Phân tích ngành hàng bưởi tại tỉnh bến tre

MỤC LỤC CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU 1 I. Bối cảnh 1 II. Mục tiêu nghiên cứu 1 III. Phương pháp nghiên cứu 1 CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ CHO BƯỞI TẠI TỈNH BẾN TRE 2 I. Phần tóm tắt 2 II. Thông tin chung 2 2.1. Giới thiệu về tỉnh Bến Tre 2 2.2. Giới thiệu về bưởi Bến Tre 5 III. Thông tin thị trường và tính cạnh tranh 8 3.1. Xu hướng về thị trường bưởi 8 3.2. Tiềm năng phát triển bưởi ở Bến Tre 11 IV. Sơ đồ của chuỗi cung ứng bưởi 12 Phân tích SWOT 14 V. Mô tả các thành viên trong chuỗi cung ứng/quan hệ lẫn nhau 15 5.1. Nông dân trồng bưởi 15 5.2. Người thu gom 19 5.3. Vựa đóng gói địa phương 19 5.4. Vựa phân phối ngoài tỉnh 20 5.5. Người bán lẻ, siêu thị 21 5.6. Người tiêu dùng/khách hàng 22 5.7. Khu vực nhà hàng, khách sạn và khu du lịch 23 5.8. Vai trò của các tổ chức khác đối với sự phát triển của ngành 23 VI. Quá trình hình thành giá 24 VII. Khó khăn/cơ hội 25 VIII. Kết luận và đề nghị: 26 8.1. Kết luận 26 8.2. Kiến nghị 27 IX. Phụ lục 29

doc33 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2358 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích ngành hàng bưởi tại tỉnh bến tre, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
       PHÂN TÍCH NGÀNH HÀNG BƯỞI TẠI TỈNH BẾN TRE Đỗ Minh Hiền, Nguyễn Thanh Tùng Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam 2006 MỤC LỤC  Trang   CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU  1   I. Bối cảnh  1   II. Mục tiêu nghiên cứu  1   III. Phương pháp nghiên cứu  1   CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ CHO BƯỞI TẠI TỈNH BẾN TRE  2   I. Phần tóm tắt  2   II. Thông tin chung  2   2.1. Giới thiệu về tỉnh Bến Tre  2   2.2. Giới thiệu về bưởi Bến Tre  5   III. Thông tin thị trường và tính cạnh tranh  8   3.1. Xu hướng về thị trường bưởi  8   3.2. Tiềm năng phát triển bưởi ở Bến Tre  11   IV. Sơ đồ của chuỗi cung ứng bưởi  12   Phân tích SWOT  14   V. Mô tả các thành viên trong chuỗi cung ứng/quan hệ lẫn nhau  15   5.1. Nông dân trồng bưởi  15   5.2. Người thu gom  19   5.3. Vựa đóng gói địa phương  19   5.4. Vựa phân phối ngoài tỉnh  20   5.5. Người bán lẻ, siêu thị  21   5.6. Người tiêu dùng/khách hàng  22   5.7. Khu vực nhà hàng, khách sạn và khu du lịch  23   5.8. Vai trò của các tổ chức khác đối với sự phát triển của ngành  23   VI. Quá trình hình thành giá  24   VII. Khó khăn/cơ hội  25   VIII. Kết luận và đề nghị:  26   8.1. Kết luận  26   8.2. Kiến nghị  27   IX. Phụ lục  29   CÁC CHỮ VIẾT TẮT TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long HTX : Hợp tác xã GTZ : Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức SOFRI : Southern Fruit Research Institute (Viện Nghiên cứu cây ăn quả miền Nam VSATTP : Vệ sinh an toàn thực phẩm MoT : Ministry of Trade (Bộ Thương mại) EC : European Commission TQ : Trung Quốc DNNVV : Doanh nghiệp nhỏ và vừa GTSXNN : Giá trị sản xuất nông nghiệp CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU Bối cảnh Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Đức (GTZ) và Công ty Metro Cash & Carry Việt Nam cùng với Bộ Thương mại Việt Nam bắt đầu Dự án Hỗ trợ Phát triển Chuỗi Giá trị cho rau quả Việt Nam từ đầu năm 2005. Đồng thời, Chương trình Phát triển Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa (DNNVV) nằm trong khuôn khổ hợp tác giữa hai chính phủ Việt Nam và Đức do Bộ Kế hoạch Đầu tư và GTZ thực hiện cũng tập trung phát triển khả năng cạnh tranh của một số tiểu ngành nông nghiệp thông qua cách tiếp cận “Phát triển Chuỗi giá trị”. Để có cơ sở xây dựng kế hoạch hỗ trợ phù hợp với yêu cầu thực tế của ngành rau và quả và đo lường mức độ tác động của những hoạt động hỗ trợ, Dự án và Chương trình trên quyết định kết hợp thực hiện Nghiên cứu gồm hai phần: Phần I là nghiên cứu thu thập những thông tin cơ sở về Rau và Quả trên toàn quốc, và tập trung tại 4 tỉnh thí điểm của Chương trình là Hưng Yên, Quảng Nam, Đắc Lắc và An Giang; phần II là 18 nghiên cứu về Chuỗi Giá trị cho 12 loại rau và quả tại 18 tỉnh cũng được thực hiện để xác định những hoạt động hỗ trợ. Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam (SOFRI) được chọn thực hiện nghiên cứu các chuỗi giá trị cho các loại quả: xoài ở hai tỉnh Tiển Giang và Đồng Tháp, dưa hấu ở tỉnh Long An và bưởi ở tỉnh Bến Tre. Dưới đây là kết quả nghiên cứu về chuỗi giá trị cho bưởi ở tỉnh Bến Tre. Mục tiêu nghiên cứu Thu thập thông tin về hiện trạng sản xuất và tiêu thụ bưởi ở tỉnh Bến Tre, bắt đầu từ sản xuất, vận chuyển, phân phối cho đến người tiêu dùng. Xác định các thành phần tham gia trong chuỗi giá trị bưởi, lập sơ đồ các kênh tiêu thụ cho loại trái này, phân tích vai trò của các thành phần tham gia trong chuỗi giá trị. Qua việc phân tích này, những khó khăn và tồn tại ở các bộ phận khác nhau trong chuỗi giá trị cũng được xác định, từ đó có thể đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại để phát triển chuỗi giá trị cho bưởi ở Bến Tre. Phương pháp nghiên cứu Được sự nhất trí của Metro-GTZ-MoT và qua tham khảo phương pháp nghiên cứu của các chuỗi giá trị khác, SOFRI đã nghiên cứu chuỗi giá trị bưởi theo các phương pháp sau: 3.1. Nghiên cứu tại bàn: thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu có sẵn như các báo cáo khoa học, dự án, tham luận qua các hội thảo, hội nghị, báo chí, internet. Các thông tin này được tổng hợp, phân tích và báo cáo lại cho phù hợp với mục đích nghiên cứu. 3.2. Phỏng vấn chuyên sâu: phỏng vấn trực tiếp một số cá nhân hoặc tổ chức có nhiều thông tin hoặc kinh nghiệm liên quan đến lãnh vực cây ăn quả và đặc biệt là với ngành trồng bưởi ở tỉnh Bến Tre, những người tham gia trong chuỗi giá trị bưởi, bao gồm các cán bộ phụ trách về cây ăn quả thuộc Sở nông nghiệp, người thu mua và đóng gói tại vùng trồng bưởi, người phân phối bưởi ở thành phố lớn, người bán lẻ và người tiêu dùng. Tất cả những thông tin thu thập cũng được tổng hợp và phân tích theo mục tiêu của nghiên cứu. 3.3. Thảo luận nhóm: chủ yếu là thu thập thông tin từ phía nông dân, tổ chức hội thảo với những người trồng bưởi, phỏng vấn và thảo luận với họ những vấn đề liên quan đến việc sản xuất và tiêu thụ bưởi, xác định những khó khăn và nguyện vọng của người trồng. Những thông tin này cũng được tổng hợp và phân tích trong báo cáo. CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ CHO BƯỞI Ở TỈNH BẾN TRE Phần tóm tắt Bến Tre là một trong những tỉnh có tiềm năng kinh tế phong phú và đa dạng. Với hệ thống sông rạch chằng chịt, phía Đông giáp biển nên có nhiều thuận lợi để phát triển nông nghiệp và thủy sản. Là vùng đất phù sa trù phú, khí hậu thuận lợi, Bến Tre cũng có điều kiện để phát triển nông nghiệp toàn diện: dừa, mía, cây ăn trái và hoa kiểng. Những vườn hoa kiểng, cây trái nổi tiếng ở vùng Cái Mơn - Chợ Lách, Bình Đại, Giồng Trôm... hàng năm đã cung ứng cho thị trường hàng triệu giống cây ăn quả và cây cảnh nổi tiếng khắp nơi. Tỉnh Bến Tre có diện tích cây ăn quả trên 41.000 ha với nhiều chủng loại cây ăn quả nổi tiếng miền Nam, trong đó bưởi Da Xanh được đưa vào nhóm cây ăn quả chất lượng cao, có tiềm năng và lợi thế cạnh tranh thị trường trong và ngoài nước. Bưởi Da Xanh có thể xem là đặc sản của tỉnh Bến Tre vì có nguồn gốc tại xã Thanh Tân, huyện Mỏ Cày, được phát hiện qua các kỳ hội thi trái ngon do Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam kết hợp với Trung tâm hội chợ triển lãm Cần Thơ tổ chức hàng năm. Đây là loại trái cây được người tiêu dùng ưa chuộng, cung không đáp ứng đủ cầu nên nông dân đã mạnh dạn đầu tư, nhân rộng các vườn trồng bưởi Da Xanh, đúc kết kinh nghiệm trồng và chăm sóc ngày càng tốt hơn, một số vườn bưởi đã đến thời kỳ cho trái ổn định và có thể đạt doanh thu hàng năm đến 200 triệu đồng/ha. Vì những lợi thế đó, bưởi Da Xanh được Tỉnh ủy - UBND tỉnh xác định là cây mũi nhọn có lợi thế trong phát triển kinh tế vườn, nên trong nội dung các Nghị quyết của Thị xã ủy, huyện ủy đều chọn cây bưởi da xanh vào kế hoạch phát triển kinh tế vườn. Tuy nhiên, việc phát triển bưởi Da Xanh còn chậm, mang tính tự phát, sản xuất còn manh mún, phân tán theo từng hộ gia đình, chất lượng không đồng đều nên gặp nhiều khó khăn trong việc tạo ra một lượng hàng hóa lớn, ổn định để có thể tiếp thị, mở rộng thị trường theo hướng sản xuất lớn. Mặt khác, về tổ chức sản xuất và tiêu thụ cũng chưa thiết lập được sự liên kết giữa các hộ trong khu vực, số lượng chưa nhiều, mẫu mã hàng hóa, bao bì, đóng gói và xây dựng thương hiệu chưa được những người có liên quan trong dây chuyền sản xuất và tiêu thụ quan tâm thực hiện tốt. Việc phân tích những tồn tại và khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sẽ giúp nhiều cá nhân và tổ chức có được những thông tin cụ thể và đề ra những giải pháp phù hợp nhằm đẩy mạnh việc phát triển ngành hàng bưởi Da Xanh của tỉnh Bến Tre phát triển nhanh chóng và bền vững. Thông tin chung 2.1. Giới thiệu về tỉnh Bến Tre 2.1.1. Điều kiện tự nhiên Bến Tre là tỉnh đồng bằng nằm cuối nguồn sông Cửu Long, phía đông giáp Biển Đông với chiều dài bờ biển là 65 km, phía bắc giáp tỉnh Tiền Giang, phía tây giáp tỉnh Trà Vinh, phía tây nam giáp tỉnh Vĩnh Long. Trung tâm của tỉnh là Thị Xã Bến Tre cách Thành phố Hồ Chí Minh 87 km về phía Tây. Bốn sông lớn là sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và Cổ Chiên chia địa hình Bến Tre thành ba dải cù lao lớn là cù lao An Hóa, cù lao Bảo và cù lao Minh. Nhìn trên bản đồ, tỉnh Bến Tre giống như hình rẻ quạt có đầu nhọn nằm ở thượng nguồn, các nhánh sông lớn giống như nan quạt xoè rộng ra về phía Biển Đông. Về vị trí địa lý thì Bến Tre có điểm cực Nam ở vĩ độ 9o48’ Bắc, điểm cực Bắc nằm trên vĩ độ 10o20’ Bắc, điểm cực Đông nằm trên kinh độ 106o48’ Đông và điểm cực Tây nằm trên kinh độ 105o57’ Đông. Diện tích tự nhiên của Bến Tre là 2.356,8 km2, dân số năm 2005 là 1.351.472 người với mật độ trung bình 573 người/km2. Bến Tre có các đơn vị hành chính gồm Thị Xã Bến Tre và 7 huyện: Chợ Lách, Mỏ Cày, Châu Thành, Bình Đại, Giồng Trôm, Ba Tri và Thạnh Phú Bến tre nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình trong năm từ 26 - 27oC. Lượng mưa trung bình năm từ 1.250 - 1.500 mm. Do vị trí địa lý và quá trình hình thành, đất đai ở Bến Tre đưọc chia thành 4 loại nằm trong 4 vùng khác nhau: đất phù sa, đất phèn, đất cát và đất mặn. Đất phù sa: Chiếm 26,9% diện tích toàn tỉnh (khoảng 66.471 ha), nằm trong các huyện vùng ngọt phía Tây như Chợ Lách, Châu Thành, bắc Giồng Trôm và bắc Mỏ Cày. Đất phù sa ở Bến Tre có thành phần cơ giới chủ yếu là sét (50-60%), thường chua ở tầng mặt, càng về phía biển tầng đất sâu càng có phản ứng trung tính hơn. Nhóm đất phù sa ở Bến Tre có độ phì vào loại thấp, nguồn đạm tốt, nhưng nguồn dự trữ lân không đủ. Đất phèn: chiếm 6,74% diện tích toàn tỉnh (khoảng 15.127 ha), phân bố rải rác trên toàn tỉnh từ vùng ngọt, vùng lợ đến vùng mặn. Một số nơi ở vùng lợ và vùng mặn như Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú, sự xâm nhập mặn vào đất phèn trong mùa khô, làm cho đất vừa mặn, vừa phèn, làm cho cây trồng càng khó sinh trưởng. Đất phèn ở Bến Tre thường có 2 dạng chủ yếu: dạng có hữu cơ xen kẽ trong các tầng đất thường xuất hiện ở các khu vực thấp, trũng ven sông lớn hay kênh rạch chằng chịt, dạng có ít hữu cơ thường gặp ở các khu vực hơi cao nơi có nhiều giồng cát. Đất cát: chiếm 6,4% diện tích toàn tỉnh (khoảng14.248 ha ). Đây là loại đất hình thành bởi tác động của dòng sông và sóng biển trong suốt quá trình lấn biển của vùng cửa sông. Trong thành phần hoá học của đất cát giồng, tỷ lệ sắt khá cao so với các loại đất khác, ở những nơi không có cây che phủ, đất rất dễ bị thoát nước và tầng mặt thường rất khô. Đất cát giồng rất ít chất hữu cơ và nghèo dinh dưỡng, độ phì thấp, thiếu đạm nghiêm trọng. Tổng diện tích đất tự nhiên của Bến Tre năm 2005 là 235.684 ha, trong đó đất dùng cho sản xuất nông nghiệp là 136.795 ha (chiếm 58,04% diện tích đất tự nhiên). Trên diện tích đất nông nghiệp có 51,405 ha trồng cây hàng năm và 85.390 ha trồng cây lâu năm, còn lại là đất lâm nghiệp (6.421 ha), đất nuôi trồng thủy sản (36.294 ha), đất là muối… Bến Tre có một mạng lưới sông ngòi chằng chịt với tổng chiều dài khoảng 6000 km tạo thuận lợi cho giao thông thuỷ, tạo ra nguồn thuỷ sản phong phú, nước tưới cho cây trồng tuy nhiên cũng gây trở ngại đáng kể cho giao thông bộ, cũng như việc cấp nước vào mùa khô, khi thuỷ triều Biển Đông đưa mặn vào sâu trong kênh rạch. Với những điều kiện tự nhiên như vậy nên Bến Tre có những lợi thế về nông nghiệp từ cây lúa đến các loại cây ăn trái, đặc biệt là cây dừa, cây mía, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản kết hợp với phát triển du lịch. 2.1.2. Phát triển kinh tế Trong giai đoạn 2001-2005 kinh tế Bến Tre tăng trưởng mạnh, GDP năm 2005 đạt 9.974,95 tỷ đồng so với năm 2001 là 5.860,5 tỷ đồng, bình quân tăng 9,23% mỗi năm. Đóng góp cho GDP cao nhất vẫn là khu vực sản xuất nông lâm và thủy sản chiếm khoảng 60%, kế đến là khu vực dịch vụ chiếm 20-25% và tăng liên tục từ 2001 đến 2005, thấp nhất là khu vực công nghiệp và xây dựng. GDP (tỷ đồng) và cơ cấu GDP (%) tỉnh Bến Tre (Niên giám thống kê tỉnh Bến Tre 2005): Ngành kinh tế  Năm 2001  Năm 2002  Năm 2003  Năm 2004  Năm 2005   GDP (tỷ đồng)  5.860  6.449  7.191  8.672  9.975   Nông-Lâm-TS (%)  66,7  64,6  62,1  60,8  57,6   Công nghiệp & XD (%)  12,8  13,7  14,6  15,7  16,8   Dịch vụ (%)  20,5  21,7  23,3  23,5  25,7   Nông nghiệp Bến Tre trong những năm qua đã phát triển khá nhanh, tốc độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân hàng năm là 5,02%, tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng một cách đáng kể từ năm 2001. Trong giai đoạn 2001-2005, nông nghiệp đạt mức tăng trưởng bình quân trên 5,02%/năm, trong đó, chăn nuôi có tốc độ tăng trưởng cao hơn trồng trọt (bình quân 7,1%/năm, so với 4,1%/năm). Tỉ trọng chăn nuôi từ 20,46% trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2001 đã tăng lên 29,45% vào năm 2005. Ngược lại, tỷ trọng trồng trọt giảm từ 75,98% xuống còn 62,54%. Sỡ dĩ tỷ trọng ngành trồng trọt giảm là vì trong những năm qua, do tác động của khoa học kỹ thuật nên ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển mạnh đồng thời kéo theo các dịch vụ phục vụ cho các ngành này như chế biến thức ăn, thú y… cũng tăng theo. Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp và cơ cấu giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp Bến Tre từ năm 2001 đến 2005 (Niên giám thống kê tỉnh Bến Tre 2005): Cơ cấu GTSXNN  Năm 2001  Năm 2002  Năm 2003  Năm 2004  Năm 2005   Tổng GTSXNN (tỷ đồng)  3.990,3  4212,6  4.493,4  5.002,5  5.521,4   Trồng trọt (%)  75,98  69,25  68,46  66,64  62,54   Chăn nuôi (%)  20,46  25,68  25,05  25,71  29,45   Dịch vụ (%)  3,56  5,07  6,49  7,65  8,01   Trong cơ cấu cây trồng, tỉ trọng cây ăn trái chiếm cao nhất 51,3%, đứng thứ hai là cây lương thực giảm còn 24,2%, cây công nghiệp chiếm 16,4%. Diện tích cây ăn trái tăng nhanh và đạt 39.739 ha vào năm 2005, chiếm 29,1% diện tích đất nông nghiệp, với sản lượng 379.901 tấn, phân bố chủ yếu ở Chợ Lách, Tây Châu Thành và một phần ở các huyện khác. Cơ cấu cây ăn trái được phát triển theo hướng đa dạng hóa sản phẩm, trong đó chú ý tăng tỉ trọng các cây thuộc nhóm có múi (bưởi, cam, quýt, chanh...), các cây có khả năng chế biến (xoài, đu đủ, chuối...), ổn định tỉ trọng các cây đặc sản (sầu riêng, chôm chôm, măng cụt, bòn bon...). Tỉnh có kế hoạch phát triển cây ăn trái đạt sản lượng 588.000 tấn vào năm 2010. Bến Tre có khoảng 5.000 cơ sở làm cây giống, sản xuất từ 16 triệu - 18 triệu cây giống mỗi năm trong đó huyện Chợ Lách là địa phương sản xuất cây giống nổi tiếng của khu vực ĐBSCL. Mỗi năm, Chợ Lách cung ứng trên thị trường khoảng 15 triệu cây giống các loại. Cây giống làm ra ngoài tiêu thụ tại tỉnh, khắp các tỉnh ĐBSCL mà còn đến tận các tỉnh miền Đông, miền Trung và cả ở miền Bắc. Từ bình tuyển, du nhập, đến lai tạo, nhà vườn Chợ Lách cho ra đời nhiều giống cây ăn trái quí hiếm như: Sầu riêng sữa cơm vàng hạt lép (sầu riêng Chín Hóa), sầu riêng Mong Thoong, sầu riêng Ri-6, măng cụt Cái Mơn, chôm chôm Rong-riêng, dâu Hạ châu, xoài cát Hòa Lộc, xoài Tứ quí, bưởi Năm roi, bưởi Da Xanh, quýt đường, cam soàn, bòn bon, mít nghệ, ổi không hạt... Riêng về giống bưởi da xanh đặc sản của Bến Tre ở tại hai cơ sở sản xuất giống bưởi da xanh số lượng nhiều nhất là ông Lê Văn Hoa (Hai Hoa) xã Sơn Định, huyện Chợ Lách và ông Đặng Văn Rô (Ba Rô) xã Thanh Tân, huyện Mỏ Cày. Hai cơ sở này mỗi năm cung cấp cho thị trường từ 50 000 đến 60 000 cây giống bưởi Da Xanh. Các loại trái cây đặc sản của tỉnh Bến Tre có thể kể đến là sầu riêng Chín Hóa, măng cụt Cái Mơn, bưởi Da Xanh, chôm chôm Chợ Lách, dừa… Ngoài ra, Bến Tre có khoảng 29 điểm du lịch vườn hấp dẫn như khu du lịch Cồn Phụng, một cù lao nằm ở hạ lưu sông Cửu Long, giữa 2 tỉnh Tiền Giang và Bến Tre, các tuyến du lịch Ba Tri, Mỏ Cày, Chợ Lách… đang được khai thác. Bến Tre đã xác định du lịch là mũi nhọn phát triển kinh tế thứ ba của tỉnh, sau kinh tế vườn và thuỷ sản, tỉnh khuyến khích người dân tham gia làm du lịch, gắn du lịch với xoá đói giảm nghèo, nhà nước đầu tư hạ tầng. Năm 2005 lượng khách quốc tế đến Bến Tre tăng lên gần 151.000 người, doanh thu vượt qua ngưỡng 83 tỷ đồng, tăng 82,4% so với năm 2002. Về nguồn nhân lực, năm 2005 Bến Tre có 899.908 người trong độ tuổi lao động (chiếm 66,59% dân số), trong đó tỷ lệ người làm việc trong ngành nông lâm nghiệp chiếm 54,76% số người trong độ tuổi lao động. 2.2. Giới thiệu về bưởi Bến Tre Bưởi có tên khoa học là Citrus maxima (Burm. Merr.) hay Citrus grandis (Osb.) thuộc nhóm cây có múi, họ Rutaceae, có nguồn gốc ở Đông Nam Á và một số tỉnh phía Nam Trung Quốc. Bưởi là loại quả có giá trị cao về mặt dinh dưỡng và y học. Trong 100g phần ăn được chứa 59 calo, nhiều chất khoáng như: Ca 30 mg, Fe 0,7 mg.... Bưởi còn góp phần hỗ trợ sức khỏe con người như giúp dễ tiêu hóa và lưu thông máu. Cây bưởi đã được trồng từ rất lâu đời ở nước ta và phân bố rộng khắp từ Bắc đến Nam. Năm 2004 nước ta có 25 690 ha bưởi, trong đó diện tích bưởi ở Đồng bằng sông Cửu Long là 14 234 ha, chia ra các tỉnh Vĩnh Long 5.947 ha, Tiền Giang 3.732 ha, Bến Tre 2.406 ha, Hậu Giang 1.750 ha, Sóc Trăng 1.575 ha và Trà Vinh 1.038 ha. Các giống bưởi được trồng nhiều nhất là ‘Năm Roi’, ‘Da Xanh’, ‘Lông Cổ Cò’, ‘Bưởi Đường’... Trong đó bưởi Da Xanh được xem là giống bưởi ngon nhất hiện nay. Tỉnh Bến Tre hiện có 3.004 ha bưởi (7,56% diện tích cây ăn quả toàn tỉnh), trong đó bưởi Năm Roi có diện tích khoảng hơn 500 ha, được trồng không tập trung, rải rác ở các huyện, bưởi Da Xanh có diện tích khoảng 1.290 ha (năm 2004) cũng được trồng rải rác ở Thị xã Bến Tre, các huyện Chợ Lách, Châu thành và Mỏ Cày. So với bưởi năm roi thì bưởi Da Xanh được bà con nông dân ở Bến Tre trồng nhiều hơn và khá tập trung hơn vì hiện nay giống bưởi này đang cho thu nhập cao, vườn bưởi chuyên canh và chăm sóc tốt, trong thời kỳ cho trái ổn định (khoảng 7-8 năm sau khi trồng) có thể lên đến 200 triệu đồng/ha. Diện tích, sản lượng bưởi tỉnh Bến Tre (Niên giám thống kê tỉnh Bến Tre 2005) Năm  2001  2002  2003  2004  2005   Diện tích CAQ (ha)  35.106  36.390  39.268  40.378  39.739   Diện tích bưởi (ha)  624  843  1.544  2.366  3.004   Sản lượng bưởi (tấn)  3.255  5.987  9.058  11.448  15.827   Đặc tính của các giống bưởi được trồng phổ biến ở Bến Tre: Bưởi Lông Hồng: còn gọi là bưởi Lông Cổ Cò có nguồn gốc ở huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Trước đây nhà vườn ở xã Mỹ Lương, huyện Cái Bè thường chở bưởi đến bán ở chợ Cổ Cò dọc quốc lộ 1 nên gọi dần thành quen. Mặc dù không được nổi tiếng như bưởi Năm Roi và chất lượng không ngon bằng bưởi Da Xanh nhưng năng suất rất cao, dễ trồng lại ít sâu bệnh tấn công nhưng hiện nay giống bưởi này đã được trồng phổ biến ở các tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre. Giống bưởi này có một lớp lông nhung ở đọt non, lá non và trái non, sẽ tự mất dần khi cành, lá và trái phát triển. Cây bưởi Lông Hồng có khả năng sinh trưởng khá mạnh, tán hình tròn, phiến lá hình e-líp, màu xanh đậm, trên bề mặt lá có lớp lông tơ mịn. Cây sẽ cho trái từ 2,5 đến 3,5 năm sau khi trồng, mùa thu hoạch rải rác quanh năm nhưng tập trung nhiều nhất vào tháng 8 đến tháng 12 dương lịch hàng năm. Thời gian từ khi ra hoa đến khi thu hoạch 7-7,5 tháng, năng suất cao, cây 7 năm tuổi có thể cho 100 trái hoặc hơn. Trái bưởi Lông Hồng có trọng lượng trung bình 0,9-1,5 kg, trái có hình giống trái lê, cân đối, vỏ màu xanh có lẫn vết hoe vàng, nhìn kỹ có lớp lông mịn và dễ lột. Ruột bưởi có múi/con tép màu hồng, có nhiều hột bên trong, một số dòng không có hột, về điểm này cần lưu ý để tránh nhầm lẫn với bưởi Da xanh. Khi ép tỷ lệ nước quả khá cao (hơn 40%), vị ngọt chua hài hòa, hơi đắng (điểm này khác với bưởi Da Xanh và bưởi Năm Roi). Bưởi Da Xanh: Bưởi ‘Da Xanh’ được trồng đầu tiên từ những năm 1960 tại xã Thanh Tân, huyện Mỏ Cày, tỉnh Kiến Hòa, nay là tỉnh Bến Tre, nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Do phẩm chất ngon nên giống này được trồng khá phổ biến tại các tỉnh như Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long, Đồng Nai. Cây bưởi Da Xanh có đặc tính sinh trưởng khá, dạng tán hình tròn, phiến lá phủ một phần lên đáy cánh lá, bìa lá có răng cưa tròn và rõ, ít lông tơ, màu lá xanh đậm. Cây có khả năng cho trái từ 2 đến 3 năm sau khi trồng nếu được chăm sóc tốt (đối với cây chiết cành và cây ghép). Thời gian ra hoa đến khi thu hoạch khoảng 7-8 tháng, năng suất có thể trên 100 trái/cây/năm (cây khoảng 14 năm tuổi), năng suất tương đối ổn định Trái bưởi Da Xanh có trọng lượng trung bình 1,5 kg, (có nhiều trái đạt 2-2,5 kg) dạng trái hình cầu, vỏ có màu xanh đến xanh vàng khi chín và dễ bóc, con tép có màu hồng đỏ, bó chặt và dễ tách khỏi vách múi, có khi có nhiều hột bên trong. Nước quả có vị ngọt ít chua, không đắng có mùi thơm. Bưởi Năm Roi: có nguồn gốc xã Long Tuyền, Châu Thành A, tỉnh Cần Thơ. Tuy nhiên có người cho rằng bưởi Năm Roi đã được trồng tại xã Mỹ Hòa, Bình Minh, Vĩnh Long từ năm 1925. Trước đây, giống bưởi này rất nổi tiếng, có thể xem như đặc sản của vùng ĐBSCL. Hiện nay giống này đã được trồng rộng rãi ở các tỉnh Vĩnh Long, Tiền Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Hậu Giang. Cây bưởi Năm Roi sinh trưởng khá, tán hình tròn, phiến lá hình trứng và cánh lá hình quả tim, mặt trên của lá có màu xanh đậm. Cây có thể cho trái 2-2,5 năm sau khi trồng nếu được chăm sóc tốt, thời gian từ khi ra hoa đến khi thu hoạch là 7-7,5 tháng. Năng suất khá cao, cây khoảng 10 năm tuổi có thể cho 100 trái. Mùa vụ thu hoạch quanh năm, tập trung nhiều nhất tứ tháng 8 đến tháng 1 năm sau, trùng với dịp tết Nguyên Đán, vì giống này có dạng trái đẹp, màu sắc vàng tươi nên dễ bán vào dịp tết để chưng mâm ngũ quả. Trái bưởi Năm Roi có trọng lượng 0,8-1,8 kg, dạng trái hình trái lê, vỏ màu xanh vàng đến vàng tươi khi chín, dễ lột. Thịt bưởi có màu vàng nhạt, không có hoặc ít hột, trong, các con tép bó chặt, dễ tách khỏi vách múi và nhiều nước, nước ép có vị ngọt chua, mùi thơm, không có vị đắng. Mô tả và phân biệt các giống bưởi: Các chỉ tiêu  Bưởi Lông Hồng  Bưởi Da Xanh  Bưởi Năm Roi   Hình dạng  quả lê, không khuyết vào phía dưới cuống  cầu  quả lê, khuyết vào ở dưới cuống   Màu vỏ  Xanh có lẫn vết hoe vàng  Xanh nhạt pha vàng  Xanh nhạt đến vàng nhạt   Trọng lượng trung bình (kg)  0,9 – 1,5  1,2 – 1,8  1,0 – 1,5   Màu thịt  Hồng nhạt  Hồng đến hồng đỏ  Trắng pha vàng nhạt   Brix (%)  9-10  9-11  10-12   Số hột/trái  Ít hột  0-30  0-30   Hình         Diện tích bưởi Da Xanh hiện có phân bố ở các huyện trong tỉnh Bến Tre: Huyện, thị  Diện tích hiện có (ha)  Diện tích thu hoạch (ha)  Năng suất (tấn/ha)  Sản lượng (tấn)   Chợ Lách  150  30  9,0  270   Mỏ Cày  573  245  14,4  3.532   TX Bến Tre  300  45  10  400   Châu Thành  267  15  7,6  114   Cộng  1290  335   4316   Nguồn: Sở Khoa học và Công nghệ Bến Tre Hiện nay bưởi Da Xanh tại Bến Tre tập trung nhiều nhất là ở huyện Mỏ Cày (573 ha) và Thị xã Bến Tre (300 ha), sản lượng của hai huyện này khoảng gần 4.000 tấn mỗi năm (91,1% tổng sản lượng bưởi Da Xanh toàn tỉnh). Năng suất trung bình ở vùng cây cho trái ổn định (7 năm tuổi trở lên) như Mỏ Cày là 14,4 tấn/ha trong khi đó ở các huyện mới trồng thì năng suất chỉ đạt 8-10 tấ,/ha (cây 3-4 năm tuổi) Cây bưởi Da Xanh thích hợp với vùng đất phèn tập trung ở Thị xã Bến Tre và các huyện phía tây. Tỉnh Bến Tre đang có chương trình phát triển cây bưởi Da Xanh với diện tích đến 4.000 ha đến năm 2010 chia cho các huyện như sau: Chợ Lách 1.000 ha, Mỏ Cày 1.000 ha, Châu Thành 1.000 ha, Thị xã 500 ha và Giồng Trôm 500 ha. Chương trình này được Sở Khoa học và Công nghệ chủ trì thực hiện từ năm 2006 đến năm 2010 với kinh phí khoảng 125,5 tỷ đồng từ nhiều nguồn ngân sách như ngân sách sự nghiệp khoa học công nghệ của trung ương và địa phương, ngân sách sự nghiệp kinh tế, ngân sách khuyến nông, tín dụng… Cây bưởi có thể chủ động cho trái quanh năm, hiện nay một số nhà vườn đã áp dụng tốt kỹ thuật xử lý ra hoa theo ý muốn để tăng năng suất và có sản phẩm bán nghịch vụ hoặc trong các dịp lễ tết để được giá cao. Kỹ thuật này gọi là lảy lá trên nhánh nhện, là những nhánh nhỏ có đường kính không quá 1cm và thương ở gân thân cây, do ông Hai Hoa ở ấp Tân Phú, xã Sơn Định, huyện Chợ Lách phát hiện. Theo ông Hai Hoa thì một cây bưởi 3 năm tuổi nếu được chăm sóc và lảy lá đúng kỹ thuật, mỗi năm có thể cho 30 trái (40-45 kg), như vậy mỗi công bưởi (1.000 m2) có thể đạt năng suất 1,5 tấn. Thông tin thị trường và tính cạnh tranh 3.1. Xu hướng về thị trường bưởi Bưởi là loại trái lớn nhất trong số các loại trái thuộc họ cây có múi (citrus), thường được tiêu thụ dưới dạng ăn tươi hoặc có thể chế biến thành nước quả hay các sản phẩm có hương bưởi. Tổng sản lượng bưởi toàn thế giới khoảng 14,0-14,8 triệu tấn/năm. Các nước sản xuất nhiều bưởi/bưởi chùm là Mỹ, Ấn Độ, Israel, Mexico, Cuba, Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Thái Lan. Malaysia và Thái Lan là hai nước xuất khẩu bưởi nhiều nhất trên thế giới. Malaysia trồng loại bưởi có vỏ màu vàng, thu hoạch trong tháng giêng và tháng hai hàng năm, trong khi đó Thái Lan trồng các loại bưởi có vỏ màu xanh, thu hoạch từ tháng 6 đến tháng 10 hàng năm. Trung Quốc cũng xuất khẩu một số lượng nhỏ (4.207 tấn năm 1999 và 3.828 tấn vào năm 2000), chỉ chiếm 2,4% trong tổng sản lượng xuất khẩu trái thuộc họ cam quýt, thị trường chính là Hong Kong. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã mở rộng diện tích một giống bưởi mới không hạt, được cho là có tính cạnh tranh mạnh trên thị trường bưởi. Nam Phi cũng là một nước có sản xuất bưởi với sản lượng khá cao, năm 2005 ước đạt 250 ngàn tấn, giảm 6% so với 264 ngàn tấn năm 2004 do hạn hán tại một số vùng trồng bưởi và dự báo sẽ đạt 260 ngàn tấn trong năm 2006. Năm 2004 Nam Phi xuất khẩu 217 ngàn tấn bưởi tươi sang các thị trường Nhật (34% tổng xuất khẩu), Hà Lan (21%), Mozambique (9.3%), Anh (5%) và Nga… năm 2005 xuất được 200 ngàn tấn, dự báo năm 2006 sẽ đạt 210 ngàn tấn. Trong năm 2004 tổng lượng bưởi mậu dịch thế giới là 464 ngàn tấn, trong đó nước nhập khẩu nhiều nhất là Nhật (288 ngàn tấn), đứng thứ nhì là Canada (51 ngàn tấn) và thứ ba là Nga (46 ngàn tấn). Ở Nga trong những năm gần đây, do thu nhập tăng và do thay đổi về lối sống, người Nga ngày càng quan tâm đến sức khỏe nhiều hơn, nên tiêu dùng trái cây ở Nga đang có xu hướng tăng, trong đó có tăng tiêu dùng trái bưởi. Nhập khẩu bưởi vào Nga tăng liên tục từ năm 2001 (22 ngàn tấn), 2002 (33 ngàn tấn), 2003 (32 ngàn tấn), 2004 (46 ngàn tấn) và 9 tháng đầu năm 2005 đạt 30 ngàn tấn. Như vậy lượng nhập khẩu tăng bình quân trong 4 năm 2001 đến 2004 là 76%, cao nhất là năm 2004 bằng 109,9% so với năm 2001. Các nước cung cấp bưởi chủ yếu cho Nga là Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Nam Phi và Achentina. Thị trường bưởi ở Nga tạo nhiều cơ hội cho các nhà xuất khẩu mới thâm nhập thị trường này do nhu cầu sản phẩm chất lượng cao đang gia tăng. Hiện các nước xuất khẩu chỉ mới cung cấp khối lượng thoả mãn 50% nhu cầu thị trường này. Ngoài ra, hiện chưa có một thương hiệu nào về bưởi nổi tiếng ở thị trường Nga cũng tạo điều kiện cho các nhà xuất khẩu muốn bắt đầu hoạt động quảng cáo sản phẩm ở thị trường Nga. Giá nhập khẩu bưởi bình quân vào Nga đang tăng lên mỗi năm, cụ thể năm 2002 là 0,73 USD/kg; năm 2003: 0,93 USD/kg; Năm 2005: 1,2 USD/kg và thuế suất nhập khẩu bưởi là 5% giá phải nộp thuế, song không thấp hơn 0,02 euro/kg, VAT là 18%. (Nguồn: tin thị trường báo Nông nghiệp VN 20-26/01/2006). Việt Nam có khoảng 28.600 ha bưởi vào năm 2004, hơn 50% diện tích này tập trung ở ĐBSCL (14.234 ha), hiện nay diện tích bưởi cả nước ước tính khoảng hơn 30.000 ha với sản lượng khoảng 250.000 tấn. Bưởi được tiêu thụ chủ yếu dưới dạng tươi ở thị trường trong nước. Gần đây chỉ có Công ty TNHH chế biến rau quả xuất khẩu Hoàng Gia ở Vĩnh Long xuất khẩu được bưởi Năm Roi sang Đức (50 tấn vào năm 2004), giá FOB tại cảng Tp Hồ Chí Minh là 590 USD/tấn, nếu thu mua vào chính vụ (tháng 10-12) với giá 4.000 đồng/kg cộng thêm các chi phí về bao bì, đóng gói, vận chuyển, kiểm hóa, thuế xuất khẩu… thì mỗi tấn lãi khoảng 1 triệu đồng. Như vậy nếu với giá cao hơn 5.000 đồng/kg thì xuất khẩu sẽ không có lãi. Ngoài bưởi Da Xanh, Năm Roi, Lông Cổ Cò, bưởi Đường da láng ở các tỉnh phía Nam thì ở phía Bắc có các loại bưởi ngon nổi tiếng như bưởi Phúc Trạch, bưởi Diễn, bưởi Đoan Hùng… Năm 2005 diện tích trồng bưởi ở Hương Khê đã lên đến 1600ha, trong đó có khoảng 950ha đã cho trái và mục tiêu đến năm 2010 là 5.000ha, như vậy với năng suất 12-15 tấn/ha thì sản lượng hiện tại là 11.400-14.250 tấn mỗi năm. Năm 2005 huyện Ðoan Hùng đã có 749 ha bưởi, trong đó 300 ha đang cho thu hái với năng suất bình quân 13 tấn quả/ha, sản lượng bưởi năm 2005 ước đạt 3.850 tấn. Đoan Hùng cũng đã triển khai dự án trồng mới 1.300 ha bưởi, như vậy diện tích bưởi ở Đoan Hùng trong những năm sắp tới sẽ là 2.000 ha. Như vậy tính riêng ở Hương Khê và Đoan Hùng thì tổng diện tích bưởi đến năm 2010 sẽ là 7.000 ha. Giá bưởi ở các tỉnh phía Bắc cũng cao không kém giá bưởi ở phía Nam, bưởi Phúc trạch có giá bán trung bình khoảng 15.000-20.000 đồng/trái, lúc cao điểm có thể lên đến 35.000 đồng/trái, bưởi Diễn cũng được bán với giá từ 19.000 đến 20.000 đồng/trái. Ở Bến Tre, Bưởi Da Xanh là một trong những loại trái cây đặc sản của Việt Nam xếp vào nhóm cây ăn quả chất lượng cao, có tiềm năng và lợi thế cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Ở trong nước, bưởi Da Xanh được bày bán trong các siêu thị, các điểm bán sĩ và lẻ trái cây, ở sân bay… tại các thành phố lớn như: Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẳng và các tỉnh lỵ khác… Tại Bến Tre, bưởi Da xanh Thị xã Bến Tre được cung cấp cho thị trường trong tỉnh và các tỉnh ngoài thông qua trung gian là các bạn hàng, hợp tác xã bưởi Da xanh cũng có nhiều khách hàng đến đặt mua nhưng chưa có khả năng cung cấp. Hiện nay, ở Tiền Giang cũng đã phát triển diện tích bưởi Da Xanh khoảng 300 ha với sản lượng khoảng 1.500 tấn mỗi năm, tuy nhiên cũng không đủ cung cấp cho thị trường trong nước. Ở thị trường nước ngoài, bưởi Da xanh đã được xuất khẩu đến một vài thị trường trong khu vực và Châu Âu, tuy nhiên chỉ mang ý nghĩa là chào hàng hay quảng bá sản phẩm. Như vậy, thị trường bưởi Da Xanh còn hạn hẹp trong hai tỉnh Bến Tre và Tiền Giang, ở các tỉnh thành khác thì nhu cầu rất lớn. Hiện tại loại bưởi này chưa đủ lượng cung cấp cho nhu cầu ở thị trường trong nước. Chính vì lý do đó mà giá bán của bưởi Da Xanh cao hơn bưởi Năm Roi gấp 2 lần. Thông thường bưởi Năm Roi có giá bán tại vườn từ 4.000-6.000 đ/kg trong khi đó giá bưởi Da Xanh từ 10.000 đến 15.000 đ/kg. Vào các dịp lễ tết thì thị trường bưởi Da Xanh lại sôi động hơn ngày thường, do trái bưởi được người dân chuộng chưng trên mâm ngũ quả trong dịp Tết Nguyên Đán nên giá rất cao. Vào dịp này bưởi của ông Ba Rô (Đặng Văn Rô) ở ấp Thanh Sơn 2, xã Thanh Tân, huyện Mỏ Cày) bán với giá 18.000-20.000 đồng/kg (so với lúc bình thường là 15.000 đồng/kg ), có rất nhiều khách hàng đến đặt hàng nhưng ông không dám nhận lời vì sản lượng chưa nhiều. Ông Ba Rô đã đăng ký được thương hiệu bưởi Da Xanh có tên là BR99 và đã ký hợp đồng tiêu thụ với SASCO, trung bình mỗi tuần 300 kg với giá khá cao (18.000 đ/kg).  Nguồn: Bản tin thị trường cây ăn quả, Viện NC CAQ miền Mam So với bưởi Da Xanh BR99 của ông Ba Rô (đã có thương hiệu từ năm 2004) bán được giá cao thì bưởi của những nông dân khác bán với giá thấp hơn (vì chưa có thương hiệu), trung bình giá bán bưởi loại 1 của nông dân chỉ khoảng 10.000-12.000 đồng/kg, loại 2 khoảng 8.000-10.000 đồng/kg. Giá bán thường ở mức cao từ tháng 1 đến tháng 7 trong năm (do nhu cầu tăng vào dịp tết, bưởi nghịch vụ), sau tháng 7 thì sản lượng cung cấp bắt đầu tăng (vụ thuận). Tương tự như vậy, ở Hà Tĩnh thì bưởi Phúc Trạch chính hiệu cũng bán được giá cao hơn nhiều so với bưởi Phúc Trạch chưa có thương hiệu (15-20 ngàn đồng/trái so với 4-5 ngàn đồng/trái) 3.2. Tiềm năng phát triển bưởi ở Bến Tre Diện tích cây ăn trái ở Bến Tre đã tăng nhanh trong những năm qua và đã bắt đầu hình thành các vùng cây ăn trái chuyên canh hoặc xen canh hợp lý, mặt khác đã thực hiện cải tạo vườn tạp kém hiệu quả sang vườn cây ăn trái có hiệu quả và chất lượng. Hệ thống thủy lợi phục vụ kinh tế vườn đã được đầu tư xây dựng, tạo điều kiện cho việc chủ động tưới tiêu, ngăn lũ, ngăn mặn do đó nhà vườn đã áp dụng thành công các tiến bộ kỹ thuật như cho trái rải vụ, nghịch vụ để đem lại hiệu quả kinh tế. Bến Tre hiện có khoảng 144.234 ha đất nông nghiệp, tuy nhiên chỉ có gần 40.000 ha là cây ăn quả và 37.000 ha là cây dừa, còn lại khoảng 69.000 ha là đất trồng cây hàng năm, trong đó có khoảng 14.000 ha lúa 1 vụ và 17.000 ha lúa 2 vụ. Một phần diện tích lúa kém hiệu quả này có thể chuyển sang để mở rộng diện tích trồng cây ăn trái. Theo số liệu của Viện dinh dưỡng Việt Nam thì mức tiêu dùng bình quân đầu người là 64,97 kg/năm, so với các nước phát triển thì con số này còn thấp, chẳng hạn như ở Pháp thì con số này là 73 kg/người/năm, ở Đức là 120 kg/người/năm và theo khuyến cáo của nhiều nhà khoa học thì nhu cầu này nên là 150 kg/người/năm. Hơn nữa mức thu nhập của người dân tăng cũng đã thay đổi thói quen tiêu dùng thực phẩm, giảm tỷ lệ thịt cá và tinh bột, tăng tỷ lệ rau quả trong bữa ăn. Trái bưởi có một số ảnh hưởng tốt đối với sức khỏe con người vì chứa nhiều vitamin C giúp tăng cường sức khỏe, sức đề kháng của cơ thể; mỗi ngày ăn 100-150 g bưởi cũng có thể trị được bệnh đau đầu, chóng mặt; trong bưởi còn chứa nhiều pectin là một dạng chất xơ, giúp hạ bớt nồng độ cholesterol, kìm hãm sự phát triển của tế bào ung thư. Ngoài ra bưởi cũng chứa nhiều chất có lợi cho sức khỏe như acid glucoric giúp hạ cholesterol, glutathione, một loại acid amin có tác dụng tăng cường hoạt lực của vitamin C giúp miễn nhiễm, naringin, một flavonoid chống oxy hoá, rất có lợi cho bệnh nhân bị xơ vữa động mạch, cuối cùng là beta-carotene và lycopene có chung tác dụng chống ung thư, bưởi càng đỏ thì công dụng chống ung thư càng cao. Qua hệ thống thông tin, bưởi Da Xanh của Bến Tre đã được nhiều người biết đến và hiện nay có thể xem là giống bưởi ngon nhất của Việt Nam, nhu cầu tiêu thụ bưởi Da Xanh dự đoán là rất lớn. Theo HTX bưởi Da Xanh Mỹ Thạnh An đã có nhiều doanh nghiệp đến đặt hàng nhưng không đủ số lượng cung cấp. Hiện nay ở Bến Tre đã có 04 tổ chức, cá nhân đăng ký thương hiệu cho bưởi Da Xanh, đó là Ba Rô (Mỏ Cày), Hai Hoa (Chợ Lách), Nông Phú Điền (Phường 8) và Hợp tác xã Bưởi da xanh Mỹ Thạnh An (Thị xã). Tuy nhiên việc quãng bá thương hiệu, tiếp thị cho bưởi Da Xanh còn rất hạn chế. Bến Tre vừa đầu tư khoản kinh phí trên 125,5 tỉ đồng để triển khai một chương trình phát triển bưởi Da Xanh, trong đó đầu tư trồng mới 400 ha, nhân rộng chăm sóc 2.950 ha để đến năm 2010 tỉnh sẽ có 4.000 ha bưởi da xanh áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới theo hướng sản xuất trái chất lượng và an toàn theo tiêu chuẩn GAP, tổ chức quản lý sản xuất và hỗ trợ tiêu thụ, nâng cao chất lượng và cạnh tranh sản phẩm. Trong khuôn khổ dự án, cũng sẽ tiến hành thành lập 2 tổ chức (hợp tác xã, công ty nông nghiệp hoặc hiệp hội) liên kết tổ chức quản lý sản xuất bưởi Da Xanh. Sơ đồ của chuỗi giá trị bưởi Bến Tre Hiện nay trái bưởi ở Bến Tre được tiêu thụ dưới dạng ăn tươi, chưa có sản phẩm nào được chế biến. Có 5 kênh tiêu thụ bưởi tươi ở Bến Tre được mô tả ở sơ đồ 1. Kênh 1: Nông dân ( mạng lưới bán lẻ (ở chợ, ven đường) ( Người tiêu dùng Không giống như với nhiều loại trái cây khác, bưởi Da Xanh ở Bến Tre thường được bán cho người tiêu dùng thông qua các hệ thống bán lẻ trong và ngoài tỉnh. Phần lớn người trồng thường chủ động mang bưởi đến bán cho các điểm bán lẻ trong và ngoài tỉnh, nhất là ở các thành phố, thị xã, nơi mà người tiêu dùng có thu nhập cao thường có nhu cầu tiêu dùng loại bưởi này rất lớn. Những nông dân bán theo kênh này thường được giá khá cao vì không qua các trung gian như người thu gom và các vựa bán sĩ. Một số nông dân còn ký được hợp đồng cho các siêu thị ở Tp. HCM, đặc biệt bưởi Da Xanh BR 99 của ông Ba Rô đã ký hợp đồng giao hàng thường xuyên cho công ty SASCO bán lẻ ở sân bay Tân Sơn Nhất, mỗi tuần cơ sở này bán được từ 300-400 kg bưởi loại 1 cho SASCO với giá 16.000-18.000 đồng/kg. Theo ông Ba Rô thì SASCO đặt hàng với số lượng không hạn chế nhưng vì diện tích canh tác bị hạn chế (khoàng 2 ha) nên không đủ số lượng để giao, nếu có nhu cầu nhiều hơn ông chỉ mua lại bưởi của những vườn mà ông biết chắc là lấy giống từ cây bưởi đầu dòng của ông chứ không dám thu mua của những vườn bưởi không biết rõ nguồn gốc nhằm giữ uy tín của thương hiệu. Tương tự như ông Ba Rô, nhiều hộ trồng bưởi khác cũng tự mang sản phẩm bán cho những điểm bán lẻ trong và ngoài tỉnh, chịu chi phí vận chuyển nhưng được giá bán cao hơn nhiều so với bán tại vườn. Như vậy kênh tiêu thụ này được ông Ba Rô và một số hộ trồng bưởi Da Xanh khai thác rất có hiệu quả, tuy nhiên chưa được nhân rộng ra những vùng sản xuất khác trong tỉnh. Kênh 2: Nông dân ( Nhà hàng, khách sạn, khu du lịch ( Người tiêu dùng Đây là một kênh quan trọng, tương tự như ở kênh 1, bà con trồng bưởi chủ động mang bưởi đi tiếp thị ở các khu du lịch, nhà hàng, khách sạn chủ yếu là trong tỉnh và các tỉnh lân cận như Tiền Giang và Vĩnh Long, nơi có nhiều mô hình du lịch sinh thái thu hút rất nhiều khách trong và ngoài nước. Ở các điểm du lịch này, bưởi Da Xanh không chỉ được phục vụ trong các bữa ăn cho du khách nhằm giới thiệu trái cây đặc sản trong vùng mà còn được bán lẻ cho du khách mang về làm quà. Trong kênh tiêu thụ này, nông dân chủ yếu thỏa thuận với các điểm du lịch để giao hàng mà không ký hợp đồng vì chưa chủ động được nguồn cung cấp. Kênh này cũng có tiềm năng rất lớn vì lượng khách du lịch đến vùng ĐBSCL tăng lên hàng năm. Kênh 3: Nông dân ( Người thu gom ( Nhà hàng, khách sạn, khu du lịch ( Người tiêu dùng Tương tự như ở kênh 2, người nông dân đã có nhiều khách hàng ở các điểm du lịch, khách sạn nhưng không đủ lượng hàng để giao nên phải tìm mua bưởi của những nông dân khác cho đủ số lượng, dần dần họ trở thành người thu gom. Kênh này cũng có điểm thuận lợi là những người trồng bưởi với diện tích nhỏ cũng có thể bán được giá khá cao vì không bán qua nhiều trung gian khác như vựa đóng gói địa phương, vựa bán sĩ ngoài tỉnh. Trong kênh này, một số người thu gom chuyên nghiệp cũng tham gia, họ vừa thu gom sản phẩm để bán cho các vựa cũng vừa bán cho các khu du lịch hay nhà hàng. Kênh 4: Nông dân ( Người thu gom ( Vựa đóng gói địa phương ( Nhà hàng, khách sạn, khu du lịch ( Người tiêu dùng Với những khách hàng là các nhà hàng lớn ở Tp. HCM hoặc các khu du lịch ngoài tỉnh có nhu cầu tiêu thụ với số lượng lớn thì phải thông qua kênh này vì bản thân người nông dân hay người thu gom không có khả năng huy động đủ số lượng để cung cấp. Các vựa đóng gói địa phương sẽ thu mua bưởi trực tiếp từ nông dân (rất ít) hoặc thông qua người thu gom, sau đó phân loại theo tiêu chuẩn yêu cầu của khách hàng, đóng gói và vận chuyển đến giao trực tiếp cho khách hàng ở các tỉnh thành khác. Các vựa đóng gói địa phương ở Bến Tre cũng có cung cấp bưởi Da Xanh cho các nhà hàng, khách sạn, khu du lịch ngoài tỉnh thông qua các nhà phân phối ngoài tỉnh. Thường thì những khách hàng này đặt hàng không nhiều nhưng ổn định, do đó các vựa đóng gói địa phương không thể giao hàng trực tiếp vì chi phí vận chuyển cao, các vựa phân phối ngoài tỉnh sẽ bán cho khách hàng kèm theo với các loại bưởi khác. Kênh 5: Nông dân ( Người thu gom ( Vựa đóng gói địa phương ( Vựa phân phối hoặc thương lái ngoài tỉnh ( Cửa hàng bán lẻ ở chợ, siêu thị ( Người tiêu dùng Đây là kênh tiêu thụ chính cho bưởi ở Bến Tre và được xem là kênh tiêu biểu và rất phổ biến đối với nhiều loại trái cây ở khu vực ĐBSCL. Ở đây người trồng sẽ bán sản phẩm cho người thu gom tại vườn, người thu gom vận chuyển sản phẩm mua được đến bán cho các vựa đóng gói trong tỉnh. Từ đây, các vựa sẽ phân loại và đóng gói theo tiêu chuẩn của các khách hàng là các vựa phân phối ngoài tỉnh hay người buôn chuyến đường dài. Người buôn chuyến đường dài và vựa phân phối ngoài tỉnh sẽ phân phối lại cho những người bán lẻ ở các chợ, siêu thị, từ đó người tiêu dùng sẽ mua sản phẩm thông qua những người bán lẻ. Kênh tiêu thụ này có ưu điểm là có thể huy động được nguồn hàng lớn đủ cung cấp, tuy nhiên về nguồn gốc không kiểm soát được, đôi khi chất lượng cũng không thể kiểm soát làm cho người tiêu dùng bị thiệt. Ngoài ra trong kênh tiêu thụ này các thành viên không chỉ mua và bán bưởi Da Xanh vì sản lượng còn rất ít cho nên họ còn bán các giống bưởi khác như bưởi Năm Roi và bưởi Lông Cổ Cò, cam Sành… Phân tích SWOT: Thế mạnh: Tỉnh Bến Tre có các điều kiện tự nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp cho việc phát triển cây ăn trái. Giống bưởi Da Xanh đã bắt đầu được nhân rộng trồng ở Bến Tre từ năm 2000 nên đến nay bà con nông dân đã có nhiều kinh nghiệm trong việc chọn giống, trồng và canh tác, thu hoạch, tiêu thụ loại bưởi này. Bưởi Da Xanh là loại trái dễ bảo quản, trong điều kiện bình thường có thể giữ được 7-10 ngày, nếu quả quản trong điều kiện thích hợp có thể giữ được 2 tháng hoặc hơn nên có thể vận chuyển đến nơi tiêu thụ xa bằng đường thủy hay đường biển với giá thành thấp. Hiện nay các kênh tiêu thụ bưởi Da Xanh cũng đã được hình thành, có vài kênh được tiêu thụ từ người trồng đến người tiêu dùng chỉ thông qua một trung gian nên người trồng thu được lợi nhuận cao hơn so với các kênh tiêu thụ khác. Thương hiệu bưởi Da Xanh Ba Rô BR 99 đã được công nhận và cũng đã có chỗ đứng trên thị trường, tiềm năng để phát huy thương hiệu này còn rất lớn vì hiện nay có rất nhiều đơn vị, công ty trong và ngoài nước đặt hàng cho thương hiệu này nhưng số lượng cung ứng còn rất ít so với nhu cầu. Phần lớn nông dân ở Bến Tre thích trồng bưởi Da Xanh hơn các giống bưởi khác nên việc chuyển hướng sang sản xuất theo lối chuyên canh có nhiều thuận lợi. Chính quyền địa phương cũng đặc biệt quan tâm trong việc phát triển cây bưởi Da Xanh ở tỉnh Bến Tre, cụ thể là tỉnh đã triển khai chương trình phát triển giống bưởi này theo hướng chuyên canh, tập trung để có được một lượng bưởi hàng hóa có chất lượng đủ cung cấp cho thị trường. Các viện nghiên cứu, các trường đại học và ngay cả Bộ Nông nghiệp và PTNT cũng quan tâm đến sự phát triển của giống bưởi này. Điểm yếu: Hiện trạng sản xuất bưởi ở Bến Tre còn ở quy mô nhỏ lẻ và rất manh múng, chưa có nhiều vườn chuyên canh mà hầu hết là vườn trồng bưởi xen canh với những loại cây khác như dừa, nhãn, cam, quýt, xoài, sầu riêng dẫn đến năng suất và sản lượng thấp, làm giảm tính cạnh tranh. Cây giống bưởi Da Xanh được cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau, có khi không rõ nguồn gốc nên chất lượng sản phẩm không giống nhau. Nhiều vườn trồng xen với các loại cây có múi khác như cam, quýt hay các giống bưởi khác, thường thì các loại này có nhiều hột, khi bưởi Da Xanh thụ phấn của các loại cây này thì trái sẽ có nhiều hột bên trong, thịt không đỏ như bưởi Da Xanh trồng chuyên canh. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của thương hiệu, làm giảm tính cạnh tranh của giống bưởi ngon này. Hiện nay mặc dù đã được nhiều cơ quan, tổ chức chuyển giao kỹ thuật canh tác nhưng vì trình độ tiếp thu của một số nhà vườn chưa cao nên khi áp dụng các kỹ thuật gặp nhiều khó khăn dẫn đến tình trạng năng suất thấp, chất lượng kém, không có hiệu quả kinh tế. Khâu tổ chức và quản lý sản xuất, tiêu thụ chưa có người đứng đầu để điều phối nên các hoạt động trong chuỗi giá trị còn rời rạc, nếu tiếp tục tổ chức sản xuất theo kiểu cũ thì đến khi sản lượng bưởi Da Xanh trong và ngoài tỉnh đạt đến mức đủ cầu thì tình trạng được mùa rớt giá xảy ra là điều tất yếu. Cơ sở hạ tầng như kho bãi, các điểm phân loại, đóng gói còn thô sơ, chưa thõa mãn yêu cầu vệ sinh và an toàn thực phẩm theo các tiêu chuẩn và quy định quốc tế. Do áp dụng kỹ thuật cho ra hoa rải vụ, trên cây có nhiều đợt trái lớn nhỏ khác nhau nên việc đảm bảo thời gian phun thuốc cách ly chưa được người trồng bưởi chú ý thực hiện. Về tiêu chuẩn chất lượng thì chưa có tiêu chuẩn nào thực sự được áp dụng cũng như cơ quan hay tổ chức nào kiểm tra và chứng nhận chất lượng, nhất là chứng nhận trái an toàn. Về giá thành sản phẩm thì các chi phí sản xuất và vận chuyển khá cao. Nếu tính giá nhập khẩu của một nước châu Âu là 1,2 USD/kg (tương đương với 19.200 đồng) thì xuất khẩu sẽ không có lãi vì giá thu mua tại vườn cũng đã là 15.000-16.000 đồng/kg, cộng thêm các chi phí về xử lý, đóng gói, vận chuyển, thuế và các dịch vụ khác thì giá thành chắc chắn sẽ vượt qua 20.000 đồng/kg. Với giá thành thực hiện nay thì khả năng xuất khẩu bưởi Da Xanh là khả thi, Cơ hội: Do phát triển kinh tế trong nước và thu nhập của người tiêu dùng tăng lên nên thị trường và nhu cầu tiêu thụ tăng, thị trường và nhu cầu ngoài nước cũng tăng thông qua việc quảng bá thương hiệu bưởi Da Xanh ở các hội chợ trong nước và quốc tế, các thị trường có thể xuất khẩu là EU, Nhật, Nga, Canada… Thương hiệu bưởi Ba Rô BR99 đã có nhiều khách hàng đến đặt hàng với số lượng lớn. Bước đầu đã có một số liên kết trong sản xuất và tiêu thụ như việc thành lập HTX sản xuất và tiêu thụ bưởi Da Xanh Mỹ Thạnh An ở TX Bến Tre, câu lạc bộ sản xuất và tiêu thụ bưởi Da Xanh Phú Thành ở huyện Châu Thành. Thách thức: Có nhiều nước sản xuất bưởi trong khu vực như: Thái Lan, Philippines, Trung Quốc... với số lượng lớn và chất lượng cao. Sản phẩm bưởi của Bến Tre có chất lượng không đồng đều, chưa có chứng nhận về chất lượng và ATVSTP có thể có nguy cơ mất thị trường, kể cả thị trường trong nước khi mà Việt Nam gia nhập WTO, các hàng rào thuế quan bị dỡ bỏ, bưởi từ các nước lân cận như Thái Lan, Trung Quốc có thể được nhập vào Việt Nam với chất lượng ngon và giá thấp hơn bưởi trong nước. Mô tả các thành viên trong chuỗi cung ứng/quan hệ lẫn nhau Nông dân trồng bưởi Qua khảo sát thực tế và các buổi thảo luận nhóm với người trồng bưởi, kết quả cho thấy nông dân trồng bưởi có diện tích không lớn lắm, người có diện tích canh tác lớn nhất là 8 ha, thấp nhất 1.000 m2 và diện tích trung bình từ 2.000 – 5.000 m2. Các giống được nông dân trồng nhiều nhất là bưởi Da Xanh (chiếm 82,5% số người được hỏi), bưởi Năm roi (25% số người được hỏi) ngoài ra còn các giống khác như bưởi Lông Cổ Cò, bưởi Thái (7,5%). Qua khảo sát 50 người trồng bưởi, lý do nông dân Bến Tre chọn giống bưởi Da Xanh vì đây là giống bưởi có chất lượng, dễ tiêu thụ, cho thu nhập cao (100%), một số người cho rằng đây là giống dễ trồng, thích nghi với điều kiện thời tiết, đấi đai (20%), có 15% cho rằng giống này có triển vọng phát triển ở Bến Tre và các tỉnh lân cận. Các vườn bưởi phần lớn được thiết lập từ những vườn cây ăn trái không hiệu quả như nhãn, cam hay từ ruộng lúa 1 vụ. Trong khoảng thời gian 2 năm đầu nông dân vừa trồng bưởi vừa canh tác các loại rau màu khác trên phần đất trống nên vẫn có một phần thu nhập. Đến năm thứ ba thì cây bưởi bắt đầu cho trái thì thu nhập bắt đầu tăng. Tuy nhiên trong 3 năm đầu thì chi phí sản xuất cao nên chưa có lãi. Sau năm thứ năm cây bưởi bắt đầu cho trái ổn định thì người trồng bắt đầu có lãi, nếu chăm sóc tốt thì vườn bưởi có thể bắt đầu có lãi vào năm thứ 4. Cây bưởi giống được nông dân mua từ các trại bán cây giống tin cậy của cơ sở Ba Rô, Hai Hoa, từ trung tâm giống của tỉnh hay từ các nơi tin cậy khác (40%), có đến 60% số người được hỏi mua giống từ vườn gần đó, sau đó tự chiết nhân ra để trồng vì họ không có đủ vốn, thích mua giống giá rẻ. Nhìn chung, cây bưởi Da Xanh tương đối dễ trồng, cây có thể cho trái sau 2-3 năm để người trồng bắt đầu có thu nhập. Quy trình trồng bưởi gồm có các bước như sau: *Thiết kế vườn trồng - Xây dựng bờ bao. - Đào mương lên liếp. - Xây dựng hàng rào chắn gió - Xác định mật độ và khoảng cách trồng. - Xây dựng hệ thống tưới tiêu. - Chuẩn bị mô trồng. *Kỹ thuật trồng và chăm sóc - Chọn giống trồng (tiêu chuẩn cây giống, cách chọn cây giống...) - Cách trồng - Tủ gốc giữ ẩm. - Tưới và tiêu nước. - Trồng cỏ trong vườn (chống xói mòn và giữ ẩm) - Vét bùn bồi liếp. - Bón phân - Tỉa cành, tạo tán, khống chế chiều cao. - Xử lý ra hoa. - Tỉa trái, bao trái *Phòng trừ sâu bệnh hại: bệnh loét Xathomonas cam pestris pv.citri, bệnh vàng lá thối rể (Fusarium; Phytopthora), tuyến trùng, sâu đục vỏ trái (Spray citri), rệp sáp (Pseudococcidae), rầy chổng cánh ... *Thu hoạch và bảo quản - Thời điểm thu hoạch. - Phương pháp thu hoạch. - Đóng gói, vận chuyển đi bán Phần lớn những công việc chăm sóc cây bưởi được nông dân tự làm lấy (72,5%), có 27,5% thuê thêm công lao động để phun thuốc bón phân, bồi liếp gốc, làm cỏ. Có 85% nông dân có sử dụng máy móc nông cụ phục vụ sản xuất như, chủ yếu là máy bơm nước để tưới, có 2,5% dùng máy bơm để phun thuốc trừ sâu bệnh hoặc phân bón lá, 7,5% dùng máy cắt cỏ… Phần lớn người trồng bưởi mua phân bón và vật tư nông nghiệp từ các đại lý bán lẻ (72,5%) tuy giá hơi đắt hơn nhưng họ cho rằng muốn mua lúc nào cũng có với bất kỳ số lượng, khi gặp khó khăn có thể trả chậm. Số còn lại (27,5%) mua vật tư nông nghiệp từ các đại lý lớn nhưng họ cho rằng không rẻ hơn so với mua ở đại lý bán lẻ, họ mua vì chỉ tiện đường lúc đi chợ rồi mua luôn (thường ở Bến Tre đi chợ bằng ghe). Hầu hết nông dân trả tiền mặt khi mua vật tư, nếu thiếu vốn thì họ mua ít vì cho rằng cây bưởi dễ trồng hơn những cây khác, có bón thiếu phân cũng không ảnh hưởng nhiều đến năng suất. Tuy nhiên theo các nhà khoa học thì việc bón phân, chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh rất quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cũng như năng suất. Có 10% nông dân cho rằng các đại lý bán lẻ cũng có một phần hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho nông dân, họ có thể tư vấn cho nông dân cách phun thuốc phòng trừ sâu bệnh. Tuy nhiên do chưa nắm vững kỹ thuật và tình trạng vườn cây của từng nông dân, không cung cấp đủ các loại thuốc cần thiết nên các đại lý bán lẻ không tư vấn và bán vật tư cho đúng dẫn đến thất bại như giảm năng suất, sâu bệnh nhiều, cuối cùng người nông dân phải gánh chịu phần thất bại này. Có gần 50% nông dân cho biết giá phân bón và vật tư không ôn định, thường là cao làm cho giá thành sản xuất của họ tăng cao.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchu7895i gi tr7883 b4327903i 7903 B7871n Tre.doc
Tài liệu liên quan