Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hoá Trung Quốc và Nhật Bản đến hoạt động kinh doanh quốc tế

Mục lục Lời mở đầu. I. Các yếu tố văn hoá. 4 1. Giới thiệu về văn hoá Trung Quốc. 4 2. Giới thiệu về văn hoá Nhật Bản. 13 II. Điểm tương đồng và điểm khác biệt. 31 1. Điểm tương đồng. 31 2. Điểm khác biệt. 32 III. Văn hoá ảnh hưởng đến các yếu tố sau. 32 1. Marketing. 32 2. Tài chính. 34 3. Quản trị nhân sự. 35 4. Production. 42 Kết thúc. Nội dung I. Các yếu tố văn hoá. 1. Giới thiệu về văn hoá Trung Quốc. 1.1 Con người. Tại Trung Quốc có khoảng hơn một trăm dân tộc, trong đó đông nhất là người Hán, là dân tộc với sắc thái ngôn ngữ và văn hóa có nhiều khác biệt vì thực ra là kết hợp của nhiều dân tộc khác nhau được coi là cùng chia sẻ một thứ ngôn ngữ và văn hóa. Hiện nay, Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức công nhận tổng cộng 56 dân tộc, trong đó người Hán chiếm đa số. 1.2 Ngôn ngữ. Tiếng Trung Quốc ( hay Hán ngữ, Hoa ngữ, Trung văn) là một ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Hán - Tạng, sử dụng mẫu tự tượng hình. Mặc dù thường được coi là ngôn ngữ duy nhất với lý do văn hoá, trên thực tế mức độ đa dạng giữa các vùng khác nhau có thể sánh với sự đa dạng của các ngôn ngữ Roman. Từ hàng ngàn năm nay giới trí thức Trung Quốc dùng một chuẩn viết chung là Văn ngôn. Ngày nay Văn ngôn không còn là cách viết thông dụng nữa, tuy nhiên trong chương trình học nó vẫn tiếp tục được dạy và như vậy người Trung Quốc bình thường ở một góc độ nào đó có thể đọc hiểu được. Các ngôn ngữ nói khác nhau của Trung Quốc chỉ được nói mà không có cách viết không như Phổ thông thoại ( hay là bạch thoại: nghĩa là thứ tiếng bình dân dựa trên tiếng Quan thoại chuẩn - là ngôn ngữ mà tất cả mọi người nói các thứ tiếng Trung Quốc khác nhau đều dùng chung một dạng văn viết thống nhất có từ đầu thế kỉ 20 dùng gần như cùng một bộ chữ Trung Quốc. Khoảng một phần trăm dân số thế giới hiện nay dùng một trong những thứ tiếng Trung Quốc làm tiếng mẹ đẻ, khiến nó trở thành thứ tiếng đứng đầu thế giới về phương diện này. Tiếng Trung Quốc nói ở thể Quan Thoại chuẩn là ngôn ngữ chính thức của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa dân quốc tại Đài Loan, cũng như là một trong bốn ngôn ngữ chính thức của Singapore, và là một trong sáu ngôn ngữ làm việc chính thức của Liên Hiệp Quốc. Tiếng Trung Quốc nói ở thể Quảng Đông chuẩn thì là một trong những ngôn ngữ chính thức của Hồng Kông (cùng với tiếng Anh) và của Ma Cao (cùng với tiếng Bồ Đào Nha).

doc45 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2106 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hoá Trung Quốc và Nhật Bản đến hoạt động kinh doanh quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớn cũng có đền phụ thuộc. Ở Nhật Bản hiện có 13 tông phái Phật giáo chính. 6 phái được đưa từ Trung Quốc sang Nhật vào thời Nara, trong đó phải kể đến 3 phái là Kegon (Hoa Nghiêm), Hosso (Pháp Tương) và Ritsu (Luật). Trong thời Heian, lần đầu tiên có 2 phái Phật giáo do các nhà sư Nhật Bản thành lập là phái Tendai (Thiên Đài) và phái Shingon (Chân Ngôn). Từ cuối thời Heian đến thời Kamakura có thêm 7 tông phái nữa là phái Yuzu-nenbutsu, phái Jodo, phái Jodo-shin, phái Ji, phái Nichiren, cùng 2 phái thiền lớn của Nhật Bản Rinzai và Soto. Vào đầu thời Edo, xuất hiện 1 phái thiền khác là phái O-baku, được đưa từ Trung Quốc vào Nhật Bản. Khi Phật giáo được đưa sang Nhật từ Triều Tiên và Trung Quốc, tại Nhật Bản đã có Thần đạo nên các nhà sư gặp nhiều khó khăn trong quá trình truyền đạo. Để 2 tôn giáo Thần đạo và Phật giáo cùng tồn tại, các nhà sư xây dựng hệ thống tư tưởng “thần phật tập hợp”. Theo tư tưởng này, các vị thần của Thần đạo là hóa thân của các đức phật trong Phật giáo. Ví dụ, vị thần Amaterasu-o-mikami (vị thần chính của thần đạo) là hóa thân của Đức Phật Như Lai mà tên tiếng Nhật là Birushana-butsu hoặc Dai-nichi Nyo-rai (Bì Lô Già Na Phật hoặc Đại Nhật Như Lai). Tư tưởng này tiếp tục đến cuối thời Edo, trước khi chính phủ Minh Trị quy định Thần đạo là tôn giáo nhà nước và đàn áp Phật giáo. Nhưng sau đó, chính phủ Minh Trị cho phép Phật giáo cùng tiếp tục tồn tại vì trong khoảng 1200 năm, Phật giáo đã đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày và không thể nào xóa bỏ được ảnh hưởng của Phật giáo. Nói riêng về Phật giáo Nhật Bản, Thiền tông (hay Zen) là một tông phái khá đặc biệt. Việc đưa thiền vào Nhật Bản là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử tôn giáo của Nhật Bản. Thiền được nuôi dưỡng trong những nền văn hóa vĩ đại của châu Á là Trung Quốc và Ấn Độ, đạt tới đỉnh cao ở Nhật Bản để rồi lan sang các nước phương Tây. Khi kỹ thuật đe dọa thống trị thế giới, thiền thức tỉnh nhiều người về những giá trị tinh thần cần thiết cho cuộc sống của con người. Thiền tông, với giáo lý chủ yếu là tham thiền nhập định để chứng ngộ Phật tính, vốn do nhà sư Ấn Độ Bồ Đề Đạt Ma khởi xướng. Khi Bồ Đề Đạt Ma 60 tuổi, ngài sang Trung Quốc để truyền bá thiền nhưng vua chúa Trung Quốc bấy giờ không hiểu được nên ngài tới chùa Thiếu Lâm và dạy thiền cho các nhà sư tại chùa đó. Hai phái thiền của NB, tức phái Rinzai (Lâm Tể) và phái Soto (Tào Đỗng), cũng là do nhà sư Trung Quốc sáng lập ra trong thời Đường, rồi đầu thế kỷ 13 du nhập vào Nhật Bản. Thiên chúa giáo. So với Thần đạo và Phật giáo, lịch sử của Thiên chúa giáo Nhật Bản tương đối trẻ. Năm 1549, nhà truyền giáo Francisco de Xavier, người Tây Ban Nha sang Nhật và lần đầu tiên giới thiệu tôn giáo này. Thời đó, cả triều đình và chính quyền Muromachi đều không có sức chi phối toàn quốc nữa, các sứ quân daimyo chia đất nước Nhật Bản thành nhiều khu vực và cai trị khu vực của mình. Những người truyền giáo Thiên chúa giáo thời đó không chỉ giới thiệu Thiên chúa giáo mà còn mang đến nhiều máy móc, kỹ thuật, ấn phẩm tiên tiến của phương Tây cũng như những điều mới lạ của các nước đông nam, tây nam Á. Vì vậy có một số sứ quân daimyo cho phép nhà truyền giáo hoạt động tại khu vực của mình để tranh thủ học hỏi kỹ thuật tiên tiến, giao dịch buôn bán, v,v… Nhưng sau khi thống nhất đất nước, sứ quân Toyotomi Hideyoshi đã cấm các nhà truyền giáo Thiên chúa giáo hoạt động trên lãnh thổ Nhật Bản vào năm 1587, khi đã có khoảng 150 nghìn người theo. Chính quyền Tokugawa sau đó cũng tiếp tục đẩy mạnh chính sách này, nghiêm cấm người Nhật theo Thiên chúa giáo. Năm 1637, tại vùng Shimabara-Amakusa (tỉnh Nagasaki hiện nay) cuộc chiến Shimabara bùng nổ, 37.000 tín đồ Thiên chúa giáo trong khu vực này chiếm thành lũy, giao chiến với quân đội chính quyền. Sau đó, chính quyền tăng cường đàn áp tín đồ Thiên chúa giáo tới mức những người theo đạo này phải che giấïu tín ngưỡng của mình. Sau Minh Trị Duy Tân, chính sách cấm Thiên chúa giáo được hủy bỏ. Nhiều nhà truyền giáo, hầu hết từ Mỹ, đã tới Nhật Bản để phổ biến Thiên chúa giáo và đặt cơ sở tại Nhật Bản. Từ sau Minh Trị Duy Tân đến khi kết thức Thế chiến 2, vai trò của Thần đạo tăng lên. Trong thời kỳ đó, Thần đạo được coi là tôn giáo nhà nước vì Minh Trị Duy Tân có quan điểm lật đổ chính quyền võ sĩ để tái lập chính quyền của Nhật Hoàng, và như đã nói ở trên, vị thần tối cao của Thần đạo là vị thần tổ tiên của Hoàng gia. Tư tưởng này được sử dụng để tăng cường chi phối dân chúng dưới sự chỉ đạo của Nhật Hoàng. Nhưng, sau Thế chiến 2, chính sách “Thần đạo là tôn giáo của nhà nước” được bãi bỏ và Hiến pháp Nhật Bản hiện nay đảm bảo tự do tín ngưỡng Ngoài ra, người Nhật cũng coi trọng đạo Khổng, nhưng trên thực tế thì đạo khổng đối với người Nhật có tư cách như chuẩn mực đạo đức hơn là một tôn giáo.Đạo khổng du nhập vào Nhật từ đầu thế kỷ thứ 6, có ảnh hưởng lớn tợ nếp suy nghĩ và cách xử sự của người Nhật, sau này ảnh hưởng của đạo này cũng suy yếu đi nhiều. Giá trị và thái độ. Với phương châm “mở cửa” để học tập văn minh tiên tiến phương Tây nhằm chấn hưng đất nước, đồng thời giữ vững cốt cách tinh thần văn hóa dân tộc, Nhật Bản là nước châu á duy nhất, sớm nhất thực hiện thành công cách mạng công nghiệp, hiện đại hóa đất nước để sánh cùng các cường quốc phương Tây, làm cho mọi quốc gia khâm phục, nể trọng. Nước Nhật chỉ mất hơn 20 năm để trở thành quốc gia có nền công nghiệp phát triển trong khi nước Anh phải mất hơn 100 năm. khi nói đến bản thân văn hoá truyền thống Nhật Bản còn có những đặc điểm cơ bản sau: Ngay từ thời cổ xưa, Nhật Bản đã từng nhìn vào Trung Hoa như một tấm gương, Nhật Bản cử những sứ bộ hào hứng sang các triều Đường, Tống, Nguyên, Minh… giao lưu, có người còn ở lại làm quan cho triều đình Trung Hoa. Trong những chừng mực nào đó, Nhật đã cố gắng du nhập và mô phỏng văn hoá Trung Hoa, cải tiến cho phù hợp ở Nhật, ví dụ cải tiến chữ Hán, tham khảo các điển tích Trung Hoa trong sáng tác văn học; nhấn mạnh tính chất Thiền “Zen” của đạo Phật, chấp nhận một số giáo lý của đạo Khổng. Về điểm này có thể rút ra rằng: Nhật Bản học hỏi để làm ra cái riêng của Nhật là “Giản lược và quyết liệt”- tính chất đó được thể hiện rõ từ những nét bút Nho, những bức tranh, cốt truyện hay đường kiếm của họ. Trong lịch sử, Nhật Bản chưa từng bị nước ngoài đô hộ. Khi quân Nguyên Mông hùng hổ tấn công 2 lần thì đều bị bão biển nhấn chìm tàu thuyền gần hết, một lần bỏ dở cuộc chinh phạt, lần sau một số tàu thuyền bị bão đắm, số quân tướng tràn lên bờ đều bị các samurai thiện chiến của Nhật tiêu diệt hoàn toàn. Đến khoảng những năm 50 của thế kỉ XIX, khi các nước phương Tây bắt đầu xâm lấn châu á, thì hầu hết các quốc gia vùng này từ  Trung Quốc to lớn đến các nước nhỏ khác đã trở thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa của các nước thực dân, đế quốc. Nhung xứ sở Hoa anh đào lại thoát khỏi nạn kiếp bị đô hộ nhờ vị trí khu biệt về địa lí, xa lạ về văn hóa và nhờ các tư tưởng canh tân, học hỏi du nhập điều hay của ngoại bang kể cả của những kẻ đối địch với mình. Trên thực tế, sau khi tiến hành cách mạng Minh Trị ít lâu, người nước ngoài đến Nhật rất đông, người Nhật bắt đầu học cách mặc đồ Âu mạnh mẽ, ăn bánh mì bơ, phó mát, dùng dao nĩa. Có lúc tưởng chừng một số nhân tố văn hoá nước ngoài lấn át được phần nào văn hóa bản xứ. Tới khi cao trào đó lắng dịu xuống, văn hóa truyền thống Nhật Bản lại trỗi dậy và xảy ra quá trình "Nhật Bản hoá" những gì được du nhập, thâu nhận, trao đổi và học hỏi được từ phương Tây. Chính vì vậy, việc du nhập, tiếp biến yếu tố văn hóa ngoại lai đã không phá hỏng, làm lai căng nền văn hóa bản xứ hay chia cắt văn hóa xứ sở này, trái lại còn giúp Nhật Bản tạo dựng được những hình mẫu văn hóa đặc sắc của mình. Với tư cách là một quốc gia dân tộc, Nhật Bản đã duy trì được nền văn hoá thuần nhất, riêng biệt, đặc sắc của mình từ thời tiền sử đến tận thời hiện đại và điều này làm nên sức mạnh của Nhật Bản, tạo nên một vị thế hiếm có của Nhật trên thế giới trong thời gian qua. Thói quen và cách cư xử. Nhật Bản là một xã hội theo đẳng cấp dọc, vì thế người Nhật không có quan niệm về sự “bình đẳng” giống như các nước khác. Các mối quan hệ ở Nhật theo khuynh hướng người trên và kẻ dưới, người chủ hoặc sếp trong công ty được ví như cha mẹ và nhân viên được xem như con cái trong gia đình. 2.5.1 Danh thiếp phải được trao và nhận bằng hai tay. Danh thiếp cung cấp những thông tin này, nên bạn phải trao danh thiếp của mình ngay khi chào hỏi lần đầu tiên. Người Nhật luôn trông đợi tấm danh thiếp của mình được người khác xem và ngắm nghía ngay khi nhận. Trong suốt cuộc gặp gỡ, danh thiếp nên được để trên bàn. Sau khi gặp xong phải được trân trọng cho vào ví và không bao giờ được nhét trong túi quần sau. 2.5.2 Sự hòa thuận trong giao tiếp, người Nhật không muốn có sự đối đầu, họ tin tưởng vào sự thỏa hiệp và hòa giải. Họ tin tưởng tuyệt đối vào quyết định của tập thể, ưu tiên cho những quyết định có kết quả. Họ sẽ nói ra cảm xúc thật sự của họ bởi vì muốn duy trì sự hòa thuận. Tính bằng hữu trong kinh doanh thì quan trọng hơn cả tính logic, người Nhật cũng thường trò chuyện xã giao để thiết lập quan hệ với bạn trước khi bàn bạc công chuyện kinh doanh. Hãy quan sát các đối tác này để quyết định thời điểm bắt đầu thảo luận công việc. Nếu đại diện nhóm nói chuyện thì những người còn lại nên ghi chú những điều cần thiết để bàn bạc thêm với nhóm sau đó, vì người Nhật thường thể hiện mình khá phức tạp, khó hiểu. Lời nói “Vâng” (Yes) của họ có thể có nghĩa là “không” nếu đi kèm với những cụm từ như We will think about it (Chúng tôi sẽ suy nghĩ về điều đó), We will see (Chúng tôi sẽ xem lại) hoặc Perhaps (Có lẽ). Bạn có thể mất ba lần gặp gỡ và có khi một năm để mối quan hệ kinh doanh với họ được trở thành chính thức. 2.5.3 Nghệ thuật chiêu đãi khách: Ăn uống là thông lệ chung của các doanh nhân, sự tương tác của hai phía trong bữa tiệc còn quan trọng hơn cả thức ăn. Không nên mang vợ đến những buổi tiệc này, chủ tiệc người Nhật thường là đàn ông và họ không bao giờ mang phu nhân theo họ. Người Nhật vẫn còn trọng nam hơn nữ, nên chúng ta rất ít gặp những đối tác kinh doanh là nữ. Các buổi tiệc chiêu đãi thường vào buổi tối và có rất nhiều thức ăn và rượu uống thoải mái, và đây là lúc họ nói lên cảm xúc thật của mình. Việc đổ nước tương trực tiếp lên cơm bị xem là bất thường. Người ta ít khi tự rót rượu cho mình trong các cuộc giao tế. Thông thường, một người sẽ rót rượu cho người đi cùng và ngược lại người bạn sẽ rót rượu cho người đó. Tuy nhiên nếu một trong hai người đang uống rượu từ trong chai và người kia chỉ uống từ ly thì bạn có thể tự rót rượu, nếu không sẽ phải chờ rất lâu. 2.5.4 Cương vị lãnh đạo và cấp bậc xã hội: Người Nhật đánh giá cao sự đồng tâm hiệp lực, lãnh đạo là người ra quyết định sau cùng sau khi đã lắng nghe ý kiến của cấp dưới. Quyết định của lãnh đạo là đại diện của sự đồng tâm hiệp lực của tất cả mọi người. Giá trị của mỗi công ty là sự hòa thuận và tuân theo của từng thành viên và quyết định sau cùng phải được mọi người nghiêm túc chấp hành. Không tranh cãi: người Nhật không quen với việc tranh luận bởi vì họ không tách mình ra khỏi tập thể. Tỏ thái độ bất đồng được xem là thô thiển, họ thích nói nhẹ nhàng lịch sự. 2.5.5 Các cuộc gặp gỡ trong kinh doanh: + Làm quen: giai đoạn làm quen trong kinh doanh bắt đầu trong những lần gặp gỡ đầu tiên, giai đoạn này không được quá hấp tấp. Chỗ ngồi với người Nhật phải theo cấp bậc và có thể trao đổi những vấn đề chung như thời tiết, gia đình, du lịch… Nên giới thiệu từng thành viên trong buổi gặp mặt cùng với cấp bậc và vị trí từ cao đến thấp. Sau lần gặp này, họ thường mời bạn dùng cơm tối với họ và đây cũng là cách để xây dựng mối quan hệ thân mật hơn. + Thu thập thông tin: Hãy để cho người cấp cao nhất hoặc trợ lý của ông ta đề cập đến mục đích của cuộc gặp mặt, đây cũng là dấu hiệu để chúng ta biết cuộc thương thảo sắp bắt đầu. Mục đích của cuộc gặp gỡ là thu thập thông tin từ đối tác, nên bạn phải chuẩn bị thật chi tiết những đề nghị của bạn. Hãy sẵn sàng trả lời rất nhiều câu hỏi từ phía họ, và người Nhật thường không ra quyết định cho lần gặp gỡ này. Đùa cợt không được chấp nhận khi thương lượng: Rất nghiêm túc trong công việc nên người Nhật không bao giờ đùa giỡn khi chưa chứng tỏ được năng lực của mình. Đùa giỡn thường là sau khi đã hoàn thành công việc hoặc sau giờ làm việc. + Thỏa thuận bằng miệng: Người Nhật tin vào thỏa thuận bằng miệng, những hợp đồng được chuẩn bị chi tiết gây cảm giác rằng lòng tin chưa có từ hai phía. Họ thích linh động, thiện chí, có thể điều chỉnh trong thương thảo, họ cho rằng sự tranh chấp có thể làm giảm đi sự hòa thuận. 2.5.6 Nguyên tắc khi giao tiếp:  + Đến sớm hơn vài phút trước giờ hẹn, người có cấp bậc cao nhất sẽ là người tiến vào phòng đầu tiên, chủ nhà là người giới thiệu những thành viên tham dự và theo cấp bậc từ cao đến thấp. + “Họ” được dùng để giới thiệu cùng với cấp bậc thay vì dùng tên.  + Phải có khoảng cách khi đứng giao tiếp, khi giới thiệu họ thường cúi đầu chào nhau, cúi cao hay thấp thì tùy vào cấp bậc, cấp bậc càng cao thì cúi đầu càng thấp.  + Khi bắt tay với họ thì không nên giao tiếp mắt và siết mạnh, thường thì các vị cao cấp bắt tay trước khi ra về và hãy để cho người khách quan trọng nhất bước ra khỏi phòng trước. 2.5.7 Những tinh thần chủ đạo của văn hóa doanh nhân là:  - Doanh nhân phục vụ đất nước. - Quang minh chính đại.  - Hòa thuận nhất trí.  - Lễ độ khiêm nhường.  - Phấn đấu vươn lên.  - Đền đáp công ơn. Các quy tắc kinh doanh của văn hóa kinh doanh Nhật Bản:  - Lợi nhuận thu được từ việc phục vụ xã hội đó là niềm tự hào.  - Cần nuôi dưỡng niềm tin: Nhờ có công ty của mình thì nền kinh tế xã hội mới vận hành bình thường được.  - Phải biết ơn và kính trọng khách hàng: họ là người thân, là người thầy của doanh nhân. Phải luôn thấu hiểu cái lý của họ. Phải đáp ứng kỳ vọng của họ, họ là trung tâm trong các hoạt động của doanh nhân.  - Với người Nhật, không vì lấy lòng khách hàng mà hạ thấp nhân viên.  - Vấn đề không phải là vốn mà là sự tín nhiệm. - Phấn đấu làm ra sản phẩm có chất lượng, nhưng phổ biến sản phẩm đến mọi đối tượng mới quan trọng nhất. Thẩm mỹ. 2.6.1 Thư pháp: tại Nhật Bản gọi là thư đạo. Theo các chuyên gia thư pháp Nhật Bản, chữ Hán được truyền từ Trung Quốc sang Nhật Bản từ khoảng 2000 năm trước, được sử dụng phổ biến ở Nhật Bản từ khoảng thế kỷ 5. Sau đó, dựa trên cơ sở chữ Hán, người Nhật đã sáng tạo ra kiểu chữ của mình là chữ Hiragana và Katakana (kiểu chữ biểu thanh). Thư pháp Nhật Bản được hình thành từ hai kiểu chữ chính là kiểu chữ Hán từ Trung Quốc đến và kiểu chữ Hiragana, Katakana. Hiện nay, ở Nhật Bản có từ 8 đến 10 triệu người tham gia viết thư pháp, và thư pháp được coi là một trong những môn nghệ thuật đặc sắc của Nhật Bản. Theo phân loại của Hội thư pháp Mainichi của Nhật Bản, thư pháp truyền thống đến thư pháp hiện đại của Nhật bản có thể được xếp theo 7 bộ môn sau: + Thư pháp chữ Hán: Được tạo nên nhờ dựa vào thơ, văn xuôi cổ điển viết bằng chữ Hán, dựa vào cảm nhận nghệ thuật và phương pháp học thư pháp của từng người thông qua các tác phẩm từ nhiều chữ đến ít chữ, và các thể loại thư pháp như Ten (Triện thư), Rei (Lệ thư), Kai (Khảo thư), Gyo (Hành thư), So (Thảo thư), tìm kiếm thể loại thư pháp vốn có. Bộ môn thư pháp chữ Hán thể hiện tính hiện đại hoà quyện trong tính truyền thống. + Thư pháp chữ Kana: Được tạo ra để viết những từ ngữ đẹp của Nhật Bản thông qua việc cải biên, phát triển những bài hát Waka và thơ Haiku. Có sự biểu hiện phong phú tùy theo chí hướng khác nhau của các tác giả về những bài ca cổ mà thư pháp Kana. Vẻ đẹp của chữ Kana hiện đại được hoà trộn với cảm giác mới của Kana chữ lớn (nguồn gốc của chữ Kana là chữ nhỏ). + Thư pháp thơ văn cận đại (Cận đại thi văn thư): Là những tác phẩm lấy văn và thơ hiện đại làm đề tài, điều hoà giữa chữ Hán và chữ Kana tạo ra một thư pháp mới. Đây là bộ môn đã được triển khai, mở rộng ở các kì triển lãm Thư pháp Mainichi. Do tính chất dễ đọc và gần gũi nên nó nhận được sự ủng hộ của nhiều người. + Thư pháp viết chữ lớn (Đại tự thư): Là những tác phẩm thư pháp viết chữ lớn mà số lượng chỉ từ 1 đến 2 chữ. Một thế giới thư pháp mới được tạo ra từ việc định hướng tạo hình, tôi luyện đường nét và sáng tạo về màu đen. + Thư pháp chữ in bằng khuôn khắc đá – Tenkoku (Triện khắc): Bộ môn này được cho là tinh hoa của phương Đông và giới thư pháp. Chữ in bằng khuôn hình vuông 3 phân. Người ta khắc trên đá những bản thư pháp và chữ viết thời cổ đại của Trung Quốc sau đó in trên giấy trắng, tạo nên sự tương phản rất đẹp giữa mực (đỏ) và giấy. Tekuko là cảm giác tạo hình mới dựa trên nền tảng truyền thống được hoà quyện trong một không gian nhỏ. + Thư pháp chữ khắc gỗ (Khắc tự): Chữ viết được khắc lên bản gỗ. Chữ viết ở đây khác với chữ viết bằng bút, nó mang tính lập thể và còn có thể được tô bằng nhiều màu sắc. Khắc tự là một bộ môn thư pháp đang gây được sự chú ý. + Thư pháp ZenEi (Tiền vệ thư): Bộ môn này biến đổi nhận thức trước kia về thư pháp (coi thư pháp là biểu hiện của nhân cách con người). Thư pháp Tiền vệ thư chịu ảnh hưởng của hai trường phái: hội họa trừu trượng phương Tây và triết học phương Đông. Không bị giới hạn bởi việc lấy chữ làm nguyên liệu chính, người viết có thể tự do thể hiện tâm hồn và tình cảm thông qua các tác phẩm nghệ thuật mang tính trừu tượng. 2.6.2 Trà đạo: được biết đến như một loại nghệ thuật thưởng thức trà. Trong văn hóa Nhật Bản, Trà đạo được phát triển từ khoảng cuối thế kỷ 12. Từ uống trà, cách uống trà, rồi nghi thức uống trà cho đến trà đạo là một tiến trình không ngưng nghỉ mà cái đích cuối cùng người Nhật muốn hướng tới đó là cải biến tục uống trà du nhập từ ngoại quốc trở thành một tôn giáo trong nghệ thuật sống của chính dân tộc mình, một đạo với ý nghĩa đích thực của từ này. Có rất nhiều qui tắc cần biết trong trà đạo Nhật Bản như: Trà thất Chabana Tokonoma Cách bày trí các đạo cụ trong Trà Thất Cách bày trí đạo cụ trong Trà Viên Những đạo cụ dùng trong việc pha chế và thưởng thức trà V.v… 2.7 Giáo dục. Trong hệ thống giáo dục ở Nhật Bản, vai trò của gia đình, đặc biệt là người mẹ rất quan trọng đối với trẻ em. Thông thường, phụ nữ Nhật Bản có xu hướng trở thành các bà nội trợ chuyên nghiệp sau khi lập gia đình, trong đó dạy dỗ và chăm sóc con cái là một trong những nhiệm vụ chính. Trên cơ sở đó, kiểu giáo dục này đòi hỏi người mẹ phải có trình độ học vấn cao để có thể giúp con họ có thể vượt qua được chương trình giáo dục khắc nghiệt ở đây. Vì vậy, với những người phụ nữ có trình độ học vấn cao, khi lấy chồng họ vẫn hoàn toàn có cơ hội để sử dụng tốt các kiến thức đã học để dạy dỗ con cái thay vì thuê gia sư hoặc đến trường học thêm. Giữa những năm 1947 và 1950, hệ thống giáo dục Nhật Bản được thay đổi thành hệ thốg 6-3-3-4 trên toàn quốc (6 năm cho tiểu học, 3 năm cho trung học cơ sở, 3 năm cho trung học cho trung học phổ thông và 4 năm cho cao đẳng, đại học), là chuẩn mực giáo dục ở Nhật Bản. Sơ đồ Hệ thống Giáo dục ( hhtp://www.iced.edu.vn ) Và khi học sinh sau khi kết thúc chương trình phổ thông trung học, học sinh có thể tiếp tục học 4 năm chương trình đại học hoặc 2 năm chương trình cao đẳng. ở Nhật, các trường cao đẳng và đại học đều được gọi là “University”,  giáo dục đại học kéo dài 4 năm, và đối với một số ngành như Y, nha khoa, thú y kéo dài 6 năm, chương trình cao đẳng kéo dài 2-3 năm. Ngoài ra, các học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học có thể vào học các trường dạy nghề. Học sinh sau khi học xong chương trình đại học có thể tiếp tục học lên chương trình thạc sĩ 2 năm và tiến sĩ 5 năm ( chia làm 2 kỳ : 2 năm đầu lấy bằng thạc sĩ, 3 năm tiếp theo lấy bằng tiến sĩ). Đối với chương trình tiến sĩ ngành Y, nha khoa, thú y chỉ mất thêm 4 năm sau khi kết thúc 6 năm đại học. Một số trường Y, nha khoa và thú y đào tạo chương trình tiến sĩ 5 năm hoặc 3 năm. Năn 2007, Nhật Bản chi trên 7% GDP cho ngân sách giáo dục quốc gia ( Các chuyên gia giáo dục Nhật bản đã có nhiều dự án nghiên cứu về tình hình kinh tế – xã hội cũng như văn hoá lịch sử, lối sông người dân để tìm ra chương trình giáo dục phù hợp nhất cho mọi cấp. Các cuộc cải cách giáo dục ở Nhật Bản nhằm vào các mục tiêu: Tăng tầm quan trọng đặc biệt việc phát triển của từng cá nhân; Chuyển sang hệ thống giáo dục học tập suốt đời; tạo sự cân bằng giữa các kiến thức truyền thống với các kiến thức công nghệ tiên tiến nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết hiện nay tại Nhật Bản phục vụ xu hướng quốc tế xã hội và thời đại thông tin. Tổ chức đánh giá giáo dục quốc tế đã tiến hành hai cuộc khảo sát so sánh chất lượng học tập của sinh viên trên toàn thế giới. Kết quả là ở Nhật Bản, sự khác biệt về năng lực và thành tích học tập của sinh viên giữa các trường là tối thiểu, có lẽ là ít nhất trên thế giới. Hầu hết sinh viên, học sinh Nhật Bản đều làm chủ chương trình học.Với những xu hướng cải cách giáo dục hiện đại hiện nay, Nhật Bản hy vọng sẽ lại một lần nữa tạo nên những điều thần kỳ mới trong quá trình phát triển trong tương lai không xa. 2.8 Khoa học và công nghệ. Nhật Bản là một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới trong các lĩnh vực về nghiên cứu khoa học, công nghệ máy móc, nghiên cứu y học. Gần 700.000 nhà nghiên cứu chia sẻ 130 tỉ USD của ngân sách nghiên cứu và phát triển, đứng hàng thứ 3 trên thế giới. Một vài đóng góp công nghệ quan trọng của Nhật Bản là những phát minh trong các lĩnh vực điện tử, ô tô, máy móc, robot công nghiệp, quang học, hóa chất, chất bán dẫn và kim loại. Nhật Bản dẫn đầu thế giới trong ngành khoa học Robot, đây là quốc gia sở hữu hơn nửa (402.200 trong tổng 742.500) số robot cho công nghiệp sản xuất. Nhật Bản cũng là nhà sản xuất ô tô lớn nhất trên thế giới và là quê hương của 6 trong tổng số 15 nhà sản xuất ô tô lớn nhất toàn cầu cũng như 7 trong số 20 nhà sản xuất chất bán dẫn lớn nhất thế giới. Nhật Bản đang có những kế hoạch rất sáng sủa trong ngành thám hiểm không gian, trong đó có kế hoạch xây dựng một trạm mặt trăng vào năm 2030. Cơ quan thám hiểm không gian Nhật Bản (JAXA) là một trong những thành viên chủ chốt của trạm vũ trụ quốc tế, đây là cơ quan chuyên nghiên cứu về không gian vũ trụ, các hành tinh, các nghiên cứu hàng không, phát triển tên lửa và vệ tinh. Vào ngày 1 tháng 6 lúc 6:02am giờ Nhật Bản, tàu con thoi Discovery đã rời bệ phóng Trung tâm vũ trụ Kennedy, Florida mang theo Module Kibo cùng nhà du hành Akihiko Hoshide và sáu đồng nghiệp khác, mục đích chính của chuyến đi là lắp đặt phần quan trọng của phòng thí nghiệm Nhật Bản có tên Japanese Pressurised Module (JPM) cùng cánh tay máy dài khoảng 10m phục vụ cho công tác lắp đặt về sau cho Kibo. Nhật Bản là đất nước sở hữu nhiều khoa học gia đoạt giải Nobel nhất ở châu Á hiện nay. II. Điểm tương đồng và điểm khác biệt . Điểm tương đồng: Cùng là 2 quốc gia Phương đông do đó, Trung Quốc và Nhật Bản đều có mang trong mình những nét văn hoá tương đồng. Chữ viết: theo kiểu chữ tượng hình. Đều là 2 quốc gia có số lượng Phật tử đông nhất thế giới ( Trung quốc thứ nhất và Nhật Bản thứ nhì ). Ở Nhật và Trung Quốc thì Phật giáo đều là một đạo giáo xuất phát từ bên ngoài nhưng do có những triết lý và đặc thù tương đồng với những tôn giáo xuất phát từ bản thên chính nước này .VD: như đối với Nhật Bản là thần giáo và đối với Trung Quốc là đạo Nho giáo, đạo giáo . Tôn giáo của Nhật Bản bị ảnh hưởng lớn từ Trung hoa với việc du nhập đạo giáo Khổng giáo và Phật giáo . Đặc biệt là vào thời kì sau khi đất nước thống nhất, các chính quyền võ sĩ Kamakura, Muro-machi và Tokugawa ủng hộ Phật giáo, vừa để Phật giáo cùng chính quyền được tồn tại lâu dài, vừa để lợi dụng Phật giáo thống trị dân chúng. Trong thời Edo, tức chính quyền Tokugawa, chính quyền tích cực sử dụng hệ thống chùa chiền Phật giáo để quản lý hộ khẩu của người dân. Chính quyền buộc mọi người phải đăng ký thuộc một chùa nào đó và các chùa lập danh sách tín đồ thuộc chùa mình. Khi dân chúng cần phải làm lễ liên quan đến Phật giáo thì phải nhờ chùa mà mình đã đăng ký. Một mục đích khác là tránh không để dân chúng chạy theo Thiên chúa giáo. Chế độ này giúp số lượng tín đồ Phật giáo tăng lên và các chùa được kết hợp với xã hội rất chặt chẽ, nhưng mặt khác, các chùa đã có số tín đồ nhất định nên không cố gắng truyền đạo nữa. Do đó, có rất nhiều những quan niệm cuộc sống rất giống nhau. Có tính giai cấp, đề cao địa vị xã hội, tôn tị trật tự trong xã hội rất quan trọng.Trọng nam khinh nữ. Trong các cuộc đám phán không thường đi thẳng vào vấn đề. Trước khi đàm phán thường hay mời đối tác dùng các bữa ăn thân mật nhằm tìm hiểu, và tạo các mối quan hệ thân thiết. Trách các xung đột cá nhân: không phê bình hay chỉ trích người khác một cách thẳng thắn. Coi trọng chữ tín, do đó, trong các cuộc đàm phán thường có những thoả thuận bằng miệng hơn là văn bản giấy tờ. Một nét tương đồng nữa giữa 2 quốc gia, mà có thể nói đã tạo ra thành công cho 2 quốc gia này đó là rất trọng thời gian. Do đó, khi gặp các đối tác này bạn không được phép đến trễ. Điểm khác biệt: Nếu như đạo Phật ở Trung Quốc bị chi phối bởi Đạo giáo và Nho giáo thì Phật giáo Nhật Bản lại bị chi phối bởi Thần giáo . Trung Quốc có một nền văn hoá rất đa dạng, trong khi văn hóa của Nhật lại có tính đồng nhất rất cao. Tôn giáo ở Nhật khá phức tạp độ thuần nhất thấp hơn nhiều so với Trung quốc điển hình như đa số người nhật có thể theo 2 đến 3 tôn giáo .Còn đối với Trung Quốc chủ yếu chỉ là Phật giáo với những biến đổi theo văn hóa đã được xây dựng ngàn năm từ Nho giáo và đạo giáo. Do hoàn cảnh lịch sử, địa lý khác nhau. Nên mỗi quốc gia vẫn tạo ra cho dân tộc mình những điểm nét văn hoá đặc trưng: Văn hóa Trung Quốc là đậm nét văn hoá truyền thống. Văn hóa Nhật Bản mang tính kết hợp và có chọn lọc giữa văn hoá Đông – Tây – Nhật. Tạo nên một nét văn hoá rất riêng. Văn hoá ảnh hưởng đến các yếu tố sau: Marketing: văn hoá với tư cách là yếu tố của môi trường marketing ảnh hưởng toàn diện đến hoạt động marketing của các doanh nghiệp (DN), cụ thể: - Văn hoá ảnh hưởng đến hàng loạt các vấn đề có tính chất chiến lược trong marketing như: lựa chọn lĩnh vực kinh doanh, lựa chọn thị trường mục tiêu, lựa chọn các chiến lược marketing chung, các quyết định về nhiệm vụ mục tiêu tổng quát của DN và hoạt động marketing. - Văn hoá cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện các chiến thuật, các sách lược, các biện pháp cụ thể, các thao tác, hành vi cụ thể của nhà hoạt động thị trường trong quá trình làm marketing. - Văn hoá hầu như ảnh hưởng một cách toàn diện đến các công cụ khác nhau của hệ thống marketing- mix của DN trong đó đặc biệt đáng lưu ý là ảnh hưởng đến công cụ sản phẩm, phân phối và xúc tiến hỗn hợp. Mỗi một biến số của văn hoá có ảnh hưởng khác nhau đến quá trình hoạt động marketing của DN. Thực tế đã cho thấy, có thể biến số này của văn hoá có ảnh hưởng mạnh mẽ đến một hoạt động nào đó của marketing, còn biến số khác lại ít có liên quan hoặc ảnh hưởng không đáng kể. Nếu nhìn ngược lại từ phía các công cụ của marketing- mix người ta đã đưa ra một số tổng kết về sự tác động của một số biến số văn hoá như sau : +Thứ nhất, chính sách xúc tiến hỗn hợp bị ảnh hưởng sâu sắc bởi vấn đề ngôn ngữ. Chẳng hạn, các quảng cáo có thể cần phải thay đổi vì một chiến dịch hoặc biểu ngữ dùng trong nền văn hoá nào có thể có ý nghĩa xấu hổ ở một nền văn hoá khác. Người Trung Quốc kiêng số 4 vì trong tiếng Trung Quốc có thể hiểu là “chết”. Còn người Nhật nổi tiếng với lòng tự hào dân tộc và hầu hết người dân đều không sử dụng Tiếng Anh. Vì vậy, thật khó khi muốn marketing một sản phẩm qua tiếng Anh do sự khác biệt về ngôn ngữ này. +Thứ hai, sự chấp nhận sản phẩm bị ảnh hưởng bởi các tiêu chuẩn thái độ và giá trị: Ở Trung Quốc một mặt của danh thiếp in chữ tiếng Trung với những kí tự đơn giản màu vàng, vì màu vàng là màu đặc trưng cho triển vọng và sự hứa hẹn; và tiếng Trung là một thứ tiếng rất khó viết, vì vậy, tấm danh thiếp phải được kiểm tra vô cùng cẩn thận trước khi trao. Đôi khi chỉ cần một nét chấm đã làm thay đổi hoàn toàn nghĩa của từ. Danh thiếp phải có chức danh của bạn. Nếu như công ty của bạn đã lâu đời hoặc có quy mô tầm cỡ quốc gia thì bạn cũng nên dành một vị trí trang trọng cho tên công ty mình. Khi trao danh thiếp, đưa cả hai tay, và nhớ là không viết gì trên danh thiếp của ai đó, trừ khi được chính họ gợi ý. Còn Người Nhật rất coi trọng tấm danh thiếp nên họ đầu tư rất lớn vào chất lượng giấy in và mẫu mã của danh thiếp. Đối với người Nhật, cách bạn “cư xử” với tấm danh thiếp cũng là cách bạn đối xử với chủ nhân của nó. Vì thế, hãy thật thận trọng khi nhận danh thiếp của đối tác Nhật. Khi trao danh thiếp của bạn cho họ, hãy đảm bảo rằng danh thiếp của bạn phải bao gồm cả chức danh, vị trí trong công ty. Giơ hai tay khi nhận danh thiếp nhưng khi trao danh thiếp chỉ cần một tay. Trong cuộc họp, đặt bưu thiếp trên bàn trước mặt bạn. Khi cuộc họp kết thúc, có thể kẹp bưu thiếp của bạn vào trong cặp giấy đựng tài liệu phát cho mọi người. +Thứ ba, chính sách giá thường bị ảnh hưởng bởi các thái độ văn hoá đối với sự thay đổi thông qua cái gọi là “giá tâm lý”. Ở Nhật Bản, sự thay đổi thường xem là tích cực nên hàng thời trang mốt được đặt giá rất cao vì nó tượng trưng cho sự thay đổi. Nhưng ở Trung Quốc, sự thay đổi có thể đựơc xem là không tốt, một mức giá cao hơn cho sản phẩm mới thường chỉ làm sản phẩm trở nên quá đắt cho người tiêu dùng bình thường. + Thứ tư, hệ thống phân phối thường bị ảnh hưởng bởi các chế định xã hội. Ở Trung Quốc, mối liên hệ giữa người cung cấp và người mua thường dựa trên quan hệ họ hàng bất kể là xa hay gần. Những người không phải là thành viên họ hàng sẽ bị loại khỏi các giao dịch kinh doanh trong một số kênh phân phối nào đó. 2. Tài chính. 2.1 Trung Quốc. - Trong văn hoá người phương Đông trong đó có Trung Quốc là tiết kiệm, ít tiêu dùng do vậy khi Trung Quốc áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng cho các doanh nghiệp vay vốn một cách dễ dãi trong gói kích thích kinh tế, nước này không lâm lại vào tình trạng khủng hoảng tài chính như Mỹ, tiền mà Chính phủ Trung Quốc đầu tư ra không bị người dân vay tiền tiêu dùng lãng phí. Tuy nhiên, chính phủ Trung Quốc cũng đặt ra những tiêu chí để cho các doanh nghiệp vay tiền và các doanh nghiệp phải lập các dự án khả thi, phù hợp với yêu cầu của Chính phủ Trung Quốc thì mới được vay tiền. - Tư tưởng của ngưởi Trung Quốc có thể nói là “bành trướng”, họ nỗ lực nâng cao hình ảnh văn hóa quốc gia ra bên ngoài, Bắc Kinh đầu tư hàng trăm viện Khổng tử dạy tiếng Quan thoại trên toàn thế giới và triển khai nhiều cơ quan truyền thông mới phát tiếng nước ngoài. Về lĩnh vực xuất bản, các quan chức cao cấp của Bộ Thông tin trực thuộc Hội đồng Nhà nước dẫn đầu một nhóm chuyên gia thực hiện nhiệm vụ tuyển chọn các tiêu đề hấp dẫn nhất để dịch và tiếp thị ra toàn thế giới. - Gia đình là nền tảng của các tổ chức kinh doanh nhỏ ở Trung Quốc kể cả các công ty con hoạt động ở nước ngoài. Vấn đề tài chính do đó có điểm khác với phương Tây là thường được giữ kín. Việc hạch toán sổ sách chủ yếu vì mục đích thuế. Đuợc ghi chép vào 1 sổ riêng do gia trưởng nắm giữ. 2.2 Nhật Bản. - Điểm nổi bật nhất trong cơ chế giám sát của Nhật Bản là số lượng tổ chức giám sát, chỉ có duy nhất 1 cơ quan giám sát – FSA (Financial Services Agency) bởi người Nhật đã quen với cách quản lí của chính phủ, nó đem lại sự ổn định cho hệ thống tài chính. - Các tổ chức tài chính của Nhật chỉ khác nhau về qui mô lớn nhỏ, còn chiến lược, hình thức kinh doanh, cách quản lí đều giống nhau. Một trong số các lí do giải thích vì sao các tổ chức tài chính Nhật không muốn tìm ra chiến lược và hình thức kinh doanh riêng là do chủ đầu tư. Hầu hết những người này là những người có địa vị, tuổi tác cao trong xã hội, họ muốn sự ổn định không chấp nhận cái mới chưa được chứng minh tính hiệu quả. 3. Quản trị nhân sự: một trong những yếu tố thành công của bất kỳ doanh nghiệp nào chính là nghệ thuật quản lý nhân sự. Yếu tố này tuy không trực tiếp tạo ra sản phẩm dịch vụ nhưng nó có vai trò rất lớn đối với việc nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. 3.1 Nhật Bản. Các doanh nghiệp Nhật Bản dường như hiểu rõ nhất tầm quan trọng của yếu tố quản lý nhân sự. Trong thế kỷ 20, rất nhiều cuộc cách mạng về quản lý nhân sự đã diễn ra tại Nhật Bản, góp phần đáng kể vào vị thế của các doanh nghiệp Nhật Bản trên thương trường quốc tế ngày nay. Công việc làm trọn đời. Tại Nhật Bản, “công việc làm trọn đời” luôn là phương pháp nâng cao năng suất thường được các doanh nghiệp ứng dụng, giúp tạo ra hiệu quả trong công việc. Các công nhân viên Nhật Bản, nhất là những nam công nhân viên có tay nghề, thường thích làm một công việc suốt đời. Những công nhân viên này ít tình nguyện đổi công ty hơn so với các nhân viên ở các nước khác. Những công nhân viên khác gọi là những công nhân viên tạm thời, thường chiếm khoảng 6% lực lượng lao động, ngay cả ở những công ty lớn như TOYOTA. Ngoài ra còn có nhiều công nhân làm việc không trọn ngày. Sự tham gia của nhân viên trong quá trình ra quyết định. Một số công ty Nhật Bản khuyến khích sự hợp tác giữa người lao động và nhà quản trị bằng cách phân chia quyền lãnh đạo. Nhân viên được tham gia vào hoạt động quản trị của công ty, đây là quá trình hợp tác giữa người lao động và nhà quản trị trong việc ra quyết định và các chính sách kinh doanh. Ví dụ như ở Isuzu, công nhân viên bầu ra những người có quyền đại diện cho mình vào hội đồng lao động của công ty. Về những vấn đề tài chính và kinh tế, Hội đồng lao động của Isuzu được cung cấp thông tin và được tham khảo ý kiến vào việc ra quyết định, nhưng Hội đồng không có quyền như các cổ đông vì mặc dù các cổ đông và nhân viên có số người đại diện như nhau nhưng vị chủ tịch đại diện cổ đông là người có lá phiếu quyết định. Nhóm kiểm tra chất lượng. Để nâng cao năng suất của công nhân viên, các công ty Nhật Bản đã thử nghiệm nhiều phương pháp khác nhau để đề nghị công nhân viên đưa ra các sáng kiến để nâng cao sản lượng. Những nỗ lực hợp tác được thúc đẩy một phần nhờ mục tiêu này. Nhóm kiểm tra chất lượng là một trong những hoạt động đó, nhóm này bao gồm nhiều nhóm công nhân nhỏ, gặp nhau thường xuyên để phát hiện và để giải quyết các khó khăn của họ. Đây là một hoạt động có sự tham gia của nhiều cá nhân để họ tham khảo ý kiến giữa các đồng nghiệp với nhau vì mỗi một cá nhân thường không muốn quan hệ trực tiếp với nhà quản trị. Làm việc theo nhóm. Tại Nhật Bản và các hoạt động đầu tư của Nhật Bản, người ta thường sử dụng phương pháp làm việc theo nhóm để thúc đẩy sự liên kết chặt chẽ trong nhóm và các công nhân quan tâm nhiều nhiệm vụ hơn là chỉ quan tâm đến một số nhiệm vụ nào đó mà thôi. Xét về mặt liên kết nhóm thì một phần của mức lương thường không dựa trên sản lượng, vì nếu vậy nhóm sẽ gây áp lực đòi hỏi không được vắng mặt thường xuyên và luôn cố gắng nhiều. Xét về mặt nhiều loại nhiệm vụ khác nhau, các công nhân viên có thể luân phiên làm các công việc trong nhóm để giảm sự nhàm chán và phát triển khả năng thay thế phòng khi người nào đó trong nhóm vắng mặt. Ngoài ra, các nhóm công nhân viên còn kiểm soát chất lượng và tự sửa chữa máy móc của mình. Huấn luyện, đào tạo các nhà quản lý tại chi nhánh ngoài nước. Nhiều doanh nghiệp Nhật bản cho rằng sự khác biệt giữa những nhà quản trị quốc tế và nhà quản trị trong nước là nhà quản trị quốc tế phải biết tìm cách làm cho các hoạt động tại nước nhà phù hợp với các địa phương ở nước ngoài và quan hệ tốt với chính phủ nước đó. Nhiệm vụ của các nhà quản trị chi nhánh ở nước ngoài thường rộng hơn so với các nhà quản trị trong nước, họ phải đương đầu với khó khăn về thông tin liên lạc giữa các cơ quan đầu não của công ty và chi nhánh. Và tại Nhật, hai chức năng huấn luyện, đào tạo nhân viên ở nước ngoài là xây dựng những kiến thức tổng quát cho các nhà quản trị và trang bị cho các nhà quản trị phương pháp để giải quyết những tình huống đặc biệt thường xảy ra đối với những người xa xứ. Và cuối cùng, “Làn sóng văn minh thứ tư" đang hướng các công ty Nhật Bản đến phá vỡ chương trình quản lý cũ thông qua việc mở ra những phương pháp mới tăng đầu tư vào sáng tạo; đổi mới các qui trình công nghệ, sản xuất, marketing đáp ứng yêu cầu mới... Trong chiến lược nhân sự, các công ty chú trọng đến những chính sách ưu đãi những người dẫn đầu các hoạt động sáng tạo, tạo cơ hội bình đẳng sáng tạo cho tất cả mọi người cùng với các hệ thống khen thưởng, khuyến khích sáng tạo. Định hướng nhóm. Sự gắn kết và tinh thần đồng đội luôn được đề cao ở khắp các vùng trong xã hội Nhật. Một cá nhân được nhận dạng thông qua nhóm xã hội mà anh ta là thành viên. Do đó, trong công việc, người Nhật thường nhấn mạnh sự đoàn kết và tính kỷ luật. Họp và đàm phán. Trong buổi đàm phán, bạn sẽ phải đối mặt với những người có quan điểm trái ngược và họ thường đi kèm với các chuyên gia. Vì vậy, tốt nhất bạn nên có một người trợ lý hoặc bằng cách nào đó chắc chắn ràng bạn đủ tự tin để trả lời tất cả câu hỏi mà họ đặt ra. Để bắt đầu, bạn nên chào hỏi những người nhân viên cấp cao của công ty trước và sau đó là những người còn lại theo thứ tự cấp bậc. Những nhân viên cấp cao sẽ là đại diện của công ty đó và những người cấp thấp hơn sẽ là những người nói và đàm phán. Các cuộc họp thường được diễn ra vì ba lý do chính: xây dựng các mối quan hệ, trao đổi thông tin và xác nhận lại những quyết định đã được ra. (Những quyết định hiếm khi được thực hiện trong các cuộc họp). Nếu bạn đã có những mối quan hệ rồi thì đây là lúc để phát triển nó không chỉ với những người quản lý mà còn với những nhân viên cấp thấp hơn. Hãy nhớ rằng sự nhất trí giữa các thành viên là rất quan trọng. Vì vậy, bất kỳ ý kiến nào của thành viên trong nhóm đều phải được ghi nhận lại. Người Nhật rất quan tâm đến chi tiết. Trong cuộc họp sẽ có rất nhiều câu hỏi được lặp đi lặp lại theo những cách khác nhau. Bạn phải chắc chắn rằng bạn luôn có câu trả lời và truyền tải càng nhiều thông tin càng tốt. Người Nhật thích làm việc với những người ít nói, chân thành và ôn hòa. Những người quá cởi mở hoặc hướng ngoại quá nhiều thường bị xem là thiếu lễ độ hay kiêu ngạo. Trong giai đoạn đầu của cuộc họp bạn nên tỏ ra khiêm tốn, tránh nói thẳng vào vấn đề. Đừng nên tỏ ra không đồng ý quá rõ ràng và luôn dùng ngôn ngữ trang trọng trong các cuộc họp. Thêm vào đó. Việc tỏ ra ít nói được xem là một đức tính tốt. Nếu cuộc họp đang diễn ra một cách tĩnh lặng bạn đừng nên phá hỏng không khí đó. 3.2 Trung Quốc. Nếu bạn muốn làm ăn với các đối tác người Trung Quốc, bạn phải thực sự tôn trọng những phép tắc kinh doanh của họ. Người Trung Quốc rất coi trọng sự đúng hẹn. Họ sẽ không bao giờ đợi nếu bạn không đúng giờ. Kể từ năm 1978, khi Trung Quốc mở cửa cho đầu tư và thương mại tự do, đất nước này đã có những thay đổi chóng mặt về cả kinh tế và chính trị. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại rất nhiều những đặc thù truyền thống trong văn hoá kinh doanh của TQ, một đất nước với những nghi thức và phép tắc cố hữu được xây dựng trên nền tảng về văn hoá và lịch sử lâu đời. Hiểu biết về giá trị văn hoá và đạo đức trong kinh doanh là một điều quan trọng khi “bắt tay” với các doanh nhân người Hoa. Những thuật ngữ. “Guanxi” theo nghĩa là quan hệ hay mối liên kết có một tầm quan trọng đặc biệt. Thiết lập được một mạng lưới các mối quan hệ giữa các cá nhân và tổ chức là một hoạt động chủ chốt trong chiến lược kinh doanh. Ngày nay, yêu cầu xây dựng mối quan hệ tương trợ dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau vẫn mang ý nghĩa sống còn để thành công. “Mian-zi” với nghĩa là “thể diện”, sự hãnh diện cá nhân là điều luôn được giữ gìn, gắn liền với địa vị xã hội và danh tiếng của mỗi cá nhân. Trong văn hoá kinh doanh của người Hoa, “giữ thể diện”, “mất thể diện” hay “đem lại thể diện” có một sự tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh. Việc bạn khiến cho ai đó mất thể diện trong tổ chức có thể gây ra sự bất đồng nghiêm trọng. Ngược lại, việc khen ai đó trước mặt các đồng nghiệp khác là một hình thức "đem lại thể diện” và có thể tạo ra sự tôn trọng, sự trung thành của cấp dưới. “Keqi” dựa trên sự kết hợp của hai âm tiết “ke” có nghĩa là khách mời và “qi” là ứng xử cũng là một từ được đặt lên hàng đầu khi thiết lập các mối quan hệ kinh doanh. Thể hiện sự khiêm tốn, nhún nhường thì quan trọng trọng hơn việc bộc lộ khả năng ngay lúc đầu, việc thể hiện bản thân quá sớm với các đối tác TQ dễ bị gây nghi ngờ. Quan hệ lâu dài cũng được xem là có giá trị hơn sự giao dịch, giải quyết công việc nhất thời. Vì thế, đừng vội vã “tấn công”, sự tin cậy là điều cần xây dựng trước và khiêm tốn cộng với kiên nhẫn chính là chìa khoá của thành công. Văn hóa thường liên quan đến hệ thống kiến thức, thái độ và niềm tin mà đã lan tỏa, ảnh hưởng đến cuộc sống con người trong nhiều thế hệ. Văn hóa bao gồm cách suy nghĩ, ứng xử trong cuộc sống và được định hình ở những khu vực địa lý riêng biệt dưới sự ảnh hưởng của điều kiện chính trị, kinh tế và lịch sử. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể. Mặc dù nhiều người nghĩ văn hóa Trung Hoa đề cao chủ nghĩa tập thể tuy nhiên dùng cụm từ chủ nghĩa gia đình có lẽ chính xác hơn. Người Hoa xem trọng những giá trị gia đình, xem trọng chữ hiếu. Dường như đối với họ, gia đình là đơn vị xã hội duy nhất có thể gợi nên sự trung thành từ những thành viên của nó. Những tổ chức xã hội khác, bao gồm cả công sở không thể nuôi dưỡng được sự trung thành, tận tuy như thế. Và kết quả của điều đó là nhiều tổ chức ở Trung Quốc, đặc biệt là những bộ phận của chính phủ, phải dành rất nhiều thời gian và công sức để giải quyết những xung đột nội bộ giữa những phòng ban, những nhóm nhân viên hoặc kể cả giữa những nhân viên với nhau. Nhiều công ty nước ngoài nhận thấy rằng việc xây dựng tinh thần làm việc nhóm ở Trung Quốc còn khó hơn ở Mỹ, nơi mà chủ nghĩa cá nhân thống trị nền văn hóa. Cách ứng xử đối với những luật lệ, quy định. Đã từng có một khoảng thời gian rất dài xã hội Trung Quốc được cai trị bởi con người chứ không phải pháp luật. Mặc dù nhiều hệ thống luật đã được tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử Trung Quốc nhưng những người lãnh đạo của họ thường có khuynh hướng đặt mình lên trên cả pháp luật. Ngay cả ở hiện tại, trong những công ty Trung Quốc, luật lệ, nội quy được đặt ra là cho những nhân viên, không phải cho những nhà quản lý. Sự bất chấp luật lệ này cũng có thể dễ dàng thấy trên đường. Người ta không muốn nhường đường cho nhau, ai đi trước đường là của người đó. Những người đi bộ khi băng qua đường cũng bất chấp cả đèn đỏ ngay cả khi họ đang trên đường cao tốc. Lẩn tránh trách nhiệm. Ở Trung Quốc, những người quản lý thường than phiền rằng họ không có đủ thẩm quyền để thực hiện công việc của họ. Tuy nhiên, khi phải ra quyết định quan trọng, họ thường chuyển trách nhiệm lên phía cấp trên của họ. Những người quản lý Trung Quốc thường có khuynh hướng tách rời trách nhiệm ra khỏi quyền lực. Ngay cả những giám đốc hàng đầu cũng muốn chuyển phần trách nhiệm sang các thuộc cấp của mình. Chẳng hạn, khi một nhân viên yêu cầu được tăng lương anh ta thường nhận được câu trả lời: “Tôi muốn tăng lương cho cậu! Nhưng rất tiếc, phòng HR không đồng ý”. Khi một giám đốc được hỏi về nguyên nhân cắt giảm ngân sách, ông ta thường trả lời "Phòng tài chính không đồng ý tăng, hoặc giữ nguyên mức ngân sách vì lý do tài chính không cho phép." Và một cách để hạn chế khuynh hướng này là phải gắn chặt trách nhiệm của người quản lý với những lợi ích mà anh ta nhận được. Thiếu sự chân thành. Người Hoa hiếm khi nói thẳng một phần bởi vì sự trọng danh dự trong văn hóa Trung Quốc. Một người không chỉ phải giữ thể diện của mỉnh mà còn phải tránh làm cấp trên, người thân, bạn bè mất mặt. Và kết quả là thay vì tự do nói thẳng những suy nghĩ, nhận xét của mình, người ta thường dùng những lời ngon tiếng ngọt khi gặp mặt nhưng sau lưng thì âm thầm quản đối. Do đó, người Hoa thường chỉ tin người thân và bạn bè thân của họ. Những cách ứng xử như vậy có thể gây ảnh hưởng xấu đến tổ chức. Ở các công ty Trung Quốc, người ta thường nghe nói: "Tôi không thể nói về điều này vì không muốn gặp rắc rối." hoặc là "Chắc hẳn hắn đã nói xấu với ông chủ sau lưng tôi." Bầu không khí như vậy chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tinh thần làm việc và làm các nhân viên sao nhãng công việc của mình. Một vấn đề nữa có thể thấy là trong các cuộc họp, người Hoa thường có khuynh hướng giữ im lặng và dễ dàng đồng ý với các quyết định được đưa ra, nhưng khi cuộc họp kết thúc, họ thường phàn nàn về những quyết định của công ty. Sự e ngại phát biểu, phê bình một cách có hệ thống có thể trở thành một thách thức lớn cho những công ty nước ngoài ở Trung Quốc. Để giảm thiểu những ảnh hưởng xấu của khuynh hướng này, các công ty nên tạo nên một môi trường giao tiếp cởi mở giữa các nhân viên cũng như giữa nhân viên với người quản lý của mình. Đây không phải là việc dễ dàng nhưng có thế làm được nếu có một chiến lược đúng đắn và một hệ thống chính sách phù hợp. Chẳng hạn, những nhân viên phát biểu xây dựng trong các cuộc họp cần được khuyến khích trong khi những người tham gia một cách im lặng cần phải cảm thấy một sức ép phải đóng góp ý kiến. Nếu không tạo được một bầu không khí cởi mở, các công ty sẽ phải tốn nhiều công sức trong việc hoạch định chính sách. Sự nguy hiểm của chủ nghĩa bình quân và sự ghen tị. Chủ nghĩa quân bình vật chất đã trở thành lý tưởng trong giai đoạn 1949-1976 ở Trung Quốc. Khi nền kinh tế được định hình lại từ những năm 70, luồng tư tưởng này dần trở nên không thích hợp. Với khẩu hiệu “làm giàu là vinh quang”, người dân được kêu gọi làm giàu, tạo ra thật nhiều của cải vật chất. Và kết quả là thu nhập bình quân đầu người ở Trung Quốc đã tăng lên đang kể trong thời gian qua. Dù mức sống ở Trung Quốc đã tăng lên đáng kể, nhiều người vẫn có cảm giác không thích người giàu. Trong một tổ chức kinh doanh ở Trung Quốc, người nhận được lương cao và nhiều tiền thưởng thường trở thành mục tiêu công kích của những người còn lại. Họ sẽ cô lập anh ta, từ chối giúp đỡ và cố tạo nên những rào cản cho công việc của anh. Những xu hướng như vậy đã gây rất nhiều khó khăn cho các nhà quản trị. Vấn đề đặt ra là phải có những chính sách phù hợp để bảo mật những thông tin cá nhân của nhân viên. 4. Production: có thể nói, nhấn mạnh tính sáng tạo đang từng bước giữ vai trò hàng đầu của cuộc cách mạng quản lý diễn ra ở Nhật Bản trong những năm cuối cùng của thế kỷ 20. Các công ty đa quốc gia Nhật Bản thường thích bổ nhiệm các nhà quản trị địa phương hơn là những người xa xứ vì các nhà quản trị địa phương thông hiểu các điều kiện hoạt động ở địa phương, ít tốn kém, người địa phương có thể tập trung vào hoạt động nhằm phục vụ cho mục tiêu dài hạn. Các công ty này thuyên chuyển nhân viên ra nước ngoài để truyền đạt những kỹ năng chuyên môn và các hoạt động kinh doanh ở nước nhà, để kiểm soát các hoạt động ở nước ngoài và để phát triển các nhà quản trị. 4.1 Tại khâu thiết kế sản phẩm. Thể hiện ở việc tự tôn của mỗi dân tộc . Nếu như ở Nhật thì phòng nghiện cứu và phát triển sản phẩm ,bộ phận cốt yếu tạo nên sự khác biệt của các công ty không bao giờ có người ngoại quốc, là bộ phận chỉ dành riêng cho người Nhật.Còn ở Trung Quốc thì ngược lại , họ rất chào đón các nhà khoa học nước ngoài cũng như luôn tìm cách tiếp cận với nền khoa học phương tây . Điều này có thể là do tác động bởi lịch sử khi xét về khía cạnh sản xuất thì Trung Quốc chỉ mới xếp thứ 3 trong quá trình theo triết lý của Nhật Bản ( imitation,innovation,invention), tức chỉ mới ở khâu sao chép lại sản phẩm chưa có nhiều sản phẩm mang tính đột phá như Nhật. 4.2 Khâu sản xuất. Cả Nhật Bản và Trung Quốc đều có sự hòa quyện có chọn lọc giữa phong cách quản lý khoa học phương tây và các truyền thống quản lý của nước mình . Nếu như Trung Quốc được mọi người nhìn nhận về tính cộng đồng trong các hoạt động sản xuất buôn bán của mình . Họ luôn tập trung về một nơi và lập thành các phường hội để giúp đỡ lẫn nhau thì người Nhật lại được chú ý nhiều bởi văn hóa quản lý của mình .Điển hình có thề thấy qua ví dụ sau : Khi các công ty Nhật Bản bắt đầu tham gia sản xuất ở nước ngoài mà điển hình là Mỹ, thì đã có rất nhiều người lấy làm ngạc nhiên khi thấy các nhân viên của công ty Nhật luôn phải cùng nhau tập thể dục trước giờ làm việc . Song rõ ràng kết quả kinh doanh đã làm cho các nhà quản lý phải kinh ngạc. Trong khi các công ty Mỹ thì đang phải cố gắng mở các nhà máy sản xuất ở nước ngoài thì những công ty Nhật lại đamh thành công khi kinh doanh trên đất nước họ .Chúng ta có thể thấy rõ ràng sự ảnh hưởng bởi yếu tố văn hóa lên phong cách quản lý trong sản xuất của người Nhật khi họ luôn cố gắng xây dựng bầu không khí gia đình mà một người luôn vì mọi người, luôn đạt lợi ích cộng đồng lên trên hết . Việc tập thể dục tập thể cũng chính là một cách để xây dựng phong cách làm việc tập thể giúp co những người Mỹ làm việc tại các công ty Nhật có thể hiểu hơn về phong cách làm việc tập thể , gây dựng văn hóa cho công ty. Ngoải ra dù đều là 2 nước Châu Á đều coi trọng thứ bậc trong quản lý nhưng Nhật Bản là nơi coi trọng vấn đề này nhất , đặc biệt là ở nơi làm việc.Người Nhật rất coi trọng nguyên tắc nên đôi khi trong sản xuất gây cho những người thuộc nền văn hóa khác một tâm lý rất căng thẳng. 4.3 Tiêu dùng. Các sản phẩm của Nhật Bản luôn phải đạt một tiêu chuẩn rất cao về chất lượng. Người tiêu dùng Nhật bản luôn là những khách hàng hiểu biết nhất và khó tính nhất thế giới .Ngoài ra , các sản phẩm của Nhật Bản rất chú ý đến kiểu dáng và màu sắc. Ở các mặt hàng cao cấp thì do ảnh hưởng lớn hơn từ đạo Khổng khi so với Nhật Bản nên Trung Quốc ít có khuyên hướng tiêu dùng các món hàng xa xỉ. Kết thúc Trong một nền văn hoá các giá trị văn hoá có tính bền vững và tính phổ cập khác nhau và do đó ảnh hưởng không giống nhau đến hoạt động kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp. Bên cạnh những giá trị văn hoá mang tính phổ cập và thống nhất thì luôn tồn tại các giá trị văn hoá mang tính địa phương đặc thù, còn gọi là các nhánh văn hoá. Những giá trị văn hoá phổ cập thống nhất có ảnh hưởng rộng lớn trong phạm vi toàn xã hội và tạo nên những đặc tính chung trong nhu cầu, ước muốn, hành vi tiêu dùng của đông đảo người mua trong một quốc gia, một dân tộc. Hay nói cách khác văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Tác động của văn hoá đến kinh tế là hết sức rộng lớn và phức tạp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctrung_quoc_va_nhat_ban__3174.doc
Tài liệu liên quan