Phát triển công nghiệp Nông nghiệp và chăm só hệ thống nông thôn

MỤC LỤC Phần I: Phát triển công nghiệp nông thôn. Phần II: Phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Chương 3: Những điều kiện nhân tố tác động và quan điểm chủ yếu để phát triển công nghiệp nông thôn. Chương 4: Quản lý nhà nước đối với phát triển công nghiệp nông thôn. Chương 5: Phát triển công nghiệp nông thôn các Tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long. Chương 6: Quy hoạch phương hướng phát triển công nghiệp nông thôn. Chương 7: Quản trị cơ sở doanh nghiệp công nghiệp nông thôn.

pdf174 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1655 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển công nghiệp Nông nghiệp và chăm só hệ thống nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cần quy hoạch mạng lưới đường thuỷ vận chuyển hành khách, hàng hoá. Hình 13: Cầu treo nông thôn 3.4. Một số giải pháp phát triển giao thông nông thôn Khi giao thông nông thôn không phát triển, đường sá thiếu thốn, gây trở ngại khi vận chuyển, lưu thông sẽ làm cho người nông dân khó tiêu thụ nông sản, phải bán sản phẩm của mình với giá rẻ ngay tại nơi thu hoạch, điều này làm cho sản xuất yếu kém thậm chí người nông dân không muốn tiếp tục sản xuất nữa. Muốn phát triển giao thông nông nông thôn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cần chú ý một số giải pháp sau: - Cần tăng cường sự lãnh đạo tập trung của Đảng Uỷ và sự chỉ đạo sát sao của chính quyền địa phương, hội đồng nhân dân và sự tham gia của các tổ chức, đoàn thể quần chúng. Hình thành và củng cố hệ thống tổ chức quản lý đường giao thông nông thôn. Cần ban hành đủ và hoàn thiện các tiêu chuẩn kỹ thuật đường giao thông nông thôn; các định mức tiêu hao vật tư, nguyên liệu, lao động ... để phục vụ cho việc xây dựng, sửa chữa giao thông nông thôn. - Phải có quy hoạch hợp lý, dựa trên nghiên cứu thực tế và cơ sở tính toán khoa học để tránh lãng phí, tốn kém cho quá trình xây dựng, khai thác, bảo quản và phát triển mạng lưới giao thông sau này. Tăng cường vai trò định hướng của Nhà nước trong quy hoạch chung về các lĩnh vực tại địa bàn nông thôn, gắn quy hoạch giao thông nông thôn với quy hoạch về thuỷ lợi, dân cư, phân vùng kinh tế, sử dụng đất đai… ; chú ý vấn đề mở rộng về sau để tránh di dân, đền bù, giải toả, phải phá đi làm lại sau này. Kết hợp các lợi ích của từng dự án khi triển khai các bước thực hiện. - Cần sử dụng nhiều nguồn vốn, phải quán triệt phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Phải coi nguồn vốn hỗ trợ của ngân sách (Trung ương, địa phương) là vốn có tác dụng kích thích phong trào làm giao thông nông thôn, còn phần vốn chủ yếu là huy động từ cộng đồng dân cư, từ các nguồn vốn khác. - Phát huy vai trò làm chủ, tham gia giám sát của các tổ chức mặt trận, đoàn thể và người dân địa phương. Mọi kế hoạch, tổ chức thực hiện xây dựng giao thông nông thôn cần để dân được bàn, được quyết định và được giám sát thường xuyên trên mọi khâu của đầu tư xây dựng giao thông nông thôn. - Phát triển giao thông nông thôn theo phương châm: vật tư tại chỗ là chính, sức lao động tại chỗ là chính, kỹ thuật phổ cập là chính. Chú trọng áp dụng vật liệu mới, công nghệ thi công mới phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng. Hình 14: Cầu sắt phục vụ giao thông nông thôn Câu hỏi thảo luận: 1. Phân tích thực trạng giao thông nông thôn ở một xã, đề xuất giải pháp xây dựng và quy họach 2. Tìm hiểu về công tác xã hội hóa xây dựng, phát triển đường giao thông nông thôn, rút ra bài học kinh nghiệm Chương 4: Hệ thống cơ sở hạ tầng cấp và thoát nước trên địa bàn khu dân cư nông thôn 1.Hệ thống cấp nước sinh hoạt nông thôn 1.1. Hiện trạng cấp nước ở nông thôn 1.1.1. Các nguồn cung cấp nước trên địa bàn nông thôn Chất lượng các nguồn nước là những yếu tố quan trọng có tính chất quyết định cho việc cung cấp nước sạch. Căn cứ vào thực trạng cấp nước của vùng đồng bằng sông Cửu Long có thể phân loại một cách tương đối hệ thống cấp nước hiện có, theo loại nguồn nước dưới đây. a. Nguồn nước mưa Nước mưa là nguồn nước giữa vai trò quan trọng trong việc cấp nước cho sinh hoạt, ăn uống tại các vùng nông thôn; đặc biệt là các vùng gặp khó khăn về nguồn nước mặt và nước ngầm. Nước mưa là nguồn nước mang tính truyền thống và phố thông, có thể thu và tích trữ dễ dàng, sử dụng làm nguồn nước sinh hoạt gia đình tiện lợi, nhất là đối với các vùng khan hiếm nước mặt và nước ngầm. Tuy nhiên cần giữ vệ sinh mái nhà, máng dẫn nước và tốt nhất nên nấu chín (sôi) nước mưa khi dùng để uống. Với lượng mưa trung bình hàng năm tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long khoảng 1.600 mm (dao động khoảng 1.200 – 2.400 mm tuỳ theo không gian và thời gian). Nước mưa thường được người dân quan niệm là loại nước sạch và thực tế bao năm qua đã được sử dụng trực tiếp cho ăn uống hàng ngày. Tuy nhiênvâ1n đề ô nhiễm không khí xuyên biên giới, có ảnh hưởng đến chất lượng nước mưa mà hiện tượng nổi bật là mưa axit. Theo tiêu chuẩn của WHO nước mưa được xem là không bị axit hoá khi pH > 5,6. Lượng mưa trong một năm ở các vùng nông thôn nhìn chung tương đối cao nhưng tập trung vào mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10), nên trong thời gian này sử dụng nước mưa làm nước cho ăn uống là đơn giản và thuận lợi nhất. Chỉ cần có phương tiện đơn giản là có thể thu và dự trữ được nước mưa. Các gia đình nghèo cũng có ít nhất một số chum vại nhỏ chứa nước, hứng trực tiếp từ mái nhà, cây cối… Các gia đình có điều kiện kinh tế khá hơn thì xây bể chứa bằng gạch, bê tông với dung tích từ 2-10m3 tuỳ theo khả năng của mỗi gia đình. Số hộ có bể chứa nước lớn khoảng 10m3 để ăn uống cả năm chỉ chiếm 2-3%, vì giá thành xây dựng bể chứa nước khá cao. b. Nguồn nước mặt Nước mặt lấy ngay ở sông hồ, kênh rạch có trữ lượng khá phong phú, phân bố rộng khắp các địa phương trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên chất lượng nguồn nước này có sự biến động rất lớn theo không gian và thời gian. Nguồn nước ngọt có chất lượng tương đối tốt từ thượng lưu sông Mêkông đổ về với lưu lượng khoảng 475 tỷ m3/năm. Nhưng phân bố không đều, tập trung dọc sông Tiền và sông Hậu đoạn từ biên giới Việt Nam -Campuchia đến khỏi Cần Thơ và Vĩnh Long. Vào mùa lũ, lưu lượng tăng cao đột ngột và đạt trung bình từ 20.000 – 30.000 m3/s; trong khi đó và mùa khô kiệt, lưu lượng giảm chỉ còn khoảng 2.000 – 4.000 m3/s; bằng 10 - 20% lưu lượng các tháng mùa lũ. Đây là nguồn nước ngọt, không bị nhiễm phèn, tuy nhiên có hàm lượng phù sa cao nên cần phải xử lý ở mức độ nhất định mới có thể dùng cho ăn uống, sinh hoạt. Vấn đề ô nhiễm nguồn nước do các loại hoá chất, phân bón, thuốc trừ sâu rữa trôi từ các đồng ruộng chảy xuống sông rạch; vấn đề vệ sinh môi trường chưa tốt và hàng loạt hoạt động khác trên lưu vực có thể phát sinh chất thải gây ô nhiễm nguồn nước là điều cần phải có các biện pháp ngăn chặn, hạn chế và xử lý đạt hiệu quả hơn. Với nguồn nước này thường được người dân sử dụng theo các hình thức sau: + Sử dụng trực tiếp nước không qua xử lý. + Để lắng tự nhiên, hoặc đánh phèn. + Lắng lọc, sát trùng rồi mới sử dụng. Nước sông hồ, kênh rạch được sử dụng chủ yếu trong mùa khô, khi nước mưa dự trữ đã hết hoặc sử dụng cho các nhu cầu sinh hoạt khác như tắm rửa, giặt giũ cả năm kể cả khi có nguồn nước sạch (giếng khoan, bể lọc…) vì chi phí không cao như các nguồn nước khác. Nguồn nước mặt hiện nay không đảm bảo về mặt chất lượng, việc lắng lọc hoặc đánh phèn chỉ làm cho nước có độ trong, còn các chất độc hại và vi khuẩn gây bệnh chưa bị loại trừ. Ngay việc để lắng tự nhiên và đánh phèn trước khi sử dụng cũng phức tạp, ít gia đình thực hiện được. Cho nên cần nấu sôi, để nguội khi dùng nước sông để uống. Sử dụng các bể lọc chậm để xử lý nước mặt là một biện pháp có hiệu quả, bảo đảm được chất lượng nước nhưng hiện nay chưa được người dân nông thôn sử dụng rộng rãi, do: + Kỹ thuật khá phức tạp, chưa được phổ cập + Giá thành còn cao so với thu nhập bình quân của người dân nông thôn + Có nơi do dân chưa thấy mức độ cần thiết nên chưa chấp nhận. Ngoài nguồn nước mặt có chất lượng tương đối tốt như trên, các nguồn nước mặt còn lại thường không thích hợp cho mục đích cung cấp nước. Gần như toàn bộ vùng Đồng Tháp Mười, một phần của Tứ giác Long Xuyên, vùng trũng Tây sông Hậu bị nhiễm phèn từ 2-4 tháng vào cuối mùa khô và thời điểm giao mùa; cá biệt có một số nơi nhiễm phèn quanh năm, gây khó khăn rất lớn cho việc cung cấp nước sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp. Vùng bán đảo Cà Mau và ven biển Đông Tây bị nhiễm mặn gần như quanh năm, vùng chuyển tiếp giữa ngọt – phèn và mặn là vùng nước lợ và một phần nhiễm mặn vào cuối mùa khô nên cũng gây khó khăn nhiều cho việc cấp nước. c. Nguồn nước ngầm - Các giếng đào: các công trình cấp nước từ các giếng đào, giếng khơi từ lâu đã được nhân dân chấp nhận vì nó tương đối phù hợp với khả năng kinh tế hiện nay và tập quán sử dụng của nông thôn. Tuy nhiên chỉ có những giếng của gia đình hoặc giếng công cộng gần đền chùa, được xây dựng và bảo quản tốt chất lượng nước tương đối hợp vệ sinh, có thể dùng cho ăn uống và sinh hoạt. Nhưng loại giếng này không nhiều, chỉ chiếm khoảng 15 đến 20% tống số giếng hiện có. Số giếng nước còn lại nói chung không đảm bảo điều kiện vệ sinh vì các nguyên nhân sau: + Khi đào giếng không xây thành và nền, nên nước trong giếng thường bị ô nhiễm bởi nước rửa xung quanh tràn hay ngấm vào; + Giếng không được duy tu định kỳ; + Nước giếng bị nhiễm mặn, nhiễm phèn hay có nồng độ sắt cao…. Chất lượng nước của loại giếng này cũng chưa đạt tiêu chuẩn vệ sinh nhưng vẫn còn sạch hơn nhiều so với nước mặt tự nhiên. Ngoài ra những giếng này có nhược điểm là thường bị cạn kiệt về mùa khô. - Các loại giếng khoan lắp bơm tay, hay bơm điện: giếng bơm tay khá đơn giản nhưng chỉ khai thác được nước ngầm mạch nông. Đến nay vùng nông thôn đã có hàng vạn giếng khoan nhỏ với chiều sâu từ 10m đến 50m do tài trợ của UNICEF và do các đội khoan tay tư nhân của các huyện, xã thực hiện. Do khoan giếng tự phát, trong quá trình sử dụng chưa có những hiểu biết cơ bản, nên loại hình này đã bộc lộ ra một số nhược điểm như: + Khoan giếng tuỳ tiện, trong quá trình khai thác không theo dõi chất lượng của nước, chưa chú ý bảo đảm vệ sinh nguồn nước dẫn tới giảm sút chất lượng. Một số nơi vùng đồng bằng sông Cửu Long nước bị nhiễm phèn vào mùa khô nên khó sử dụng. + Quá trình vận hành thiếu duy tu bảo dưỡng, nhất là các giếng công cộng “cha chung không ai khóc”, thiếu phụ tùng thay thế… làm cho nhiều giếng không thể hoạt động được nữa. + Có khuynh hướng giếng khoan tay chỉ dùng cho một hay vài gia đình, do đó mỗi ngày chỉ hoạt động 15-20 phút, hiệu quả sử dụng rất thấp, gây lãng phí vốn đầu tư cũng như vật liệu xây dựng. Loại giếng khoan đường kính nhỏ có khả năng phát triển nhiều trên diện rộng, để cấp nước sạch cho các gia đình ở nông thôn. Nhưng trong quá trình sử dụng loại giếng này lại nhanh bị hư hỏng, nên không thể dựa vào loại hình này đế tính kế hoạch lâu dài được. Vì vậy phải nghiên cứu, lựa chọn các giải pháp cấp nước bền vững mới giải quyết được vấn đề nước sạch cho các khu dân cư nông thôn. 1.1.2. Chất lượng nước cấp từ nguồn nước ngầm + Chất lượng nước của các giếng khoan sâu nói chung đảm bảo hơn nước giếng mạch nông và nước từ các nguồn nước mặt. + Việc xử lý nước trước khi dùng chủ yếu là khử sắt và lắng trong bằng kỹ thuật thô sơ, đơn giản. + Nhiều vùng chất lượng nước giếng khơi xấu, nhiều sắt,bị nhiễm mặn hoặc nhiễm các chất hữu cơ. + Nước mặt lấy từ sông , kênh, mương hay ao hồ tù đọng để tắm giặt, rửa… không đảm bảo vệ sinh. 1.1.3. Tiêu chuẩn cấp nước nông thôn đến năm 2010 Theo Quy chuẩn Xây dựng Việt nam (điều 6.12.2, chương 6), khi lập dự án quy hoạch cấp nước tập trung cho các khu dân cư nông thôn, thì tiêu chuẩn nước dùng cho sinh hoạt, ăn uống đối với “nhà có thiết bị vệ sinh và đường ống cấp thoát nước: 100-120 lít/người/ngày; nhà chỉ có đường ống dẫn đến vòi nước gia đình: 60-80 lít/người/ngày”. 1.2. Quy hoạch cấp nước sinh hoạt vùng nông thôn 1.2.1. Quy hoạch cấp nước cho vùng dân cư nông thôn: Nói chung là nhu cầu nước sinh hoạt của vùng nông thôn có nhiều vấn đề rất bức xúc. Nhiều nơi nguồn nước ăn, tắm giặt đều lấy từ nước sông và nước thải cũng chảy ra sông. Có nơi từ lâu nay vẫn sử dụng giếng nước chung cho cả xóm, dù đã bị ô nhiễm khá trầm trọng. Bên cạnh, việc phóng uế bừa bãi, sử dụng tuỳ tiện các loại thuốc sâu, phân hoá học, thải các loại chất thải xuống sông rạch làm cho nguồn nước mặt và nước ngầm hiện nay thường bị ô nhiễm, cần có biện pháp xử lý trước khi dùng. Mục tiêu Nhà nước đề ra là đến năm 2010 bảo đảm 100% dân số nông thôn trong cả nước có đủ nước sạch để sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày. Tuy nhiên, phần lớn dân cư nông thôn hiện thiếu nước sạch dùng cho sinh hoạt, đôi nơi vào mùa khô hạn còn không đủ nước để sử dụng cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp. Các biện pháp xử lý như đào kênh mương, nạo vét sau vài năm đều mang tính đối phó. Các giải pháp cơ bản cấp nước sinh hoạt cho các xã vùng nông thôn: - Khai thác xử lý nước tập trung, cung cấp nước bằng đường ống đến tận nhà dân ở các làng xã tập trung đông dân cư. Khuyến khích các tổ chức, tư nhân kinh doanh nước sạch. Bên cạnh các cơ quan chức năng cần có sự kiểm soát chất lượng nước cung cấp của các trạm cấp nước không để ảnh hưởng đến sức khoẻ người dùng. Việc khai thác các nguồn nước ngầm cần tuân theo quy định của Luật tài nguyên nước và văn bản hướng dẫn của Tổng cục Khí tương Thuỷ văn. - Các xã có dân cư phân tán, có thể sử dụng các công trình khai thác và xử lý nước quy mô nhỏ, phục vụ cho thôn xóm. Sử dụng giếng khoan bơm tay hay bơm điện cho từng gia đình. Cần có hỗ trợ cho người dân mua hay xây các bể chứa nước mưa, tích trữ nước dùng khi vào mùa khô hạn. - Các nguồn nước như nước sông, hồ, nước mưa (nước mặt), giếng khoan (nước ngầm) thường lượng nước cung cấp phân bố không đều theo không gian và không ổn định theo thời gian; cho nên tuỳ vào điều kiện tự nhiên và kinh tế của từng vùng nông thôn mà có cách khai thác, xử lý và quản lý một cách hợp lý và hiệu quả. 1.2.2. Lập dự án quy hoạch cấp nước sinh hoạt cho một khu dân cư nông thôn Cần tiến hành những bước sau đây. a. Thu thập tài liệu Cần thu thập các tài liệu cơ sở sau:  Quy mô dân số của khu thiết kế. Số liệu này có thể thu được ở bản quy hoạch kinh tế xã hội xã, quyết định quy mô cấp nước  Tình hình khí hậu (khí tượng): nhiệt độ, lượng mưa, nắng gió….  Tình hình thuỷ văn, địa chất thuỷ văn: nước ngầm, nước mặt, sông ngòi, hồ ao, tình hình ngập lụt.  Tình hình hiện trạng cấp nước Mục tiêu là phải mô tả tình hình các cơ sở hiện có, chú ý tới số dân được hưởng dịch vụ và mức độ dịch vụ cấp nước. Phương pháp thực hiện: thu thập, thống kê và báo cáo các cơ sở, ngành liên quan đến cấp nước: Thu thập số liệu thống kê và số liệu của xã bao gồm kế hoạch, nghiên cứu khả thi, những thiết kế hệ thống cấp nước đang được xem xét, xây dựng và khả thi. Đặc biệt quan tâm những số liệu nằm trong khu vực đồ án do nhân dân tự làm. * Các nội dung quan trọng cần được xem xét là: + Số lượng người được sử dụng nước sạch; + Bản chất của nguồn cung cấp nước. + Thông tin về vấn đề này sẽ được chia thành từng nhóm sau:  Giếng đào (kiểu đơn giản hay đã được cải tiến);  Giếng khoan nông có bơm tay;  Giếng bơm sâu có bơm điện hay bơm dầu (đi-ê-zen);  Điểm lấy từ sông hay mương tưới;  Bể hứng nước mưa;  Mạch lộ (trong các khu vực đồi núi);  Suối và ao hồ. + Bất kỳ hình thức xử lý nào đối với các nguồn nước trên đều cần được ghi chép và phân loại:  Không xử lý;  Có xử lý (chỉ khử sắt);  Xử lý bằng bể lọc chậm;  Xử lý bằng keo tụ, lắng, lọc;  Xử lý bằng hoá chất khử trùng;  Các biện pháp xử lý khác + Hình thức sở hữu cung cấp nước:  Tư nhân;  Công cộng;  Xã (kể cả giếng khoan trên đất tư);  Huyện… + Hình thức phân phối nước  Không có sự phân phối, người dân lấy nước trực tiếp từ nguồn nước;  Phân phối một cách hạn chế từ nguồn hoặc nơi xử lý tới các điểm lấy nước công cộng. + Hiện trạng các cơ sở cung cấp nước, phân loại:  Công trình được vận hành và bảo dưỡng tốt;  Thời gian (%) không vận hành, nêu các lý do. + Sử dụng nước và thói quen dùng nước, phân loại:  Kết hợp sử dụng nguồn nước cho các mục đích khác nhau như nước uống, nấu nướng, vệ sinh…  Các nguồn nước giành riêng cho các mục đích khác nhau + Ước tính, giả thuyết hoặc số liệu tiêu thụ cụ thể. + Xác định những nơi không có đủ điều kiện cấp nước để hạn chế sự phát triển dân cư hay có kế hoạch di chuyển dân cư. + Các kế hoạch hiện có để cải thiện điều kiện cấp nước, tình hình thực hiện các kế hoạch đó.  Kế hoạch nguồn vốn hiện tại hay kế hoạch phát triển 5 năm sau;  Nghiên cứu khả thi hiện đang tiến hành hay đã hoàn thành;  Thiết kế chi tiết đang nghiên cứu hay đã hoàn thành;  Các kế hoạch hiện đang tiến hành xây dựng. + Cơ cấu tổ chức và việc phân loại theo các đối tượng chịu trách nhiệm  Cơ quan chức năng chuyên ngành chịu trách nhiệm bảo dưỡng;  Dân làng chịu trách nhiệm vận hành và bảo dưỡng, thu tiền dịch vụ, quyết định giá dịch vụ;  UBND xã chịu trách nhiệm;  Các đối tượng khác chịu trách nhiệm. Cấn khảo sát thực địa để thu nhập số liệu và kiểm chứng mức độ chính xác của các số liệu đã thu thập được. Tập hợp số liệu thành một báo cáo, phân tích để rút ra những vấn đề chung, làm cơ sở cho việc thiết kế quy hoạch xây dựng cấp nước làng xã. b. Thiết kế quy hoạch cấp nước - Xác định vùng: khu dân cư thuộc vùng nào: nội đồng, ven biển hay bán sơn địa. - Xác định tiêu chuẩn cấp nước sinh hoạt theo vùng và điều kiện cụ thể của khu dân cư, nên chú ý cấp nước cho sản xuất (nếu có). - Chọn nguồn nước: chọn nguồn nước là vấn đề rất quan trọng vì nó có ảnh hưởng nhiều đến tính kinh tế khi thi công và vận hành cấp nước. Tuỳ điều kiện cụ thể ở địa phương mà có phương án khai thác nước mặt hay nước ngầm và cần tận dụng nguồn nước mưa hay không. Nhận xét về nguồn nước: + Nguồn nước ngầm với trữ lượng phong phú, chất lượng khá tốt, công nghệ xử lý đơn giản, giá thành khai thác tương đối rẻ, là nguồn khai thác chính để cấp nước tập trung cho các khu dân cư tập trung. + Nguồn nước mặt: do đặc điểm trữ lượng giảm về mùa khô, hàm lượng chất lơ lửng cao, công nghệ xử lý phức tạp, nên chỉ sử dụng ở nơi thiếu nước hoặc không có nguồn nước ngầm, khi dùng để cấp nước cho sinh hoạt buộc phải xử lý. + Nước mưa: có chất lượng tốt, nên tận dụng nguồn nước này cho ăn uống. Song việc trữ nước mưa để dùng trong các tháng không mưa cần phải có bể chứa kích thước lớn. Nếu sử dụng nước mưa ngoài ăn uống (vệ sinh), sẽ không có khả năng và không kinh tế. Xây dựng bể nước mưa hỗ trợ cho ăn uống hoàn toàn có thể thực hiện được đối với từng gia đình. 1.2.3. Các loại công trình cấp nước thông thường Trên cơ sở tổng kết các loại công trình cấp nước truyền thống của vùng đồng bằng sông Cửu Long và tham khảo các loại công trình mới được sử dụng ở các vùng trong nước,các nước trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới, trong những năm tới có thể sử dụng các loại công trình cấp nước như sau: a. Hệ thống cấp nước tập trung: các hệ thống cấp nước tập trung có khu xử lý chất lượng và đường ống dẫn phân phối đến từng đối tượng tiêu thụ sẽ được xây dựng ở các trung tâm của các làng xã, với công suất với 500 - 1500 m3/ngày đêm phục vụ cho 3.000 – 10.000 người. Hiện nay mô hình này đang có xu hướng được áp dụng rộng rãi. b. Giếng khoan đường kính D = 90 – 110mm: dùng bơm điện, có khu xử lý sắt, cấp nước sạch cho các trung tâm xã và các cụm dân cư từ 500 – 2.000 người. c. Lọc các loại (hào thấm ven bờ, bể lọc chậm): chỉ sử dụng ớ các nơi không có nguồn nước ngầm (hoặc khai thác nước ngầm mạch sâu quá tốn kém) có thể phục vụ cụm dân cư 60-200 người. d. Giếng khoan đường kính nhỏ (D= 42, 49, 63 mm): lắp bơm tay hoặc bơm điện, có xử lý sắt cục bộ phục vụ chi 1 hộ gia đình hoặc một nhóm hộ gia đình, có khả năng phục vụ đến 500 người. e. Giếng khơi có nắp: có thể lắp bơm tay, có bể lọc chậm kiểu gia đình, có thể phục vụ cho khoảng 100 người. g. Bể chứa nước mưa hoặc dự trữ nước sạch: thông thường dùng loại có dung tích 1-5m3. Ở các vùng ven biển hoặc hải đảo nên dùng bể có dung tích lớn hơn để phục vụ cho một gia đình. h. Nguồn nước ngầm mạch lộ thiên: chất lượng nước tương đối tốt, chỉ cần xử lý sơ bộ là có thể sử dụng được. i. Các thiết bị lọc sạch nước: kiểu gia đình, kiểu công cộng cho trường học, bệnh xá, công suất từ 50 lít/giờ đến 1-3m3/giờ. 2. thống thoát nước và công trình vệ sinh môi trường 2.1. Vệ sinh môi trường trong các khu dân cư nông thôn Nói tới vệ sinh môi trường trong các khu dân cư nông thôn chủ yếu là đề cập đến vấn đề xử lý phân người, phân gia súc, gia cầm, rác sinh hoạt, rác từ sản xuất công nghiệp tiểu thủ công nghiệp, phế phẩm nông nghiệp và nước thải các loại. Một hiện tượng đáng lưu ý nữa là ở nhiều làng quê muỗi và ruồi, nhặng nhiều hơn trong các khu dân cư đô thị do vấn đề vệ sinh môi trường chưa được quan tâm. Vấn đề tồn tại về rác và nước thải ở nông thôn liên quan tới sự thu hẹp và biến mất của nhiều diện tích đất vườn, ao. Các hộ có vườn thường ủ rác hay đốt rác làm phân bón; nước thải được thu vào một hố cuối vườn hay cho chảy xuống ao của gia đình. Với các điểm dân cư nông thôn không còn vườn, ao thì nước thải và rác đều đã trở thành những nguồn gây ô nhiễm, cần giải quyết ngay từ đầu. 2.2. Các yếu tố gây mất vệ sinh môi trường Các khảo sát đã xác định được các nguồn gây ô nhiễm môi trường ở nông thôn đồng bằng sông Cửu Long như sau: 1. Hố xí (cầu tiêu) không hợp vệ sinh trong các khu dân cư như cầu tiêu trên ao cá, trên sông kênh rạch hay đi tiêu đào hố mèo sau vườn không chôn lấp, xử lý hợp vệ sinh.; có tới 60-70% số hộ gia đình trong các khu dân cư nông thôn còn sử dụng các loại hố xí chưa đạt tiêu chuẩn vệ sinh. Các công trình vệ sinh chưa đạt yêu cầu này là những nguồn gây ô nhiễm môi trường. 2. Chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm của các hộ gia đình thải phân, rác… không qua xử lý; 3. Nước thải từ sinh hoạt, từ rửa chuồng trại, từ các dịch vụ thương mại và sản xuất tiểu thủ công nghiệp gia đình; 4. Rác thải trong sinh hoạt và từ sản xuất; 5. Nạn sử dụng hoá chất kích thích tăng trưởng, phân bón hoá học, thuốc phòng trừ sâu bệnh… một cách bừa bãi trong sản xuất nông nghiệp. 6. Các làng nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh cũng góp thêm phần gây ô nhiễm cho các khu dân cư. 2.3. Hướng khắc phục 2.3.1. Về quy hoạch hạ tầng kỹ thuật Để đảm bảo vệ sinh môi trường, trong quy hoạch hạ tầng kỹ thuật khu dân cư cần: + Vạch ra được phương hướng xử lý phân rác; + Chọn mô hình xử lý nước thải phù hợp; + Thanh toán nạn dùng phân người, phân gia súc còn tươi bón cho cây trồng, rau cải… bằng cách ủ phân chuồng, dùng túi chứa, hầm bể ủ bi-ô-gaz kết hợp với việc giải quyết chất đốt cho nấu ăn; + Cải thiện vệ sinh môi trường nông thôn bằng cách sử dụng hố xí 2 ngăn, hố xí dội nước… + Chợ nông thôn cũng là nơi tạo ra nguồn rác khá lớn. Do vậy tại tất cả các địa điểm họp chợ, đều cần có quy hoạch, quản lý việc thu gom, xử lý rác và chất thải. 2.3.2. Về sản xuất nông nghiệp: Cần tiến tới một nền nông nghiệp hữu cơ. Sản xuất nông nghiệp liên quan chặt chẽ với việc bảo đảm vệ sinh môi trường ở nông thôn. Vì vậy cần thường xuyên tuyên truyền, giáo dục nông dân có ý thức trong việc áp dụng các biện pháp tổng hợp phòng trừ sâu bệnh và quy trình sử dụng phân bón thích hợp, đi đôi với việc khuyến khích nhà nông tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học trong trồng trọt và chăn nuôi; sử dụng tối đa nguồn phân xanh, phân hữu cơ tại chỗ. Như vậy, vừa hạn chế việc sử dụng hoá chất trong nông nghiệp để có những sản phẩm sạch, không gây độc hại cho sức khoẻ người sử dụng, vừa không làm cạn kiệt độ màu mỡ và độ tơi của đất, tránh nguy cơ bạc màu, dẫn đến hoang hoá. Tiến tới một nền nông nghiệp hữu cơ, ít sử dụng các nguồn tài nguyên, vật liệu đó là giải pháp ưu việt, đảm bảo phát triển bền vững. Câu hỏi thảo luận 1. Tìm hiểu thực trạng cấp nước sạch, thói quen tiêu dùng nước của người dân nông thôn. Đề xuất giải pháp khắc phục và phươnghướng giải quyết vấn đề cấp nước sạch cho dân cư nông thôn 2. Tham quan một số công trình xử lý chất thải và hệ thống thóat nước Chương 5: Quản lý nhà nước đối với cơ sở hạ tầng nông thôn. Chủ trương, chính sách về phát triển cơ sở hạ tầng Mục tiêu quản lý phát triển cơ sở hạ tầng nước ta từ 2006 đến 2010 Vai trò to lớn của Nhà nước đối với sự phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế xã hội là một tất yếu khách quan không thể thiếu được của mọi quốc gia. Nghị quyết về phương hướng phát triển kinh tế xã hội của Đại hội Đảng tòan quốc lần thứ X có nêu mục tiêu quản lý phát triển cơ sở hạ tầng nước ta nói chung từ năm 2006 -2010: “Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước và đa dạng các nguồn vốn để phát triển mạnh kết cấu hạ tầng nông thôn; thúc đẩy cơ giới hoá, hiện đại hoá nông thôn. Ưu tiên nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống thuỷ lợi đồng bộ, đi đôi với đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý để khai thác có hiệu quả các công trình đã đưa vào sử dụng, đáp ứng nhu cầu về nước cho nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, cho công nghiệp, dịch vụ và nước cho sinh hoạt ở nông thôn. Củng cố hệ thống hồ, đập, đê, kè ven sông, ven biển; nâng cấp các hệ thống cảnh báo, chủ động phòng chống lụt bão và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường nước. Đẩy nhanh việc đầu tư xây dựng để hoàn thành có chất lượng chương trình cụm tuyến dân cư vùng ngập lũ ở đồng bằng Sông Cửu Long. Tiếp tục đầu tư phát triển giao thông nông thôn, bảo đảm các xã đều có đường ô tô tới khu trung tâm, từng bước phát triển đường ô tô tới thôn, bản; phấn đấu đến năm 2010, trên 90% hộ dân cư nông thôn có điện sinh hoạt, trên 75% dân cư nông thôn có nước sạch. Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân và cho lao động nông thôn, nhất là các vùng Nhà nước thu hồi đất để xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển các cơ sở phi nông nghiệp. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm cả trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tại chỗ và ngoài khu vực nông thôn, kể cả ở nước ngoài. Trên cơ sở bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch, Nhà nước ưu tiên dành vốn ngân sách và huy động các nguồn lực khác để đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng trong từng vùng và trên cả nước, xem đây là một khâu đột phá để phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay và chuẩn bị cho bước tiếp theo. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia phát triển lĩnh vực này. Chú trọng các công trình quan trọng, thiết yếu, phát huy nhanh tác dụng. Khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí. Tập trung huy động các nguồn lực để ưu tiên hoàn chỉnh một bước cơ bản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, đường sông, đường sắt, đường biển, đường hàng không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các công trình thuỷ lợi có nhu cầu cấp bách, gắn với phát triển thuỷ điện, đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, nước sinh hoạt của dân cư và giảm nhẹ thiên tai. Phát triển nhanh nguồn điện với cơ cấu hợp lý, hoàn chỉnh hệ thống truyền tải, bảo đảm sự vận hành an toàn, hiệu quả, đáp ứng đủ điện cho yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, cả ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo. Nhà nước tập trung đầu tư và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư để phát triển nhanh ngành điện trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh và thực hiện cơ chế thị trường về giá bán điện, đồng thời có chính sách trợ giúp hợp lý đối với các hộ nghèo. Tăng nhanh năng lực và hiện đại hoá bưu chính - viễn thông; tiếp tục đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại, đồng bộ và ổn định đáp ứng cho phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm sự cạnh tranh bình đẳng trong lĩnh vực dịch vụ thông tin. Rà soát, bổ sung và nâng cao chất lượng quy hoạch, tiếp tục tổ chức thực hiện các định hướng phát triển đô thị đến năm 2020, hình thành hệ thống đô thị phù hợp trên địa bàn cả nước; đặc biệt chú trọng phát triển các đô thị vừa và nhỏ, hạn chế tập trung dân cư vào một số ít thành phố lớn; xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị, chú trọng hoàn thiện mạng lưới giao thông, hệ thống cấp nước sinh hoạt, cung cấp đủ nước sạch và giải quyết cơ bản vấn đề thoát nước và xử lý chất thải ở các đô thị, các khu công nghiệp; quản lý chặt chẽ việc thực hiện qui hoạch và các qui chế về đô thị.” Quản lý nhà nước đối với cơ sở hạ tầng nông thôn Các nội dung cơ bản trong quản lý nhà nước đối với hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn. Hoạt động quản lý nhà nước đối với sự phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn cần phải tập trung và giải quyết những vấn đề cơ bản sau: 2.1. Xây dựng hệ thống pháp luật bảo vệ, khai thác, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn nhằm đảm bảo hiệu quả kinh tế của hệ thống này; tuân theo những quy định chung của Nhà nước và chỉ có Nhà nước mới có thể đề ra được những quy định đó. Nhà nước luôn phải đưa ra những chính sách, hệ thống pháp luật để quản lý, khai thác hệ thống cơ sở hạ tầng để nhằm phục vụ lợi ích chung của xã hội; không vì lợi ích của chính người hay tổ chức tham gia đầu tư hệ thống hạ tầng đó. Đây là quan điểm chung cho hoạt động quản lý hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội của mọi quốc gia. Cần phân biệt việc khai thác hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội với vai trò của Nhà nước quản lý sự phát triển hệ thống này. Quan niệm sai lầm về vấn đề xã hội hoá các hoạt động trong lĩnh vực y tế, giáo dục, phúc lợi xã hội cũng như khai thác các hệ thống giao thông, thuỷ lợi, điện, nước với việc giảm vai trò quản lý của Nhà nước nên đã xảy ra khá nhiều hoạt động phát triển không lành mạnh trong các lĩnh vực trên. Thậm chí nếu lĩnh vực nào thiếu sự quản lý của Nhà nước thì lĩnh vực đó gặp nhiều vấn đề tiêu cực và gây thất thoát tài sản của Nhà nước, của xã hội. Chẳng hạn lĩnh vực cung cấp điện, cấp nước hiện nay là hoạt động mang tính chất độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước, nhưng do thiếu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, thiếu hệ thống văn bản pháp luật có hiệu lực nên mặc dù có sự tăng cường đầu tư, hiệu quả cung cấp và khai thác hạ tầng điện nước đã được nâng lên một bước song vẫn còn thất thoát lớn, chất lượng chưa cao, hiệu quả còn thấp. Trách nhiệm của Nhà nước trong hoạt động quản lý sự phát triển các yếu tố của hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là yếu tố hạ tầng xã hội có một ý nghĩa quan trọng. Đó là điều kiện để thực hiện sự bình đẳng trong phát triển và sự tiếp cận bình đẳng của mọi thành phần kinh tế đối với việc sử dụng các loại hạ tầng kinh tế xã hội. Những chính sách và hệ thống pháp luật của Nhà nước đối với quản lý hạ tầng kinh tế xã hội phải nhằm đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân và bảo đảm cho họ được phục vụ, được hưởng thụ các tiện ích từ hạ tầng kinh tế xã hội ngày một tốt hơn. 2. 2. Quy hoạch phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn liền với quy hoạch phát triển vùng, là một trong những nhiệm vụ của các cấp chính quyền từ trung ương đến cơ sở. Công tác quy hoạch nhằm đảm bảo cho sự phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế- xã hội thích ứng với sự phát triển kinh tế xã hội nói chung. Hoạt động quy hoạch cần theo những nguyên tắc rất cơ bản, khoa học của công tác quy hoạch và phải xem quy hoạch hệ thống hạ tầng kinh tế- xã hội là một bộ phận quan trọng của quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế xã hội của vùng, địa phương và toàn quốc. Trên cơ sở phân tích mức độ đáp ứng của hệ thống hạ tầng kinh tế- xã hội hiện nay so với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Ở những vùng đang phát triển, do hệ thống hạ tầng chưa được đầu tư trước đó nên phải tập trung vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng và tạo tiền đề cho phát triển các loại hình sản xuất trên địa bàn lãnh thổ. Đây cũng là quan điểm phát triển đi trước một bước của hệ thống hạ tầng kinh tế sản xuất. Nhà nước ta đã kết hợp nhiều mô hình chiến lược phát triển khác nhau nhằm tạo sự phát triển đồng đều một cách thích ứng cho các vùng và tạo ra các cực tăng trưởng, hạt nhân của sự phát triển. 2.3. Tìm kiếm các nguồn vốn khác nhau để phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Trong đó Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong cung cấp vốn cho hoạt động đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kinh tế- xã hội thông qua vốn ngân sách nhà nước cho đầu tư cơ bản. Bên cạnh có các chính sách ưu đãi về thuế, sử dụng vốn, cho thuê đất dài hạn để lấy cơ sở hạ tầng, đa dạng hoá các hình thức đầu tư và quản lý sử dụng hoặc cho phép thu lệ phí một số công trình hạ tầng để khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Vấn đề xã hội hoá đầu tư cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội nói chung và cho hệ thống hạ tầng y tế, giáo dục nói riêng cần phải trở thành chiến lược quan trọng của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Song cũng cần quan niệm đúng khái niệm xã hội hoá đầu tư. Việc huy động mọi nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế xã hội nói chung và đầu tư phát triển hạ tầng nói riêng nhưng phải bảo đảm định hướng và hiệu quả kinh tế của các hoạt động đó. Sự đầu tư và hoạt động đầu tư của tư nhân trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hoá thời gian gần đây tuy chưa lớn nhưng đã có biểu hiện chệch hướng, chạy theo lợi ích kinh tế đơn thuần và không vì mục tiêu phục vụ cộng đồng. Thực tế nhiều năm qua cho thấy phần lớn các hoạt động đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước thường hiệu quả rất thấp, thường bị thất thoát nhất là trong đầu tư xây dựng cơ bản. Các hoạt động xây dựng dựa vào vốn ngân sách nhà nước thường chậm trễ do nhiều khâu quản lý, nhiều thủ tục rườm rà đã làm cho các công trình chậm đưa vào khai thác, hệ số sử dụng vốn rất thấp. Trong xu thế mở cửa quan hệ quốc tế, vốn vay ODA cũng là nguồn vốn quan trọng để góp phần đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Quản lý nguồn vốn này cần được xác định trên cơ sở hiệu quả đầu tư và chi phí, tránh thất thoát vốn và sử dụng tuỳ tiện. Một nguyên tắc cơ bản cần thực hiện trong quản lý việc huy động sức đóng góp của mọi thành phần kinh tế trong đầu tư, xây dựng, duy tu, bảo dưỡng hệ thống cơ sở hạ tầng là ai khai thác, sử dụng hệ thống hạ tầng kinh tế xã hội phải trả theo đúng giá trị đã khai thác. Ai khai thác sử dụng nhiều phải trả nhiều; ai khai thác loại có chất lượng cao phải trả giá cao hơn. Việc chi trả cho việc khai thác, sử dụng cơ sở hạ tầng phải được kiểm tra, thanh tra, kiểm toán chặt chẽ và phải do hệ thống kho bạc nhà nước và kiểm toán thực hiện. Không thể để cho nhiều đầu mối cùng tham gia quản lý nguồn tài chính này và chi tiêu nó một cách tuỳ tiện. Bên cạnh đó, việc thực hiện các chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với các đối tượng thuộc diện ưu đãi về việc khai thác, sử dụng các loại dịch vụ thuộc hệ thống hạ tầng, đặc biệt là các loại dịch vụ hạ tầng xã hội cần bảo đảm các đối tượng đó được thực sự hưởng những ưu đãi của Nhà nước giành cho họ; đồng thời kiểm soát được các chủ thể được phân cấp quản lý và cung cấp dịch vụ này tránh sự lạm dụng. Để tăng cường xã hội hoá đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế xã hội cần thực hiện dưới dạng các dự án đầu tư cụ thể và phải thông qua các hình thức đấu thầu. Tính công khai của các hoạt động đầu tư đó sẽ được xã hội kiểm tra và đánh giá, đảm bảo có các chủ thể kinh tế khác nhau tham gia đấu thầu và có đủ năng lực thực hiện. 2.4. Quản lý khai thác hệ thống cơ sở hạ tầng với nhiều hình thức khác nhau, phân cấp quản lý theo nhiều cấp độ khác nhau. Mọi chủ thể trong xã hội, mọi công dân đều có quyền bình đẳng như nhau và được pháp luật nhà nước đảm bảo trong việc tham gia đầu tư phát triển, sử dụng và khai thác hệ thống cơ sở hạ tầng. Không còn có hiện tượng chỉ một số đối tượng nào đó mới có quyền sử dụng, khai thác một loại cơ sở hạ tầng mà các công dân khác không có quyền này. Ví dụ mọi công dân đều có quyền đi lại bằng tàu thuỷ, tàu hoả hay máy bay. Các hoạt động quản lý nhà nước của các cấp chính quyền nhằm đảm bảo cho hệ thống cơ sở hạ tầng không kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thất, không hiệu quả trong hoạt động đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế xã hội trong mối quan hệ với đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Tính bình đẳng trong khai thác hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội là một đòi hỏi tất yếu trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm xây dựng những chính sách quản lý thích hợp để tạo điều kiện cho mọi người được tiếp cận với các loại dịch vụ, dù đó là loại dịch vụ hiện đại. Để có thể quản lý tốt hệ thống cơ sở hạ tầng, nhà nước có thể thực hiện nhiều hình thức khác nhau, phân cấp quản lý theo nhiều cấp độ khác nhau. Sự phân cấp quản lý nhằm tạo điều kiện để quản lý, khai thác hệ thống cơ sở hạ tầng tốt hơn; đồng thời trao trách nhiệm cho các cấp quản lý khác nhau trong việc duy tu, bảo dưỡng, phát triển và hiện đại hoá hệ thống cơ sở hạ tầng; thu hồi một phần hay toàn bộ vốn đã bỏ ra để đầu tư phát triển các cơ sở hạ tầng khác. 3.Các giải pháp thúc đẩy việc phát triển hạ tầng kỹ thuật làng xã Để đạt được các mục tiêu phát triển hạ tầng kỹ thuật, cải thiện điều kiện kinh tế- xã hội nông thôn thì đi đôi với các giải pháp quy hoạch tốt cần phải có những giải pháp thực hiện tốt. Các giải pháp quy hoạch mang tính kỹ thuật, phụ thuộc nhiều vào các điều kiện địa hình, tài nguyên…còn có các giải pháp thực hiện phụ thuộc chủ yếu vào các điều kiện xã hội. Tuỳ theo những điều kiện cụ thể của từng vùng, từng xã có thể lựa chọn các giải pháp quy hoạch và giải pháp thực hiện phù hợp 3.1. Xã hội hoá các công trình kỹ thuật làng xã Hạ tầng kỹ thuật làng xã là các công trình phúc lợi, chủ yếu do nhân dân cùng đóng góp xây dựng nên và cùng hưởng lợi ích. Đó là các công trình phúc lợi của cộng đồng, tự nó đã mang tính xã hội, nên xã hội hoá là biện pháp quan trọng hàng đầu để đẩy mạnh việc phát triển các công trình này trong các khu dân cư nông thôn. 3.1.1. Xã hội hoá công tác quy hoạch hạ tầng kỹ thuật Các chủ hộ gia đình cần được tham gia thảo luận, bàn bạc ngay từ khi lập phương án quy hoạch xây dựng, cải tạo hay nâng cấp các công trình hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là quy hoạch mở rộng đường làng xã. Mọi ý kiến thảo luận, nguyện vọng của các chủ hộ đều cần được Ban quy hoạch xem xét nghiên cứu. Phương án quy hoạch được chọn cần được công bố rộng rãi, công khai để mọi người biết và chấp hành. Việc mở rộng hệ thống đường làng xã là việc làm mang lại lợi ích cho tất cả mọi nhà. Dự án chỉ có thể được thực thi khi các hộ ở kề liền dọc hai bên con đường đều tự nguyện đóng góp một phần đất thổ cư của nhà mình để mở rộng đường. Do vậy đây là một dự án cần có sự chuẩn bị chu đáo về mặt tinh thần, vì đất đai vốn là một vấn đề rất nhạy cảm. Có những tình huống cơ bản sau: + Hộ ở trong các ngõ nhỏ sẽ nhiệt tình hưởng ứng, vì họ vốn có ước vọng mở rộng đường sá, phá thế bí của hộ ở xa đường cái; + Hộ ở kề liền mặt đường chính của làng, xã, có thể chưa tán thành hay phản đối. Do chưa mở rộng đường thì họ đã không cảm thấy vấn đề quá bức bách (vì đường vào trung tâm xã vốn đã thông được xe ô tô đi đến). Còn lý do cơ bản nữa là đất thổ cư kề đường trục làng xã giá trị cao hơn đất trong ngõ, xóm. Về vấn đề này Chính quyền xã cần có các giải pháp tháo gỡ, đảm bảo cân bằng giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. Thí dụ, có thể bù lại chênh lệch về giá trị đất thổ cư bằng cách giao thêm đất canh tác hay đền bồi bằng tiền từ quỹ chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp 3.1.2. Xã hội hoá các nguồn vốn đầu tư xây dựng Huy động vốn xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn có thể thực hiện theo kinh nghiệm của Trung Quốc là: Nhà nước - Cộng đồng và Thị trường. Những thành tựu đặc biệt mà Trung Quốc, I-ran, Xơ-ri-lan-ca, In-đô-nê-xi-a đã đạt được trong sự nghiệp phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện điều kiện sống ở nông thôn chính là sự tham gia đóng góp về tài chính của nhân dân địa phương vào các chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng, số vốn huy động này thường chiếm từ 70-80% tổng vốn đầu tư. - Tạo nguồn vốn tại địa phương Từ thực tế phong phú trong công tác xây dựng hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là giao thông nông thôn ở nhiều địa phương, có thể rút ra phương châm phát triển hạ tầng kỹ thuật các khu dân cư nông thôn là: Nhân dân làm là chính, Nhà nước hỗ trợ. Khu vực nông thôn với gần 80% dân số, phân bố trên 90% diện tích đất nước, là khu vực có sức mạnh và tiềm năng to lớn theo nghĩa góp gió thành bão. Sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền và cộng đồng dân cư của làng xã sẽ tạo nên một sức mạnh đặc biệt để có thể thực hiện các dự án phát triển hạ tầng một cách hiệu quả. Tuỳ theo mỗi địa phương và mỗi loại công trình mà chính quyền địa phương hay ban xây dựng quy định một mức đóng góp. Các hình thức huy động khá đa dạng như: + Huy động sự đóng góp của các tổ chức, doanh nghiệp, nhà máy đóng trên địa bàn xã vào quỹ phát triển kết cấu hạ tầng. + Góp tiền và vật tư phân bố theo hộ gia đình, theo nhân khẩu, hoặc theo diện tích đất đai được quản lý sử dụng. + Đóng góp bằng công lao động cũng là một hình thức góp vốn xây dựng hạ tầng kỹ thuật làng xã. Với nguồn nhân lực dồi dào ở nông thôn, có thể huy động nhân dân góp công làm các công việc ít cần chuyên môn như đào đắp nền đường, chuyên chở vật liệu xây dựng… + Lập Quỹ xây dựng kết cấu hạ tầng tại xã để thu nhận các khoản tài chính do các tổ chức và cá nhân có nhiệt tình ủng hộ xây dựng quê hương. Ngoài ra việc vận động nhân dân trong xã mua quốc trái hay công trái, mua vé Sổ số Kiến thiết cũng là hình thức huy động cộng đồng tham gia đóng góp về tài chính để xây dựng kết cấu hạ tầng cho quê hương. - Khai thác các nguồn vốn từ nướcngoài Thu hút nguồn tài chính của các nhà tài trợ đa phương, song phương và các tổ chức phi chính phủ dưới hình thức vốn vay tín dụng, vốn ODA, vốn tài trợ không hoàn lại hay viện trợ nhân đạo… 3.1.3. Xã hội hoá việc xây dựng và quản lý các công trình hạ tầng kỹ thuật + Nhà nước cần có biện pháp khuyến khích và hỗ trợ tư nhân bỏ vốn xây dựng các công trình cấp nước và dịch vụ vệ sinh môi trường trong các khu dân cư nông thôn, với các hình thức: - Cho vay vốn ưu đãi - Giảm hay miễn thuế - Hỗ trợ kỹ thuật + Tại mỗi huyện, xã nếu có điều kiện nên có một số người am hiểu về việc xây dựng để tư vấn, hướng dẫn và nhận chuyển giao công nghệ xây dựng hạ tầng kỹ thuật. + Thực hiện toàn dân tham gia quản lý đường sá và làm công tác vệ sinh môi trường bằng cách gắn trách nhiệm quản lý đường làng, ngõ xóm cho các hộ kề liền mặt đường; vận động toàn dân tổng vệ sinh định kỳ: khơi thông hệ thống thoát nước, giải quyết rác thải tồn đọng tại những nơi công cộng vào các dịp cuối tuần, cuối tháng hay trước các ngày lễ, ngày hội. 3.2. Một số giải pháp liên quan tới đất đai Trong quá trình công nghiệp hoá và phát triển đô thị có nhu cầu sử dụng đất đai rất lớn, đặc biệt cho các mục đích phát triển hạ tầng kỹ thuật, nhà ở cũng như các công trình phúc lợi công cộng…gây sức ép lớn đối với quỹ đất nông nghiệp. Chính quyền vì vậy vấn đề sử dụng đất đai vào các mục đích phi nông nghiệp cần có kế hoạch và sự cân nhắc rất cẩn thận, nhằm sử dụng quỹ đất một cách tiết kiệm và hiệu quả nhất. Đồng thời cần có những giải pháp thoả đáng hỗ trợ các gia đình hiệu quả nhất. Đồng thời cần có những giải pháp thoả đáng hỗ trợ các gia đình nông dân trong diện được Nhà nước thu lại đất sản xuất. 3.2.1. Việc đền bù khi Nhà nước cần lấy lại đất sản xuất Đất đai là nguồn lợi sinh ra mọi nguồn lợi khác trong sản xuất nông nghiệp. Khi người nông dân phải giao lại dất canh tác cho Nhà nước để phát triển các khu công nghiệp hay khu đô thị, cũng có nghĩa là họ sẽ phải thay đổi nguồn sống. Đối với những hộ gia đình trong diện phải giao lại toàn bộ hay gần như hết diện tích đất canh tác, giải pháp đền bù hợp lý là không trả hết bằng tiền mặt, mà nên trả cho họ bằng cổ phần trong doanh nghiệp, hay chi trả một phần lớn bằng đào tạo nghề mới cho các thành viên trong gia đình. Biện pháp này tạo cho người nông dân có cơ hội tìm được việc làm, trong môi trường lao động mới. Đây cũng là giải pháp đã được thực hiện và phát huy hiệu quả tốt ở Đài Loan trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hoá 1960-1980. Các hộ gia đình nông dân (sau khi đất sản xuất được chuyển đổi thành đất xây dựng) đã trở thành công nhân, có cố phần trong các doanh nghiệp trên quê hương họ. Ở nhiều xã ngoại ô thành phố Hà Nội, Hải Phòng… đã có những hộ gia đình sau khi nhận một số tiền đền bù lớn, chưa kịp chuyển nghề, đã tiêu xài hết (vào những việc không có hiệu quả thiết thực), trở thành tay trắng, không có tư liệu sản xuất, không nghề nghiệp… phải đi làm thuê với thu nhập ít ỏi, cuộc sống gia đình rất bấp bênh. 3.2.2. Việc đổi đất lấy hạ tầng Một khu đất khi chưa mở đường giao thông thì chỉ là đất sản xuất nông nghiệp. Khi Nhà nước mở đường giao thông cơ giới chạy qua khu vực đó, thì giá trị của đất đai hai bên đường sẽ tăng lên gấp bội. Như vậy giá trị gia tăng của đất đã do tuyến đường mà có, nên cần được điều tiết một phần khoản chênh lệch này thu vào công quỹ để phát triển hạ tầng kỹ thuật. Khi mở đường trong các khu đô thị mới, nên giải phóng mặt bằng rộng ra ngoài chỉ giới đường đỏ, mỗi bên từ 20-30 mét. Giải đất hai bên đường đó cần được chia lô, đấu giá cho thuê hay giao quyền sử dụng theo giá trị thị trường địa phương. Như vậy sẽ thu được giá trị gia tăng của đất đai để bù vào chi phí giải phóng mặt bằng và đầu tư xây dựng tuyến đường. Theo kinh nghiệm của các xã chung quanh Hà Nội, nhiều tuyến đường khi làm xong, hạch toán lại thì tiền chuyển quyền sử dụng đất hai bên đường gần đủ để trang trải cho chi phí xây dựng tuyến đường đó. Trong lĩnh vực thuỷ lợi, các kênh tưới tiêu hầu hết là mương đất, nay thực hiện cứng hoá (xây bằng gạch, bê tông…), diện tích đất dôi ra sẽ được chuyển cho các hộ canh tác. Lợi ích từ diện tích đất dôi ra này, có thể bù lại được một phần chi phí nâng cấp kênh mương, lại giảm được lượng nước hao phí, giảm chi phí về điện chạy máy bơm và đặc biệt chi phí quản lý giảm tới 60-70% (theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tây). 3.3. Việc tổ chức chuyển giao công nghệ Để tiết kiệm kinh phí xây dựng và sử dụng các nguồn vốn đầu tư với hiệu quả cao nhất, cần lựa chọn những công nghệ phù hợp với đặc điểm của địa phương. 3.3.1. Xem xét và lựa chọn các công nghệ thích hợp - Xem xét công nghệ thích hợp Khi xem xét các công nghệ khác nhau cần có phân tích và so sánh để đi đến quyết định lựa chọn công nghệ phù hợp. Việc xem xét công nghệ gồm có 2 phần: + Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu có thể chấp nhận để lựa chọn được công nghệ phù hợp với hoàn cảnh địa phương. + Các công nghệ có hại cho sức khoẻ, môi trường cần được loại bỏ. Ngoài cách dùng các biện pháp hành chính, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục để người dân tránh sử dụng các loại công nghệ có hại, đồng thời khuyến khích sử dụng các loại công nghệ an toàn (như không dùng phân tươi mà dùng phân ủ, không xả thẳng nước thải ra sông hồ mà lắng lọc sơ bộ rồi dùng hồ sinh học để xử lý trước khi xả ra sông, mương…) - Cơ sở lựa chọn công nghệ + Vùng Đồng bằng Bắc bộ và đồng bằng Trung Bộ người đông nhưng đất hẹp, mật độ dân số cao nên phải ưu tiên chọn các loại công nghệ sử dụng ít diện tích đất đai. + Do dân còn nghèo, vốn ít nên cần ưu tiên chọn những công nghệ đơn giản và hiệu quả. + Chọn các công nghệ phù hợp với điều kiện tài nguyên và điều kiện thiên nhiên của địa phương. + Nằm trong vùng có khí hậu nóng ẩm, nên cần ưu tiên chọn các giải pháp công nghệ liên quan đến sinh học. + Công nghệ truyền thống kết hợp với hiện đại nhưng phải phù hợp với trình độ phát triển của vùng. 3.3.2. Nhận chuyển giao công nghệ Tổ chức nhận chuyển giao công nghệ về hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là nước sạch và vệ sinh môi trường cần được kết hợp các hình thức thông tin, tuyên truyền như phát thanh, và phát động chiến dịch truyền thông ở các khu dân cư trong huyện, xã. Lồng ghép chương trình xây dựng hạ tầng kỹ thuật với các chương trình khác như kế hoạch hoá gia đình, xoá đói giảm nghèo… + Giới thiệu rộng rãi các loại mô hình xây dựng hạ tầng kỹ thuật đạt hiệu quả tốt của các địa phương trong nước. + Tổ chức các cuộc hội họp, các lớp đào tạo ngắn ngày theo từng chuyên đề để giới thiệu kinh nghiệm trong nước và quốc tế… + Tổ chức cho cán bộ cấp xã và các chủ hộ có khả năng đầu tư đi tham quan các mô hình tốt trong tỉnh, trong vùng… 3.4. Đào tạo và hướng dẫn xây dựng 3.4.1. Đào tạo cán bộ quy hoạch cấp xã Để có thể chủ động từ khâu lập quy hoạch đến xây dựng, vận hành và quản lý công trình, cần có cán bộ nắm được chuyên môn phổ thông về quy hoạch xây dựng xã. Có 3 hình thức đào tạo chính: đào tạo chính quy, tại chức (cao đẳng, trung học và công nhân xây dựng) và đào tạo theo khoá học chuyên đề ngắn ngày, ở dạng tập huấn để bồi dưỡng kiến thức cơ bản cho cán bộ làm công tác quy hoạch xây dựng và quản lý hạ tầng kỹ thuật khu dân cư. 3.4.2. Đào tạo công nhân xây dựng Theo dự báo phát triển từ nay đến năm 2020 sẽ có thêm hàng nghìn thị tứ, hàng trăm thị trấn mới; sẽ tiến hành cải tạo, nâng cấp kết cấu hạ tầng của tất cả các làng xã hiện có. Đó là một khối lượng khổng lồ về xây dựng cơ bản rất cần có đội ngũ cán bộ quản lý xây dựng, thi công và lực lượng công nhân thực hiện. Ngay trong các làng xã, nhu cầu về xây dựng, sửa chữa và nâng cấp nhà ở của nhân dân cũng rất lớn. Việc đào tạo những người lao động có tay nghề về xây dựng (từ sản xuất vật liệu, thi công, đến hoàn thiện công trình), là công việc rất cần thiết và mang lại nhiều lợi ích. Trước hết, để đảm nhiệm nhu cầu xây dựng thường xuyên tại địa phương. Sau nữa, để mở rộng, phát triển dịch vụ xây dựng. Câu hỏi thảo luận: 1. Phân tích các mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn của Đảng và Nhà nước ta trong giai đọan công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn hiệnnay 2. Phân tích các nội dung quản lý nhà nước đối với phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf10AG.pdf
Tài liệu liên quan