nghĩa xã hội của môn học, rồi mới đến động cơ cụ thể khác. Nhưng ở không ít sinh viên thái độ học tập mang tính nhược điểm. Một mặt sinh viên rất tích cực và tập trung học một số môn mà họ cho là quan trọng đối với nghề mình đã họn, mặt khác họ lại sao nhãng các môn học khác hoặc học chỉ để cho qua mà không phải thi lại. Thái độ học tập có ý thức đã thúc đẩy sự phát triển tính chủ định của các quá trình nhận thức và năng lực điều khiển bản thân của sinh viên trong hoạt động học tập. Thái độ học tập của sinh viên phụ thuộc rất lớn vào chính bản thân mỗi sinh viên. Bởi vậy, để đào tạo những sinh viên có ý thức và xây dựng thói quen tự học, tự nghiên cứu giáo trình, tài liệu, gắn lý thuyết với thực hành, phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, đòi hỏi người giảng viên đại học phải hiểu rõ thái độ học tập là gì? Bản chất của nó ra sao? Từ đó mà có biện pháp giáo dục phù hợp. IV. Kết luận và kiến nghị. Dựa trên những phân tích, tổng hợp trên chúng tôi đã có những kết luận và kiến nghị sau: 1. Kết luận: Xã hội ngày càng tiến bộ không ngừng và biến động mạnh mẽ. Để tiến kịp với xu thế tiến bộ ấy không có con đường nào khác là phải học. Học để biết, học để làm người, học để phục vụ tổ quốc, phục vụ xã hội và quan trọng hơn là học để làm chủ, để chiếm lĩnh tri thức biến tri thức phục vụ mình, phục vụ cộng đồng xã hội. Nhưng muốn học tốt và kết quả cao thì phải có một thái độ nhất định mà ở đây ta đề cập đến đó chính là thái độ học tập. Mỗi lứa tuổi khác nhau thì thái độ học tập cũng biểu hiện khác nhau. Đặc biệt với sinh viên thì thái độ học tập được coi là một điều kiện quan trọng trong sự phát triển đi lên hay đi xuống của một quốc gia. Bởi lẽ sinh viên có chức năng chủ yếu là bổ sung cho đội ngũ tri thức, là tầng lớp có trình độ nghề nghiệp cao trong xã hội. Nhưng không vì thế mà sinh viên nào cũng có thái dộ tốt trong học tập. Trái lại, thái độ học tập của sinh viên có hai mặt của nó: tích cực và tiêu cực. Thái độ học tập tốt được thể hiện trong lĩnh vực đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong văn hóa, lối sống của sinh viên. Qua nhiều công trình nghiên cứu thì nhiều tác giả đã đưa ra kết luận. Nhìn chung mức độ thể hiện thái độ học tập tốt của sinh viên là chưa cao. Dù sinh viên đã tham gia các hoạt động tình nguyện, chung sức cùng cộng đồng với tinh thần tự nguyện, động cơ trong sáng nhưng việc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực ở sinh viên chỉ dừng lại ở việc nhằm bảo vệ lợi ích của cá nhân chứ chưa có nhiều hành động có tác động thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ xã hội. 2. Kiến nghị: - Với sinh viên còn ngồi trên giảng đường đại học, trước hết phải có trách nhiệm với chính bản thân mình, phải nhận thức được việc học để chiếm lĩnh tri thức nhân loại là cần thiết và tất yếu, là điều kiện quan trọng để phát triển chính bản thân mình. Vì thế phải có ý thức xây dựng cho mình một thái độ tốt về mọi lĩnh vực trong đó quan trọng hơn cả là có thái độ tốt với học tập. - Với giảng viên và những người làm công tác giáo dục muốn nâng cao thái độ học của sinh viên thì cần: * Thiết kế và thi công bài học theo cộng đồng dạy học (sử dụng có hiệu quả các phương tiện trực quan truyền thông và hiện đại) mà nhân lõi là dạy học tích cực. * Tổ chức và hướng dẫn tốt các bài tập và Xêmina theo chương trình. Vì bài tập cần phải trở thành và đang dần trở thành một phương tiện cơ bản để tổ chức giảng dạy mọi môn học, trở thành phương tiện điều khiển học tập. * Chú trọng hình thành phương pháp học tập tích cực cho sinh viên. * Xây dựng phần mềm dạy học thiết thực, hiện đại, phù hợp với khả năng nhận thức của sinh viên, với chuyên ngành giảng dạy sau này của họ với thực tiễn và truyền thống Việt Nam. * Tổ chức các hoạt động có nội dung, phương pháp hấp dẫn, hình thức đa dạng như hoạt động ngoại khóa, nội khóa (học ở lớp, đi tham quan, thực tế, thực tập, câu lạc bộ khoa học …). Những điều nêu trên sẽ làm cho sinh viên học tập có ý thức, chủ động, sáng tạo và phát huy hết tiềm năng của mình. Họ thực sự có nhu cầu, niềm tin học tập, khắc phục mọi khó khăn để chuyển tri thức nhân loại thành tâm lý, ý thức bản thân, hình thành nhân cách chuyên gia theo yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Với gia đình của sinh viên nói riêng và mọi gia đình nói chung cần quan tâm và tạo mọi điều kiện tốt nhất phục vụ cho mục đích học tập của con em mình giúp con em cảm thấy thoải mái, tự tin tham gia các hoạt động không chỉ có học tập mà còn có các hoạt động ngoại khóa khác vô thức sẽ giúp họ sẽ có hiệu quả cao trong học tập đồng thời sẽ giúp họ là những công dân có ích cho đất nước. Nói chung, cần rèn luyện và giáo dục con cái ngay từ khi chúng còn nhỏ sẽ giúp con hình thành tính tự giác sớm, là tiền đề, là cơ sở cho thái độ tốt và nhân cách tốt khi chúng trưởng thành. Chúng tôi đưa ra những kết luận và kiến nghị này nhằm nâng cao trách nhiệm, và ý thức tự giác trong học tập của sinh viên giúp sinh viên có kết quả cao trong học tập hơn nữa. Đây cũng là một trong những lý do để chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Đỗ Thị Coỏng, 2003. Tính tích cực học tập và vấn để tích cực hóa hoạt động học tập của sinh viên (luận văn Thạc sĩ Tâm lý học). 2. Lê Văn Hồng, 2007. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm. Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội. 3. Lê Văn Hồng, 1975. Tâm lý học đại cương, Hội đồng bộ môn Tâm lý giáo dục học. Bộ Giáo dục, Hà Nội. 4. Nguyễn Đức Hưởng, 2003. Thái độ học tập của sinh viên Đại học An ninh nhân dân. Luận văn Thạc sỹ Tâm lý học. 5. Phạm Minh Hạc, 2002. Tuyển tập Tâm lý học, Nxb Giáo dục. 6. Vũ Thị Nho, 2003. Tâm lý học phát triển. Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội. 7. Lê Ngọc Lan, 1982. Quan hệ giữa tự đánh giá của học sinh với thái độ học tập và động cơ học tập. Kỷ yếu hội nghị Tâm lý học toàn quốc lần thứ V, Hà Nội. 8. Nguyễn Quang Uẩn, 2003. Tâm lý học đại cương. Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội. 9. Nguyễn Thạc - Phạm Thành Nghị, 1992. Tâm lý học sư phạm đại học. 10. Nguyễn Huy Tú. Tập bài giảng Tâm lý học giáo dục, Viện Khoa học giáo dục. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTLH 41.doc