Phương pháp định giá trong doanh nghiệp Việt Nam lý luận và thực tiễn

Do chính sách mở cửa thị trường khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài nên hàng hoá của nước ngoài tràn vào, dẩn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa hàng hoá trong nước, ngoài nước, giữa các háng nước ngoài với nhau, đặc biệt là sự cạnh tranh về giá cả và chất lượng sản phẩm. Gây khó khăn cho việc định giá sản phẩm. Cơ chế quản lý còn nhiều bất hợp lý, một số cán bộ quản lý thái hoá biến chất thường hay nhủng nhiểu, tham ô, làm cho việc định giá sản phẩm nói riêng gặp khó khăn, và sản xuất kinh doanh củng bị ảnh hưởng. Tuy trình độ của đội ngủ quản lý đã được nâng cao hơn, nhưng vẩn còn một số đội ngủ cán bộ vẩn chưa đáp ứng yêu cầu của công việc, đối với các doanh nghiệp này thường là doanh nghiệp nhà nước đang vào tình trạng thua lổ. Nhà nước cần có các biện pháp cụ thể để khắc phục tình trạng này. Hệ thống thông tin, dự báo về giá thường chậm chạp và thiếu nên việc định giá sản phẩm thường gặp nhiều khó khăn, thiếu chính xác. Việc đưa pháp lệnh giá vào cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn, cần nhiều thời gian. Chưa có một móc cụ thể nào để định giá phù hợp. Cần kiểm tra, kiểm soát giá độc quyền hàng hoá dịch vụ của các doanh nghiệp nhà nước sao cho vừa phát triển nền kinh tế theo định hướng vừa mang lại công bằng xã hội.

doc33 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1407 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phương pháp định giá trong doanh nghiệp Việt Nam lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hợp với thị hiếu của họ hay không? Và quan trọng nhất là họ có đủ tiền để mua hay không? Ngoài ra, còn phải tính đến khả năng họ mua được bao nhiêu thì không mua nữa. Để dự báo mức cầu về một sản phẩm phải nghiên cứu kỷ các vấn đề sau: Sản phẩm thuộc nhu cầu cứng hay mềm (nhu cầu cứng là nhu cầu không thể thiếu đối với người tiêu dùng, nhu cầu mềm là loại nhu cầu có thì tốt không có thì cũng không sao). Nhu cầu của người tiêu dùng đối với sản phẩm đó tăng hay giảm (mức độ thoả mãn nhu cầu trong quá khứ và hiện tại). Thu nhập của người tiêu dùng tăng hay giảm. Giá hàng thay thế và bổ sung tăng hay giảm. Quy mô thị trường mà doanh nghiệp tham gia. Sở thích và tập quán tiêu dùng của dân cư khu vực thị trường doanh nghiệp bán sản phẩm. Trong các yếu tố kể trên, phải đặc biệt chú ý đến thu nhập của người tiêu dùng, là nhân tố quyêt định đến nhu cầu có khả năng thanh toán. Bởi vì thực tế cho thấy, với mổi mức thu nhập của dân cư sẽ có một cơ cấu chi mua sắm nhất định. Vì thế, mức thu nhập có vai trò quyết định đối với tổng giá cả, nó chi phối mức giá của từng hàng hoá cụ thể cũng như sự tương quan giữa các mức giá của các loại hàng hoá khác nhau, đặc biệt là đối với những hàng hoá có thể thay thế hoặc bổ sung cho nhau. Đây là nhân tố mà các doanh nghiệp phải quan tâm không chỉ trong định giá mà ngay từ khi xây dựng chiến lược kinh doanh, quyết định phương án sản xuất, với mức chi phí tối đa là bao nhiêu để có giá bán hợp lý, bảo đảm tiêu thụ nhanh và có lải. 2.2 Sức mua của tiền tệ. Trong nền kinh tế hàng hoá phát triển, hàng hoá được trao đổi không phải trực tiếp với nhau mà thông qua vật ngang giá chung, quan tiền tệ, do đó giá cả hàng hoá còn phụ thuộc trực tiếp vào giá trị hay giá trị kinh tế và sức mua của tiền tệ. Giá trị thực tế của đồng tiền: là trị kinh tế của đồng tiền với tư cách như một hàng hoá. Vì tiền trước hết phải là một hàng hoá nên nó cũng có giá trị kinh tế như các hàng hoá khác. Đối với tiền giấy thì giá trị thực của đồng tiền chính là giá trị kinh tế của các hàng hoá mà nó là đại diện, đó là giá trị kinh tế mà nó bảo đảm. Giá trị danh nghĩa của đồng tiền: là giá trị do chủ quan ấn định của người phát hành. Sức mua của dồng tiền: là lượng giá trị thực tế mà đồng tiền có thể mua được trên thị trường. Sức mua của đồng tiền thông thường không thống nhất với giá trị danh nghĩa vì ấn định của người phát hành có thể không phù hợp với các điều kiện khách quan của thị trường. Sức mua của tiền thể hiện quan hệ trao đổi trực tiếp giữa tiền và hàng hoá. Sức mua của tiền không chỉ phụ thuộc vào giá trị thực tế cơ sở của nó và giá trị danh nghĩa mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cung cầu tiền tệ và các yếu tố khác. Trên thị trường giá cả của hàng hoá trực tiếp, phụ thuộc vào sức mua của tiền. Quan hệ giữa giá cả và sức mua của tiền là quan hệ tỷ lệ nghịch, sực mua của tiền giảm thì giá cả tăng, và ngược lại sức mua của tìên tăng thì giá cả giảm. Quan hệ giữa giá cả và giá trị thực tế của tiền là quan hệ gián tiếp, giá trị thực tế của tiền ảnh lên giá cả thông qua sức mua, do đó sự tăng lên, hay giảm xuống của giá trị tiền tệ thực tế và danh nghĩa chỉ tạo ra xu hướng giảm xuống hay tăng lên của giá cả mà thôi. CMác viết “.. tuyệt nhiên không thể kết luận được rằng, giá trị của tiển mà tăng lên thì bao giờ cũng làm cho giá cả hàng hoá giảm xuống theo cùng tỷ lệ và giá trị của tiền mà giảm xuống thì bao giờ cũng làm cho các giá cả hàng hoá tăng lên theo cùng tỷ lệ”. 2.3 Giá cả và các hình thái thị trường. Giá cả luôn gắn với những thị trường cụ thể. Vì vậy, khi định giá sản phẩm phải nghiện cứu, tìm hiểu thị trường và cơ chế hoạt động của nó. Theo nghĩa đen, thị trường là nơi mua, bán hàng hoá. Theo nghĩa rộng, thì thị trường là một quá trình, trong đó người mua và người bán tác động qua lại lẩn nhau để định giá cả và lượng hàng hoá. Thị trường được hình thành trên cơ sở của sự phối hợp giữa người tiêu dùng với người sản xuất kinh doanh, thông qua hệ thống giá cả. Trên thị trường cái gì cũng có giá. Song mức giá cụ thể của từng sản phẩm hàng hoá là bao nhiêu, lại được quyết định bởi nhiều nhân tố, trong đó mức độ cạnh tranh trên thị trường là một nhân tố hết sức quan trọng. Bởi vậy, khi định giá sản phẩm của mình để tung ra thị trường các doanh nghiệp phải hiểu rỏ bản chất của thịt trường mà doanh nghiệp sẽ bán sản phẩm của mình. Trên thị trường có ba mối quan hệ. Một là, quan hệ giữa người bán và người mua, hai là, quan hệ giữa người bán với nhau và ba là, quan hệ giữa người mua với nhau. Tuỳ từng trạng thái của mối quan hệ, mà có các dạng thị trường khác nhau, và cũng tuỳ từng dạng thị trường mà doanh nghiệp tham gia có đối sách về giá cả khác nhau. Trên thực tế có ba dạng thị trường phổ biến, đó là thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường cạnh tranh độc quyền và thị trường độc quyền. 2.3.1 Thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường có rất nhiều người bán và người mua, song không ai có ưu thế trong việc cung cấp và mua sản phẩm để có thể làm thay đổi giá. Các sản phẩm bán ra trên thị trường được người mua xem là động nhất, tức là các sản phẩm này không khác nhau lắm về quy cách, phẩm chất, mẩu mả....các tin tức về thị trường giá cả có thể ứng dụng cho cả người mua và người bán. Điều kiện tham gia thị trường cũng như rút ra khỏi thị trường là dể dàng. Trên thị trường này, việc định giá của doanh nghiệp không có các nào khác là phải tự thích ứng với giá cả hiện có trên thị trường. Muốn có lải, doanh nghiệp chỉ có một cách duy nhất là giảm thấp chi phí sản xuất. Bằng không doanh nghiệp khó mà tồn tại trong kinh doanh. MC AC P = MR P* 0 Q* Q Hình : Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo. 2.3.2 Thị trường cạnh tranh độc quyền. Đây là loại thị trường phổ biến hiện nay. Kiểu thị trường này giống thị trường cạnh tranh hoàn hảo ở chổ nó có nhiều doanh nghiệp nhỏ và có sự gia nhập ngành tự do trong dài hạn. Nhưng trong thị trường này phần lớn các sản phẩm không đồng nhất, mổi doanh nghiệp đều có đường cầu dốc xuống vì các sản phẩm khác nhau. Trong ngắn hạn, các doanh nghiệp rất giống với nhà độc quyền. Mổi doanh nghiệp là một người "đặt giá" cho sản phẩm của mình chứ không phải là người "chấp nhận giá", đặt mức giá tương ứng với mức sản lượng tối đa hoá lợi nhuận. Nhưng trong dài hạn, sự tồn tại của siêu lợi nhuận sẽ quốn hút sự gia nhập mới, điều đó làm giảm cầu về sản LMC LAC phẩm của mổi doanh nghiệp và loại trừ lợi nhuận cao bằng việc buộc mổi doanh nghiệp phải đặt mức giá D=AR thấp bằng chi phí sản xuất trung bình ở tiếp điểm giữa 0 Q1 Q2 Q đường cầu của doanh nghiệp MR Hình: Cạnh tranh độc quyền trong dài hạn. và đường chi phí trung bình của nó. Làm cho siêu lợi nhuận của doanh nghiệp có biến mất. 2.3.3 Thị trường độc quyền. Là thị trường mà ở đó chỉ có một người bán độc nhất. Họ hoàn toàn kiểm soát số lượng và giá cả sản phẩm bản ra trên thị trường. Trên thị trường không có sự cạnh tranh về giá cả nên doanh nghiệp được toàn quyền quyết định. Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là doanh nghiệp có thể định giá bao nhiêu cũng được. Tuỳ theo đặc điểm tiêu dùng của sản phẩm (thuộc nhu cầu sản phẩm cứng hay sản phẩm mềm) và cơ chế quản lý của nhà nước mà doanh nghiệp ấn định giá cao hay thấp để cuối cùng thu được lợi nhuận tối đa. Nói chung được độc quyền trong sản xuất kinh doanh là có lợi, song về mặt xã hội, thì đây là điều tồi tệ vì nó kìm hãm sự phát triển của sản xuất, làm hại người tiêu dùng. Trong thực tế, trường hợp nhà độc quyền khống chế một lượng sản phẩm sản xuất thì nhất định thi hành chính sách giá cao nhằm thu lợi nhuận cực đại. Nhưng ở nước ta, tình trạng độc quyền rất phổ biến trong thời bao cấp và đến nay, cũng vẩn còn một số doanh nghiệp được nhà nước cho phép độc quyền như ngành điện, nước, bưu chính viển thông, đường sắt, hàng không... tuy nhằm mục đích khác nhau nhưng đều mang tính chất của nhà độc quyền. P MC P P* D 0 Q Q* MR Q Hình: Nhà độc quyền tối đa hoá lợi nhuận. 2.4 Vai trò quản lý giá cả của nhà nước. Các doanh nghiệp ngày nay có thể tự do định giá nhằm đạt mục tiêu nhất định cho doanh nghiệp nhưng việc tự do đó được đặt dưới sự quản lý về giá của nhà nước như các pháp lệnh chống bán phá giá, giá sàn, giá trần, giá độc quyền, đánh thuế với một số mặt hàng... Sự điều tiết giá cả của nhà nước là sự cần thiết khách quan và có rất nhiều tác dụng, vai trò khác nhau. Đáng chú ý nhất là vai trò trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vỉ mô. Để tác động vào nền kinh tế có hiệu quả, các chính phủ phải đề ra các hệ thống mục tiêu về sản lượng, giá cả, công ăn việc làm, lạm phát, phúc lợi xã hội ..., mà trên cơ sở đó xây dựng các chiến lược và chính sách cụ thể. Ngoài ra, sự điều tiết giá cả của nhà nước không chỉ có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, mà còn có tác dụng to lớn đối với việc thực hiện các mục tiêu xã hội, cụ thể là sự tiến bộ và công bằng xã hội... B/ Định giá trong doanh nghiệp. 1. Định giá, sự sống còn của doan nghiệp. Định giá sản phẩm là vấn đề cực kỳ quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, đến lợi nhuận do đó ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển nói chung và sự sống còn của doanh nghiệp nói riêng. Vì thế, trong quá trình sản xuất kinh doanh, không thể định giá một cách chủ quan, tuỳ tiện và càng không được xuất phát từ lòng mong muốn. Giá cả là một phạm trù kinh tế tổng hợp, tồn tại một cách khách quan cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hoá. Đồng thời giá cả củng phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa người bán và người mua, nhà sản xuất với thị trường và xã hội. Trong thực tế cuộc sống cho thấy, mổi người chúng ta đã có lúc là người bán và có lúc là người mua, xuất phát từ lợi ích kinh tế của mình khi là người bán ta luôn muốn bán với giá cao, nhưng ở vị trí của người mua ta chỉ muốn mua rẻ. Đó là sự mâu thuẩn muôn thủa giữa người bán và người mua, xét về mặt lợi ích kinh tế, trong quan hệ thị trường, mâu thuẩn này chỉ được giải quyết khi, sản phẩm đã được định giá đúng, thoả mản được lòng mong muốn trong giới hạn có thể chấp nhận được giữa người bán và người mua. Cho nên, trong sản xuất kinh doanh, định giá là công việc hết sức khó khăn, phức tạp, nó thực sự là khoa học, nghệ thuật đòi hỏi phải không khéo, linh hoạt và mềm dẻo, sao cho phù hợp với thị trường, đảm bảo trang trải được các chi phí và có lãi. Nừu định giá không chính xác, giá quá cao hoặc quá thấp, đều có thể dẩn đến không thể tiêu thụ được sản phẩm, không bù đắp được chi phí và do đó, sẽ đẩy doanh nghiệp vào tình trạng thua lổ, phá sản. 2. Các loại giá trong doanh nghiệp. Xác định các loại giá trong kinh doanh, để đưa ra các mức giá dự kiến, lựa chọn các phương thức ứng xử về giá đối với từng sản phẩm hàng hoá nhằm thoả mản nhu cầu của doanh nghiệp, cũng như các yêu cầu có tính chất bắt buộc của nhà nước trong lỉnh vực giá cả, là công việc cực kỳ quan trọng đối với bất cứ một doanh nghiệp nào khi tham gia vào thị trường. Trong thực tế kinh doanh, khi nói đến định giá sản phẩm, tức là nói đến việc xác định các loại giá cả, bao gồm: mức giá, chênh lệch giá, tỷ giá, giá chuẩn, khung giá và giá giới hạn. Trong đó, mức giá, chênh lệch giá và tỷ giá là các căn cứ quan trọng nhất để doanh nghiệp xây dựng mức giá dự kiến và làm giá phân biệt theo đinh hướng kinh doanh của mình trên cơ sở yêu cầu của thị trường và những thể chế của nhà nước trong lỉnh vực giá. 2.1 Mức gia. Mức giá là biểu hiện bằng tiền giá trị, của hàng hoá có lượng giá trị sử dụng nhất định, thực hiện ở một khâu lưu thông một quan hệ trao đổi nhất định. Mức giá của sản phẩm phụ thuộc vào quy cách chất lượng sản phẩm, kiểu kênh phân phối, thời gian, địa điểm tiêu thụ sản phẩm, phương thức thanh toán, số lượng mua và một số các tiêu thức khác trong từng doanh nghiệp cụ thể. Đối với các doanh nghiệp, mức giá được xác định cho một đơn vị sản phẩm cụ thể. Nó có thể là mức giá dự kiến hoặc là mức giá thực hiện trong mua bán. Tuy nhiên, mức giá cụ thể của từng sản phẩm là bao nhiêu, về cơ bản được quyết định trực tiếp bởi quan hệ cung cầu trên thị trường, sự can thiệp của doanh nghiệp và của nhà nước là không đáng kể, muốn can thiệp vào mức giá, phải tác động thông qua việc làm thay đổi quan hệ cung cầu trên thị trường (trong thị trường độc quyền). Trong trường hợp là mức giá dự kiến, chỉ tiêu mức giá sẽ là tham số quan trọng để phân tích điểm hoà vốn, dự đoán các chỉ tiêu khối lượng sản phẩm bán ra, tổng chi phí, tổng thu nhập và tổng lợi nhuận của doanh nghiệp. Mức độ đạt được của các chỉ tiêu dự kiến này sẽ là căn cứ để doanh nghiệp quyết định chiến lược kinh doanh, phương án sản phẩm và lựa chọn phương án giá tối ưu. Mức giá tối ưu mà doanh nghiệp lựa chọn phải là mức giá nằm trong vùng giá dự kiến mà tại đó, có thể thoả thuận được những yêu cầu bắt buộc của chính sách giá cả và đáp ứng được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Mức giá thực hiện là mức giá doanh nghiệp sử dụng trong mua bán. Mức giá này sẽ quyết định tổng thu nhập thực tế và tổng lợi nhuận thực tế doanh nghiệp đạt được. Vì vậy, nó có ý nghĩa quyết định khả năng thu hồi các chi phí đã bỏ ra, củng như khả năng tích luỹ để mở rộng sản xuất của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, mức giá của một đơn vị sản phẩm nói chung đều do các doanh nghiệp tự định đoạt. Tuy nhiên hiện nay cũng có một số sản phẩm do nhà nước định gía - chủ yếu là những sản phẩm có tính chiến lược, điều tiết các hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô do nhà nước quy định. 2.2 Chênh lệch giá (giá phân biệt). Là những khoảng cách về mức giá của cùng một loại sản phẩm, hàng hoá nhưng khác nhau về chất lượng, thời gian và địa điểm tiêu thụ, phân phối, phương thức thanh toánvà số lượng mua áp dụng cho các đối tượng tiêu dùng khác nhau. Khi phân biệt giá doanh nghiệp cần căn cứ vào các yếu tố sau: + Thị trường và khu vực tiêu thụ: Căn cứ vào đặc điểm của từng thị trường và khu vực cụ thể mà doanh nghiệp cần áp dụng giá phân biệt cho từng loại sản phẩm khi đem ra tiêu thụ ở từng thì trường. Chẳng hạn như thị trường truyền thống hay thị trường doanh nghiệp mới gia nhập, thị trường thành phố, hay thị trường nông thôn miền núi. + Chất lượng sản phẩm: Căn cứ vào chất lượng để tiến hành phân loại sản phẩm theo cấp, loại chất lượng khác nhau từ đó ra quyết định các mức giá khác nhau cho các sản phẩm khác nhau đó. + Khối lượng mua của người tiêu dùng: Để khuyến khích khách hàng mua một số lượng lớn, cần áp dụng các tỉ lệ chiết khấu. Tức là trên cơ sở giá bán lẻ, quy định một số tỷ lệ chiết khấu giảm giá cho người mua tương ứng với từng khối lượng hàng cụ thể, chẳng hạn giá bán 1 loại sản phẩm là 10000đ nếu mua 100sp có thể giảm 5%, 300sp có thể giảm 10%, 500sp có thể giảm 15%, 1000sp giảm 20%....Mặc dù trong trường hợp này lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm của doanh nghiệp thu được có giảm đi, song việc tiêu thụ nhanh sản phẩm với khối lượng lớn nên tổng lợi nhuận của doanh nghiệp có thể đạt được nhiều hơn và có thể quay vòng vốn nhanh hơn. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể áp dụng một số hình thức khác: như giảm giá cho những đối tượng có thu nhập thấp, giá khai trương, giá khuyến mại...hay là giá phân biệt cho việc thanh toán nhanh nhằm kích thích khách hàng trả tiền mặt..... áp dụng chênh lệch giá trong kinh doanh là việc làm phổ biến hiện nay, nhằm đảm bảo tính linh hoạt trong việc xác định giá trong điều kiện giữ nguyên mức giá cơ sở, làm tăng tốc độ, sản lượng bán sản phẩm, kích thích người mua, làm thoả mản các nhu cầu mua sản phẩm khác nhau của người tiêu dùng. 2.3 Giá chuẩn. Giá chuẩn không phải là giá hiện thực áp dụng trong mua bán trên thị trường, mà chủ yếu là do nhà nước xây dựng cho các sản phẩm chuẩn. Giá chuẩn là sự thể hiện quan điểm chính sách của nhà nước về việc quản lý chỉ đạo giá. Hiện nay nhà nước vẩn quản lý giá của một số mặt hàng, sản phẩm như điện, cước phí bưu chính viển thông, thuỷ lợi phí, các loại kim khí nhập khẩu .... nên các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh các loại sản phẩm thuộc doanh mục nhà nước định giá chuẩn, khi xác định các mức giá dự kiến bắt buộc phải căn cứ vào giá chuẩn của nhà nước để ấn định mức giá của mình. 2.4 Khung giá. Khung giá là chỉ tiêu quan trọng trong hệ thống giá cả, nó là độ lệch giữa mức giá tối đa và mức giá tối thiểu của một loại sản phẩm lưu thông trên thị trường nằm trong doanh mục nhà nước định khung giá, thì các doanh nghiệp phải định giá sản phẩm của mình trong khung giá đó. Doanh nghiệp không được quy định mức giá cao hơn mức tối đa, ngược lại cũng không được định giá thấp hơn mức tối thiểu. Trong từng doanh nghiệp dù là sản xuất kinh doanh các mặt hàng không thuộc diện nhà nước quy định khung giá thì các doanh nghiệp cung nên ấn định khung giá sản phẩm của mình, các mức giá cụ thể nên giao động trong khung giá tuỳ theo tình hình và đặc điểm thị trường. Khi quy định khung giá phải hết sức thận trọng trong việc xác định độ lệch giữa giá tối thiểu và giá tối đa, độ lệch này phải được tính toán cho từng loại sản phẩm cụ thể, từng khu vực thị trường.. tuỳ từng địa điểm, thời gian tiêu thụ mà có khung giá khác nhau. 2.5 Tỷ giá. Tỷ giá là một trong những căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xem xét và quyết định giá bán sản phẩm của mình. Thực chất, tỷ giá là mối quan hệ so sánh giữa hai mức giá của hai loại sản phẩm khác nhau, không đồng nhất về giá trị sử dụng ... Tỷ giá có thể được tính qua 3 thời kỳ quá khứ, hiện tại và tương lai nên nó là chỉ tiêu quan trọng, phục vụ cho công tác quản lý và chỉ đạo giá của nhà nước nói chung và của doanh nghiệp nói riêng. Tỷ giá là kết quả so sánh giữa hai mức giá cụ thể, với những sản phẩm đem so sánh để xác định tỷ giá phải có mối quan hệ với nhau, sản phẩm này có thể thay thế cho nhau trong sản xuất và tiêu dùng.. ngoài ra khi xác định tỷ giá phải đảm bảo sự đồng nhất về khâu giá, chất lượng sản phẩm, thời gian và thị trường tiêu thụ...Nếu không việc xác định tỷ giá sẽ là vô nghĩa và không thể làm cơ sở cho việc ấn định giá của doanh nghiệp. 3. Các yếu tố cấu thành giá sản phẩm. Trong cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh dù thuộc thành phần nào đi nữa cũng đều có chung một mục tiêu là thu lợi nhuận. Nhưng lợi nhuận lại được hình thành từ sự chênh lệch giữa giá bán sản phẩm hàng hoá với tổng chi phí đã bỏ ra gồm (chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm và các khoản nộp nhà nước theo luật định). Vì thế, nếu giá bán càng cao, chi phí càng thấp thì lợi nhuận thu được càng nhiều và ngược lại. Tuy nhiên, như đã nói trên, mặc dầu giá bán đối với từng sản phẩm hàng hoá cụ thể thuộc quyền quyết định của doanh nghiệp, nhưng không phải vì thế mà ấn định mức giá bán một cách tuỳ ý. Muốn có cơ sở định giá đúng phải xác định đầy đủ các yếu tố cấu thành nên giá bán sản phẩm: 3.1 Các yếu tố cấu thành tổng chi phí. Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm bao gồm: + Chi phí sử dụng máy móc thiết bị . + Chi phí nguyên nhiên vật liệu. + Chi phí tiền lương. + Chi phí quản lý. + Chi phí tiêu thụ sản phẩm. Khi tính tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm không tính các khoản: chi phí hao hụt về vật tư hàng hoá quá mức cần thiết, chi phí phát sinh do vi phạm hợp đồng kinh tế, lải trả ngân hàng về tiền vay do dự trữ vật tư, hàng hoá quá mức cần thiết, các loại thiệt hại quá mức quy định cho phép của quy trình sản xuất cũng như các khoản thuộc chi phí khen thưởng, phúc lợi và lập quỹ xí nghiệp. 3.2 Các yếu tố cấu thành lợi nhuận mục tiêu. Trong thời kỳ bao cấp, lợi nhuận để hình thành giá ván sản phẩm hàng hoá là lợi nhuận hợp lý, thường tính bằng tỷ lệ % nhất định so với chi phí sản xuất hợp lý, được xác định trên cơ sở định mức về vồng quau của vốnm ứng với từng lỉnh vực sản xuất và từng ngành hàng, nhóm hàng. Song trong nền kinh tế thị trường và đặc biệt là với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, việc xác định lợi nhuận để hình thành giá thành, giá bán sản phẩm hàng hoá không thể là lợi nhuận hợp lý kiểu như củ, mà nó phải là lợi nhuận mục tiêu. Sở dĩ như vậy vì, với mục đích kinh doanh để kiếm lời, thì hoạt động kinh doanh phải được coi như một chiếc máy in tiề. Bỏ vào kinh doanh một số tiền nhất định thì phải thu về được một số tiền lớn lơn. Trên quan điểm ấy mà xét, lợi nhuận mục tiêu của doanh nghiệp phải là số lải đủ đảm bảo trang trải tất cả các khoản chi phí thực tế đả bỏ ra và có lải thoả đáng. Như vậy, cơ cấu lợi nhuận mục tiêu phải bao gồm lợi nhuận hợp lý cộng với các khoản chi phí thực tế đã bỏ ra mà theo quy định không được tính vào chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm như đã nói trên và các khoản chi phí khác như chi phí ngầm chi phí phòng ngừa rủi ro, chi phí cơ hội... 4. Phương pháp định giá sản phẩm trong doanh nghiệp. Thực tiển sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường cho thấy, giá cả sản phẩn được quyết định chủ yếu bởi các quan hệ thị trường. Song không phải vì thế mà các doanh nghiệp đem bán sản phẩm của mình theo mức giá có sẳn trên thị trường. Dù cho bất cứ trường hợp nào, trước khi sản xuất và đặc biệt là trước khi tung sản phẩm ra bán, doanh nghiệp đều phải tính toán giá cả sao cho hợp lý trên cơ sở bảo đảm mục tiêu kinh doanh, để làm căn cứ cho việc ấn định mức giá cụ thể sản phẩm của mình. Trên thực tế, nếu như doanh nghiệp ấn định một mức giá khác với giá thị trường sẳn có, nó sẽ là cơ cở hết sức quan trọng để doanh nghiệp thăm dò khai thác thị trường, xác định khả năng cạnh tranh. Cho nên việc tính toán giá cả chẳng những là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với việc định mức giá cụ thể của sản phẩm mà nó còn giúp doanh nghiệp dự báo được giá cả thị trường, chủ động điều tiết số lượng sản phẩm sản xuất và tung ra thị trường, cũng như chủ động trong việc điều tiết giá cả một cách linh hoạt trong điều kiện cạnh tranh. 4.1 Định giá cộng chi phí. Phương pháp định giá phổ biển nhất được sử dụng trong thực tế là tính chi phí trung bình trực tiếp của việc sản xuất ra sản phẩm rồi cộng thêm các chi phí gián tiếp và cộng thêm một phần để có lãi. Phương pháp định giá cộng chi phí bao gồm hai bước: Thứ nhất là xác định chi phí đơn vị để lấy nó làm cơ sở định giá. Thứ hai là xác định phần gia tăng sẽ được cộng vào chi phí để định giá. Khi xác định chi phí để định giá các doanh nghiệp thường dựa vào việc tính toán chi phí chuẩn, bao gồm việc giả định một mức sản lượng hợp lý rồi lấy chi phí lao động và nguyên vật liệu dự kiến cho một đơn vị sản phẩm cộng thêm phần chi phí gián tiếp phân bổ cho mỗi sản phẩm. Trong thực tế về định giá cho thấy rằng các doanh nghiệp tạo ra một phần lải là 10% để tính giá. Thế nhưng đó không phải là con số chuẩn của tất cả các ngành mà các danh nghiệp thường điều chỉnh phần cộng thêm đó theo điều kiện cầu và cạnh tranh. 4.2 Tỷ suất lợi nhuận chỉ tiêu. Là gắn với việc theo đuổi một tỷ suất lợi nhuận chỉ tiêu thu được từ vốn. Theo công thức: lợi nhuận đòi hỏi = a*K Trong đó: a là tỷ suất chỉ tiêu, K là lượng vốn sử dụng. Chênh lệch phải cộng thêm vào chi phí đơn vị được tính bằng cách chia tổng lợi nhuận đòi hỏi cho mức sản lượng dự kiến. M = a*K/Qb Trong đó: M là chênh lệch, Qb là mức sản lượng dự kiến. Các doanh nghiệp sử dụng phương pháp này vì họ muốn có quan điểm dài hạn về định giá và vì họ muốn tranh thủ những ảnh hưởng ngắn hạn dẩn đến những thay đổi lớn trong giá. 4.3 Tỷ suất lợi nhuận hiện thời. Là chính sách định giá do các lực lượng thị trường đặt ra cho các doanh nghiệp hoạt động trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Mổi doanh nghiệp có nghĩa vụ đặt giá bằng giá của các doanh nghiệp khác, nếu không sẽ mất hết khách hàng. Trong các tình huống phức tạp, các doanh nghiệp không đặt giá đúng bằng giá của đối thủ cạnh tranh mà sử dụng giá của đối thủ làm giá chuẩn để điều chỉnh mức giá của mình có tính đến yếu tố khác, như trong việc định giá gia nhập, định giá sản phẩm mới... Đặt giá tỷ suất lợi nhuận có tính đến giá của các đổi thủ cạnh tranh và ảnh hưởng các điều kiện cầu mà doanh nghiệp gặp phải, sau đó đưa ra những biện pháp đảm bảo thu được lợi nhuận cực đại. Trong thực tế tuỳ vào các kiểu thị trường khác nhau để đặt giá hợp lý, có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nữa để đặt được mức giá hợp lý, nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. 4.4 Định giá hệ số. Trong sản phẩm kinh doanh có những doanh nghiệp sản xuất một loại sản phẩm với nhiều kích cỡ, kiểu dáng khác nhau. Vì thế việc xác định giá cả cho từng sản phẩm là rất khó khăn, để đảm bảo yêu cầu chỉ đạo về giá, bảo đảm tính hợp lý giữa những sản phẩm có kích cỡ, kiểu dáng khác nhau, có thể áp dụng phương pháp xác định giá theo hệ số. 4.5 Định giá tỷ giá. Trên thị trường, quan hệ tỷ giá một mặt phản ánh giá trị của sản phẩm hàng hoá nhưng mặt khác, phản ánh mối quan hệ cung cẩu của từng loại hàng hoá. Vi vậy, tỷ giá là căn cứ quan trọng để xác định giá sản phẩm. Là phương pháp lấy tỷ giá của hai loại sản phẩm có thể so sánh ở kỳ trước nhân với gía hiện thời của sản phẩm so sánh: Phần II. Định giá sản phẩm trong các cấu trúc thị trường. 1. Nguyên tắc định giá trong doanh nghiệp nước ta. Khác với thời kỳ bao cấp, trong nền kinh tế thị trường, việc kinh doanh luôn gắn liền với lợi nhuận. Vì thế đã là nhà kinh doanh thì phải hết sức quan tâm đến định giá bán sản phẩm của mình. Những phương pháp xác định giá đã nêu trên chỉ là cơ sở để doanh nghiệp xem xet, chứ không phải lấy làm kết quả tính toán theo các phương pháp đó để ấn định các mức giá cụ thể khi mua bán. Việc định giá chịu hàng loạt các yếu tố tác động, các quan hệ kinh tế thị trường, nhất là quan hệ cung cầu về hàng hoá giữ vai trò quyết định. Cho nên, việc ấn định mức giá cụ thể của sản phẩm được thực hiện có thể cao hoặc thấp hơn giá tính toán. Trên góc độ nào đó, thì giá một sản phẩm nào đó là số tiền mà người bán trù tính có thể nhận được từ người mua. Do đó khi ấn định một mức giá cụ thể, phải tính được số lượng sản có khả năng tiêu thụ. Trong thực tế có những doanh nghiệp, do định giá thấp mà tăng được khối lượng tiêu thụ do đó thu được lợi nhuận tối đa. Song cũng có doanh nghiệp, tiêu thụ một lương sản phẩm nhỏ nhưng vì định giá rất cao nên đã thu được lợi nhuận lớn. Khi ấn định các mức giá cần phải xem xét tới một loạt các khía cạnh sau: + Thu nhập của dân cư. + Quy mô của thị trường. + Sở thích và tập quán tiêu dùng. + Khả năng của các nhà cạnh tranh. + Chính sách phát triển kinh tế của nhà nước. + Sức hấp dẫn của sản phẩm đối với khách hàng cao hay thấp, độ co dãn của nhu cầu sản phẩm trên thị trường. + Hình thái thị trường mà doanh nghiệp sẽ bán sản phẩm của mình. Phương pháp xác định giá lấy nhu cầu làm chủ đạo. Khái niệm về phương pháp xác định giá lấy nhu cầu làm chủ đạo. Cơ chế thị trường cấu thành bởi ba bộ phận: cơ chế cạnh tranh, cơ chế cung cầu và cơ chế giá, trong đó cơ chế giá là hạt nhân của vấn đề thị trường, và giá ở đây là giá giao dịch trên thị trường. Giá hàng hoá và cung cầu hàng hoá có quan hệ nhân quả với nhau, nói chung giá hàng hoá được xác định căn cứ vào tình hình cung cầu trên thị trường. Phương pháp xác định giá lấy nhu cầu làm chủ đạo là trên cơ sở các cấp bậc giá thành khác nhau, tiến hành tính toán mức tiêu thụ đối với các mức giá giả thiết khác nhau, để xác định có thể đạt mức tiêu thụ dự tính và mục tiêu lợi nhuận. Nguyên tắc cơ bản là khi lượng cầu tương đối lớn, quy hoạch giá tương đối cao, hoặc lượng cầu tương đối nhỏ, mức giá tương đối thấp. Doanh nghiệp cần lấy giá có thể thu được lợi nhuận lớn nhất và người mua có thể chấp nhận là chuẩn mực cơ bản của việc định giá. Doanh nghiệp thường xác định giá trên mối quan hệ giữa một đơn vị giá với số lượng tiêu thụ, giá càng thấp thì lượng cầu càng cao, và ngược lại. Xác định gia , tính toán nhu cầu thị trường tương lai của một sản phẩm đặc biệt la sản phẩm mới đưa ra thị trường là một việc cực kỳ phức tạp. việc tính toán nhu cầu đòi hỏi phải xêm xét nhiều nhân tố, như các sản phẩm thay thế, mức nhu cầu, thu nhập quảng bá sản phẩm và áp lực cạnh tranh.. Vì vậy, để ứng dụng tốt phương pháp tính toán đường công nhu cầu, phải nghiên cứu môi trường thị trường ở trạng thái động, mắn vững nhu cầu của mỗi một sản phẩm , sự biến đổi của nhu cầu.. Phương pháp xác định giá lấy nhu cầu làm chủ đạo. + Phương pháp xác định gía trị trực giác: là phương pháp xác định giá căn cứ vào trình độ nhận thức và lý giải của người tiêu dùng đối với sản phẩm dịch vụ. Người tiêu dùng khi mua sắm hàng hoá đa số đều nhận thức và phán đoán đối với tính năng, công dụng, chất lượng kiểu dáng và giá của loại hàng hoá. Khi mức giá nhất trí với trình độ nhận thức và lý giải giá trị của người tiêu dùng đối với hàng hoá, người tiêu dùng sẽ chấp nhận mức giá đó. Vì vậy, trước khi đưa một sản phẩm nào đó ra thị trường, doanh nghiệp cần dựa vào đánh giá của người tiêu dùng về sản phẩm, căn cứ vào đấy mà quy định mức giá ban đầu cho sản phẩm. + Phương pháp xác định giá khác biệt nhu cầu: Căn cứ vào một sản phẩm có thể có sức hấp dẩn khác nhau đối với người tiêu dùng, nếu họ có thể có sự chi trả khác nhau cho một hàng ho. Doanh nghiệp khi xác định giá vận dụng điều này để thu hút ngày càng nhiều khách hàng. Sự khác biệt giữa các loại giá này là không lấy khác biệt giá thành làm cơ sở, mà lấy khác biệt đối với nhu cầu hàng hoá làm cơ sở. Căn cứ vào sự khác biệt về tính chất tiêu dùng, mức độ tiêu dùng và tập quán tiêu dùng của người tiêu dùng khác nhau để quy định giá khác nhau, vào vị trí hoặc khu vực khác nhau của cùng một sản phẩm để quy định các giá khác nhau. Phương pháp xác định giá khác biệt nhu cầu áp dụng trong điều kiện là: Hàng hoá có hai hoặc nhiều thị trường trở lên bị chia cắt, hơn nữa là sự khác biệt nhu cầu giữa các thị trường chia cắt tương đối rỏ ràng. Trong thị trường với doanh nghiệp thực hiện giá cao, người cạnh tranh không có khả năng sử dụng giá thấp để chống lại mình. Không dẩn đến sự phản cảm của người tiêu dùng mà làm mất khách hàng + Phương pháp xác định giá khuyên bảo: Thông qua các tổ hợp giá khác nhau để khuyên bảo người tiêu dùng mua sắm liên đới, mua sắm xung động và mua sắm số lượng lớn. Thực chất là thông qua các hình thức ưu đãi giá để kích thích người tiêu thụ tăng lượng mua. + Phương pháp xác định giá đường cong phản ứng mua sắm: là phương pháp doanh nghiệp quy định giá căn cứ vào sự so sánh tình hình nhu cầu đối với sản phẩm và tình hình cạnh tranh của sản phẩm đang tồn tại. Thông qua điều tra thị trường, doanh nghiệp có thể thu được thông tin về giá cao nhất mà người tiêu dùng chấp nhận trả và người tiêu dùng tin tưởngvào mức giá thấp nhất với chất lượng sản phẩm đó, số lượng người tiêu dùng tham gia mua sắm ở mổi mức giá, và nhu cầu của người tiêu dùng đối với sản phẩm cạnh tranh đã tiêu thụ trên thị trường. Phương pháp định giá lấy cạnh tranh làm chủ đạo. Doanh nghiệp xác định giá cả không lấy quan hệ giữa giá cả và giá thành của sản phẩm với nhu cầu có biến đổi, chỉ cần đối thủ cạnh tranh vẩn giữ nguyên không đổi. Khi giá cả cạnh tranh biến đổi, cần phải thích ứng với việc điều chỉnh giá của đối thủ cạnh tranh biến đổi, mặc dù giá thành sản phẩm và nhu cầu không biến đổi. Phương pháp định giá cạnh tranh lấy cạnh tranh làm chủ đạo có rất nhiều phương pháp cụ thể, nhưng thường hay được sử dụng là + Phương pháp xác định giá cả theo mức giá thị trường của san phẩm cùng nhóm: Phương pháp này xác định giá cả theo giá cả thông hành nói chung, nhằm làm cho giá cả sản phẩm của doanh nhiệp mình duy trì ở mức giá của ngành. Không ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành hàng, không ảnh hưởng đến yêu cầu cơ bản của doanh nghiệp với lợi nhuận bình quân, + Phương pháp tỷ giá hàng hoá tương quan: Phương pháp này xác định giá cả nói chung lấy giá cả hiện hành của loại hàng cùng nhóm làm tiêu chuẩn làm căn cứ, co sánh giá thành và chất lượng để xác định giá cả mặt hàng mới. Thường biểu hiện bằng tỷ suất chênh lệch giá cả giá thành, và tỷ suất chênh lệch giá cả chất lượng, + Phương pháp xác định giá cả kiểu loại trừ: phương pháp này xác định giá lấy việc loại trừ đối thủ cạnh tranh, giữ vững thị phần của mình hoặc giành lấy thị phần của đối thủ cạnh tranh làm mục tiêu. phương pháp giá cao và phương pháp giá thấp. + Phương pháp xác định giá cả mua đấu giá: là phương pháp xác định giá cả mà người sở hữu hàng háo hoặc là người đại lý không quy định giá trước khi bán, áp dụng phương pháp bán công khai, dẩn dắt người mua báo giá, lợi dụng tâm lý cần mua hàng của người mu, từ đó lựa chon giá. + Phương pháp xác định giá cả đấu thầu: bên gọi thầu chỉ một mà bên đấu thầu thì có nhiều, làm cho bên gọi thầu đứng ở vị trí cạnh tranh. Bên gọi thầu thông qua dẫn dắt cạnh tranh của bên đấu thầu để lựa chọn người hợp tác tốt nhất. 2. Chính sách định giá trong kinh doanh. 2.1 Chính sách định giá thấp. Tức là định giá bán thấp hơn mức giá thống nhất trên thị trường, đồng thời thấp hơn giá trị của sản phẩm. Cách định giá này thường được áp dụng khi doanh nghiệp muốn bán ngay một khối lượng sản phẩm lớn ra thị trường và muốn bán nhanh để thu hồi vốn hoặc dùng định giá thấp cho sản phẩm mới nhằm thu hút khách hàng mở rộng thị trường. Tuy nhiên để áp dụng mức giá thấp cũng không phải dễ dàng, vì trước hết nó đòi hỏi chi phí sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp phải thấp, hoặc khi cầu trong thị trường co dãn. Vả lại nếu doanh nghiệp bán giá thấp hơn giá của thị trường có thể gây nên sự nghi ngờ về chất lượng sản phẩm, ngoài ra, cũng cần phải tính đến các đối thủ cạnh tranh, việc bán giá thấp hơn thị trường sẽ đẩy đối thủ cạnh tranh vào tình trạng khó khăn, thua thiệt ,vì thế có thể dẩn đến sự trả đuả. Doanh nghiệp áp dụng chính sách định giá này thường phải là doanh nghiệp có vốn lớn, vì thời gian áp dụng dài chất lượng sản phẩm tương với sản phẩm cùng lại. 2.2 Chính sách định giá theo thị trường. Đây là cách định giá bán phổ biến của các doanh nghiệp hiện nay, tức là định mức giá bán sản phẩm xoay quanh mức giá trên thị trường. Đối với các doanh nghiệp sử dụng cách định giá này để tiêu thụ được sản phẩm cần phải đẩy mạnh công tác tiếp thị bán hàng, thiết lập canh phân phối rộng khắp, đi đôi với chất lượng sản phẩm tốt và luông được cải tiến. Ngoài ra doanh nghiệp phải thường xuyên theo giõi tình hình sản xuất của mình cố gắng giảm chi phí sản xuất, và chất lượng sản phẩm thị hiếu nếu không sẽ bị đối thủ cạnh tranh gạt ra ngoài. 2.3 Chính sách định giá cao. Là định giá bán sản phẩm cao hơn mức giá trên thi trường và cao hơn giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm. Giá cao thường được áp dụng đối với những sản phẩm mới. Vì đối với sản phẩm mới người tiêu dùngchưa biết rỏ chất lượng, cũng không có cơ hội để so sánh xác định mức giá, mặt khác khi nó mới xuất hiện trên thị trường nên chưa có sự cạnh tranh, và cầu của sản phẩm cũng chưa có điều kiện để co dãn theo giá. Việc định giá cao chỉ nên áp dụng trong một thời gian nhất định, chủ yếu là trong thời gian đầu nhằm vào những đối tượng, khu vực có thu nhập cao, sau đó giảm dần cho phù hợp với sức mua của đông đảo người tiêu dùng. Ngoài ra, chính sách định giá cao cũng thường áp dụng đối với những loại sản phẩm cao cấp chất lượng cao nhiều người có tiền sản sàng trả giá cao cho những sản phẩm ấy. Đây chính là yếu tố tâm lý của người tiêu dùng mà các doanh nghiệp cần khai thác lợi dụng, khi quyết định giá bán sản phẩm của mình. 2.4 Chính sách bán phá giá. Là hành động cực kỳ nguy hiểm đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong sản xuất kinh doanh, vì nhiều lý do khác nhau mà có những doanh nghiệp phải chấp nhận bán phá giá. Có thể do lượng hàng tồn kho quá lớn cần phải bán nhanh để thu hồi vốn để tiếp tục sản xuất, hoặc là các loại sản phẩm mang tính mùa vụ, thời trang model, hoặc có thể để tiêu diệt đối thủ cạnh tranh nếu doanh nghiệp có vốn lớn có khả năng chịu lổ trong những năm đầu để tiêu diệt đối thủ cạnh tranh chiếm lỉnh thị trường để kiếm lợi nhuận độc quyền.Ngày nay, nhà nước ta đả ban hành pháp lệnh chống bán phá giá để tạo sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Tóm lại, định giá đối với các doanh nghiệp là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, nó vừa là khoa học nghệ thuật vừa là kỷ thuật, tiểu xảo. Tuỳ từng điều kiện hoàn cảnh của thị trường cũng như của doanh nghiệp mà có các quyết định giá khác nhau, để cuối cùng thu được mức lợi nhuận cao nhất có thể. 3. Kỷ thuật định giá sản phẩm hiện nay. Định giá cho sản phẩm của doanh nghiệp, là công việc mang tính tổng hợp. Trong điều kiện thị trường có nhiều người bán phải cạnh tranh với nhau, doanh nghiệp cần biết rõ việc ấn định giá cho sản phẩm của mình như thế nào. Thực tế cho thấy sẽ không thể định giá đúng nếu không nghiên cứu sâu sắc thị trường. Giá cả có thể cần thiết phải thay đổi khi nguyên vật liệu dùng cho sản xuất thay đổi, thói quen sử dụng thay đổi hoặc khi xuất hiện những sản phẩn tốt hơn ... hoặc khi có sự phản ứng của các đối thủ cạnh tranh. + Đối với sản phẩm mới : Thường áp dụng chính sách giá cao. Vì sản phẩm mới nên khách hàng không có điều kiện, cơ sở để so sánh, nhất là sản phẩm cao cấp, sản phẩm có chất lượng đặc biệt, có tính chất mố.. Tuy nhiên, chỉ nên áp dụng chính sách giá cao trong một giai đoạn nhất định, khi sản phẩm đã tương đối thoả mản nhu cầu, thì cần thực hiện chinh sách hạ giá. Trường hợp có dấu hiệu thâm nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh, thì cần thực hiện ngay chính sách định giá thấp, để thúc đẩy việc tăng cường khối lượng sản phẩm bán ra và rào cản sự thâm nhập thị trường của các đối thủ. Đối với sản phẩm thông thường khi đưa sản phẩm mới ra thị trường, thường áp dụng chính sách giá thấp. Họ cho rằng như thế mới có thể kéo được khách hàng về phía mình. + Đối với sản phẩm truyền thống: Vì là loại sản phẩm đã và đang lưu hành trên thị trường, nếu giá cả của chúng đã hình thành trong ý thức của người tiêu dùng. Với loại sản phẩm này, nói chung là phải thực hiện chính sách bán theo giá thị trường. Doanh nghiệp nào có khả năng giảm giá thấp hoặc chấp nhận mức lãi ít, thì áp dụng chính sách bán giá thấp. Chỉ có như vậy mới thu hút được khách hàng mua sản phẩm của mình. + Đối với sản phẩm tái hiện: Là loại sản phẩm đã từng lưu thông trên thị trường, hình ảnh về giá cả và uy tín của sản phẩm như thế nào người tiêu dùng cũng đã từng biết đến, vì thế đối với loại sản phẩm này, cũng chỉ nên thực hiện chính sách giá thị trường, nếu chi phí sản xuất thấp, thì nên áp dụng chính sách giá thấp. Khi ấn định giá bán sản phẩm hàng hoá, dù áp dụng cách thức định giá nào chăng nữa, thì quá trình thực hiện cũng cần thiết sử dụng chính sách giá phân biệt để khai thác triệt để mọi nhu cầu trên thị trường. 4. Vai trò của nhà nước trong việc điều tiết giá ở giai đoạn hiện nay. Sự điều tiết giá cả của nhà nước là sự cần thiết khách quan và có tác dụng quan trọng đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. nhưng vấn đề đặt ra là, nhà nước phải điều tiết như thế nào, bằng những công cụ nào và theo mức giá là bao nhiêu, khi nào sử dụng biện pháp này hay biện pháp kia? Để trả lời những câu hỏi này nhà nước phải giải quyết ba vấn đề cơ bản là: mức giá mục tiêu cần hướng tới là bao nhiêu? Sử dụng những công cụ, biện pháp nào và nhằm mục đích gì? Trên cơ sở liên tục hoàn thiện những tư tưởng cải cách về đã được phát động và tiến hành, cơ chế và chính sách trong cơ chế thị trường được thực hiện và ngày một hoàn thiện. Bình ổn giá cả thị trường: giữ giá các mặt hàng chủ yếu cho sản xuất và đời sống được ổn định, kiềm chế lạng phát, tạo môi trường kinh tế an toàn cho các chủ thể sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế ổn định. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý giá, quản lý giá từ trung ương đến địa phương, thực hiện ngay pháp lệnh giá vào quộc sống. Tăng cường công tác thông tin giá cả, thị trường Tăng cường công tác thanh tra, thẩm định giá. Kiểm soát chặt chẻ việc định giá các doanh nghiệp độc quyền trong nước một mặt vẩn giữ vửng định hướng XHCN mặt khác vẩn phù hợp với nhu cầu và khả năng của người dân. Kiện toàn bộ máy quản lý, đáp ứng nhu cầu quản lý trong tình hình mới. Từng bước xây dựng đội ngủ thanh tra, giám sát có trình độ kiến thức, khoa học kỷ thuật. Nhà nước không can thiệp sâu vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phần III. Một số nhận định về việc định giá trong các doanh nghiệp Việt Nam. Thuận lợi. Nhà nước đã bắt đầu sử dụng đồng bộ và đa dạng các công cụ điều tiết việc định giá nên đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự định giá một cách chặt chẻ hơn và chuyên nghiệp hơn, vừa đảm bảo mục tiêu lợi nhuận vừa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Phát huy vai trò của thị trường tự do (theo các quy luật của thị trường), nhà nước không can thiệp sâu vào các quyết định của doanh nghiệp, trong đó có việc định giá sản phẩm, nên các doanh nghiệp tự do định giá theo nhu cầu của thị trường, nhà nước chỉ có vai trò giám sát và điều chỉnh nhằm tránh gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Hệ thống các công cụ khảo sát, phân tích, đánh giá thị trường ngày một hiện đại, tạo điều kiện cho việc định giá trong các doanh nghiệp trở nên dễ dàng và chính xác đạt hiệu quả cao. Trình độ quản lý của đội ngủ lảnh đạo doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu thị trường, marketing, ngày một được nâng cao, kết hợp kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước phát triển đã giúp cho công việc định giá trở nên chuyên nghiệp, và hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường nước ta, các yếu tố đầu vào tương đối ổn định, nên việc định giá sản phẩm chính xác. Thách thức. Do chính sách mở cửa thị trường khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài nên hàng hoá của nước ngoài tràn vào, dẩn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa hàng hoá trong nước, ngoài nước, giữa các háng nước ngoài với nhau, đặc biệt là sự cạnh tranh về giá cả và chất lượng sản phẩm. Gây khó khăn cho việc định giá sản phẩm. Cơ chế quản lý còn nhiều bất hợp lý, một số cán bộ quản lý thái hoá biến chất thường hay nhủng nhiểu, tham ô, làm cho việc định giá sản phẩm nói riêng gặp khó khăn, và sản xuất kinh doanh củng bị ảnh hưởng. Tuy trình độ của đội ngủ quản lý đã được nâng cao hơn, nhưng vẩn còn một số đội ngủ cán bộ vẩn chưa đáp ứng yêu cầu của công việc, đối với các doanh nghiệp này thường là doanh nghiệp nhà nước đang vào tình trạng thua lổ. Nhà nước cần có các biện pháp cụ thể để khắc phục tình trạng này. Hệ thống thông tin, dự báo về giá thường chậm chạp và thiếu nên việc định giá sản phẩm thường gặp nhiều khó khăn, thiếu chính xác. Việc đưa pháp lệnh giá vào cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn, cần nhiều thời gian. Chưa có một móc cụ thể nào để định giá phù hợp. Cần kiểm tra, kiểm soát giá độc quyền hàng hoá dịch vụ của các doanh nghiệp nhà nước sao cho vừa phát triển nền kinh tế theo định hướng vừa mang lại công bằng xã hội. Đôi điều về pháp lệnh giá của nước ta hiện nay. Ngày 08-5-2002 Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố pháp lệnh giá và được UBTV Quốc Hội nước CHXHCN VN khoá X thông qua ngày 26-4-2002. Pháp lệnh có hiệu lực từ ngày 01-7-2002. Đây là lần đầu tiên nước ta có văn bản pháp lý về giá ở cấp độ pháp lệnh: Với mục đích góp phần phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN , bình ổn giá, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh, của người tiêu dùng và lợi ích của nhà nước. Pháp lệnh giá gồm 6 chương 88 điều. Chương I. Quy định chung, gồm có 5 điều. Quy định đối tượng, phạm vi điều chỉnh, nguyên tắc hình thành giá, quản lý giá trong cơ chế thị trường, xác định nội dung quản lý nhà nước về giá. Đồng thời giải thích rỏ nội dung, bản chất của từng từ ngử được dùng trong pháp lệnh. Chương II. Điều hành giá, gồm 4 mục 9 điều. Mục I. Bình ổn giá thị trường, xác định rỏ mục tiêu bình ổn giá, các biện pháp bình ổn giá. Mục II. Xác định phạm vi nhà nước định giá và thẩm quyền định giá của nhà nước, điều chỉnh mức giá do nhà nước quy định. Mục III. Xác định quyền tổ chức hiệp thương giá hàng hoá, dịch vụ độc quyền, đồng thời quy định việc thực thi kết quả hiệp thương giá. Mục IV. Niêm yết giá , quy định việc doanh nghiệp phải niêm yết giá và phương thức niêm yết giá theo thẩm quyền quy định khác nhau. Chương III. Quy định về thẩm định giá, kiểm soát giá độc quyền, chống bán phá giá. Gồm 3 mục 14 điều. Mục I. Quy định về thẩm định giá, xác định khái niệm và mục đích, đối tượng và phạm vi thẩm định giá, quản lý nhà nước về thẩm định giá. Điều kiện của tổ chức được phép hoạt động thẩm định giá, tổ chức thực hiện thẩm định giá, sử dụng kết quả thẩm định giá. Mục II. Quy định về kiểm soát giá độc quyền. Xác định việc nhà nước kiểm soát giá hàng hoá, dịch vụ độc quyền, quy định trách nhiệm của doanh nghiệp, trách nhiệm quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về giá. Mục III. Chống bán phá giá. Nội dung: xác định rỏ hành vi nào là hành vi bán phá giá, đồng thời quy định rỏ các biện pháp xữ lý của nhà nước đối với hành vi bán phá giá đó. Chương IV Quyền hạn và trách nhiệm các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp trong lỉnh vực giá. Gồm 2 mục 4 điều. Mục I. Xác định rỏ quyền trách nhiệm quản lý về giá của các cấp, chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước về giá của chính phủ, các bộ cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Mục II. Xác định rỏ quyền hạn trách nhiệm của doanh nghiệp trong lỉnh vực giá cả. Chương V. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về giá. Gồm có 5 điều Xác định rỏ thẩm quền đối tượng, phạm vi kiểm tra, thanh tra, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan thanh tra chuyên ngành về giá, quyền hạn trách nhiệm của đơn vị được kiểm tra và thanh tra giá. Đồng thời, quy định các biện pháp xữ lý vi phạm pháp luật về giá. Chương VI. Về điều khoản thi hành. Kết luận. Trong nền kinh tế thị trường, giá cả với tư cách là tín hiệu của thị trường, là bàn tay vô hình điều tiết nền sản xuất xã hội. Tác động một cách trực tiếp gián tiếp tới đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Sự hình thành vận động của giá cả thị trường do những quy luật của thị trường chi phối, mổi một doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh trên thị trường này doanh nghiệp đều phải tính toán giá cả sao cho hợp lý nhất trên cơ sở bảo đảm mục tiêu kinh doanh. Việc ấn định giá là công việc khó khăn phức tạp, cần có những chiến lược cụ thể trên cơ sở có đầy đủ kết quả nghiên cứu thị trường hoàn chỉnh, kết hợp sự nhạy bén, năng động sáng tạo của người quản lý. Đó là những yếu tố quyết định đến sự thành công trong kinh doanh nói chung cũng như sự hiệu quả trong việc định giá nói riêng của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam đang sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, trước hết phải nhận thức rỏ vai trò, tầm quan trọng của giá trong đời sống xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành bại của doanh nghiệp. Mổi doanh nghiệp nên lựa chọn cho mình những phương pháp định giá hợp lý, trong từng hoàn cảnh và cũng nên nhớ rằng '' không có một công thức bất biến nào cho việc định giá, mổi một điều kiện cụ thể khác nhau, với mổi loại sản phẩm khác nhau, trên những thị trường khác nhau thì phải có cách ứng xữ khác nhau ''. Do trình độ còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự góp ý, phê bình của các thầy cô giáo để giúp em tiến bộ hơn trong học tập môn học này. Cuối cùng em xin cảm ơn thầy giáo: TS Phạm Văn Minh đã tận tình hướng dẩn em hoàn thành đề trên. Em xin chân thành cám ơn ! Doanh mục tài liệu tham khảo abababab Giáo trình kinh tế quản lý, NXB Thống Kê - 2000. Định giá và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp - Lê Thụ - NXB Thống Kê 1993. Vai trò quản lý của nhà nước về giá trong nền kinh thế thị trường ở nước ta- Trần Hậu Thư - NXB Chính Trị Quốc Gia 1994 Phương pháp xác định giá lấy cạnh tranh làm chủ đạo - Đặng Trần Côn, Báo: Tạp chí thương mại, số 09 tháng 3/2003. Phương pháp xác định giá lấy nhu cầu làm chủ đạo - Đặng Trần Côn, Báo: Tạp chí thương mại, số 14+15 tháng 4/2003. Kiểm soát giá đối với các doanh nghiệp nhà nước trong lỉnh vực độc quyền ở nước ta - Ngô Trí Long, Báo: Thị trường giá cả, tháng 01/2002 Kiểm soát giá độc quyền khả năng và giới hạn - Lê Đăng Doanh, Báo: Thị trường và giá cả, tháng 01/2002. Đôi điều về pháp lệnh giá - Lê Quang Trung, Báo:Thị trường giá cả, tháng 08/2002. Độc quyền và biển pháp kiểm soát giá - Nguyển Tiến Hoá Báo: Thị trường giá cả, tháng 11/2002. Phương pháp xác định giá trong tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, Báo: Phát triển kinh tế, số 121 năm 2000. Chiến lược giá cả, Thời báo kinh tế Việt Nam, số 05 năm 2002. Định giá thương hiệu, Thời báo kinh tế Việt Nam, số 124 năm 2002. Mục lục Trang Lời mở đầu 1 Phần I. Định giá sản phẩm trong doanh nghiệp. 2 A/ Một số vấn đề lý luận về giá. 2 1. Vai trò và chức năng của giá. 2 1.1 Vai trò của giá. 2 1.2 Chức năng của giá. 3 1.3 Giá tối ưu. 3 2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc định giá. 4 2.1 Giá cả và khối lượng sản phẩm cung cầu trên thị trường 4 2.2 Sức mua của tiền tệ. 6 2.3 Giá cả và các hình thái thị trường. 7 2.3.1 Thị trường cạnh tranh hoàn hoả. 7 2.3.2 Thị trường cạnh tranh độc quyền. 8 2.3.3 Thị trường độc quyền. 9 2.4 Vai trò quản lý giá cả của nhà nước. 10 B/ Định giá trong doanh nghiệp. 10 1. Định giá, sự sống còn của doanh nghiệp. 10 2. Các loại giá trong doanh nghiệp. 11 2.1 Mức giá. 11 2.2 Chênh lệch giá (giá phân biệt). 12 2.3 Giá chuẩn. 13 2.4 Khung giá. 14 2.5 Tỷ giá. 14 3. Các yếu tố cấu thành giá sản phẩm. 15 3.1 Các yếu tố cấu thành tổng chi phí. 15 3.2 Các yếu tố cấu thành lợi nhuận mục tiêu. 15 4. Phương pháp định giá sản phẩm trong doanh nghiệp. 16 4.1 Định giá cộng chi phí. 16 4.2 Tỷ suất lợi nhuận chỉ tiêu. 17 4.3 Tỷ suất lợi nhuận hiện thời. 17 4.4 Định giá hệ số. 18 4.5 Định giá tỷ giá. 18 Phần II. Định giá sản phẩm trong các cấu trúc thị trường. 19 1. Nguyên tắc định giá trong doanh nghiệp nước ta. 19 1.1 Phương pháp xác định giá lấy nhu cầu làm chủ đạo. 19 1,2 Phương pháp định giá lấy cạnh tranh làm chủ đạo 21 2. Chính sách định giá trong kinh doanh. 22 2.1 Chính sách định giá thấp. 22 2.2 Chính sách định giá theo thị trường. 23 2.3 Chính sách định giá cao. 23 2.4 Chính sách bán phá giá. 24 3. Kỷ thuật định giá sản phẩm hiện nay. 24 4. Vai trò của nhà nước trong việc điều tiết giá ở giai đoạn hiện nay. 26 Phần III. Một số nhận định về việc định giá trong các doanh nghiệp Việt Nam. 27 1. Thuận lợi. 27 2. Thách thức. 27 3. Đôi điều về pháp lệnh giá của nước ta hiện nay. 28 Kết luận. 30

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0792.doc
Tài liệu liên quan